LỊCH SỬ TRIẾT HỌC DUY VẬT
Và Phê Bình về Sự Quan Trọng Hiện nay
Của Nó
Friedrich Albert Lange
(1829-1875)
Phản Ứng Chống Lại Tư tưởng Duy vật Và Tư tưởng Duy cảm: Socrates,
Plato, Aristotle.
Khi chúng ta nhìn từ lập trường của một
phản ứng chống lại tư tưởng Duy vật và tư tưởng Duy cảm, những sản phẩm đó của luận
đoán Hellas, vốn đều thường đã được xem cao nhất và toàn hảo nhất, chúng ta thì
trong nguy hiểm của việc xem nhẹ giá trị những sản phẩm này, và của việc phê
bình chúng với sự gay gắt đã thường chĩa vào tư tưởng Duy vật. Quả thực, sự cám
dỗ thì mạnh, vì ngay khi chúng ta bỏ qua những phương diện khác của cuộc khủng
hoảng lớn, chúng ta có ở đây một phản ứng trong nghĩa tồi tệ nhất của thuật
ngữ. Nó là một phản ứng trong đó lập trường thấp hơn được nâng đặt trên lập
trường cao hơn, sau khi lập trường thấp đã được đẩy lên một cách ý thức và bằng
một nỗ lực trí thức thực sự – một sự trấn áp của những khởi đầu của một quan
điểm tốt hơn bởi những ý tưởng trong đó những sai lầm cũ của tư tưởng phi-triết
học trở lại trong một dạng mới, với thanh thế và sức mạnh mới, nhưng không phải
là không với tính cách độc hại cũ của chúng. Tư tưởng Duy vật đã giải
thích những hiện tượng tự nhiên bằng những luật tất yếu không thay đổi: phản
ứng chống lại đã đưa vào một lý trí thời thượng uốn nắn theo những mô hình con
người mặc cả với tất yếu, và như thế đã phá hủy cơ sở của tất cả khoa học tự
nhiên bằng khí cụ tiện lợi của sự thay đổi thất thường tùy tiện. [1]
Tư tưởng Duy vật đã dành ưu đãi cho những
nghiên cứu toán học và cơ thể vật chất – đó là, những ngành vốn trong chúng, não
thức con người thì đầu tiên có khả năng để bảo đảm được những kết quả của giá
trị vĩnh viễn: phản ứng (chống lại Duy vật và Duy cảm), để bắt đầu với, đã ném bỏ
toàn bộ những nghiên cứu về cơ thể, để thay thế bằng đạo đức, và khi, dưới
Aristotle, nó lại nhặt lên tiếp tục sự nghiên cứu đã bỏ bê, nó đã làm hư hỏng hoàn
toàn sự nghiên cứu từ trước đến sau, bằng việc khinh xuất đưa vào những ý tưởng
đạo đức. [4]
Trong khi chúng ta có ở những điểm này,
không thể nghi ngờ, sự thối lùi về những bước cũ, nhưng sự tiến bộ – ít nhất rằng
trong lên tiếng được đem cho sự chống đối kiên quyết của trường phái lớn của triết
học Athens phản lại tư tưởng Duy vật và Tư tưởng Duy cảm – thì thuộc một bản
chất rất đáng ngờ. Chúng ta có Socrates để cảm ơn cho bóng ma của những
định nghĩa vốn giả định trước một thỏa thuận tưởng tượng toàn bộ về tên gọi và
sự vật việc, và Plato cho phương pháp lừa dối hão huyền vốn dựa một giả thuyết này
trên một giả thuyết khác lại còn tổng quát hơn, cho đến cuối cùng, kiến thức trọn
vẹn nhất thì được thấy trong những gì trừu tượng nhất. Aristotle, chúng ta phải
cảm ơn về sự tung hứng (như múa rối) giữa tiềm năng và thực tế, và sự hão huyền
của một hệ thống kiến thức hoàn chỉnh và toàn diện. Rằng tất cả những thu
nhận này của trường phái Athens, ngay cả cho đến thời chúng ta, tiếp tục hoạt
động, đặc biệt ở Germany, kết nạp không nghi ngờ; và do đó, về sự quan trọng
lịch sử của trường phái này, chúng ta không cần phải phí thêm lời, nhưng có thể
đúng hơn hãy hỏi, có phải sự quan trọng lịch sử này đã là một may mắn hay một không
may mắn?
Chừng nào chúng ta còn nhìn những điểm
này trong bản thân chúng và trong sự đối lập lý thuyết thuần túy của
chúng với tư tưởng Duy vật, phán đoán của chúng ta nhất thiết phải lả một không
thuận lợi, và chúng ta, quả thực, có thể đi rất xa hơn điều này. Đã thường nói
rằng với Protagoras, triết học Greece thời trước đó, đã đi đến sự phân hủy của
nó, và rằng đã đòi hỏi một nền tảng hoàn toàn mới, vốn đã được Socrates cung
ứng, bằng sự quay về kiến thức về bản
thân – ‘hãy tự biết chính mình!’ của ông. Chúng ta sẽ sớm thấy lịch sử của tư
tưởng đã đi xa đến đâu để biện minh cho quan điểm này. Một quan điểm như vậy, thêm
nữa, chỉ có thể được hỗ trợ bằng sự xem xét của toàn bộ phạm vi mở rộng của đời
sống trí thức Greece. Triết học, và đặc biệt là triết học lý thuyết trong nghĩa
chặt chẽ, có thể hiếm khi bị hủy bỏ qua việc đạt đến sự thật, chỉ để khởi đầu
lại từ bắt đầu với những sai lầm cũ. Điều này, quả thực, hiện ra như có thể có
được, nếu chúng ta xem xét, lấy thí dụ, sự chuyển biến từ Kant sang Fichte;
nhưng tất cả những hiện tượng loại giống vậy phải được giải thích từ toàn bộ
lịch sử của tư tưởng, vì triết học không bao giờ chiếm giữ một vị trí biệt lập
trong đời sống trí thức của bất kỳ một dân tộc nào. Hoàn toàn nhìn về mặt lý
thuyết, thuyết tương đối (về sự thực) của những Sôphít đã là một bước tiến hoàn
toàn vững chắc trong lý thuyết về tri thức, và hoàn toàn không là kết thúc
của triết học, nhưng nhiều phần đúng hơn, là sự khởi đầu thực sự của nó. Chúng
ta thấy điều này rõ ràng nhất trong đạo đức; vì đó chỉ đã những Sôphít, những
người dường như phá hoại mọi nền tảng có thể có của đạo đức, người đã làm nó
thành nghề nghiệp yêu chuộng của họ để dạy đức hạnh và nghệ thuật chính trị. Họ
đã thay thế ở ở chỗ của gì thì tốt trong
tự thân với gì thì hữu dụng cho nhà nước. Điều này rất gần đi đến tiên đề đạo đức của Kant đến thế nào: Hãy
hành động như thể những châm ngôn của hành xử của bạn có thể là những nguyên tắc
của pháp chế phổ quát.
Thực sự, đó là bước từ đặc thù đến phổ
quát vốn sẽ ở đây, tại thời điểm thích hợp, đã đến theo, và nói một cách trừu
tượng, đã có thể đến theo, mà không buông
bỏ những thâu tóm được của thuyết tương đối và chủ nghĩa cá nhân những Sôphít đã
làm được. Trong đạo đức, bước này đã có hiệu quả được nhận ngay như đức hạnh,
sau sự rơi đổ của tất cả những luật lệ khách quan đem cho từ bên ngoài, thì
không chỉ đơn giản là đặt sang một bên, nhưng bước tới để đồng nhất tự thân với
nguyên tắc của bảo tồn và tiến bộ của một cộng đồng. Đây đã là hành trình những
Sôphít đã làm, tuy nhiên, với không ý thức về ý nghĩa quan trọng cơ bản của nó;
nhưng có lẽ ý thức này đã không phát triển kịp thời ra khỏi học thuyết của họ?
Trong trường hợp đó, mặc dù, dĩ nhiên, điểm cao nhất sẽ không là ngay lập tức
đạt đến, thế nhưng, từ thời điểm đó trở đi nền đứng sẽ hoàn toàn vững chắc và
an toàn dưới chân họ.
Socrates đã giải quyết bằng chuyển đức hạnh
vào trong kiến thức: có phải nguyên lý này, khi được thí nghiệm hoàn toàn lý
thuyết, thực sự cao hơn lập trường của những Sôphít không? Thật vậy,
khái niệm khách quan về sự tốt đẹp là gì, chúng ta có thể khám phá được rất ít
từ toàn bộ những đàm thoại Plato cũng như bản chất của ‘hòn đá biến sắt thành
vàng’ từ những tác phẩm của thuật luyện giả kim. Nếu chúng ta làm kiến thức về
đức hạnh một ý thức về những nguyên tắc của ứng xử đúng, sau đó nó là dễ dàng
hòa giải được với nền tảng trên phúc lợi chung [5] trong nhà nước. Nếu chúng ta lấy hình ảnh minh họa theo Socrates về người
không điều độ, người chỉ tội lỗi vì người này không nhận thức được đầy đủ về những
hậu quả đau khổ của ham muốn đang có của người ấy, không Sôphít nào sẽ phủ nhận
rằng con người nếu là người được cấu thành so cho ý thức này không bao giờ
thiếu, thì đã là được cấu thành tốt hơn, nhưng đối với người này trong hậu quả, được xem xét khá chủ quan và cá
nhân, cái tốt thì hay hơn. Người này chọn cái hay hơn không qua một kiến thức
của khái niệm về cái tốt, nhưng qua một điều kiện tâm lý, khác biệt ở thời điểm
lựa chọn, với điều kiện của con người không điều độ. Thật vậy, điều là đúng
rằng từ sự cân nhắc của những trường hợp xảy ra giống như vậy, có thể nhìn thấy
sự tất yếu cho cá nhân cũng của một ý niệm tổng quát về cái tốt ôm giữ lấy những
khoảnh khắc khác nhau của thời gian. Một ý niệm như vậy ngay cả đã được Democritus
sở hữu. Một học trò của Democritus và Protagoras, người đã tiếp tục, nếu tôi có
thể dùng thành ngữ, một chuyển động đi trệch từ triết lý của họ, thay vì quét vòng
lần nữa với Socrates, có thể dễ dàng đạt đến vị thế rằng con người là thước đo của những sự vật việc: con người cá nhân
trong điều kiện nhất thời của hiện tượng cá nhân của người ấy, con người ‘trung
bình’ của một tổng số của những hiện tượng.
Protagoras và Prodicus [6] cũng đã tự bận rộn với những nghiên
cứu về ngữ pháp sơ đẳng và từ nguyên, và chúng ta không biết có bao nhiêu thực
sự là công trình của họ, trong những gì chúng ta bây giờ đã theo thói quen gán
cho Plato và Aristotle. Tuy nhiên, cho mục đích của chúng ta, là đủ để biết
rằng những Sôphít đã chuyển sự chú ý của họ sang những từ và nghĩa của những
từ. Bây giờ, như một quy luật, từ ngữ đứng như một dấu hiệu thay cho một nhóm gồm
những cảm giác. Không phải là chúng có thể trong cách này đã nhanh chóng đi đến
một lý thuyết về những phổ quát trong ý nghĩa của phái Duy danh trung cổ? Trong
một lý thuyết như vậy, dĩ nhiên, cái phổ quát tất sẽ không là thực hơn, và chắc
chắn hơn cái đặc thù, nhưng ngược lại, tất sẽ là xa thêm hơn với đối tượng, và
không chắc chắn hơn – thực sự, trong đối lập trực tiếp với Plato, càng không
chắc chắn hơn vì đã trở thành phổ quát hơn.
Cuối cùng, nếu những Sôphít, giữa những
hành động con người, nếu nhìn chúng từ một chỗ nhìn cá nhân chặt chẽ, vốn tất
cả đều là tốt ngang nhau, phân biệt giữa cái đáng khen và cái đáng trách, và rằng
theo như một quy tắc vốn thu tập từ đời sống phổ quát trong một trạng thái, có
phải có lẽ họ đã cũng không đi đến được ý tưởng của việc đối xử kỳ thị giữa
những nhận thức vốn trong bản thân chúng đều tất cả là đúng ngang nhau, cái bình
thường và cái bất thường theo chỗ nhìn lịch sử của tư tưởng phổ quát? Vị trí khi
đó tất sẽ vẫn là không hoàn toàn không thể công kích được, rằng ‘đúng’, theo
nghĩa chặt chẽ nhất, vốn là ‘chắc chắn’, thì chỉ đơn thuần là tình cảm cá nhân
của một con người cụ thể; bên cạnh đó, chỉ là một tiêu chuẩn cố định của những
giá trị có thể đã đạt được cho những nhận thức khác nhau trong sự phù hợp với
sự chấp nhận hiện tại của chúng trong sự giao tiếp con người.
Nếu một người sẽ áp dụng một thang bậc loại
giống như vậy của giá trị hiện hành với những phổ quát vừa mới phát triển trong
ý hướng của lập trường Duy danh, ý tưởng về xác suất tất chính nó sẽ tự có mặt,
hầu như không thể cưỡng. Gần thế, rõ ràng, trong trường hợp này, có phải chỗ đứng
Sôphít đã nằm ngang với quả chín nhất của sự luận đoán hiện đại. Con đường của
tiến bộ đã xuất hiện mở ra với tất cả. Tại sao phản ứng lớn lao phải can thiệp vào
vốn đã dẫn thế giới, trong hàng ngàn năm, trong những sai lầm của Tư Tưởng Duy
Ý Plato?
Trả lời cho câu hỏi này đã tỏ rõ rồi.
Thực tế là, rằng chúng ta phải đối phó không với một triết học vốn phát triển chính
nó liên tục, cho dù bởi những đối kháng hay trong một đường trực tiếp, nhưng
chỉ với những người làm triết học, những người, giống như những học thuyết của
họ, đều là những đứa con của thời của họ. Sự xuất hiện dễ nhầm lẫn, lừa dối, thấy
bên ngoài của một tiến bộ qua những sự đối kháng, như Hegel giả định, dựa trên
chính sự kiện này, rằng những tư tưởng vốn thống trị một thời đại, hay chúng xuất
hiện như những ý tưởng triết học, chỉ tạo thành một phần của đời sống tư tưởng
của một quốc gia, và rằng chính những thế lực ảnh hưởng rất khác biệt, thường
là mạnh hơn vì rất ít hiển nhiên, thì đồng thời đều trong hoạt động, cho đến
khi chúng thình lình tới lượt trở thành những tư tưởng thống trị, trong khi
những tư tưởng kia lui về ẩn dật trong hậu trường.
Những ý tưởng vốn hối hả lao tới quá
nhanh cho thời của chúng, sống hết thời của chúng, tự đẩy chúng ra ngoài, và
phải thêm sinh lực cho bản thân chúng lần nữa, bằng một tranh đấu với phản ứng,
trước khi chúng khó khăn hơn, và thế nhưng chắc chắn hơn, lại tranh đấu để ra
phía trước. Nhưng có phải đó là như thế nào điều này đã xảy ra? Càng nhanh bao
nhiêu những người mang những ý tưởng mới và những lý thuyết mới giành lấy sự điều
khiển dư luận, sẽ càng mãnh liệt bấy nhiêu là sự chống đối của những ý
tưởng truyền thống trong những não thức của những đương thời của chúng. Sau lâu
dài trong mù lòa và choáng váng, định kiến tự tập hợp lại với nhau, hoặc
bởi sự đàn áp và vùi dập từ bên ngoài, hoặc bởi những sáng tạo trí thức
mới để chiến đấu và vượt thắng những dư luận không thuận lợi. Nếu những
sáng tạo trí thức mới loại như vậy, trong bản thân nghèo nàn và trống rỗng, và khứng
chịu chỉ bởi đã căm ghét sự tiến bộ, như trong trường hợp của lý thuyết
dòng Jesuit Catô, dùng lý lẽ tài tình, đánh lừa tinh tế, để chống lại phong
trào cải cách Kitô của Phản thệ, chỉ theo đuổi mục đích của chúng trong liên
minh với xảo quyệt và vũ lực và một chính sách của đàn áp phổ quát. Nhưng
nếu chúng, ngoài sự quan trọng phản động của chúng, có một mầm mống của đời
sống bên trong bản thân chúng, một nội dung vốn trong những phương diện khác
dẫn đến sự tiến bộ, chúng có thể thường sản xuất những kết quả sáng lạn và hài
lòng hơn hoạt động của một phe vốn đã trở nên kiêu ngạo từ sự sở hữu của những
sự thật mới, và điều đó, như xảy ra chỉ quá thường xuyên sau một thành công rõ
ràng dễ thấy, trở nên bị yếu đi và không thỏa đáng với sự theo dõi thích ứng sau
đó về những gì đã từng đạt được.
