Khả năng chống đỡ
(21 Bài học cho Thế kỷ 21)
Yuval Noah Harari
Phần V
Khả năng chống đỡ
Bạn sống thế nào trong một thời hoang mang, khi
những câu chuyện cũ đã xụp đổ và tuy thế không câu chuyện mới nào nổi lên để
thay chúng?
19
Giáo Dục
Thay Đổi Là Điều Không Đổi Duy Nhất [1]
Loài người đang đối mặt với những cách mạng chưa
từng xảy ra, tất cả những chuyện kể cũ của chúng ta đang đổ vỡ, và đến nay chưa
có chuyện kể mới nào nổi lên thay thế. Chúng ta có thể sửa soạn bản thân và con
cái chúng ta thế nào cho một thế giới của những chuyển đổi chưa từng có và
những bấp bênh triệt để như vậy? Một đứa trẻ ra đời hôm nay sẽ trong lứa
tuổi ba mươi năm 2050. Nếu mọi sự việc trôi chảy, đứa trẻ đó sẽ vẫn còn có mặt
khoảng năm 2100, và ngay cả có thể là một công dân năng động của thế kỷ 21.
Chúng ta nên dạy gì cho đứa trẻ đó để sẽ giúp nó sống và phát triển trong thế
giới của năm 2050, hay của thế kỷ 21? Những loại khả năng chuyên môn nào
nó sẽ cần, dù nam hay nữ, để có một việc làm, để hiểu những gì đang xảy ra
quanh nó, và định hướng được trong mạng lưới rối rắm của đời sống?
Thật không may, vì không ai biết thế giới năm 2050
sẽ nhìn giống thế nào – chưa nói chi đến năm 2100 – chúng ta không biết trả lời
những câu hỏi này ra sao. Dĩ nhiên, con người không bao giờ có thể đoán
trước chính xác được tương lai. Nhưng ngày nay điều đó thì khó khăn nhiều
hơn bao giờ, vì một khi kỹ thuật cho chúng ta khả năng để vẽ kiểu và sản xuất
những cơ thể, bộ óc và não thức, chúng ta thôi không còn có thể chắc chắn về
bất cứ gì – gồm cả những sự vật việc vốn trước đây xem như cố định và vĩnh cửu.
Một nghìn năm trước, năm 1018, đã có rất nhiều sự
vật việc người ta không biết về tương lai, nhưng dẫu thế họ vẫn tin rằng những
đặc trưng cơ bản của xã hội loài người sẽ không thay đổi. Nếu bạn sống ở
nước Tàu năm 1018, bạn đã biết rằng năm 1050, đế quốc Song có thể sụp đổ, người
Khitans có thể xâm lăng từ phía bắc, và những bệnh dịch có thể giết chết hàng
triệu người. Tuy nhiên, điều rõ ràng với bạn rằng ngay cả đến năm 1050 hầu
hết mọi người vẫn sẽ làm việc như những người làm ruộng và những thợ dệt, những
người cầm quyền vẫn sẽ dựa vào con người để đưa vào quân ngũ và bộ máy hành
chính, phái nam sẽ vẫn thống trị phái nữ, tuổi thọ vẫn khoảng 40, và cơ thể con
người sẽ vẫn giống đúng như hiện giờ. Do đó năm 1018, những cha mẹ nghèo
người Tàu dạy con cái họ cách trồng lúa hay dệt lụa và những cha mẹ giàu có hơn
dạy con trai của họ đọc kinh sách Confucius, viết thư pháp, hay chiến đấu trên
lưng ngựa – và dạy những cô gái của họ để là những nội trợ khiêm tốn và vâng
lời. Rõ ràng đến năm 1050 vẫn còn cần những khả năng chuyên biệt này.
Ngược lại, ngày nay chúng ta không biết nước Tàu
hay phần thế giới còn lại sẽ trông giống thế nào vào năm 2050. Chúng ta không
biết người ta sẽ làm gì để kiếm sống, chúng ta không biết những quân đội hay
những tổ chức hành chính sẽ hoạt động thế nào, và chúng ta không biết quan hệ
phái tính sẽ như thế nào. Một số người có thể sẽ sống lâu hơn ngày nay, và
cơ thể con người chính nó có thể trải qua một cách mạng trước đây chưa từng có
nhờ vào kỹ thuật sinh học và những interface
não-cômputơ trực tiếp. Phần lớn những gì trẻ em học ngày nay, đến năm
2050, có thể có nhiều phần xảy ra là sẽ không can dự gì nữa.
