Die Zukunft Einer Illusion
Sigismund Schlomo Freud
(6 May 1856 – 23 September 1939)
(6 May 1856 – 23 September 1939)
The Future of an Illusion
(1927)
(1927)
Tương lai của một Ảo tưởng
Lời Người Dịch
1.
Freud coi tôn giáo là một hiện tượng nhân văn trong xã hội văn minh. Tôn
giáo là phó sản từ sự “gạt bỏ những bản năng” bằng những phương tiện “cấm đoán”
tìm thấy trong mọi văn hóa. Tôn giáo nảy mầm từ mặc cảm
Oedipus, và phơi bày sự bất lực của con người ở trần gian, phải đối mặt với
số phận cuối cùng là cái chết, đối chọi với những cấm cản ràng buộc của xã hội,
và những sức mạnh của tự nhiên. Ông nhìn Gót như sự thể hiện của khát khao về
một người cha thấy trong tâm lý con-trẻ. Các tôn giáo xoay quanh một hay nhiều
gót, trong ngôn từ của ông, chúng giữ một “nhiệm vụ gồm ba lớp: “phải ‘trừ tà
trục quỉ’ cho những khiếp hãi của con người trước thế giới tự nhiên”, “phải hòa
giải con người với sự tàn ác của số phận, đặc biệt là khi được thể hiện qua cái
chết”, và “phải đền bù cho những đau khổ và thiếu thốn vốn đời sống văn
minh đã áp đặt lên con người nói chung”. Do đó, tôn giáo tạo nên một “kho tàng
gồm các ý tưởng sinh ra từ nhu cầu xoa dịu những đau khổ của con người, khiến
có thể kham chịu được”.
Tôn giáo mà Freud nói đến “tương ứng với hình thức cuối cùng trong
sự tiến hóa của tôn giáo, là đạo Kitô thực hành trong nền văn minh da trắng
hiện nay”. Khác với Jung, sau ông, là người đã dựa nhiều ý tưởng trên các
tôn giáo phương Đông (chủ yếu là Ấn Độ giáo và Phật giáo). Về mặt lôgich, Freud
nhấn mạnh trên một yếu tính đặc thù của Kitô giáo, đó là mối “quan hệ cha con”.
Ông khẳng định rằng “Gót là một người cha cao vời, hoài mong về người cha là
gốc của nhu cầu về tôn giáo”.
Freud phân biệt ảo tưởng (illusion) và sai lầm: một ảo
tưởng, là sản phẩm của ao ước, không nhất thiết phải là sai lầm. Hơn nữa, ông
nói thêm “Tôn giáo do đó có thể là chứng loạn thần kinh phổ quát của nhân loại,
giống như ám ảnh nhiễu loạn thần kinh của trẻ con, khởi phát từ mặc cảm
Oedipus, trong tương quan cha con”. Ông thậm chí còn cho rằng “những người
sùng đạo được bảo vệ ở một mức độ cao trước các nguy cơ của một số bệnh thần
kinh; sự chấp nhận của họ về bệnh thần kinh phổ quát đã tránh cho họ công việc
phải xây dựng một bệnh loạn thần kinh cá nhân cho riêng họ”. Hiểu là những tín
đồ các tôn giáo đã mắc một thứ bệnh thần kinh phổ quát rồi, nên miễn
nhiễm.