Thuộc loại vừa kể này đã là tình thế ở
Athens khi Socrates đối mặt những Sôphít. Chúng ta đã cho thấy ở trên, xem xét
một cách trừu tượng, lập trường của những Sôphít có thể đã được phát triển thêm
nữa như thế nào; nhưng nếu chúng ta phải chỉ ra những sức mạnh nào, ngoại trừ do
sự can thiệp của phản ứng của phái Sokrates, đã có thể ảnh hưởng đến sự phát
triển này, chúng ta sẽ gặp một số khó khăn. Những nhà Sôphít lớn đã hài lòng,
dĩ nhiên, với những thành công thực tiễn của họ. Chính sự không-giới hạn của thuyết
tương đối của họ, sự chấp nhận mơ hồ của họ với đạo đức của tầng lớp trung lưu
mà không thiết lập bất kỳ nguyên tắc nào, chủ nghĩa cá nhân bướng bỉnh mà ở
khắp mọi nơi đều cho rằng mình có quyền để ném xuống, hay để giữ giữ yên khi
thuận hợp với mục đích của thời điểm – những điều này, đó là hiển nhiên, đã là
những nền tảng đáng ngưỡng mộ cho sự giáo dục của ‘những chính khách thực tiễn’,
của tấm nhãn đóng dấu nổi tiếng, trong đó, từ lúc bắt đầu mờ mịt của thời gian cho
đến thời của chúng ta, khắp mọi nơi đã bảo đảm sự thành công bề ngoài lớn
nhất. Không có gì ngạc nhiên khi những Sôphít ngày càng đông đã từ Triết
học đi sang Chính trị, từ suy luận biện chứng sang nghệ thuật tu từ! Và chúng
ta thấy, thực sự, ngay cả trong Gorgias, [7] một ý thức rõ ràng rằng triết học đã bị hạ thấp giá trị đến mức độ của chỉ
một đơn giản của sự sửa soạn cho đời sống thực tiễn.
Trong những hoàn cảnh giống như vậy,
không có lý do để ngạc nhiên rằng thế hệ Sôphít trẻ hơn đã phản bội, ít nhất không
chỉ khuynh hướng để tiếp tục sự phát triển của triết học trên cơ sở của quan
điểm Protagoras đã đạt đến, với sự gạt bỏ của tính siêu việt và huyền thoại phổ
quát do Plato đã đem vào, và như thế để nhấn mạnh vào lập trường của tư tưởng
duy danh và tư tưởng duy nghiệm hiện đại. Trái lại, những Sôphít sau này
tự làm mình nổi bật đơn thuần chỉ bằng một sự tự tin khăng khăng trên nguyên
tắc của tính chủ quan, hay ý chí cá nhân, và bằng vượt hơn những chủ nhân của
họ, bằng trả giá cao hơn trong việc đóng khung một lý thuyết tiện lợi cho những
người nắm giữ quyền lực trong những nhà nước polis Greece. Do đó, đã có sự thụt lùi nhìn theo hướng mầm
bệnh triết lý nghiêm ngặt trong triết học này – một dấu hiệu rằng những bản
chất càng sốt sắng hơn và sâu xa hơn bao nhiêu đều càng thôi không cảm thấy bản
thân chúng bị lôi kéo hơn bấy nhiêu theo chiều hướng này.
Tất cả điều này, dĩ nhiên, không cùng
mức độ áp dụng với tư tưởng Duy vật nghiêm nghị và trang trọng của Democritus;
Tuy nhiên, chúng ta đã thấy rằng Democritus đã không thành lập trường phái.
Điều này thực sự, là một phần do chiều hướng ý thức và khuynh hướng ưa thích của
riêng ông, nhưng một phần cũng là do tính cách đặc biệt của thời đại. Đã một
lần, tư tưởng Duy vật, với tin tưởng của nó vào những atom hiện hữu vĩnh cửu,
đã bị tư tưởng Duy cảm hứa hẹn nhiều hơn, vốn đã phủ nhận sự tồn tại của bất kỳ
gì-trong-chính-nó đằng sau những hiện
tượng. Nó tất sẽ cần một bước tiến lớn, tuy nhiên – một bước tiến lớn hơn rất nhiều
những tiếp tục vừa nói đến của triết lý Duy cảm – để giới thiệu những atom
trở lại, như một phương thức trình bày tất yếu của một sự liên hệ chưa biết, và
như thế để duy trì nền tảng của khoa học vật lý. Do đó, trong giai đoạn
này, dẫn đến biến mất của sự quan tâm vào những điều tra khách quan tổng quát. Trong
phương diện này, Aristotle hầu như có thể được xem như người kế tục thực của Democritus; dĩ
nhiên, một người kế tục dùng những kết quả và những nguyên tắc vốn qua đó chúng
đã đạt cho những mục đích hoàn toàn trái ngược. Trong thời sáng chói của
triết học Athens mới, tuy nhiên, những câu hỏi đạo đức và lôgích đã
đi đến tiền diện quá nhiều như thế, khiến chúng làm cho mọi sự vật việc khác
đều bị bỏ quên.
Từ đâu đã đi đến sự nổi bật một-mặt này
của những vấn đề đạo đức và lôgích? Trả lời cho câu hỏi này phải ngay lập tức
cho chúng ta thấy nguyên lý thâm sâu nhất của đời sống qua đó khuynh hướng mới
nảy sinh là gì, và có sức mạnh của nó mang cho nó một giá trị cao hơn và độc
lập hơn so với phản ứng đơn thuần chống lại tư tưởng Duy vật và Tư tưởng Duy
cảm. Tuy nhiên, ở đây, không thể tách những con người khỏi những học thuyết, những
yếu tố triết học thuần túy khỏi toàn bộ phong trào trí thức, nếu chúng ta muốn
hiểu tại sao những đổi mới triết học nhất định có thể đạt được một ý nghĩa quan
trọng như vậy. Đã là Socrates là người mời gọi khuynh hướng mới vào đời sống.
Plato đã cho nó dấu đóng lý tưởng của nó, và Aristotle, bằng cách kết nối nó
với những yếu tố thực nghiệm, đã tạo ra hệ thống tối thượng mà từ đó đã thống
trị tư tưởng của rất nhiều những thế kỷ. Sự đối lập với tư tưởng Duy vật lên
đến đỉnh cao nhất ở Plato; hệ thống Aristotle đã có lập trường kiên định nhất
chống lại những lý thuyết duy vật; nhưng cuộc tấn công đã được bắt đầu bởi một
trong những người đáng chú ý nhất mà lịch sử đã kể lại, một nhân vật có sự lớn
lao và quyết tâm hiếm có – Socrates người thành Athens.
Tất cả những chân dung của Socrates cho chúng ta thấy ông như một người
có sức mạnh thể chất và sức mạnh trí thức lớn lao, bản chất cứng đầu, bướng
bỉnh, có sự tự chủ nghiêm khắc và ít nhu cầu, can đảm trong chiến đấu, kham chịu
không chỉ những nhọc nhằn, nhưng khi cần, cũng một ngừng rượu, vì dù sao đi
nữa, ông đã sống trong tiết độ. Tự chủ của ông đã không là sự yên tĩnh của một
bản chất vốn không có gì để phải kiểm soát, nhưng là sự vượt trội của một não
thức lớn lao đối với những cá tính nhục cảm mạnh mẽ và một khí chất đam mê tự
nhiên. [8] Những suy nghĩ và nỗ lực của ông tập
trung vào một vài điểm quan trọng, và toàn bộ năng lượng tiềm ẩn của bản chất
ông đã phục vụ cho những suy nghĩ và nỗ lực này. Sự tha thiết làm việc trong ông,
ngọn lửa rực sáng trong ông, đem cho những bài nói chuyện của ông một ảnh hưởng
kỳ diệu. Sự có mặt của mình ông, vượt trên tất cả của những người khác, có thể làm
Alcibiades cảm thấy hổ thẹn; sức mạnh của những bài nói chuyện không tô điểm
hoa mỹ của ông làm những người chân thực nhạy cảm rơi nước mắt. [9] Ông là một người có bản chất của một
sứ đồ, cháy bỏng với khao khát để truyền thông ngọn lửa vốn sống trong ông
với những công dân đồng bào thành Athens của ông, và đặc biệt với những người
trẻ tuổi. Công việc mà ông tự cảm thấy thiêng liêng, và đằng sau sự trớ
trêu vui tươi vốn đánh dấu phép biện chứng của ông ẩn giấu năng lượng háo hức
của một tinh thần vốn biết và đề cao giá trị không gì khác, nhưng chỉ những ý
tưởng vốn nó đã nắm vững đến dành quyền kiểm soát chúng.
Athens đã là một thành phố mộ đạo, và Socrates đã là một người Athens chính
gốc. Dẫu đã sáng suốt không mê tín như ông, lý thuyết về thế giới của ông vẫn còn
là một lý thuyết rõ rệt có tính tôn giáo. Khái niệm cứu cánh của Tự nhiên,
với nó ông gắn bó với nồng nhiệt, không nói là cuồng tín, đã với ông chỉ là một
bằng chứng của sự hiện hữu và sự hoạt động của những gót, như kỳ thực nhu cầu của
việc xem những gót như sáng tạo và làm việc trong kiểu thức con người có thể
được gọi là giòng suy tưởng chính của tất cả thuyết cứu cánh. [10]
Rằng một người thế này sẽ chính là người bị kết án vì Không-tin-có-gót, tuy nhiên, không cần làm
cho chúng ta phải quá bất ngờ. Trong mọi thời, đó là những nhà cải cách tôn
giáo trung thành, và không là những người suy tưởng tự do tinh tế từng trải, đã
bị đóng đinh và thiêu sống; và việc làm của Socrates, ngay cả trong lĩnh
vực của tôn giáo, đã là của một nhà cải cách. Khuynh hướng toàn bộ của thời đại
đã đặt đúng khi đó, cho sự thanh lọc của những ý tưởng tôn giáo; không chỉ trong
những triết gia, nhưng ngay cả trong giới tu sĩ có ảnh hưởng nhất của Greece, ở
đó đã từng có xuất hiện một khuynh hướng mạnh mẽ, trong khi vẫn giữ lại huyền
thoại cho đám đông cả tin nhẹ dạ, để đóng khung một ý tưởng nhiều tinh thần hơn
về những gót, để sắp xếp và thống nhất những giáo phái địa phương đa dạng, theo
với những liên hệ bên trong của ý tưởng thần linh, và để bảo đảm cho những thần
linh lớn của quốc gia, như Zeus của Olympus, và đặc biệt là Apollo của Delphi, một
sự nhìn nhận càng rộng rãi càng tốt.[11] Đối với những nỗ lực này, thái độ của
Socrates trong việc đối ứng với tôn giáo, đến một điểm nhất định nào đó, đã là đủ
dễ chịu; và vẫn còn một vài câu hỏi liệu chúng ta có nên không xem câu trả lời
đáng chú ý của nhà tiên tri ở Delphi, người đã tuyên bố Socrates là người khôn
ngoan nhất của những người Greece, như một sự chấp thuận dấu diếm của lập
trường tin tưởng duy lý của ông. Tuy nhiên, chính con người này có thể bị tố
cáo với mọi người như một kẻ thù của tôn giáo dễ dàng hơn, khi càng thông
thường bao nhiêu ông quen thuộc với sự cởi mở, và với một đối tượng được công
khai nhìn nhận của việc gây ảnh hưởng tác động những công dân thành phố của ông,
để thảo luận những câu hỏi nguy hiểm nhất. Sự chân thành nghiêm trang tôn giáo
này của con người vĩ đại đã xác định, sau đó, toàn bộ hành vi của ông trong
cuộc sống và cái chết, ở một mức độ vốn đem cho con người mượn lấy một sự quan
trọng lại còn cao hơn học thuyết, và vốn đã được hoàn toàn tính toán để làm
những học trò của ông vào thành những người tin theo nồng nhiệt, để lan truyền rộng
hơn ngọn lửa của cảm hứng cao cả này. Con đường trong đó Socrates, sau khi đi theo
ý thức về nghĩa vụ của ông, đã phản đối, như (người giữ ghế) Prytanis, sự phấn
khích cuồng nhiệt của giới bình dân, cách thức trong đó ông đã từ chối, không
tuân lệnh Ba Mươi Bạo Chúa [12], và sau khi bị kết án, ông đã chối từ
việc bỏ trốn, nhưng, tuân phục với pháp luật, với hồn an bình, đối mặt cái
chết, là một bằng chứng thuyết phục rằng với ông, học thuyết và cuộc đời đã
hoàn toàn được trộn lẫn.
Gần đây, người ta cho rằng chúng ta phải giải thích sự quan trọng triết
học của Socrates bằng cho thấy rằng ông đã không là gì khác nhưng chỉ đơn thuần
là một người dạy học về đạo đức, nhưng ngược lại, rằng ông đã để lại một dấu
đóng rất khác biệt bởi những đổi mới xác định chắc chắn nào đó trong lịch sử
triết học. Về điều này không có sự phản đối; chúng ta chỉ muốn cho thấy
tất cả những cái nhìn mới này, với những mặt sáng và tối của chúng, đều có những
gốc rễ của chúng trực tiếp trong nguyên tắc về gót học và đạo đức, trong đó, Socrates
đã được hướng dẫn trong toàn bộ hành vi của ông.
Nếu tiếp theo, chúng ta hỏi như thế nào Socrates đã đi đến từ chối việc luận
đoán về phần yếu tính của những sự vật việc, và thay vào đó để lấy bản chất đạo
đức của con người làm đối tượng cao nhất của triết học của ông, chúng ta có giải
thích, từ chính ông và những học trò của ông, rằng trong thời tuổi trẻ ông đã tự
bận rộn với khoa học vật lý, nhưng rằng mọi sự vật việc trong khu vực này hiện
ra với ông quá không chắc chắn, khiến ông đã từ bỏ loại điều tra này như không
bổ ích. Với ông, đã nhiều quan trọng hơn, theo như lời sấm truyền đền Delphi,
để biết lấy chính mình: tuy nhiên, đối tượng của nỗ lực này, theo đuổi sự tự-hiểu
biết thì để thành tốt như mức có thể được.
Chúng ta bây giờ không cần tự bận tâm với câu hỏi không biết có phải Socrates
đã một thời đã thực nhiệt tình theo đuổi những điều tra vật lý hay không, như xem
dường đến từ tranh vẽ châm biếm của Aristophanes. Trong giai đoạn của đời ông, chúng
ta biết từ Plato và Xenophon, đã thôi là điều vậy nữa; ngược lại, từ Plato chúng
ta biết rằng Socrates đã đọc nhiều tác phẩm của những triết gia trước đó nhưng
không tìm thấy bất kỳ hài lòng nào trong chúng.