Hiện giờ, có quá nhiều trường học tập trung vào
việc nhồi nhét thông tin. Trong quá khứ điều này có ý nghĩa, vì tài liệu
thông tin rất khan hiếm, và ngay cả sự nhỏ giọt chậm chạp của dòng chảy thông
tin đang có cũng bị ngăn đi chặn lại, chịu kiểm duyệt nhiều lần. Nếu bạn
sống, hãy tạm nói rằng vào năm 1800, trong một tỉnh thành nhỏ của Mexico, thật
khó cho bạn để biết nhiều về thế giới lớn hơn bên ngoài. Không có đài phát
thanh, truyền hình, báo hàng ngày hay thư viện công cộng. [2] Ngay cả nếu bạn biết chữ và có quyền vào đọc một
thư viện dành riêng của tư nhân, cũng không có nhiều gì để đọc ngoài tiểu
thuyết và những đoạn văn tôn giáo. Đế quốc Spain đã kiểm duyệt rất chặt chẽ tất
cả những bản văn được in tại địa phương và chỉ cho phép, một cách một nhỏ giọt,
những ấn phẩm từ bên ngoài đem vào, sau khi đã rà xoát. [3] Tương tự cũng giống đúng thế, nếu bạn sống ở một
vài tỉnh thành của Russia, India, Turkey hay Tàu. Khi những trường học
loại như hiện nay xuất hiện, dạy mọi trẻ em đọc và viết và truyền đạt những sự
kiện cơ bản về địa lý, lịch sử và sinh học, chúng đã đại diện cho một cải tiến
lớn lao.
Ngược lại, trong thế kỷ 21, chúng ta bị những lượng
thông tin khổng lồ làm ngập lụt, và ngay cả giới kiểm duyệt không cố ngăn chặn
nó. Thay vào đó, họ bận rộn với việc truyền bá thông tin sai lạc, hay đánh
lạc hướng chúng ta với những gì không liên quan. Nếu bạn sống ở một vài
tỉnh thành Mexico và bạn có một smartphone, bạn có thể dành nhiều thời giờ để
đọc Wikipedia, xem nghe những buổi nói chuyện của TED, và theo học những khóa
học online miễn phí. Không chính phủ nào có thể hy vọng che giấu tất cả
thông tin nó không thích. Mặt khác, hết sức dễ dàng đến mức đáng báo động
để tràn ngập công chúng với những tường thuật mâu thuẫn và những đánh lạc hướng
dư luận. Người ta dù ở xa đến đâu trên thế giới, nhưng đều chỉ cách một
bấm ‘click’ là đến ngay với những giải thích mới nhất về việc thả bom xuống
Aleppo ở Syria; hay về băng tan ở trên vùng Arctic, nhưng có rất nhiều những
giải thích mâu thuẫn, khó biết tin vào đâu. Ngoài ra, vô số sự vật việc
khác chỉ cách xa một một bấm ‘click’, làm khó tập trung, và khi chính trị hay
khoa học trông quá phức tạp, khiến là điều lôi cuốn để chuyển sang một vài video-mèo gây cười, hay những tin đồn
sốt dẻo về những nhân vật nổi tiếng – có lắm chuyện bàn bạc vặt- trong giới
cinê hay thể thao, hay phim ảnh khiêu dâm.
Trong một thế giới như vậy, điều cuối cùng mà một
cô giáo cần đem cho những học trò của cô, là thêm nhiều thông tin hơn. Họ
đã có quá nhiều thứ đó. Thay vào đó, người ta cần khả năng để hiểu ý nghĩa
của thông tin, để nói được sự khác biệt giữa những gì quan trọng và những gì
không quan trọng, và trên hết là để kết hợp nhiều những mảnh thông tin vào
trong một bức tranh lớn rộng của thế giới.