Ông đọc, lấy thí dụ, Anaxagoras, và khi ông thấy rằng Anaxagoras đã giải
thích sự sáng tạo bằng việc dẫn nhắc nó về lý trí, ông đã thích thú khác thường,
vì ông cho rằng Anaxagoras tất sẽ tìm thấy trong lý trí một vài giải thích về
tất cả những sắp xếp của vũ trụ, và cho thấy, lấy thí dụ, nếu trái đất thì
phẳng, tại sao như thế nó là tốt nhất; hay, nếu nó ở trung tâm của vũ trụ, tại
sao điều này phải là như thế, v.v. Thay vì điều này, ông đã đột ngột vỡ mộng
khi Anaxagoras đã nói chỉ về những nguyên nhân vật lý. Đó là như thể nếu một ai
đó sẽ đề nghị để giải thích tại sao Socrates
thì đang ngồi ở chỗ cụ thể này, và sau đó khi người này sẽ bắt đầu giải thích
‘ngồi’ theo như những nguyên lý của cơ thể học và sinh lý học, thay vì việc đề
cập rằng những người Athens đã suy nghĩ kỹ lưỡng để lên án ông, và như thế nào ông
đã suy nghĩ kỹ lưỡng về việc bỏ trốn với khinh miệt, để ngồi ở đây và chờ đợi
số phận của ông. [13]
Chúng ta thấy từ minh họa này, Socrates đã đến để tìm hiểu những chuyên
luận loại như vậy với một cái nhìn đã có-sẵn như thế nào. Toàn thể sự tin tưởng
của ông là rằng lý trí đã tạo ra cấu trúc-thế giới tiến hành theo cách thức của
lý trí con người; rằng chúng ta có thể đi theo những suy tưởng của nó ở khắp
nơi, mặc dù chúng ta phải đồng thời nhìn nhận tính siêu việt vô tận của nó. Thế
giới thì được giải thích từ con người, không phải con người từ những luật phổ quát
của thiên nhiên. Sau đó, trong trật tự của những biến cố tự nhiên, trước sau có
sự giả định rằng phản đề của những suy nghĩ và hành động, của kế hoạch và thể hiện
vật chất, vốn chúng ta thấy trong ý thức của chính chúng ta. Khắp mọi nơi chúng
ta có một hoạt động được nhân hóa. Một kế hoạch, một mục đích trước tiên phải
được cung cấp, và sau đó vật chất và sức lực để tiến hành nó. Chúng ta thấy ở
đây Aristotle, theo Socrates nhiều đến đâu, đã vẫn là dưới đáy với phản đề của ông
về thể dạng và vật chất, và sự cai quản của những nguyên nhân hiệu quả bởi cứu
cánh cuối cùng. Không phải tự giải quyết với khoa học vật lý, Socrates đã chỉ
định cho nó xong xuôi rồi, con đường sau đó nó đã du hành trong đó với sự
kiên trì ổn định như vậy. Nhưng nguyên lý khác thường của thuyết vũ trụ này là thuyết
gót học. Kiến trúc sư của thế giới phải là một Người, là người có thể mường
tượng trong đầu và tưởng tượng bởi con người, mặc dù người này có thể không
được hiểu trong tất cả những hành động của người ấy. Ngay cả sự biểu hiện rõ
ràng không chỉ vào ai, rằng ‘lý trí’ đã thực hiện tất cả những sự vật việc này
nhận được một dấu đóng tôn giáo qua thuyết nhân hóa vô điều kiện vốn với nó
công việc của ‘lý trí này được xem trọng. Và do đó, chúng ta tìm thấy, ngay cả
trong theo Socrates của Plato – và đặc điểm này phải là chính gốc – những thành
ngữ diễn tả ‘Lý trí’ và ‘Gót’ thường được dùng như những thuật ngữ hoàn toàn hoán
chuyển được cho nhau.
Rằng Socrates trong khái niệm của ông về những sự vật việc này dựa trên những
quan điểm tin chỉ một gót, thiết yếu không cần ngạc nhiên chúng ta, vì nó nằm hoàn
toàn trong thời kỳ. Đúng là học thuyết tin-chỉ-một-gót này đã không đâu là giáo
điều; ngược lại, sự đông đảo nhiều gót vẫn được duy trì rõ ràng, nhưng sự ưu thắng
vượt trội của ‘Gót’, người được xem như kẻ sáng tạo và bảo tồn của thế giới
khiến cho những hữu thể khác ở cấp thấp hơn, họ có thể, vì nhiều mục đích suy
diễn ức đoán, bị loại bỏ hoàn toàn khỏi tầm nhìn.
Như thế khiến chúng ta có thể có lẽ giả định rằng tính không chắc chắn
chắn của những suy diễn vật lý, vốn Socrates phàn nàn về chúng, đã không gì nhưng
là tính không thể làm được quá hiển nhiên của việc xây dựng một giải thích hoàn
toàn và duy lý về toàn bộ cấu trúc của vũ trụ, giống như ông đã tìm kiếm vô
vọng từ Anaxagoras. Vì những nguyên nhân hữu hiệu đều được Socrates nhìn, bất
cứ nơi nào ông đối phó với chúng, như một gì hoàn toàn lãnh đạm và không quan
trọng; điều này khá dễ hiểu nếu chúng được tưởng tượng theo hướng không như
những luật phổ quát của tự nhiên, nhưng đơn thuần như sự thực thi của một lý do
vốn nghĩ hay tạo ra với tư cách cá nhân. Điều này càng cao vời hay uy nghi lộng
lẫy hơn bao nhiêu, sự thực hiện sẽ được nhìn xem càng nhiều sự thờ ơ và không
quan trọng hơn bấy nhiêu; và như thế Socrates có thể hiếm khi nói với đủ khinh
miệt về ‘sự tìm kiếm theo đuổi những nguyên nhân bên ngoài.’
Người ta thấy từ điều này, như thế nào ở dưới cùng học thuyết về bản sắc
nhận diện của tư tưởng và hiện hữu có một gốc gót học, vì nó giả định rằng lý
do của một hồn-thế giới, hay một Gót, và một lý trí, hơn nữa, khác với lý trí
con người chỉ ở mức độ, đã tạo đặt và loại bỏ như thế tất cả mọi sự vật việc vốn
chúng ta có thể nghĩ về nó lần nữa, và, nếu chúng ta dùng lý trí của chúng ta
hoàn toàn đúng, phải nghĩ lại về nó
lần nữa.
Khuynh hướng tôn giáo đã do Socrates khai mở có thể so sánh được với chủ
nghĩa Duy lý của thời hiện đại. Socrates thì hoàn toàn sẵn sàng để giữ lại
những hình thức thông thường của một hệ thống nhiều tôn giáo, chỉ có điều ông
truyền đạt cho chúng ở khắp mọi nơi một ý nghĩa sâu xa hơn; do đó, lấy thí dụ,
khi ông đòi hỏi rằng chúng ta sẽ không cầu nguyện để xin những phước lành cụ
thể nào đó, nhưng đúng hơn nhiều, để xin đòi ‘điều tốt’ từ những gót, vì họ
biết rõ nhất điều gì thì tốt cho chúng ta. Học thuyết này có vẻ cũng vô hại như
nó hợp lý, cho đến khi chúng ta ngẫm nghĩ trong lòng tin tôn giáo của Greece, cầu
xin cho những phước lành cụ thể đã buộc chặt sâu xa đến chừng nào với chính sự hiện
hữu của những gót cụ thể. Những gót của tin tưởng phổ thông như thế bởi
Socrates làm xảy ra chỉ những đại diện của một tín ngưỡng tinh thuần hơn. Sự
thống nhất của thờ phượng giữa dân chúng và những người có giáo dục đã được bảo
tồn, nhưng bằng sự trợ giúp của việc giải thích những tín ngưỡng truyền thống
mà chúng ta có thể gọi là duy lý. Việc Socrates ca ngợi những lời tiên tri –
oracle – thì khá hài hòa với khuynh hướng này, vì tại sao không là vị thần,
người đã giải thích trong những chi tiết nhỏ nhất vì sự tốt lành của con người,
cũng trao đổi ý nghĩ với ông và ban lời khuyên cho ông? Và ngay cả trong văn
minh hiện đại của chúng ta, và ở England cũng vậy, mặc dù đặc biệt hơn ở
Germany, một khuynh hướng rất mạnh mẽ đã nảy sinh, vốn nghĩ rằng nhiệm vụ của nó
là truyền bá những hình thức thuần khiết hơn của lòng tin tôn giáo, chính xác thoát
ra từ lòng nhiệt thành với sự phục hồi của tôn giáo và ảnh hưởng của nó, và sự
thúc đẩy chính của nó, với tất cả tư tưởng duy lý của nó, là một điều tích cực. Lòng nhiệt thành chống lại tư
tưởng Duy vật, và sự quyết đoán bồn chồn về những lợi ích lý tưởng của lòng tin
vào Gót, tự do và sự bất tử, đã không đâu lớn hơn trong những người có khuynh
hướng này. Như thế, Socrates cũng vậy, người dưới hai sự xoay vần của văn hóa
phá hoại và thương yêu dành cho nội dung lý tưởng của lòng tin tôn giáo, trên
tất cả, sẽ gìn giữ điều kể sau. Yếu tố bảo thủ, bao trùm toàn bộ con người
ông, không có nghĩa là ngăn cản ông đặt tay vào những thay đổi rất triệt để,
ngay cả trong lĩnh vực chính trị, ngõ hầu rằng yếu tố thiết yếu và cao quý nhất
của sự tồn tại chính trị, ý thức sống của cộng đồng, có thể được bảo đảm vĩnh
viễn chống lại giòng thác chảy của chủ nghĩa cá nhân ưu thắng.
Lewes, người cho chúng ta những gì trong
nhiều phương diện, một bức tranh đáng ngưỡng mộ của Socrates, muốn chứng minh
từ học thuyết của ông rằng đức hạnh là kiến thức, rằng triết học, chứ không phải
đạo đức là sự bận tâm đặc biệt của đời ông. Sự phân biệt này dẫn đến những khái
niệm sai lầm. Một người chỉ đơn thuần là một ‘người đạo đức’ Socrates chắc chắn
đã không, nếu nói như thế, chúng ta muốn nói với nghĩa là một con người, là
người không quan tâm đến việc thiết lập những học thuyết của người ấy sâu xa
hơn, nhưng chỉ cố gắng làm chính mình và những người khác trở nên đạo đức hơn.
Nhưng triết lý của ông trong yếu tính sâu xa nhất của nó là triết học đạo đức,
và triết học đạo đức dựa trên một nền tảng tôn giáo. Trong sự việc này là giòng
chảy chính của tất cả những hoạt động của ông, và sự giả định trước về tính có
thể hiểu được và có thể giáo dục của đạo đức thì ngay từ đầu ngầm ý trong lập
trường tôn giáo đặc biệt khác thường của ông. Rằng ông đã đi xa hơn, và không
chỉ khẳng định tính có thể hiểu được [14] của đạo đức, nhưng đã xác định đức hạnh thực tiễn với sự hiểu biết lý
thuyết về đạo đức, là quan niệm cá nhân của ông về sự liên hệ; và ở đây cũng
vậy, chúng ta cũng có thể đánh bạo để theo dõi những ảnh hưởng tôn giáo.
Gót ở đền Delphi, gót đã đặc biệt là
một gót của đạo đức cao cả, đã kêu gọi con người, qua dòng chữ khắc trên đền
thờ, ‘Hãy tự biết mình’. Câu nói này với Socrates đã thành một quan tâm hướng
dẫn hai phần của sự nghiệp triết học của ông: thứ nhất, trong việc thiết
lập khoa học đạo đức thay vì khoa học tự nhiên rõ ràng đã không có kết quả; nhưng,
thứ hai, trong nguyên tắc của việc phấn đấu theo đuổi đạo đức cao cả bằng những
phương tiện của tri thức.
Lập trường tương đối của những Sôphít, đối với một người có khuynh hướng
trí thức này, phải là trước sau hoàn toàn đáng ghét. Ý thức tôn giáo đòi hỏi cho
những điểm chắc chắn của nó, đặc biệt là trong tất cả những gì liên quan đến
Gót, hồn người [15] và quy luật của đời sống. Do đó, đối
với Socrates, đó là một nguyên tắc tiên đề rằng phải có một kiến thức đạo
đức. Thuyết tương đối, dọ thám nó, nằm trên cái đúng của những ấn tượng
riêng lẻ. Để chống lại điều này, khi đó, phổ quát và sự thực phổ quát phải được
thiết lập.
Chúng ta đã thấy ở trên cách bước đi đến phổ quát có thể được thực hiện
từ quan điểm của thuyết tương đối mà không có bất kỳ thay đổi nào về nguyên
tắc. Nhưng trong trường hợp đó, phổ quát sẽ được hình thành trong một nghĩa Duy
Danh chặt chẽ. Kiến thức có thể đã mở rộng đến vô tận trên lĩnh vực này nhưng
không bao giờ vượt ra ngoài tư tưởng duy nghiệm và khả năng có thể xảy ra. Thật
thú vị khi quan sát Socrates (phát ngôn cho Plato), trong tranh luận để chống
lại tính tương đối của Protagoras, thường bắt đầu đúng in như một học trò chân
chính của những Sôphít tất đã phải bắt đầu, nếu ông muốn mạo hiểm trên bước đi
đến sự cân nhắc về cái phổ quát. Nhưng tranh luận không bao giờ dừng lại ở đó;
nó luôn luôn hướng đến vượt quá mục tiêu trước mắt, để nắm lấy tính phổ quát
theo nghĩa siêu việt mà Plato đã đưa nó vào khoa học. Và nền đứng, không nghi
ngờ gì, đã được chuẩn bị rồi cho điều này bởi Socrates. Nếu theo Socrates của
Plato chứng minh, lấy thí dụ (trong Cratylus),
rằng những tên gọi đều không được gán tùy tiện cho những sự vật việc, nhưng
rằng chúng tương ứng với bản chất bên trong sâu nhất của đối tượng, đã có chứa
đựng rồi trong bản chất của sự vật việc, trong một dạng mầm mống, bản chất mà
Plato sau này đã nâng lên hết sức cao, vượt trên những sự vật việc riêng lẻ,
đến mức chúng bị thu giảm và hạ giá xuống chỉ còn đơn giản là những xuất hiện
dạng ngoài.
Aristotle gán công cho Socrates hai đổi mới thiết yếu về phương pháp – việc
dùng những định nghĩa và phép qui nạp. Cả hai, như những phương
pháp của phép biện chứng, quyết định những phổ quát; và nghệ thuật của thảo
luận, trong đó, Socrates là một bậc thầy, đã chủ yếu gồm trong sự tham dẫn vững
chắc và khéo léo của trường hợp đơn lẻ đến một phổ quát, và dùng cái phổ quát
để kết luận trở lại cái cá biệt. Và dĩ nhiên, chính ở đây, chúng ta tìm thấy
trong những đàm thoại Plato số lượng những mánh khóe lôgích, phục kích và những
kiểu ngụy biện của tất cả mọi loại về phía luôn luôn thắng của Socrates. Ông thường
vờn những đối thủ của mình, như một con mèo với một con chuột, bẫy họ vào trong
những thú nhận có ứng dụng quan trọng rộng rãi, chỉ để cho chính họ thấy ngay
lập tức rằng lý luận chứa đựng một sai lầm; nhưng hiếm khi điều này được sửa
chữa, hơn là đối thủ lại bị bắt vướng trong một cái bẫy, vốn nó thực ra, không
thực hơn cái bẫy mắc đầu tiên.
Không có nghi ngờ rằng ở đây, sự giải quyết tổng quát thì thực gốc của
Socrates, mặc dù những lập luận cụ thể trong phần lớn hầu hết đều của
Plato. Điều cũng sẽ được nhận rằng cách thức lý luận khéo léo này trong sự
chống đối những Sôphít thì được lợi hơn nhiều trong việc nói năng, trong tranh
chấp trực tiếp của biện luận, trong đó một người cố gắng dùng sức mạnh trí thức
của mình chống lại người khác, hơn là trong sự thảo luận học thuật bình tĩnh, trong
đó ít nhất là theo như ý tưởng của chúng ta, phải được đo lường bằng một tiêu
chuẩn nghiêm ngặt hơn nhiều về tính chất vững vàng trong những bằng chứng của
nó.
Socrates hiếm khi từng có chủ định làm lẫn lộn những đối thủ của ông, và
chỉ đơn thuần là đọ thắng họ thay vì hoàn toàn phủ nhận họ. Đó là tin
tưởng vững chắc của ông vào những nguyên tắc của chính ông đã bịt mắt ông trước
những sai lầm trong lý luận của chính ông, trong khi ông ngay lập tức khám phá những
sai lầm của những đối thủ của mình và dùng chúng với tất cả sức mạnh của một người
lực sĩ điền kinh thực hành. Mặc dù vậy, tuy nhiên, chúng ta không thể buộc Socrates
với bất kỳ không trung thực nào trong tranh luận, nhưng sự rối rắm của sự đánh
bại của một đối thủ với sự bác bỏ ý kiến của người ấy cũng thuộc về ông, vì
nó đã thuộc về những người đi trước của ông, và từ biện chứng Greece từ những
bắt đầu của nó. Bức tranh của so tài đấu vật trí thức, hay như chúng ta thấy đặc
biệt trong Aristotle, của việc thách thức của hai phe trước một phiên tòa, có
mặt ở khắp mọi nơi, ý tưởng hiện ra đã liên kết với cá nhân, và tính đầy hình
ảnh sinh động của tranh luận thay thế cho một sự phân tích bình tĩnh và đầy đủ.