Sự thực, đây từng là lý tưởng của nền giáo dục tự
do phương Tây trong nhiều thế kỷ, nhưng ngay cả cho đến giờ, nhiều trường học
phương Tây cũng khá lỏng lẻo trong việc hoàn thành nó. Những thày giáo tự
cho phép họ tập trung vào việc dồn nhét những dữ liệu trong khi khuyến khích
những học trò ‘hãy suy nghĩ lấy cho bản thân’. Do sự sợ hãi của họ về
khuynh hướng độc đoán lấn áp tự do cá nhân, những trường học theo lý tưởng tự
do đã có một kinh sợ đặc biệt đối với những chuyện
kể lớn [4]. Họ
giả định rằng cho đến chừng nào chúng ta cung cấp cho sinh viên nhiều dữ liệu
và một chút tự do, sinh viên sẽ tạo ra hình ảnh về thế giới của riêng mình, và
ngay cả nếu thế hệ này thất bại để tổng hợp tất cả những dữ liệu vào trong một
câu chuyện mạch lạc và có ý nghĩa về thế giới, sẽ có khối thời giờ để xây dựng
một tổng hợp tốt trong tương lai. Nhưng bây giờ chúng ta không có thì giờ nữa.
Những quyết định chúng ta sẽ thực hiện trong vài chục năm tới sẽ định hình
tương lai của chính sự sống, và chúng ta có thể đưa ra những quyết định này chỉ
dựa trên quan điểm hiện tại về thế giới của chúng ta. Nếu thế hệ này thiếu
một cái nhìn toàn diện về vũ trụ, tương lai của sự sống sẽ được quyết định một
cách tùy tiện, ngẫu nhiên.
Tình thế cấp bách như lửa cháy
Bên cạnh thông tin, hầu hết những trường học cũng
tập trung quá nhiều vào việc cung cấp cho học sinh với một set gồm những khả năng chuyên môn định sẵn, loại như giải phương
trình vi phân, viết code cômputơ bằng
ngôn ngữ C ++, xác định hóa chất trong một ống nghiệm, hay trò chuyện bằng
tiếng Tàu. Thế nhưng, vì chúng ta không biết thế giới và thị trường việc
làm năm 2050 xem sẽ ra sao, chúng ta không thực biết những khả năng chuyên môn
cụ thể nào người ta sẽ cần. Chúng ta có thể đầu tư rất nhiều gắng sức vào việc
dạy trẻ viết ngôn ngữ C ++, hay nói tiếng Tàu thế nào, chỉ để rồi biết được
rằng vào năm 2050 AI có thể viết code software
hay hơn con người rất nhiều, và một app
Google Dịch thuật mới sẽ cho bạn khả năng tiến hành một trò chuyện bằng tiếng
Madarin, Canton, hay Hakka, gần như không sai, ngay cả dù bạn chỉ biết nói câu
chào miệng ‘Ni hao’
Vậy chúng ta nên dạy gì? Nhiều những nhà
chuyên môn ngành sư phạm biện luận rằng trường học nên chuyển sang dạy ‘bốn
điều bắt đầu với chữ C’ [5] – suy nghĩ với óc phê
phán, truyền thông giao tiếp, hợp tác làm việc, và sáng tạo. [6] Rộng hơn, những trường học
nên giảm về những kỹ năng kỹ thuật và nhấn mạnh về những kỹ năng sinh sống tổng
quát đa dụng. Quan trọng nhất tất cả sẽ là khả năng để đối phó với sự thay
đổi, để học những điều mới, và giữ được cân bằng tinh thần của bạn trong những
tình cảnh không quen thuộc. Để có thể theo kịp với thế giới năm 2050, bạn
sẽ không chỉ đơn thuần là phát minh ra những ý tưởng và sản phẩm mới – trên tất
cả, bạn sẽ cần phải tái tạo chính mình lần này sang lần khác.