Thêm nữa, sự ‘trớ trêu’ của Socrates [16], với nó ông thú nhận sự không biết hay
thiếu hiểu biết, và yêu cầu sự chỉ dẫn từ đối thủ của ông, thường chỉ là bức
màn mỏng manh của một khuynh hướng giáo điều vốn là từng sẵn sàng, ít nhất trong
ngượng ngập, một cách ngây thơ, và với tất cả xuất hiện chỉ một cách ngập ngừng,
để theo quan điểm đã có sẵn, và để gài vào trong một ý kiến có-sẵn, và không ai
để ý, để dành lấy chấp nhận cho nó. Thế nhưng, đây là một học thuyết giáo điều
vốn gồm trong sự lập lại liên tục của một ít và những giáo điều đơn giản: đức
hạnh là kiến thức; chỉ một mình con người công chính thì thực sự có hạnh
phúc; tự hiểu biết là bổn phận đầu tiên của con người; để cải thiện tự thân thì
nhiều hệ quả hơn bất kỳ sự chăm sóc nào cho những sự vật việc bên ngoài, và v.v.
Nhìn theo chiều hướng ý nghĩa đặc biệt của sự tự-hiểu biết và học thuyết
về đức hạnh, Socrates vẫn luôn luôn chỉ là một người tìm kiếm. Ông tìm kiếm với
tất cả năng lực của một bản chất tin tưởng, nhưng ông không mạo hiểm để khẳng
định những kết luận xác định rõ rệt. [17] Phương pháp của những định nghĩa của
ông dẫn đến, thường thấy hơn, chỉ đơn thuần nêu lên đề nghị của một định nghĩa,
đến phát biểu của ý tưởng của sự vật việc vốn đã được biết, hơn là đến việc thiết
lập thực sự của một định nghĩa. Khi chúng ta đạt đến điểm ở đó một gì đó thêm hơn
nên được đem cho chúng ta, chúng ta sẽ tìm thấy chỉ không hơn một nỗ lực đơn
thuần, hay sự ‘không biết’ kéo dài không ngừng của Socrates. Ông rõ ràng hài
lòng với sự phủ định của phủ định, và nhắc nhở chúng ta về lời sấm truyền vốn tuyên
bố ông là người khôn ngoan nhất của những người Greece vì ông biết sự không
biết của chính mình, trong khi những người khác không biết cũng nhiều được như
thế rằng họ không biết gì. Kết quả này, tuy nhiên, thuần túy tiêu cực vì nó
hiện ra, thì xa như những vòm trời bị tước mất khỏi chủ nghĩa hoài nghi; vì
trong khi người hoài nghi phủ nhận chính khả năng có thể có của một kiến thức
nhất định, với Socrates ý tưởng rằng một kiến thức, loại như vậy phải có, là chính
ngôi sao dẫn đường cho tất cả hoạt động của ông. Tuy nhiên, ông tự hài lòng với
việc dọn chỗ cho kiến thức đích thực bằng việc phá hủy kiến thức đơn thuần
giả mạo, và bằng sự tạo dựng qui củ và việc đem dùng một phương pháp vốn sẽ có
khả năng phân biệt kiến thức đúng với xem dường như đúng. Do đó, sự phê bình,
trái ngược với sự hoài nghi, là chức năng của phương pháp này; và trong sự minh
chứng của phê bình như công cụ của khoa học, chúng ta có ít nhất một thành tựu
về hoạt động của ông vốn có một giá trị vĩnh viễn. Tuy nhiên, sự quan trọng
chính của ông trong lịch sử triết học không nằm ở đây, nhưng trong sự tin tưởng
của ông vào kiến thức và đối tượng của nó; bản chất phổ quát của những sự vật,
trục đứng yên trong sự thoáng qua như vụt bay của những hiện tượng. Mặc dù tin
tưởng này có thể đã vượt quá vệt đánh dấu, nhưng do đó đã được thực hiện bước
không thể thiếu rằng những năng lượng bị trì trệ của lập trường Tương đối
và tư tưởng Duy vật đã không có khả năng của việc thực hiện – việc chăm sóc
giải quyết phổ quát trong quan hệ của nó với cá nhân, của những khái niệm trong
trái ngược với nhận thức đơn thuần. Những cỏ lạ chen vào [18] của Tư tưởng Duy ý theo Plato đã lớn
lên cùng với lúa mì; nhưng mặt đất đã lại được chuẩn bị: khi một bàn tay
mạnh mẽ cầm cày, cánh đồng triết học lại đơm quả gấp trăm lần, đúng khi nó xem dường
như có số mệnh là không sinh sản.
Trong tất cả những học trò của Socrates,
Plato đã là người chịu ảnh hưởng sâu xa nhất bởi nhiệt tình tôn giáo phát ra từ
Socrates, và cũng đã là chính Plato là người thực hiện một cách thuần túy nhất,
mặc dù cũng hầu hết là một chiều, những tư tưởng của người thày. Và đặc
biệt là những lỗi lầm nằm ở nền tảng của triết lý Socrates, trong tay Plato, đã
đạt được một sự phát triển lớn lao phi thường, để tồn tại kéo dài hàng ngàn
năm. Tuy nhiên, những lỗi lầm trong tư tưởng Plato này, do sự chống đối sâu xa
của chúng với triết lý nảy sinh từ kinh nghiệm, đối với chúng ta có sự quan
trọng đặc biệt. Chúng cũng là những lỗi lầm có ý nghĩa quan trọng phổ quát,
giống như những lỗi lầm của tư tưởng Duy vật; vì mặc dù chúng có thể không được
kết nối với bản chất của những khả năng suy nghĩ của chúng ta bởi những điểm
kết nối trực tiếp như là tư tưởng Duy vật, thế nhưng chúng chỉ dựa sự chắc chắn
hơn trên cơ bản rộng rãi của toàn bộ tổ chức tâm lý của chúng ta. Cả hai lý
thuyết đều là những giai đoạn cần thiết của tư tưởng con người, và mặc dù tư
tưởng Duy vật có thể, so với học thuyết Plato, trên những điểm đặc biệt luôn
duy trì vị trí của nó; Tuy nhiên, có thể là toàn bộ bức tranh về thế giới vốn
điều này về sau có thể đứng gần hơn với sự thật chưa biết: trong bất kỳ trường
hợp nào, nó có những quan hệ sâu xa hơn với đời sống của những cảm xúc, với
nghệ thuật, với những chức năng đạo đức của loài người. Tuy nhiên, sự Cao quí, vì
những liên hệ này có thể là, và có phúc lợi như học thuyết Plato trong nhiều thời
kỳ khác nhau có thể qua chúng đã hành động, trên toàn bộ sự phát triển của loài
người, nhưng dù sao đi nữa nhiệm vụ không thể thiếu vẫn là đặt xuống phơi bày
không dấu diếm trước sau những lỗi lầm của tư tưởng Plato với không nhìn theo
hướng những phương diện cao quí hơn của chúng.
Nhưng trước tiên, một lời để nói về
khuynh hướng tổng quát của Plato. Chúng ta đã gọi ông là người thuần thành nhất
của những người theo Socrates và chúng ta đã tìm thấy ở Socrates một người
theo tư tưởng Duy lý. Điều này khác xa với việc đồng ý với quan điểm rộng
rãi hiện nay coi Plato là một nhà huyền học và một người say mê thi ca; nhưng
cái nhìn này thì hoàn toàn sai. Lewes, người đã phản đối quan niệm này bằng
năng lực đặc biệt, do đó đặc trưng ông: “Ông đã làm thơ khi còn trẻ; ở tuổi
trưởng thành, ông đã viết kịch liệt chống lại nó. Trong những đàm thoại của ông,
ông xuất hiện là bất cứ thứ gì, ngoại trừ ‘mơ màng hão huyền’; bất cứ điều gì ngoại
trừ ‘một người duy ý’, như cụm từ đó được hiểu một cách phổ thông. Ông là một
nhà biện chứng, một nhà tư tưởng nghiêm ngặt và trừu tượng, và một nhà Sôphít
vĩ đại. Siêu hình học của ông có bản chất trừu tượng và tinh tế đến mức chúng
làm sợ hãi tất cả trừ những sinh viên kiên quyết nhất. Những quan điểm của ông
về đạo đức và chính trị, cho đến nay không có bất kỳ khuynh hướng lãng mạn nào,
là cực kỳ mới của mức độ nghiêm trọng lôgích; khó khăn, không
khoan nhượng, và vượt trên nhân tính. Ông đã học để nhìn đam mê của con người như
một căn bệnh, và niềm vui của con người là một thứ phù phiếm. Điều duy nhất
đáng để sống là sự thật. Phép biện chứng là thực tập cao quý nhất của loài
người. [19]
Trong tất cả những việc này, không thể
phủ nhận rằng, nhìn theo lịch sử, học thuyết Plato thường xuất hiện trong liên kết
với sự nồng nhiệt, và rằng ngay cả những hệ thống Plato-mới [20] đã chuyển biến rộng rãi tìm được một vài hỗ trợ trong học thuyết của
Plato; không, giữa những người trực tiếp đi theo bậc thầy vĩ đại, đã có những
người có thể được mô tả như những nhà huyền bí; và những yếu tố của phái
Pythagore vốn họ đã kết hợp với những giảng dạy của Plato tìm thấy hỗ trợ và thẩm
quyền trong chính những giảng dạy này. Dĩ nhiên, chúng ta có bên cạnh những người
này, ‘Học viện giữa’ [21] cực kỳ tỉnh táo, vốn nó cũng kết nối chính nó với Plato, và những khởi
đầu của lý thuyết về xác suất của nó có lẽ trong thực tế, được truy về trong
Plato.
Sự thật là, rằng trong Plato, học
thuyết duy lý Socrates đã vượt khỏi chính nó, và trong sự cố gắng để nâng lĩnh
vực của lý trí cao lên trên những cảm giác, đã đi quá xa khiến một sự rơi trở
lại vào trong những hình thức thần bí đã thành không thể tránh khỏi. Plato đã
‘trèo lên’ một vòm trời với nó con người không được ban cho ngôn ngữ lẫn khả
năng của khái niệm hóa. Ông đã thấy chính ông như thế bị buộc phải rơi trở lại trên
những diến tả tượng hình; nhưng hệ thống của ông là một bằng chứng nói rằng sự biểu
hiện tượng hình cho những gì là hoàn toàn siêu cảm là một hão huyền, một quái
vật ảo tưởng [22], và rằng việc cố gắng để trèo bằng cái thang này đến những độ cao không
thể có được của sự trừu tượng đã tự nó trả thù trong sự vượt trội đã thực hiện
bởi hình ảnh minh họa trên sự suy tưởng, và bằng cách vội vã chạy đến những hậu
quả trong đó tất cả sự thống nhất lôgích bị diệt vong dưới sự quyến rũ của
những kết hợp của những ý tưởng thuộc giác quan.[23]
Plato, trước khi chính ông gắn bó với Socrates,
đã được giới thiệu với triết lý của Heraclitus, và như thế đã học rằng không có
hữu thể thầm lặng dai dẳng liên tục, rằng tất cả mọi sự vật việc thì trong thay
đổi liên tục. Lúc đó, khi ông nghĩ rằng mình đã khám phá được một gì đó vĩnh
viễn trong những định nghĩa theo Socrates, và trong yếu tính phổ quát của những
sự vật việc vốn được chuyển đạt trong những định nghĩa này, ông đã kết hợp học
thuyết này với một yếu tố từ Heraclitus, theo thời thức như thế khiến ông đã
gán - hữu thể thực sự, và tính chất vĩnh viễn không bị xáo trộn không thể tách
khỏi nó, - với một mình tính phổ quát; về mặt khác, những sự vật việc riêng lẻ tất
cả hoàn toàn đều không là, nhưng chỉ đơn thuần trở thành.
Những hiện tượng trôi đi nhưng thực tại không trôi theo: hữu thể thì vĩnh cửu. [24]
Bây giờ chúng ta biết rằng chỉ những ý
tưởng có khả năng để định nghĩa là những ý tưởng trừu tượng, tự cấu thành,
chẳng hạn như những ý tưởng được nhà toán học dùng để tiếp cận gần đến vô cùng với
sự cấu thành định lượng của những sự vật việc, tuy nhiên, không làm cạn kiệt nó
bởi những công thức của nhà toán học. Mọi nỗ lực để định nghĩa sự vật việc đều đổ
vỡ: việc dùng theo qui ước của một từ có thể được ấn định một cách tùy tiện,
nhưng khi từ này được dùng để chỉ một lớp gồm những đối tượng theo như bản chất
có chung của chúng, thì sớm muộn gì cũng thành điều hiển nhiên rằng những sự
vật việc có những quan hệ và phẩm chất khác biệt hơn với giả định ban đầu về chúng.
Định nghĩa cũ trở nên vô dụng, và phải được thay thế bằng một định nghĩa mới, vốn
đến lượt nó không còn những kỳ vọng với tính hợp thức vĩnh cửu so với của định
nghĩa đầu tiên. Không định nghĩa nào dù về một ngôi sao cố định có thể ngăn nó khỏi
việc di chuyển; không có định nghĩa nào có thể vẽ ranh giới vĩnh viễn giữa
những thiên thạch và những thiên thể khác. Cũng thông thường như nghiên cứu làm
một bước tiến lớn tới trước, những định nghĩa phải nhường chỗ và những sự vật
việc riêng lẻ không tự điều chỉnh chúng theo những khái niệm chung của chúng
ta, nhưng ngược lại, chúng phải được xác định bởi những đối tượng cụ thể vốn
chúng ta cảm nhận.
Plato mang đến thêm những yếu tố của lôgích
ông đã nhận từ Socrates. Ở ông, lần đầu tiên, chúng ta thấy một ý tưởng rõ ràng
về chi và loài [25], về sự phối hợp (ngang hàng) và sự phân thuộc (trên dưới) [26] của những khái niệm; và ông thì rất chuộng việc dùng thành tựu mới mà
ông có thể, bằng sự trợ giúp của sự phân chia, mang ánh sáng và trật tự vào trong
những đối tượng của thảo luận. Đây thực sự đã là một bước tiến lớn và quan
trọng, và thế nhưng ngay cả điều này ngay lập tức gia nhập chính nó trong sự
phục dịch một lỗi lầm lớn. Ở đó đã nảy sinh hệ thống sắp xếp thứ bậc của những
ý tưởng trong đó những gì trống rỗng nhất về nội dung được đặt cao nhất. Sự trừu
tượng đã là cái thang bắc lên trời [27] qua nó triết gia đã lên cao đến sự chắc chắn. Càng xa khỏi những sự kiện,
nhà triết học càng nghĩ mình càng gần với sự thật.
Tuy nhiên, trong khi Plato trưng bày
những ý tưởng phổ quát [28] như vĩnh cửu trong thế giới những hiện tượng thoáng qua nhanh chóng, ông
đã tự thấy sau đó buộc phải thêm vào bước ‘thai nghén’ của sự phân tách cái phổ
quát khỏi cái đặc thù, và quy cho phổ quát một sự là-có riêng biệt. Cái đẹp thì không chỉ trong những đối tượng đẹp, sự
tốt lành thì không chỉ trong những con người tốt lành, nhưng cái đẹp, sự tốt
lành, được nhìn hoàn toàn trừu tượng, là những thực thể tự tồn tại. Điều sẽ dẫn
chúng ta đi quá xa ở đây để thảo luận đầy đủ về lý thuyết lý tưởng theo Plato: với
mục đích của chúng ta là đủ để xem xét những nền tảng của nó, và để xem như thế
nào từ những nền tảng này đã nảy sinh khuynh hướng trí thức đó vốn nó tự nâng
lên rất cao như thế, như nó đã giả định, vượt trên tư tưởng duy nghiệm thông
tục, và tuy nhiên, nó phải ở tất cả mọi điểm, lại nhường cho tư tưởng duy
nghiệm bất cứ nơi nào nó là một câu hỏi về sự tiến bộ tích cực của khoa học.
Rất nhiều rõ ràng như thế, rằng chúng
ta cần cái phổ quát và tiến trình của trừu tượng hóa để đi tới có kiến thức.
Ngay cả sự kiện cụ thể đơn lẻ, để trở thành một đối tượng của kiến thức, phải
được tôn lên cao vượt trên Chủ nghĩa Cá nhân của Protagoras, bằng việc giả định
và biểu hiện của một nhận thức về một gì đó có hàm ý lập lại thường xuyên; đó
là, của phổ quát như đối lập với cụ thể đơn lẻ – của trung bình như đối lập với
những chao đảo biến động. Nhưng kiến thức như thế bắt đầu ngay lúc đó để vượt
lên trên ý kiến đơn thuần trước khi nó hướng chính nó đến bất kỳ lớp đặc biệt
nào của những đối tượng tương tự. Tuy nhiên, chúng ta đòi hỏi, ngay cả trước cả
khi chúng ta có thể biết chính xác toàn bộ những lớp, những thuật ngữ chung để
sửa chữa kiến thức của chúng ta, và để có khả năng để truyền thông nó;
vì lý do đơn giản là không có ngôn ngữ nào có thể đủ để diễn đạt tất cả những cụ
thể đơn lẻ, và vì, với một ngôn ngữ vốn đã làm điều này, không có sự hiểu biết
nào, không có kiến thức tổng quát nào sẽ là có thể có, và việc giữ lại một vô
tận như thế của những ý nghĩa là không thể có được. Về điểm này, Locke là người
đầu tiên đã ném vào một tia sáng rõ ràng; nhưng chúng ta phải không bao giờ
quên rằng Locke, vì ông sống sau Plato rất lâu, tuy nhiên vẫn đứng ở giữa của tiến
trình vĩ đại vốn qua nó thế giới hiện đại đã được tự do chính nó khỏi lý thuyết
của Plato và Aristotle về những sự vật việc. Socrates, Plato; và Aristotle,
giống như toàn bộ thời đại của họ, đã để cho chính họ bị những từ ngữ lừa dối.
Chúng ta đã thấy cách mà Socrates tin rằng mọi từ ngữ ban đầu phải diễn
tả bản chất của sự vật việc; do đó, tên gọi chung sẽ diễn tả bản chất của lớp gồm
những đối tượng trong câu hỏi. Ở đâu có tên gọi, ở đó có một sự hiện hữu thực
sự đã được giả định trước. Công lý, Sự thật, cái Đẹp, phải có nghĩa là ‘một gì
đó’; và theo đó phải có những thực tại tương ứng với những biểu tả này.
Aristotle nêu lên rằng Plato là đầu
tiên đã phân biệt bản chất phổ quát của mọi sự vật việc với những cá biệt, vốn Socrates
vẫn đã còn chưa làm. Nhưng thêm nữa, Socrates đã không chủ trương rằng học
thuyết đặc biệt đó của Aristotle về phần sự liên hệ của phổ quát với cá biệt mà
chúng ta sẽ sớm phải xem xét. Tuy nhiên, Socrates đã đi đến được xa như lý
thuyết rằng kiến thức của chúng ta có tham dẫn về cái phổ quát, và rằng một
gì đó là một gì đó hoàn toàn khác với sự không thể thiếu của những khái niệm tổng
quát cho kiến thức được giải thích ở trên. Con người đức hạnh, theo như Socrates,
là con người biết kính tín hay không kính tín là gì, điều gì là cao thượng hay
ô nhục, điều gì là công chính hay bất công; nhưng trong khi nói điều này, ông
luôn luôn để mắt đến định nghĩa mà ông không ngừng tìm kiếm. Bản chất phổ quát
của công chính, của cao thượng được tìm kiếm, không là những gì nằm trong
trường hợp cá biệt của công chính và cao quý. Từ cái phổ quát chúng ta phải lấy
được cái cụ thể cá biệt, nhưng không ngược lại; vì qui nạp phục vụ ông trong
việc đi đến cái phổ quát, chỉ để làm cho nó rõ ràng với não thức, không để tìm thấy cái phổ quát trên
những tổng số của những trường hợp cụ thể. Từ quan điểm này, nó chỉ là nhất
quán để cho phép phổ quát là-có bởi
chính nó, nghĩa là tự hiện hữu; vì
chỉ có như vậy nó mới dường như đạt được sự độc lập hoàn toàn. Chỉ sau đó, nỗ
lực mới có thể được thực hiện để thiết lập cho phổ quát một sự quan hệ vĩnh cửu
và tuy thế độc lập nền tảng với những đối tượng cụ thể. Tuy nhiên, phải đừng
rời khỏi tầm mắt nhìn, rằng nền tảng Heraclitus trong giáo dục của Plato đã góp
phần vật chất rất lớn vào việc mang lại sự tách biệt giữa cái phổ quát và cái
đặc thù cụ thể.
Nhưng chúng ta phải đừng thất bại để
không hiểu rằng từ phương pháp nghịch lý này trong làm việc, dĩ nhiên chỉ có
thể có những kết quả nghịch lý theo đến. Tên gọi thì ‘tạo’ một sự vật việc,
nhưng một sự vật việc không có tương đồng nào với bất kỳ sự vật việc khác, và với
nó, trong bản chất của suy nghĩ của con người, chỉ những thuật ngữ phủ định có
thể được gắn vào. [29] Nhưng vì có một cần thiết tuyệt đối cho một vài sự khẳng định tích
cực, chúng ta thấy chính chúng ta ngay từ đầu trong lĩnh vực của huyền thoại và
biểu tượng.
Từ chính từ ‘εἶδος’ hay ‘ἰδέα’, đã đến từ ‘ý
tưởng’ của chúng ta[30], mang dấu đóng này của sự tượng trưng. Có một khái niệm tương tự về
những loài như phân biệt với cá thể. Chúng ta có thể rất dễ hình dung
cho bản thân chúng ta trong tưởng tượng một mẫu thức của bất kỳ loài nào vốn thoát
khỏi tất cả những xảy ra không chủ yếu [31] của cá thể, và do đó sẽ đại diện cho loại hay mẫu thức của tất
cả những cá thể, và hơn nữa là một cá thể toàn hảo tuyệt đối. Chúng ta không
thể tưởng tượng một con sư tử giống như thế, một hoa hồng loại như thế; nhưng
chúng ta có thể thể hiện trong sự tưởng tượng một hình ảnh phác vẽ ấn định rõ
rệt về một con sư tử hay một hoa hồng, hoàn toàn đứng ngoài, thoát khỏi tất cả những
xảy ra không chủ yếu đó của sự hình thành cá thể vốn có thể nhìn theo tập thể như
những sai lệch so với chuẩn mực này, như những không-toàn hảo. Tuy nhiên, đây không là ý tưởng theo Plato về con
sư tử hay hoa hồng, nhưng là một lý tưởng vốn là sự sáng tạo của những giác quan,
với ý định để truyền đạt ý tưởng trừu tượng đến như hoàn toàn nhất như có thể
được. Ý tưởng tự nó thì vô hình, vì tất cả mọi sự vật hữu hình thuộc về thế
giới phù du, đơn thuần chỉ những hiện tượng: nó không có hình dạng trong không
gian, vì những gì-vượt-ngoài-cảm giác không thể kết nối với không gian. Tương
tự, không gì dẫu tích cực đến đâu có thể diễn tả được của những ý tưởng nhưng không
hình tượng chúng trong một vài kiểu thức giác quan nào đó. Chúng không thể được
gọi là thuần khiết, tự chủ, toàn hảo, vĩnh cửu, nhưng không có sự kết nối của
chúng ta với chúng bằng chính những từ ngữ ý tưởng của giác quan này. Vì vậy,
Plato, trong lý thuyết về những lý tưởng của ông, thì đã buộc có sự truy cầu về
với huyền thoại [32], và như thế, trong một bước đơn độc, chúng ta chuyển từ sự trừu tượng
cao nhất sang yếu tố-sống thực của tất cả chủ nghĩa thần bí – những vượt-ngoài-cảm
giác (được) cảm giác. Tuy nhiên, huyền thoại là chỉ để có một sức mạnh hình dung
hay ẩn dụ. Theo những phương cách của nó, những gì trong tự thân nó là chỉ một
đối tượng của lý trí thuần túy thì để được biểu hiện trong những hình dạng của
thế giới hiện tượng; nhưng loại nào của hình
dung có thể là của những gì nguyên gốc không thể được cung ứng?
Ý tưởng bản thân thì nói là được lý trí
cảm nhận, dẫu nhưng không hoàn toàn trong đời sống trần gian này, và lý trí đứng
liên hệ với hiện hữu vượt-ngoài-cảm giác này, vì những giác quan đều liên hệ
với những đối tượng cảm giác được. Và đây là nguồn gốc của sự phân rẽ sắc nét
giữa lý trí và cảm giác, vốn từ đó đã từng thống trị tất cả triết học, và đã
kích động những hiểu lầm không dứt. Những giác quan được nói là không có phần
chia trong kiến thức; chúng chỉ có thể cảm giác hay cảm nhận, và đến chỉ
những hiện tượng. Lý trí, về mặt khác, thì có khả năng để thấu hiểu cái vượt-ngoài-cảm
giác. Nó thì hoàn toàn tách biệt với phần còn lại của cấu tạo con người, đặc
biệt là Aristotle, người đã phát triển học thuyết này xa hơn nữa. Một số đối
tượng đặc biệt được giả định là được biết bởi lý trí thuần túy – những ‘noumena’, bản thể, vốn đối lập với ‘phenomena’ những hiện tượng, hay những gì
xuất hiện bên ngoài, (bản thể) làm thành đối tượng của kiến thức loại cao
nhất. [33] Nhưng, trong thực tế, không chỉ những noumena này giăng mắc bộ não như màng lưới nhện, nhưng ngay cả “lý trí
thuần túy”, vốn là để thấu hiểu chúng, thì cũng hão huyền không kém. Con người
không có lý trí như vậy, và không có ý tưởng về một lý trí như vậy, vốn có thể
nhận thức được cái phổ quát, cái trừu tượng, cái vượt-ngoài-cảm giác, những ý
tưởng với không có trung gian của cảm giác và nhận thức. Ngay cả ở nơi suy nghĩ
chúng ta mang chúng ta vượt quá những giới hạn của kinh nghiệm giác quan của
chúng ta, nơi chúng ta được dẫn đến sự phỏng đoán rằng không gian của chúng ta,
với ba chiều của nó, thời gian của chúng ta, với hiện tại tuôn chảy từ không
gì, và nhanh chóng tan biến vào không gì, đều chỉ những hình thức con người của khái niệm về
một hữu thể vô cùng toàn diện hơn – ngay cả ở đây chúng ta phải để cho chúng ta
lợi dụng sự hiểu biết thông thường, có những phạm trù, một và tất cả, đều được
kết nối không thể chia lìa được với cảm giác. Chúng ta không thể tưởng tượng
được cái một, cũng không cái nhiều, hay thực thể như đối nghịch với
những phẩm tính của nó, hay ngay cả một thuộc tính của một loại bất kỳ nào, mà
không có một trộn lẫn với cái cảm nhận được.
Cho nên, chúng ta ở đây, khắp nơi trong
sự sẵn sàng giúp đỡ của huyền thoại, và của huyền thoại có cốt lõi và ý nghĩa
bên trong của nó gồm những sự vật việc tuyệt đối hoàn toàn không biết, không
nói tới rằng một phi-tồn tại tuyệt đối. Do đó, tất cả những khái niệm Plato
này, cho đến tận thời chúng ta, chỉ là những cản trở và ánh lửa lừa dối [34] cho tư tưởng và thăm dò, cho sự nắm vững những hiện tượng bằng sự hiểu biết
và bằng phương pháp khoa học chắc chắn. Nhưng đúng khi tinh thần con người sẽ
không bao giờ là bằng lòng với thế giới của sự hiểu biết, vốn một chủ nghĩa duy
nghiệm thực sự may ra có thể đủ khả năng đem cho chúng ta, vì vậy triết học Plato
sẽ mãi còn là loại đầu tiên và được nâng lên cao nhất của một tán tụng thi ca về
tinh thần, vượt trên sự chắp vá không thỏa mãn của kiến thức, và chúng ta cũng biện
minh nhiều trong tán tụng trên những cánh bay của phỏng đoán tưởng tượng này, như
trong việc thực hành của bất kỳ một chức năng nào của những khả năng tinh thần và
cơ thể của chúng ta. Không, chúng ta sẽ gắn với nó một sự quan trọng cao vời,
khi chúng ta thấy như thế nào hoạt động tự do của tinh thần vốn liên quan với
việc theo đuổi để tìm kiếm cái Một và cái Vĩnh cửu trong sự thay đổi của những
sự vật việc trần gian, phản ứng với một ảnh hưởng sinh động và tươi mới trên
toàn bộ những thế hệ, và thường gián tiếp tạo ra một xung lực mới ngay cả với
nghiên cứu khoa học. Chỉ có thế giới, một lần cho tất cả, phải hiểu rõ rằng
chúng ta có ở đây không kiến thức, nhưng là thi ca, ngay cả dẫu thi ca này có
lẽ có thể trình bày tượng trưng cho chúng ta một phương diện thực và đúng của
bản chất thực của tất cả mọi sự vật, trong đó sự thấu hiểu ngay lập tức, hay
lĩnh hội trực tiếp, thì bị bị từ chối với lý trí của chúng ta. Socrates đã muốn
làm một chấm dứt với chủ nghĩa cá nhân tràn lan, và dọn đường cho kiến thức
khách quan. Kết quả đã là một phương pháp hoàn toàn trộn lẫn lộn giữa chủ quan
và khách quan, đã không thể nào làm được sự tiến bộ trực tiếp của kiến thức
tích cực, và đã dường như để mở ra cho suy nghĩ và suy diễn cá nhân một vòm
trời của tự do không giới hạn nhất. Nhưng tự do này, tuy nhiên, không thực sự không
giới hạn như thế. Nguyên tắc tôn giáo và đạo đức vốn từ đó Plato và Socrates
bắt đầu hướng phong trào luận đoán lý thuyết vĩ đại đến một mục tiêu xác định,
và khiến nó có khả năng để có điều kiện cho một nội dung sâu xa và một đặc tính
cao thượng của sự hoàn thiện, đầy đủ trọn vẹn, với những nỗ lực đạo đức và phấn
đấu của hàng ngàn năm, trong khi nó đã trở thành hoàn toàn pha trộn lẫn lộn với
ngoại lai và bất cứ gì, ngoại trừ những quan niệm và học thuyết Greece. Và ngay
cả ngày nay, lý thuyết về lý tưởng, vốn chúng ta đều bị buộc phải trục xuất
khỏi vương quốc của khoa học, có thể bởi đạo đức và một nội dung thẩm
mỹ của nó trở thành một nguồn của những phước lành dồi dào. ‘Hình thức’ (Gestalt),
như Schiller đã thể hiện rất rõ và mạnh mẽ sự biểu hiện mờ nhạt ‘ý tưởng’, vẫn
sống và di chuyển linh thiêng giữa những gót ở trên những chốn ngụ cao của ánh
sáng, và đến tận ngày nay, như trong Hellas cổ, có sức mạnh nâng chúng ta lên
đôi cánh của nó, bên trên những lo lắng của trần thế vốn chúng ta có thể chạy
trốn vào trong cõi của lý tưởng.
Về phần Aristotle, ở đây chúng ta sẽ
nói rất ngắn, vì chúng ta phải thảo luận về ảnh hưởng của hệ thống của ông khi
chúng ta đi đến thời trung cổ. Khi đó, chúng ta sẽ đi vào trong những khái
niệm quan trọng nhất đầy đủ hơn, vốn thời trung cổ và thời hiện đại, với nhiều
sửa đổi khác nhau, đã vay mượn từ hệ thống của ông. Ở đây đúng hơn, chúng
ta quan tâm đến bản chất tổng quát của nó và quan hệ của nó với Tư tưởng Duy ý
và tư tưởng Duy vật.
Cho đến nay, Aristotle và Plato là hai
triết gia Greece có ảnh hưởng và quan trọng nhất trong những triết gia Greece có
những tác phẩm của họ chúng ta còn nắm giữ, chúng ta dễ dàng đưa đến để giả định
một phản đề sắc bén giữa họ, như thể họ đã đại diện cho hai khuynh hướng
triết học chính – diễn dịch luận đoán tiên nghiệm và tư tưởng duy
nghiệm duy lý. Tuy nhiên, sự thật là Aristotle đã nghĩ ra một hệ thống trong phụ
thuộc chặt chẽ vào Plato, vốn mặc dù không phải là nó không có những mâu thuẫn bên
trong, kết hợp một chủ nghĩa duy nghiệm hiển nhiên với tất cả những sai lầm đó,
vốn trong những lý thuyết Socrates-Plato làm hư hỏng cơ bản sự điều tra thuần
nghiệm. [35]
Vẫn còn là một dư luận rất thịnh hành
rằng Aristotle đã là một người tìm hiều vật chất lớn. Nhưng vì chúng ta đã biết
nhiều bao nhiêu vốn đã từng thành tựu từ trước trong lĩnh vực này, [36] và như thế nào Aristotle đã không ngại ngần dành chiếm những nhận xét của
những người khác, và tất cả những loại thông tin kiến thức, mà không nhắc nhở về
căn cứ tài liệu của ông; hơn nữa, có bao nhiêu những phát biểu của ông mang một
ấn tượng là những quan sát của riêng ông vốn không thể quan sát được, vì chúng
đều hoàn toàn sai; [37] sự phê bình về dư luận này đã là hứng thú, mặc dù trước sau nó
đã hiếm khi làm được việc. Nhưng điều mà trong bất kỳ trường hợp nào vẫn phải
dành cho Aristotle là sự khen ngợi, được Hegel ban cho ông, vì việc đặt sự giàu
có và chi tiết của vũ trụ thực sự phụ thuộc với Ý niệm. Tuy nhiên dù lớn hay nhỏ đến đâu có thể từng là công trình
độc lập của ông trong những ngành khoa học đặc biệt, yếu tố quan trọng nhất
trong toàn bộ hoạt động của ông vẫn sẽ là sự tập hợp của vấn đề của tất cả
những khoa học hiện có xung quanh những điểm luận đoán của quan điểm, và do đó,
một hoạt động vốn trong nguyên tắc trùng khớp với hoạt động của những người xây
dựng những hệ thống thời nay, và trên hết là của Hegel.