Vì khi tốc độ của sự thay đổi tăng nhanh lên, không
chỉ kinh tế, nhưng chính ý nghĩa của ‘là
người’ thì có nhiều xác xuất là sẽ biến đổi. Năm 1848, bàn Tuyên
ngôn Cộng sản đã tuyên bố rằng ‘tất cả gì là cứng chắc đều tan chảy
vào trong không khí’. [7] Marx và Engels, tuy
nhiên, đã chủ yếu suy nghĩ về những cấu trúc kinh tế và xã hội. Đến năm
2048, những cấu trúc vật lý và nhận thức cũng sẽ tan chảy vào trong không khí,
hay vào một đám mây chứa những những bit
dữ liệu.
Năm 1848, hàng triệu người đã mất việc làm của họ ở
những trang trại thôn quê, và đã đến những thành phố lớn để làm việc trong những
xưởng máy. Nhưng sau khi đến những thành phố, không có chuyện xảy ra là họ
đã thay đổi phái tính của họ, hay thêm khả năng mới như kiểu có một giác quan
thứ sáu. Và nếu họ tìm được một việc làm trong vài nhà máy dệt, họ có thể
trông mong rằng sẽ ở trong nghề đó cho hết đời làm việc của họ.
Đến năm 2048, người ta có thể phải đối phó với
những di cư trong không gian cyber, với những bản sắc phái tính thay đổi, và
với những kinh nghiệm giác quan mới được cấy ghép cômputơ (vào người) tạo
ra. Nếu họ tìm thấy cả việc làm lẫn ý nghĩa trong việc vẽ kiểu quần áo
phải đổi mới đến từng phút một, cho một trò chơi trong thế giới ảo 3-chiều,
trong vòng một chục năm không chỉ nghề đặc biệt này, nhưng tất cả công việc đòi
hỏi sáng tạo nghệ thuật ở mức độ này đều có thể được AI thực hiện. Như
thế, ở tuổi 25, bạn tự giới thiệu trên một trang web dành cho ‘tìm bạn lòng bốn
phương’ là ‘một phụ nữ dị tính luyến ái, 25 tuổi, sống ở London, và làm việc
trong một hiệu bán thời trang’ Đến tuổi 35, bạn nói bạn là ‘một người có phái
tính-không cụ thể [8],
đang trải qua thích ứng với tuổi tác, có neocortical [9] hoạt động diễn ra chủ yếu
trong thế giới ảo New Cosmos, và có sứ mạng của đời sống là đi đến chỗ nào chưa
hề có nhà vẽ kiểu quần áo nào đã đi trước tới đó’ . Đến năm 40 tuổi, cả
việc ‘tìm bạn lòng bốn phương’ và tự định nghĩa như vậy là đều thôi không còn
hợp thức nữa. Bạn chỉ cần đợi một algorithm để tìm (hoặc tạo) một sánh hợp
toàn hảo cho bạn. Về phần lấy ra ý nghĩa từ nghệ thuật của vẽ kiểu quần
áo, bạn bị những algorithm vượt qua và loại bạn ra ngoài, không cưỡng được,
khiến nhìn vào những thành tựu vượt trội của bạn từ chục năm trước sẽ lấp đầy
bạn với xấu hổ hơn là tự hào. Và ở tuổi 45, bạn vẫn còn hàng chục năm dài
trước mặt để thay đổi triệt để.
Xin đừng hiểu lớp lang này diễn ra theo như nghĩa
đen. Không ai thực sự có thể đoán trước những thay đổi cụ thể mà chúng ta
sẽ chứng kiến. Bất kỳ lớp lang cụ thể nào cũng có thể có xác xuất xảy ra
nhưng xa với thực sự. Nếu ai đó mô tả cho bạn thế giới của giữa thế kỷ 21,
và nó có vẻ giống như khoa học viễn tưởng, nó có lẽ là sai. Nhưng sau đó nếu ai đó mô tả cho bạn thế giới
của giữa thế kỷ 21 và nó không giống như khoa học viễn tưởng – nó chắc chắn là sai. Chúng ta không thể
chắc chắn về những chi tiết cụ thể, nhưng sự thay đổi chính nó là sự chắc chắn
duy nhất.