Democritus cũng nắm vững toàn bộ mở
rộng của khoa học trong thời của ông, và rằng có lẽ với độc lập và kỹ lưỡng lớn
hơn so với trường hợp của Aristotle; nhưng chúng ta không có dấu vết gì về việc
ông đã mang tất cả những khoa học này về dưới ách quản trị của hệ thống của ông.
Với Aristotle, sự thực hiện của sự suy diễn cơ bản là mục tiêu chính. Cái Một
và cái vĩnh cửu, vốn Plato đã tìm kiếm bên ngoài những sự vật việc, Aristotle
muốn tìm thấy trong cái nhiều và cái đa dạng của chính những sự vật việc. Khi
ông làm vũ trụ bên ngoài thành một khối cầu kín, với trái đất nằm ở
trung tâm, khiến thế giới của khoa học thì thâm nhập khắp nơi bởi cùng một
phương pháp, cùng một cách thức của khái niệm hóa và hình dung hóa, hay tiêu
biểu hóa, và mọi sự vật việc kết tập quanh chủ đề hiểu biết, có những ý tưởng ,
với một sự lãng quên ngây thơ về tất cả những giới hạn của kiến thức,
được xem như là những đối tượng thực và sau cùng của sự thấu hiểu.
Bacon đã tiến tới khẳng định rằng sự
phối hợp của kiến thức vào trong một hệ thống đã là một chướng ngại cho sự
tiến bộ xa hơn. Quan điểm này Aristotle đã hiếm có thể phản đối, vì ông đã chủ
trương công việc của khoa học như một toàn bộ để làm hết sạch, và không bao giờ,
dù chỉ một giây phút, nghi ngờ rằng ông đã trong một vị trí để cung ứng một trả
lời thỏa đáng cho tất cả những câu hỏi thiết yếu thực sự. Như trong lĩnh vực của
đạo đức và chính trị, ông đã tự giới hạn trong những loại được trưng bày trong
thế giới Hellas, và có rất ít ý thức về những thay đổi lớn đang diễn ra dưới
mắt ông, vì vậy ông chịu khó chút ít với đám đông của những sự kiện và những quan
sát mới, vốn đã được làm tiếp cận với con người khoa học qua những viễn chinh của
Alexander. Rằng ông đã đi cùng Alexander để thỏa mãn mong muốn hiểu biết của ông,
hay rằng thực vật và động vật, từ những vùng khí hậu xa xôi, đã được gửi về ông
để xét nghiệm, chỉ đơn giản thuấn là truyền thuyết. Aristotle đã giới hạn bản
thân trong hệ thống của ông với kiến thức của thời ông sống, và đã tin chắc
rằng đây là tất cả những gì thực sự quan trọng, và là đã đủ để giải quyết tất
cả những vấn đề chính. [38] Đây đã là chính sự hạn chế của những quan điểm của ông, và sự chắc chắn
với nó mà ông đã di chuyển trong vòng tròn hạn hẹp của vũ trụ của ông, vốn những
giáo sư triết học Trung cổ đã tuyên dương Aristotle quá lỗi lạc như thế, trong
khi những thời nay, với khuynh hướng của chúng về tiến bộ và cách mạng, đã
không có nhiệm vụ nào quan trọng hơn là đập vụn những gông cùm của hệ thống
này.
Bảo thủ hơn Plato và Socrates, Aristotle
tự gắn buộc ở khắp nơi với truyền thống, với ý kiến phổ biến, với những khái
niệm đã chứa đựng trong ngôn ngữ; và những tiến bộ đạo đức của ông được giữ
càng gần càng tốt với những phong tục và luật lệ thông thường của những cộng
đồng người Greece. Do đó, ông luôn đã là triết gia ưa thích của những
trường phái và những khuynh hướng bảo thủ.
Sự thống nhất của lý thuyết về những sự
vật việc của ông, Aristotle bảo đảm bời thuyết nhân hóa khinh xuất nhất. Thuyết
cứu cánh mục nát vốn biện luận từ con người, và mục đích của hắn là một trong
những yếu tố thiết yếu nhất của hệ thống của ông. Như trong sản xuất và
hoạt động con người, lấy thí dụ trong việc xây dựng một ngôi nhà hay một con
tàu, ý tưởng về toàn bộ (hay tổng thể) thì luôn luôn là điều đầu tiên có mặt
như là kết thúc của hoạt động, và vì ý tưởng này, bằng sự thực hiện nó ra
trong những phần, khi đó tự thể hiện trong vật chất, tự nhiên phải được giả
định là tiến hành theo cùng một đường, vì trong quan điểm của ông, chuỗi liên
tục này của kết thúc và sự vật, của hình thức và vật chất, là điển hình của tất
cả những gì vốn là-có. Sau con người với những mục đích của hắn, thế giới của
những tổ chức sinh vật được thiết lập. Những sự vật này phục vụ con người không
chỉ để cho thấy tiềm năng thực sự của cây bắp trong hạt-bắp, không chỉ như
những mẫu loại cho sự phân loại theo những loài và những chi,[39] như những thí dụ mẫu của nguyên lý của thuyết cứu cánh, và v.v., nhưng
đặc biệt, bằng sự so sánh những tổ chức sinh vật thấp hơn và cao hơn, để thiết
lập quan điểm rằng mọi sự vật việc trong vũ trụ đều có khả năng được sắp xếp
theo thứ bậc, và theo như những ý niệm về giá trị – một nguyên lý mà Aristotle
không thất bại trong việc đi tới áp dụng cho những liên hệ trừu tượng nhất, như
trên và dưới, phải và trái, v.v. Và rõ ràng ông tin rằng tất cả những liên hệ
về thứ bậc này không chỉ tồn tại trong phương pháp của con người để tìm kiếm hiểu
biết, nhưng được đặt nền trên bản chất của những sự vật. Vì vậy, ở khắp nơi, cái
phổ quát được giải thích bằng phương tiện của cái cụ thể đặc thù, dễ dàng bằng
khó khăn, đơn giản bằng hợp chất, thấp bằng cao hơn. Và đây, đó là trong đo lường
cân nhắc lớn lao, đã bảo đảm sự phổ thông của hệ thống Aristotle; với con
người, đối với người đó, dĩ nhiên không có gì quen thuộc hơn những hoàn cảnh
chủ quan của suy nghĩ và hành động của người ấy, thì luôn có khuynh hướng để
nhìn như rõ ràng và đơn giản những quan hệ nhân quả của chúng với thế giới của
những đối tượng, vì người ấy bối rối lẫn lộn sự tiếp tục tiến diễn rõ ràng
trong thời gian của bên trong và bên ngoài với quyền năng động lực bí ẩn của
những nguyên nhân hiệu quả. Thế nên, lấy thí dụ, Socrates có thể nhìn như một
vấn đề rất đơn giản, “suy nghĩ và tuyển chọn” vốn qua đó những hành động của
con người xảy ra theo như ý niệm về sự kết thúc; kết quả của một sự nhất quyết dường
như đã không kém đơn giản, và những hoàn cảnh đã xảy ra trước trong những bắp thịt
và thần kinh trở thành chỉ đơn thuần là những biến cố dửng dưng, không dính
dáng. Mọi sự vật việc trong tự nhiên dường như hé lộ bí ẩn về một tính chất được
thiết kế nhất định nào đó, và do đó chúng cũng phải nổi lên bởi tiến trình tự
nhiên như thế của suy nghĩ và tuyển chọn. Do đó, một Tạo Hóa được cấu thành như
con người thì được giả định; và vì ông khôn ngoan vô hạn, toàn bộ cách thức của
việc nhìn vào những sự vật việc thì nằm trên một nền tảng vững chặt của sự lạc
quan.
Aristotle, dĩ nhiên, đã tạo một bước tiến
lớn trong phương pháp, trong đó ông hình tượng cứu cánh như có tác động trong những
sự vật việc. (Comp. Chú thích 40.) Khi con người đã đi đến suy ngẫm kỹ hơn về đường
lối và phương cách trong đó cứu cánh được thể hiện, rằng thuyết nhân hóa ngây
thơ nhất vốn làm Tạo hóa hoạt động với những tay người đã thôi không được vui
vẻ đón nhận nữa. Một quan điểm duy lý về những sự vật việc, vốn đã xem những ý
tưởng tôn giáo phổ biến như sự trình bày tượng hình của những sự kiện siêu
nhiên, dĩ nhiên, có thể không tạo ngoại lệ trong trường hợp của thuyết cứu cánh;
và ở đây cũng vậy, như ở mọi nơi, Aristotle đã nỗ lực, theo cách thức của ông,
để đạt đến sự rõ ràng hoàn toàn, ông nhất thiết đã phải được chính thuyết cứu
cánh dẫn dắt, và bằng sự cân nhắc suy nghĩ kỹ lưỡng về thế giới hữu cơ, đến một
thuyết Tin-gót-là-khắp-cả, vốn làm tư tưởng thần thánh khắp mọi nơi thấm ngập
vào vật chất, và thể hiện chính nó, và trở thành nội tại trong sự tăng trưởng
và trở thành của tất cả những sự vật việc. [40] Bên cạnh của cái nhìn này, vốn có khả năng, với rất ít sửa đổi, của để được
phát triển vào thành thuyết Duy nhiên
[41] hoàn chỉnh, trong Aristotle có một ý tưởng siêu việt về Gót, vốn về lý
thuyết dựa trên suy tưởng đích thực của Aristote rằng tất cả chuyển động sau
cùng phải tiến hành từ một một gì đó tự nó không-chuyển động. [42]
Những dấu vết của tư tưởng duy nghiệm trong
Aristotle là để tìm thấy được phần trong những diễn tả biệt lập, trong đó quan
trọng nhất là những diễn tả đòi chúng ta tôn trọng những sự kiện, nhưng cũng có
phần trong học thuyết về bản thể (οὐσία) của ông [43], dĩ nhiên, vốn làm chúng ta bực bội bởi sự mâu thuẫn không thể hòa
giải. Aristotle, trong điểm này khác biệt cơ bản với Plato, gọi, theo ý hướng
nghiêm ngặt và chính xác, những hiện hữu cá thể riêng lẻ và những sự vật việc
thực thể. Trong chúng, hình thức, phần yếu tính, thì thống nhất với vật chất;
toàn bộ là một hiện hữu thực, cụ thể và hoàn toàn. Không, Aristotle đôi khi nói
như thể hiện thực toàn diện thì một mình chính đáng thuộc về những sự vật
việc cụ thể. Đây là quan điểm của những người theo tư tưởng Duy danh thời trung
cổ, những người, tuy nhiên, thực sự là vậy, đã không có ý kiến của Aristotle hoàn
toàn về phía họ; vì Aristotle làm hỏng mọi sự vật việc một lần nữa bằng sự nhìn
nhận một loại bản thể thứ hai, đặc biệt là trong những khái niệm về loài,
nhưng một cách tổng quát, cũng trong những phổ quát. Không chỉ cây táo này
ở đây, trước cửa sổ của tôi, là một hiện thực, nhưng khái niệm về loại cũng chỉ
về một thực tại tương tự; chỉ có điều là yếu tính phổ quát của cây táo không cư
ngụ trong vùng đất mơ hồ của những ý tưởng [44], từ đó nó tỏa chiếu tỏa một tác dụng vào những sự vật việc của thế giới
hiện tượng, nhưng yếu tính phổ quát của cây táo có sự tồn tại của nó trong
những cây táo riêng lẻ. [45]
Có ở đây, thực sự, cho đến chừng nào
chúng ta tự giới hạn với những tổ chức sinh vật và chỉ so sánh những loài và cá
thể, một xuất hiện bên ngoài lừa dối vốn đã làm lóa mắt rồi nhiều những người thời
nay. Chúng ta hãy cố gắng để chỉ ra chính xác điểm mà ở đó tách biệt sự
thật và sai lầm.
Chúng ta hãy bắt đầu bằng việc đặt
bản thân chúng ta ở lập trường Duy danh, vốn thì rõ ràng hoàn toàn. Chỉ có
những cây táo riêng lẻ, những con sư tử đơn lẻ, những con bọ cánh cứng riêng
lẻ, v.v. và bên cạnh những tên gọi này, qua chúng, chúng ta nối buộc tổng số của
những đối tượng đang hiện hữu, ở đó sự tương đồng hay giống nhau nối buộc chúng
lại với nhau. Cái “phổ quát” thì không gì nhưng chỉ tên gọi. Tuy nhiên, không là
điều khó khăn để đem cho cách nhìn này với những sự vật việc một dạng ngoài xuất
hiện của sự nông cạn giả tạo, bằng cách chỉ ra rằng ở đây chúng ta đối ứng
không về những giống nhau thất thường tình cờ, tùy thuộc vào nhận thức tình cờ của
chủ thể, nhưng rằng bản chất khách quan đem cho những nhóm phân biệt hiển nhiên
nào đó, bởi sự tương đồng thực sự của chúng, vốn buộc chúng ta với khái niệm phổ
thông về chúng. Những cá thể không giống nhau nhất giữa những con sư tử hay bọ cánh
cứng, thế nhưng đều gần với lẫn nhau nhiều hơn khi so con sư tử với con hổ, hay
con bọ hung với bọ cánh cứng. Quan sát này thì chắc chắn đúng không phải nghi
ngờ. Tuy thế, một xem xét ngắn gọn về lực của nó sẽ cho chúng ta thấy rằng dây nối
buộc thực, vốn chúng ta sẽ nhìn nhận, với không thảo luận dông dài vì ở đây quá,
trong trường hợp nào đi nữa thì một gì đó khá khác biệt với loại phổ quát của loài vốn chúng ta, trong quá tưởng tượng
của chúng ta, liên kết với tên gọi cây táo.
Sau đó, chúng ta có thể từ điểm này, tiếp
tục xa hơn việc thảo luận siêu hình về sự quan hệ của cá thể với phổ quát, của một với nhiều. Giả định rằng chúng ta đã biết một công thức của sự kết hợp của
vật chất, hay của trạng thái của sự vật trong một tế bào mầm, qua nó có thể xác định liệu mầm sẽ tự phát triển thành
dạng của một cây táo hay một cây lê; sau đó có thể phỏng đoán rằng mọi tế bào
mầm riêng lẻ, ngoài những điều kiện của công thức này, cũng còn có những biến
thể và đặc thù riêng của nó, và thực sự là ở dưới đáy trong mọi trường hợp, lúc
đầu, kết quả của cái phổ quát và cái cụ thể, hay đúng hơn là sư kiện cụ thể,
trong đó không có sự phân biệt dù bất cứ gì của cái phổ quát và cái cụ thể.
Công thức hoàn toàn nằm trong não thức của chúng ta.