Sự thay đổi sâu xa giống như thế có thể biến đổi
cấu trúc cơ bản của đời sống, làm gián đoạn tính năng nổi bật nhất của
nó. Từ thời xa xưa, đời sống đã được chia thành hai phần bổ sung nhau: một
thời kỳ học tập theo sau là thời kỳ làm việc. Trong phần đầu tiên của đời
sống, bạn đã tích luỹ thông tin, đã phát triển những kỹ năng chuyên môn, thiết
lập một quan điểm về thế giới, và xây dựng một bản sắc nhận diện ổn
định. Ngay cả nếu ở tuổi 15, bạn dành phần lớn ngày làm việc của bạn trong
đồng lúa của gia đình (hơn là trong một trường học chính qui), điều quan trọng
nhất bạn đang làm là học tập: trồng lúa thế nào, tiến hành bàn bạc giá cả với
những lái gạo tham lam từ thành phố lớn thế nào và cách giải quyết xung đột về
ruộng đất và nước tưới với những người dân khác trong làng thế nào. Trong
phần thứ hai của đời sống, bạn dựa vào khả năng chuyên môn đã tích lũy để định
hướng trong thế giới, kiếm sống và đóng góp cho xã hội. Dĩ nhiên ngay cả ở
tuổi 50, bạn vẫn tiếp tục học những điều mới về gạo, về những người lái buôn,
và về những xung đột, nhưng đây chỉ là những sửa đổi nhỏ cho khả năng đã rèn
luyện thuần thục.
Đến giữa thế kỷ 21, nhịp thay đổi dần tăng nhanh lên,
cộng với tuổi thọ cũng kéo dài hơn, sẽ làm mô thức truyền thống này thành lỗi
thời. Đời sống sẽ rời rụng ở chỗ có những đường chỉ nối, và sẽ càng dần có
ít liên tục hơn giữa những giai đoạn khác nhau của đời sống. ’Tôi là
ai?’ sẽ là một câu hỏi cấp thiết và phức tạp hơn bao giờ hết. [10]
Điều này chắc có thể bao gồm những mức độ căng
thẳng lớn. Vì sự thay đổi gần như luôn luôn gây căng thẳng, và sau một độ
tuổi nhất định nào đó, hầu hết người ta không thích để thay đổi. Khi bạn 15
tuổi, toàn bộ cuộc sống của bạn là sự thay đổi. Cơ thể bạn đang lớn mạnh,
não thức đang phát triển, những quan hệ của bạn đang sâu xa hơn. Tất cả
mọi sự vật việc đều trong tuôn chảy, và mọi sự vật việc đều mới. Bạn đang
bận rộn tạo dựng chính mình. Hầu hết những thanh thiếu niên đều thấy điều
này đáng sợ, nhưng đồng thời, điều này cũng cũng rất kích động thú
vị. Những cảnh sống mới đang mở ra trước bạn, và bạn có cả một thế giới để
chinh phục.
Vào thời điểm bạn 50 tuổi, bạn không muốn thay đổi
và hầu hết người ta đều có bỏ cuộc về việc (hay ý định) chinh phục thế
giới. Tới chỗ đó rồi, có làm việc đó rồi, đã mua một áo-thung-T in hình
dán chữ kỷ niệm rồi!. Bạn thích sự ổn định hơn. Bạn đã đổ rất nhiều
vốn liếng vào kỹ năng chuyên môn của bạn, sự nghiệp của bạn, bản sắc nhận diện
của bạn và quan điểm về thế giới của bạn khiến bạn không muốn bắt đầu lại từ
đầu. Bạn càng làm việc chăm chỉ bao nhiêu để xây dựng một gì đó thì càng khó
hơn bấy nhiều để buông bỏ và thế chỗ nó bằng một gì đó mới. Bạn vẫn có thể
trân trọng những kinh nghiệm mới và những sửa đổi nhỏ, nhưng hầu hết người ta
trong tuổi 50, đều không sẵn sàng để tháo rỡ tất cả rồi sửa chữa toàn bộ những
cấu trúc sâu xa của bản sắc nhận diện và cá tính của họ.