Chúng ta dễ dàng thấy rằng ở đây một
lần nữa có thể làm được những phản đối thực tế; nhưng không nhất thiết phải đi theo
chuỗi suy luận này thêm xa nữa ngõ hầu để hiểu sự sai lầm của học thuyết về phổ
quát của Aristote. Sai lầm này nằm lùi xa trở lại trước hơn nhiều; vì Aristotle
giữ lấy từ ngữ gần bên cạnh. Ông không tìm kiếm gì không biết được đằng sau yếu
tính phổ quát của cây táo. Điều này đúng hơn biết được đầy đủ. Từ ngữ chỉ định trực
tiếp một thực tại, và điều này đi xa đến mức Aristotle, trong sự chuyển nhượng
của gì vốn được tìm thấy trong cấu trúc sinh vật sang những đối tượng khác,
trong trường hợp của một cái rìu phân biệt tính cá thể của cái rìu cụ thể
đặc thù này với ‘tính rìu’ của nó. ‘Tính rìu’ và vật chất, kim
loại, được ghép lại với nhau, tạo ra cái rìu và không một mẩu kim loại nào có
thể trở thành một cái rìu cho đến khi nó bị chiếm giữ và sở hữu bởi thể dạng
tương ứng với cái phổ quát. Khuynh hướng suy luận sự hiện hữu này ngay lập tức
từ tên gọi là sai lầm cơ bản của lý thuyết Aristote về những khái niệm, và dẫn
đến, trong những hệ quả lôgích của nó, rất ít khi Aristotle tự bận tâm với
những sự việc này, tới cùng một sự tán dương, đề cao của cái phổ quát chúng ta
thấy trong Plato. Vì nếu nó một khi đã nhìn nhận rằng bản chất của cá thể nằm
trong loài, phần yếu tính nhất của loài phải lại nằm trên một lớp cao hơn, hay
nói cách khác, nền tảng của loài phải
nằm trong chi, và vân vân…
Thực ra, khi đó, ảnh hưởng hoàn toàn triệt
để này của những phương thức của tư tưởng theo Plato thì cho thấy rõ ràng trong
phương pháp của điều tra, thường được Aristotle dùng. Vì chúng ta nhanh chóng
khám phá rằng sự tiến hành của ông từ những sự kiện, và sự gắn kết quy nạp của
ông từ những sự kiện đến những nguyên lý, đã vẫn còn chỉ đơn thuần là một lý
thuyết, bất cứ chỗ nào khác, hiếm thấy được chính Aristotle thực hành. Nhiều
nhất, những gì ông làm là bổ sung một vài sự kiện biệt lập, và ngay lập tức nảy
sinh từ những sự kiện này đến những nguyên lý phổ quát nhất, với chúng từ lúc
đó trở đi, ông tuân thủ một cách giáo điều trong sự giải quyết diễn dịch thuần
túy [46] . Như thế Aristotle minh chứng từ những nguyên lý phổ quát rằng bên
ngoài vòm-thế giới bao trùm của chúng ta không gì có thể hiện hữu; và trong
cùng cách thức tương tự, ông đi đến học thuyết hủy hoại của ông về sự chuyển
động ‘tự nhiên’ của những cơ thể trong sự đối lập với chuyển động ‘bắt tuân
theo’, đến sự khẳng định rằng bên trái của cơ thể lạnh hơn bên phải, với học
thuyết về sự biến đổi của một loại vật chất thành một loại vật chất khác, tới
sự không thể có của chuyển động trong không gian trống, tới sự phân biệt tuyệt
đối giữa lạnh và ấm, nhẹ và nặng, và v.v..như vậy. Vì vậy, một lần nữa, ông
chứng minh tiên nghiệm có thể có bao
nhiêu loài động vật, cho thấy rõ từ những nguyên lý phổ quát tại sao loài động
vật phải được ban cho thành viên này hay kia, và nhiều những mênh đề khác, sau
đó được dùng lần lượt, với sự nhất quán lôgích nhất, và vốn trong toàn bộ đem
lại của chúng làm cho điều tra thành công hoàn toàn không thể có được. Khoa học
mà triết học theo Plato và Aristotle tự nó thích nghi một cách tự nhiên tốt
nhất là toán học, trong đó nguyên lý diễn dịch đã đạt được những kết quả tuyệt
vời như vậy. Aristotle, do đó, xem toán học như loại mẫu của tất cả những ngành
khoa học, ông chỉ ngăn cản nếu đem dùng nó trong những nghiên cứu tự nhiên bằng
cách ở khắp mọi nơi nhắc dẫn lượng tính trở về phẩm tính; và như thế chấp nhận đúng
một tiến trình trái ngược với tiến trình đã lôi cuốn khoa học vật lý hiện đại.
Kết nối chặt chẽ với diễn dịch là giải
quyết biện chứng của những điểm mâu thuẫn. Aristotle thì ưa chuộng một khai
triển giải thích có tính phê phán-lịch sử về quan điểm của những người đi trước
ông. Chúng đối với ông là những đại diện của tất cả những ý kiến có thể có, vốn
cuối cùng ông chống đối chúng với quan điểm cụ thể của riêng ông. Thỏa thuận
phổ quát là một bằng chứng trọn vẹn; sự bác bỏ tất cả những quan điểm khác mang
lại một vẻ tất yếu cho là một quan điểm còn lại. Plato đã phân biệt kiến thức
với ý kiến đúng bằng khả năng của ông, người đã có trả lời sẵn sàng cho tất
cả những phản đối có thể có, và có thể duy trì thành công quan điểm của chính ông
trong sự tranh đấu của những ý kiến. Aristotle bản thân giới thiệu những đối
thủ, làm họ giải thích cặn kẽ những ý kiến của họ – thường không đủ chính xác
– tranh luận với họ trên giấy tờ, và sau đó ngồi như quan tòa trong nguyên nhân
của riêng ông. Vì vậy, chiến thắng trong thảo luận chiếm chỗ của bằng
chứng, tranh đua của những ý kiến là chỗ của phân tích, và toàn bộ vẫn là một
sự giải quyết thuần túy chủ quan, trong đó không khoa học thực sự nào có thể
được phát triển.
Nếu bây giờ chúng ta hỏi làm thế nào một
hệ thống như thế có thể chứng tỏ là một rào cản cho hàng trăm năm, không chỉ
với tư tưởng Duy vật, mà còn với mọi khuynh hướng thực nghiệm, và làm thế nào có
thể được rằng ‘lý thuyết của Aristotle về thế giới hữu cơ’ thì cho đến ngày nay
vẫn được một trường phái triết học có ảnh hưởng duy trì bởi để trở thành cơ sở có
tính tiên đề không gì lay chuyển được của tất cả những triết lý chân thực,
trước tiên, chúng ta phải đừng quên rằng sự suy diễn thì trong ưa thích tổng
quát của việc bắt đầu từ những khái niệm ngây thơ của đứa trẻ và người đốt than
[47], và vì vậy kết nối với nhau trong vòm cầu của tư tưởng con người cao
nhất và thấp nhất, bất chấp trung bình tương đối. Chúng ta đã thấy tư tưởng Duy
vật thì có khả năng nhất quán như thế nào, vì không có hệ thống nào khác có
thể, để mang trật tự và quan hệ vào trong thế giới được cảm nhận, và từ đó, nó có
quyền như thế nào, từ điểm khởi đầu này, để xem ngay cả con người, với tất cả
những hoạt động khác nhau của hắn, như một trường hợp đặc biệt của những quy
luật phổ quát của tự nhiên; và thế nhưng, như thế nào giữa con người với tư
cách là một đối tượng của nghiên cứu thực nghiệm, và con người như người ấy thì
trong tự hiểu biết trực tiếp của chủ thể, có một hố sâu cố định và vĩnh cửu. Và
do đó, nỗ lực từng được lập đi lập lại để xem, bằng cách bắt đầu từ tự-ý thức, liệu
chúng ta có thể đạt được một triết lý thỏa mãn hơn; và mạnh mẽ như thế là
khuynh hướng bí mật của con người trong hướng này, rằng nỗ lực này sẽ gấp hàng
trăm lần được xem như thành công, bất chấp sự thất bại được nhìn nhận của tất
cả những nỗ lực trước đó.
Nó thực sự sẽ là một bước quan trọng
nhất trong tiến bộ triết học, nếu những nỗ lực này đều cuối cùng bị buông bỏ;
nhưng điều đó sẽ không bao giờ là trường hợp xảy ra, trừ khi sự khao khát của lý
trí của con người cho sự thống nhất nhận được sự thỏa mãn trong một vài cách
nào khác. Chúng ta được tạo dựng không chỉ đơn thuần để hiểu biết, mà còn để
tưởng tượng, và tạo dựng; và mặc dù ít nhiều không tin tưởng vào tính hợp lô
gích chắc chắn rõ ràng của những gì sự hiểu biết và những giác quan mang lại
cho chúng ta, thế nhưng loài người sẽ mãi mãi chào đón với vui mừng con người
là người, bằng sức lực của thiên tài, và bằng cách dùng tất cả những xung lực
xây dựng của thời đại của người này, hiểu được cách nào để tạo ra sự thống nhất
đó trong thế giới và trong đời sống tư tưởng của chúng ta vốn bị từ chối với
kiến thức của chúng ta. Sự sáng tạo này, thực sự, sẽ chỉ là biểu hiện của sự
khao khát của thời đại đuổi theo sự thống nhất và sự toàn hảo; nhưng ngay cả
điều này không là chuyện nhỏ, bởi với việc duy trì và nuôi dưỡng đời sống tư
tưởng của chúng ta thì cũng quan trọng như chính khoa học, mặc dù không lâu dài
như điều này: vì sự điều tra về những chi tiết của kiến thức tích cực, và của
những liên hệ vốn là những đối tượng độc quyền của kiến thức của chúng ta, là
tuyệt đối, do phương pháp của nó, trong khi sự thấu hiểu phỏng đoán chỉ có thể quyết
đoán một sự quan trọng tương đối như sự diễn đạt của những quan điểm của một
thời đại.
Mặc dù, sau đó, chúng ta phải từng nhìn
hệ thống Aristote như một thế lực không thân thiện đối nghịch trong nội dung của
sự phân biệt rõ ràng của những lĩnh vực lớn rộng này – mặc dù nó thì thuộc loại
có tiếng tăm của một phương pháp lầm lạc hư hỏng, đứng làm thí dụ to lớn cho
tất cả những gì cần phải tránh, trong đó sự trộn lẫn và nhầm lẫn của nó giữa sự
phỏng đoán và điều tra, và trong những làm ra vẻ của nó không đơn thuần chỉ để
hiểu nhưng để chi phối kiến thức tích cực – thế nhưng, về mặt khác, chúng ta
phải nhìn nhận rằng hệ thống này là thí dụ hoàn toàn nhất như đã có thể gắng có
được của việc thành lập thực sự của một lý thuyết về vũ trụ trong lịch sử, vốn hình
thành một tổng thể thống nhất và tự bao gồm. Do đó, nếu đó là bổn phân của tôi để
làm giảm bớt danh tiếng của Aristotle như một nhà điều tra, thế nhưng, dù sao
đi nữa, phương cách mà ông hợp nhất trong chính ông, và đã thu thập vào trong một
hệ thống hài hòa, toàn bộ tống số thành của học hỏi của thời của ông, vẫn còn
một thành tựu trí thức khổng lồ, và, bên cạnh sự khư khư giữ lấy sai lầm vốn
chúng ta đã buộc phải chỉ ra, chúng ta tìm thấy trong mọi bộ phận, công trình
dồi dào của sự sắc bén sâu xa thấu xuốt. Thêm vào đó, như là người sáng lập của
lôgích học, Aristotle xứng đáng một vị trí của danh dự cao trong triết học, và
nếu sự hợp nhất hoàn toàn lôgích với siêu hình học của ông, được đón nhận một
cách trừu tượng, làm giảm giá trị của khoa học này, thế nhưng chính sự kết hợp
này đã tạo ra sức mạnh và sự quyến rũ cho hệ thống. Trong một tòa nhà được xây
dựng rất vững chắc, tinh thần có thể nghỉ ngơi, và tìm thấy sự chống đỡ của nó
trong thời gian xối xả mãnh liệt và sôi nóng, khi những tàn tích của những văn hóa
cổ, với những ý tưởng mê hoặc vô cùng thú vị của một tôn giáo mới, đã phấn
khích trong não thức phương Tây, một sôi nổi quá lớn và quá rắc rối khó khăn,
và một gắng sức đầy bão bùng theo sau những hình thức mới. Đã hài lòng thế nào
những tổ tiên của chúng ta trên trái đất của họ, nghỉ ngơi trong phạm vi giới
hạn của vòm trời xoay tròn vĩnh cửu, và sự kích động gì đã bị kích thích bởi luồng
không khí mãnh liệt vốn bùng phát từ vô cùng khi Copernicus xé bức màn này
thành từng mảnh!
Nhưng chúng ta đang quên rằng chúng ta vẫn còn chưa minh họa sư quan trọng của
hệ thống Aristote trong thời trung cổ. Ở Greece, nó chỉ là dần dần chiếm
được ưu thế so với tất cả những hệ thống khác, khi, sau sự kết thúc của thời kỳ
cổ điển trước Aristotle, sự nở rộ của hoạt động khoa học đã bắt đầu sau ông,
cũng đã suy tàn, và tinh thần chao động nhận đươc ở đây cũng ở chỗ dựa mạnh
nhất xem dường được cung cấp. Trong một thời gian, ngôi sao của trường
Peripatetic [48] đã tỏa sáng đủ mạnh bên cạnh những ngôi sao khác, nhưng ảnh hưởng của Aristotle
và học thuyết của ông đã không thể ngăn chặn được sự xâm lăng của những quan
điểm duy vật với sức mạnh phấn khởi sau ông không lâu, cũng thực sự không ngăn
cản những quan điểm này khỏi việc tìm kiếm những điểm của sự kết nối ngay cả
trong hệ thống đặc biệt của riêng ông.
Lê Dọn Bàn
tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Feb/2019)
[1] [Học thuyết này đã được giải
thích, lập lại nhiều lần, và dài dòng trong Timaeus
của Plato; gồm, thí dụ. những đoạn tr. 48 A, 56 C, và 68 E. Khắp ở đây, có hai
loại nguyên nhân được diễn tả dứt khoát rõ ràng — Gót/thần thánh và trên lý
trí, đó là, nhìn theo cứu cánh; và nhuyên nhân Tự nhiên: và không có bất cứ gì
được đưa ra, như giải thích về sự trùng hợp của chúng. Lý trí cao thì cao hơn tất
yếu, nhưng không cai trị vô điều kiện, nhưng chỉ đến một mức độ nhất định, và
ngay cả chỉ đến bằng thuyết phục.]
[2] Adaptation: sự thích nghi (với môi trường/hoàn cảnh để sống còn) –
khái niệm chính yếu trong thuyết tiến hóa Darwin
[3]
[Tính nhân hóa – qua sự thể hiện hay đối xử với vật, gót, đồ vật như thể chúng
là ‘người’ với hình dang, tính cách, hay hành vi của con người - của thuyết cứu
cánh này, cũng như sự nhiệt thành phản-duy vật, mà nó được khắc sâu và bảo vệ,
được thấy rõ ràng nhiều nhất từ đoạn trong Phaedo
đề cập thêm trong bản văn bản (tr. 97 C-99 D Steph,), trong đó Socrates phàn
nàn rất gay gắt về Anaxagoras, người đã không dùng bất cứ gì trong vũ trụ học của
ông về ‘lý trí’ rất hứa hẹn này, nhưng đã giải thích mọi sự vật việc bằng những
nguyên nhân vật chất thuần túy.]
Tưởng cũng nhắc thêm gót được nhân hóa, nói ở đây trong triết học Hellas, là những gót điển hình
thấy trong Hesiod và Homer (vẫn còn lành, chưa đi đến ác độc, thù hận, … ‘nhân vật cực kỳ khó chịu, gây tai giáng họa, tạo
bất hạnh, ứng xử không thân thiện, bất cần, và thô lỗ nhất trong tất cả mọi
truyện giả tưởng ....’ …như gót trong Cựu Ước)
[4] [Đặc biệt về gốc của thuyết cứu
cánh. Quả thực là ngay cả trong thuyết cứu cánh của Plato, vốn không nhân hóa
thô thiển như trong Socrate, và như trong Aristotle, lại nữa, chúng ta tìm thấy
một tiến bộ quyết định; nhưng cá tính đạo đức và sự bất nhất với sự tìm hiểu thể
dạng chân thực, đều có chung trong cả ba đoạn đường của họ. Trong Socrates tất
cả mọi sự vật việc như đã từng được tạo ra cho những mục đích của con người.
Plato nhìn nhận rằng sự vật việc đều có những cứu cánh của riêng chúng, và
thích ứng của chúng thì nhiều phần là ở bên trong; trong khi trong Aristotle cứu
cánh hoàn toàn trùng nhập với ý niệm cứu cánh của sự vật việc. Nhưng ngay cả thế,
chúng ta đã đem vào một sức mạnh của việc thể hiện bản thân chúng vào trong tất
cả mọi sự vật việc tự nhiên, vốn là tuyệt đối không thể nào tưởng tượng được
như một hiện tượng tự nhiên, và chỉ có gốc của nó trong ý thực thực tiễn của sự
hình thành và sự uốn nắn theo hình dạng con người. Tuy nhiên, có nhiều những ý
tưởngđạo đức khác vốn Aristotle đã mang vào trong sự nghiên cứu về thiên nhiên,
với tổn thương tột bực cho sự nghiên cứu: do đó, trên hết, thứ tự của công trạng
hay giá trị của tất cả mọi sự vật việc trong tự nhiên, và trong thực tế, những
quan hệ trừu tượng của ‘bên trên’ và ‘bên dưới,’ bên phải’ và ‘ bên trái’ , bên
cạnh chuyển động ‘tự nhiên’ và ‘quá đáng’, và v.v..]