Điều này có những lý do về mặt thần kinh. Mặc
dù bộ óc người lớn thì mềm dẻo và có thể thay đổi nhanh hơn trước đây đã từng
nghĩ, nó vẫn còn kém dễ uốn nắn hơn bộ óc tuổi thiếu niên. Việc nối lại
những nơron và bắt dây lại những synapse là công việc hết sức nhọc nhằn khó
khăn. [11] Nhưng trong thế kỷ 21, bạn khó có thể kham nổi để
có được sự ổn định. Nếu bạn cố gắng bám giữ một vài bản sắc nhận diện,
công việc hay cái nhìn về thế giới trong ổn định, bạn có nguy cơ bị bỏ lại đằng
sau khi thế giới bay vụt qua bạn với một tiếng ‘vuu.…ù.. ù!’ Nhận rằng
tuổi thọ thì chắc sẽ tăng lên, sau đó bạn có thể phải tốn nhiều chục năm như
một hóa thạch không biết gì. Để giữ mình vẫn phù hợp hay liên quan – không
chỉ kinh tế, nhưng trên tất cả là xã hội – bạn sẽ cần khả năng để liên tục học
hỏi và tái tạo chính bạn, chắc chắn ở một tuổi trẻ như năm mươi.
Khi sự kỳ lạ trở thành sự bình thường mới, kinh
nghiệm quá khứ của bạn, cũng như những kinh nghiệm quá khứ của toàn thể cộng
đồng nhân loại, sẽ trở nên những hướng dẫn kém tin cậy hơn. Con người như
những cá nhân và loài người như một toàn bộ sẽ phải đối phó càng ngày càng tăng
với những sự vật việc chưa bao giờ từng gặp trước đây, chẳng hạn như những máy
móc siêu thông minh, những cơ thể được kỹ nghệ chế tạo, những algorithm có thể
thao túng những cảm xúc của bạn với sự chính xác kỳ lạ, những thảm họa về khí
hậu do con người nhanh chóng tạo ra, và sự cần thiết phải thay đổi nghề nghiệp
của bạn mỗi chục năm. Điều nào là đúng để làm gì khi đối mặt với một tình
cảnh hoàn toàn chưa từng có trước đây? Bạn nên hành động thế nào khi bạn bị
ngập lụt bởi lượng thông tin khổng lồ và hoàn toàn không có cách nào bạn có thể
hấp thụ và phân tích được tất cả? Sống thế nào trong một thế giới ở đó
tính chất không-xác định sâu xa không là một sai xót vụng về, nhưng một tính
chất dặc biệt tiêu biểu?
Để sống còn và thịnh vượng trong một thế giới như
vậy, bạn sẽ cần rất nhiều tinh thần mềm dẻo linh động và những trữ lượng lớn
của cân bằng cảm xúc. Bạn sẽ phải liên tục buông bỏ một số điều bạn biết
rõ nhất, và cảm thấy thoải mái như ‘ở nhà’ với sự không-biết. Thật không
may, dạy trẻ nắm lấy sự chưa biết và giữ cân bằng tinh thần của chúng thì khó
khăn hơn nhiều so với việc dạy chúng một phương trình vật lý hay nguyên nhân
của Thế Chiến thứ nhất. Bạn không thể học Khả năng chống đỡ bằng các đọc
sách hay nghe một bài giảng. Bản thân những thày giáo thường thiếu sự mềm
dẻo về tinh thần mà thế kỷ 21 đòi hỏi, vì chính họ đều là sản phẩm của hệ thống
giáo dục cũ.
Cách mạng Kỹ nghệ đã để lại như tài sản cho chúng
ta lý thuyết giáo dục theo lối sản xuất dây chuyền. Ở giữa thị trấn có một
tòa nhà bê tông lớn được chia thành nhiều phòng giống hệt nhau, mỗi phòng được
trang bị những dãy bàn ghế. Nghe tiếng chuông, bạn đi đến một trong những
phòng này cùng với ba mươi đứa trẻ khác, tất cả đều được sinh ra cùng năm với
bạn. Mỗi giờ, một số người trưởng thành lớn tuổi bước vào phòng, và bắt
đầu nói. Họ tất cả đều được nhà nước trả tiền để làm như vậy. Một
trong số họ nói với bạn về hình dạng của trái đất, một người khác nói với bạn
về quá khứ của con người, và một người thứ ba cho bạn biết về cơ thể con
người. Cười vào mô hình này là điều dễ dàng, và hầu hết người ta đều đồng
ý rằng bất kể những thành tựu đã qua của nó là gì, giờ đây nó thì phá
sản. Nhưng đến nay, chúng ta vẫn chưa tạo được một thay thế nào có thể thực
hành được. Chắc chắn chưa là một thay thế với mức độ co dãn theo tỉ lệ có
thể triển khai được trong thôn làng Mexico, thay vì chỉ trong những ngoại ô
giàu có California.