[5] Common weal
[6] Prodicus người thành Ceos (hay Prodikos of Keos): một
sôphít Greek, sống khoảng thế kỷ 5 TCN. Không gì từ ông còn được giữ lại.
[7] Gorgias
người thành Leontini (khoảng 483 - 376 TCN) đồng thời, tuy hơi ít tuổi hơn, với
Protagoras; Ông sinh quán ở thành Leontini, vùng Sicily, Nam Italy (khi đó là
thuộc địa của Greece) và theo kể lại, đã theo học với Empedocles (đến từ
Agrigentum, Nam Italy) – một liên hệ giữa hai nhà tư tưởng này đã xem là được
xác nhận trong đàm thoại của Plato.
Trên
hết, Gorgias nổi tiếng là một nhà hùng biện, ông là một diễn giả tài năng lôi
cuốn công chúng, và cũng là một nhà văn xuôi¸ đặc biệt với văn phong khoa
trương và hoa mỹ; chuyến đi thăm của ông đến Athens vào năm 427 TCN, thường được
xem là một bước ngoặt trong lịch sử hùng biện của Greece. Nhưng Gorgias cũng có
những giải quyết hoặc gián tiếp hoặc trực tiếp với những câu hỏi trong triết học,
đặc biệt là sức mạnh của ngôn ngữ và trách nhiệm của con người. Hai bản tóm tắt
khá chi tiết còn giữ được của ông về một tác phẩm có tựa đề: Về Không-Là-Có hay Về Thiên Nhiên (On Nonbeing hay On Nature),
rõ ràng là nhằm đảo ngược lập luận của Parmenides về là-có: không gì thì là-có, nếu có một gì đó thực sự là-có thì không
thể biết được về nó, và nếu một người nào đó biết nó thì kiến thức này không thể
truyền đạt được cho người khác. Ông cũng được biết là đã viết về những hiện tượng
tự nhiên. Hình ảnh Gorgias, chúng ta vẫn có như một sôphít, thực sự đã không
tránh khỏi ảnh hưởng sâu đậm của Plato, vốn đã vẽ ông với nhiều thiên kiến
trong một đàm thoại nổi tiếng. Thế nên, rất khó khăn để chúng ta có thể thẩm định
mức độ - không phải đáng tin – nhưng đáng ngờ đến đâu - của hình ảnh này.
[8] [We do not refer to the
insufficiently authenticated stories of Zopyros and the like, according to
which Sokrates, at all events in his youth, was choleric and licentious (comp
Zeller, ii. 2 Aufl. 54, where, indeed, the stories of Aristoxenus are too
unconditionally rejected), but we hold to his character as it is presented to
us in Xenophon and Plato, and especially to the well-known description in the
Symposion. We do not therefore assert that Sokrates at any period of his life
did not control his passionate disposition, but merely that this fierce natural
foundation, which was converted into the enthusiasm of the apostle of morality,
must have assigned to it its due importance.]
[9]
[Comp. the eulogy of Alkibiades in the Platonic Symposion, especially 215 D, E]
[10] [This
is most clearly shown, as far as Sokrates is concerned, in his discussion with
Aristodemos (Xen. Memor., i. 4), detailed at length in Lewes, Hist. Phil., i.
168-173.]
[11] [Mention
has already been made, of the ‘Theokrasy’ (the mingling and fusion into one of
different gods and worships) of the Delphic priesthood in Note 2 above. The
place of Apollo in the Sokratic spiritual movement has been recently pointed
out very curiously and markedly by Nietzsche, Die Geburt der Tragodie aus dem Geiste der Musik: Leipzig, 1872.
How this tendency, in connection with the Platonic theories, for centuries
continued an exuberant growth, until, at last, although too late for a
regeneration of Paganism it burst into full activity, we may learn, in
particular, from the half philosophical, half mystical cult of ‘King Helios,’
which the Emperor Julian would have opposed to Chris tianity. Comp. Baur,
Gesch. d. Christl. Kirche, ii. (2 Ausg.) S. 23 ff.; Teuffel, Studien und
Charakteristiken: Leipzig, 1871, S. 190.]
[12] [Sokrates
was Epistates of the Prytanes, and had in that capacity to put the question to
the vote, on the day when the excited populace wished to condemn the generals
who had neglected to pick up the dead after the battle of Arginusae. The
proposal was not only unjust in itself, but it had a defect of form, and
therefore Sokrates, at the risk of his own life, steadily refused to put it to
the vote. The Thirty Tyrants ordered him and four others to bring Leon back to
Athens from Salamis; the other four obeyed, but Sokrates quietly went back
home, although he knew that it was at the peril of his life.]
[13] [Lewes, Hist, of Phil., i. 81
foil., gives this passage of the Phaedo
(comp. Note 39) at length. He rightly thinks it to be genuinely Sokratic and
shows how Anaxagoras was mis understood by Sokrates.]
[14] Nghĩa là có thể giảng giải để thấu
hiểu được, đạo đức là một kiến thức, không là hay chỉ một ‘niềm tin’, nên đạo đức
có thể giảng dạy như một môn học (đạo đức học) không phải qua ‘trao truyền’, và
kiến thức đạo đức là đức hạnh. Nói khác đi, người ta sống đạo đức qua học tập,
không phải qua tin tưởng một tôn giáo, đây là đạo đức đến qua (a) lý trí phê
phán, không qua (b) thẩm quyền tối cao của một thánh thần, gót nào đó. Chúng ta
thấy (b) sẽ tránh được những vấn đề đạo đức đáng lẽ đã không còn đặt ra trong
thời nay nữa (ngừa thai, đồng tính luyến ái, trợ tử, nô lệ,…)
[15] Hay hay tâm lý, tinh thần, nhìn theo lập trường nhị
nguyên, ‘soul’ là những gì không phải cơ thể của một người.
[16] The Socratic irony
[17] the Socratic elenchus.
[18] Tares
[19]
47 [Lewes, Hist, of Phil., i. 197. Compare, on the other hand, the approving
words of Zeller, ii. (2te Aufl. ), p. 355, as to the poetical character of the
Platonic philosophy : "As an artistic nature was necessary to the
production of such a philosophy, so in turn this philosophy would necessarily
require to be embodied in artistic shape. The phenomenon brought into dissuch
near contact with the idea as we find with Plato becomes a beautiful phenomenon
an aesthetic intuition. Where science and life so inter contrapenetrate each
other as with him, there science will only be communicated in lively
description; and since what is to be communicated is an ideal, this description
will necessarily be a poetical description." No doubt Lewes …]
[20] Neoplatonic
[21] Lịch sử của Academy của Plato: ‘học viện giữa’: the Middle Academy, bắt đầu với Arcesilaus (khoảng 316/315–241 TCN), người
đã đưa vào một chủ nghĩa hoài nghi không giáo điều, trước đó là Old Academy (Học viện cổ), dưới Plato, và sau đó là New Academy (Học viện mới), Carneades thành lập (thế kỷ 2
TCN),
[22] chimera
[23] [48 Zeller,
ii. 2 Aufl., p. 361 ff. [E. T. 160 foil.], recognises, quite rightly, that the Platonic
myths are not the mere garments of thoughts which the philosopher possessed in
another shape, but that they are employed in those cases where Plato wishes to
express something which he has no means of conveying in rigorous seientific
form….]
[24] Theo tôi hiểu, nguyên văn không rõ
lắm (với tôi)
[25] Genera và species
[26] Subordination – tạm dịch để nhấn mạnh,
thay vì và không phải ‘phụ thuộc’ (depending)
[27] Thang của Jacob
[28] Ở những bản dịch Plato, và những
chỗ khác – tôi gọi chúng, như ngày nay gọi, là những ‘thể dạng’, thay vì ‘lý tưởng’.
[29] Gọi tên a là làm a thành là-có, a là gì? – a không là x, không là
y, không là z … -- đó là giòng suy nghĩ đang nói ở đây.
[30] Idea: An object in the mind : (a) In the philosophy of Plato, a
non-physical form or archetype to which beings in phenomenal reality correspond
only as imperfect replicas. (b) In the philosophy of Kant, a concept of reason
that is transcendent but nonempirical. (c) In the philosophy of Hegel, absolute
truth; the complete and ultimate product of reason.
[31] accidents
[32] Mythus, mythos
[33] Plato và Aristole dùng noumena (Gr. νοούμενα) = bản thể - trừu
tượng, đối tượng của lý trí (đối lập với phenomena = hiện tượng, hữu hình cụ thể, đối tượng
của giác quan), chỉ bắt đầu từ Kant – noumena
mới có nghĩa, theo như ông, là ‘vật tự thân’ (das Ding an sich)
[34] ignes fatui = ánh lửa lừa dối, ảo tưởng
[35] [The proofs of this we -will
takefrom a book recently published, although not written with this object:
Eucken, Die Methode der aristotelischenForschung in ihrem Zusammenhangmit den
philosophischenGrundprincipien des Aristoteles: Berlin,
1872. In this very careful and learned little book is a striking support of
the view, which we have long held, that the neo-Aristotelian school, which was
founded by Trendelenburg, must in the end chiefly contribute to our definitive
emancipationfrom Aristotle. In Euckenphilosophy resolves itself into the
Aristotelian philology; but then thisphilology is thorough and objective. We
nowhere find the deficiencies ofthe Aristotelian method so clearly and
comprehensively stated as here; and although the author, nevertheless, holds
that there is a balance of advantages, yet no careful reader can helpseeing how
weak the proofs of this are. The small success of Aristotlein scientific
discoveries is attributedby the writer almost exclusively tothe want of
instruments necessary toperfect the powers of observation,although it is
historically establishedthat modern progress in all the departmentsof natural
inquiry beganwith almost the same means whichwere at the service of the
ancients,and that it has for the most part created for itself the magnificent toolswhich
are to-day at its disposal.Copernicus had no telescope, but hedared to shake
off the authority of Aristotle. That was the decisivestep, and it was the same
in all other departments.]
[36] [This point has, of course, escapedEucken, who
(Meth. d. arist. Forschung, S. 153), on the contrary, makes it appear how
little had beendone before him. Yes, if the extantliterature were all! Comp, on
theother side the Note n above on theuse made of Demokritos, and themanner in
which Aristotle, as describedby Eucken, S. 7 foil., madeuse of his predecessors
without quotingthem—unless they were to beintroduced for the purpose of
beingrefuted.]
[37] [Những thí dụ trong Eucken, S. 154
ff.: rằng chỉ đàn ông mới có nhịp tim đập mạnh; rằng những sinh vật giống đực
có nhiều răng hơn giống cái; rằng xương sọ ở phụ nữ, không giống như của đàn
ông, có đường khớp hình tròn; rằng có một khoảng trống ở phần sau của sọ người;
và đàn ông đó có tám xương sườn. Lại nữa, tờ S. 164., Những gì được cho là những
thí nghiệm: rằng trứng nổi trong nước muối mặn; rằng có thể thu thập nước uống
từ biển trong thùng/bình kín hay (làm bằng) sáp; rằng lòng đỏ của một nhiều trứng
lắc cùng với nhau thì tụ thập vào giữa]
[38]
[Cuvier đã quan sát rằng Aristotle mô tả hệ động vật Egypt không từ quan sát cá
nhân của ông, nhưng từ những chi tiết được Herodotus cung cấp, mặc dù mô tả đọc
như thể chính ông đã nhìn thấy những loài động vật, Humboldt nhận xét rằng những
tác phẩm về động vật học của Aristotle không cho thấy có dấu vết nào của thêm
vào kiến thức bất kỳ nào như được thực hiện bởi những chiến dịch của Alexander.
(Eucken, loc. Cit. Trang 16 và trang 160; về quan điểm của ông về sự hoàn thành
của kiến thức khoa học, trang 5.)]
[39] Species và genius
[40] Học thuyết hay lý thuyết về tính nội
tại chủ trương rằng thần linh thì bao trùm hay được thể hiện trong thế giới vật
chất
[41] Naturalism: thuyết Duy nhiên
là tin tưởng rằng (a) thiên nhiên là tất cả những gì là có, là hiện hữu, do đó
(b) rằng tất cả những gì siêu nhiên (gồm gót, tinh thấn, hồn và những giá trị
phi-vật chất) đều không hiện hữu.
[42] [The principle of the Aristotelian
theology is very well and very succinctly expressed in Ueberweg, Grundriss, i.
4 Aufl. p. 175 foil., 1 E. T. 162, 163: "The world has its principle in
God, and this principle exists not merely as a form immanent in the world, like
the order in an army, but also as an absolute self-existent substance, like the
general in an army." The conclusion of the theology with the words of
Homer, ovk äyaöbv iroXvKOLpavir), ets Koipavos icrrca, betrays the ethical
tendency at its foundation ; but the ontological sup port of the
transcendentality of God lies in the proposition that all motion, including the
development from potentiality to reality, has a moving cause which is itself
unmoved, "Every particular object which is the result of development
implies an actual moving cause ; so the world, as a whole, demands an
absolutely first mover to give form to the naturally passive matter which
constitutes it" (loc. cit. 162).]
[43] οὐσία
> Latin: essentia hay substantia, > English: essence hay substance
>: yếu tính hay bản thể
[44] Hay thể dạng của Plato
[45] Học thuyết về bản thể của Aristotle làm nền tảng cho toàn bộ
triết học của ông. Lý thuyết về bản thể (Substance theory) là tin tưởng rằng những
bản thể là những sự vật việc, là thực tại tối hậu trong vũ trụ. The universe at
rock bottom is not made up of elementary particles but substances. Aristotle’s
account in Categories with some oversimplification, can be expressed as
follows. The primary substances are
individual objects, and they can be contrasted with everything else—secondary substances and all other
predicables—because they are not predicable of or attributable to anything
else. Thus, Fido is a primary substance, and dog—the secondary substance—can be
predicated of him. Fat, brown, and taller than Rover are also predicable of
him, but in a rather different way from that in which dog is.
[46] [The
principle of the Aristotelian theology is very well and very succinctly
expressed in Ueberweg, Grundriss, i. 4 Aufl. p. 175 foil., i E. T. 162, 163:
" The world has its principle in God, and this principle exists not merely
as a form immanent in the world, like the order in an army, but also as an
absolute self-existent substance, like the general in an army." The conclusion
of the theology with the words of Homer, ovk dyadbv iroKvKoipav'ir}, efs
Kolpavos ^aTca, betrays the ethical tendency at its foundation; but the
ontological support of the transcendentality of God lies in the proposition
that all motion, including the development from potentiality to reality, has a
moving cause which is itself unmoved. "Every particular object which is
the result of development implies an actual moving cause; so the world, as a
whole, demands an absolutely first mover to give form to the naturally passive
matter which constitutes it " {loc. cit. 162),]
[47] Chuyện cổ Grimm – ‘bà Trude’ – sự
tò mò trẻ con và ngây thơ có thể dẫn đến những tai hại – người đốt than đen đủi
chỉ là một ngoại hình giả hiện của chính bà Trude phù thủy.
[48] Peripatetic School: Trường phái Peripatetic tên gọi để chỉ một
chỗi những triết gia, trong đó Aristotle là đầu tiên và quan trọng nhất. Vị trí
của nó đã được xác nhận trong một khu đất thiêng dành cho Apollo, gọi là Lyceum, một không gian công cộng – một công
trường – nằm ngoài tường thành của Athens, nhưng không xa, đi bộ đến được (trường
Academy, của Plato, là một chỗ khác tương
tự như thế). Một nhà tập thể dục đã được dựng ở đấy, khoảng cuối thế kỷ 5 TCN. Lyceum là chỗ tụ họp ưa thích của giới trẻ
Athens. Những nhà sôphít được mời thuyết giảng ở đó, Socrates gặp những người ưa
đàm thoại với ông ở đấy. Như những chỗ tương tự khác, có những ‘lối đi dạo’ <
peripatoi. Tên gọi ‘Peripatos’ đã gắn với trường này của
Aristotle, khi ông trở lại Athens năm 336 TCN