Những con người bị hack
Thế nên, lời khuyên tốt nhất tôi có thể cho một đứa
trẻ mười lăm tuổi bị nhét không thoát vào trong một trường học lỗi thời ở một
nơi nào đó ở Mexico, India hay Alabama là: đừng dựa quá nhiều vào những người
lớn. Hầu hết họ đều có ý định tốt, nhưng họ chỉ không hiểu về thế
giới. Trong quá khứ, đi theo những người lớn là đánh cá an toàn, vì họ
hiểu biết khá tốt về thế giới, và thế giới thay đổi chậm chạp. Nhưng thế
kỷ 21 sẽ khác. Do thay đổi ngày càng tăng tốc độ, bạn không bao giờ có thể
chắc chắn liệu những gì những người lớn đang nói với bạn là trí tuệ vượt thời
gian hay những thiên kiến lỗi thời.
Như thế, thay vào đó bạn có thể dựa vào những
gì? Có lẽ vào kỹ thuật? Việc đó là một canh bạc ngay cả còn rủi ro
hơn. Kỹ thuật có thể giúp bạn rất nhiều, nhưng nếu kỹ thuật giành được quá
nhiều quyền năng với đời sống của bạn, bạn có thể trở thành một con tin cho
agenda của nó. Hàng nghìn năm trước, con người đã phát minh ra canh nông, nhưng
kỹ thuật này chỉ làm giàu cho một tầng lớp ưu tú chọn lọc nhỏ bé, trong khi đẩy
phần lớn con người vào nô lệ. Hầu hết mọi người thấy mình làm việc từ sám
sớm cho đến xẩm tối, nhặt cỏ dại, gánh xô nước và hái bắp dưới nắng trời gay
gắt. Nó cũng có thể xảy ra cho bạn nữa.
Kỹ thuật thì không là tệ. Nếu bạn biết những
gì bạn muốn trong đời sống, kỹ thuật có thể giúp bạn có được điều
đó. Nhưng nếu bạn không biết những gì bạn muốn trong đời sống, nó sẽ tất
cả là quá dễ dàng cho kỹ thuật để định dạng cho bạn những mục đích của bạn và
kiểm soát đời sống của bạn. Đặc biệt khi kỹ thuật càng hiểu rõ hơn về con
người, bạn có thể ngày càng thấy mình phục vụ nó, thay vì nó phục vụ
bạn. Bạn đã thấy những kẻ như dở
sống dở chết đi lang thang ngoài đường phố với mặt họ dán vào nhũng smartphone? Bạn có nghĩ rằng họ
điều khiển kỹ thuật hay có phải kỹ thuật điều khiển họ?
Vậy ban có nên dựa vào chính mình không? Điều
đó nghe hay tuyệt ở chương trình TV giáo dục trẻ em Sesame Street hay trong một phim cinê Disney cổ điển, nhưng trong đời sống
thực nó không làm được hay ho như vậy. Ngay cả Disney cũng đang đi đến
nhận ra điều đó. Giống như nhân vật Riley Andersen trong phim hoạt họa
Disney, hầu hết người ta hầu như không hiểu biết gì về chính họ, và khi họ cố
gắng ‘lắng nghe bản thân’, họ dễ dàng trở thành con mồi cho những thao túng từ
bên ngoài. Giọng nói chúng ta nghe thấy bên trong đầu chúng ta không bao
giờ đáng tin cậy, vì nó luôn phản ảnh tuyên truyền của nhà nước, tẩy não tư
tưởng và quảng cáo thương mại, chưa kể đến những ‘sai lầm, thiếu xót’ trong
sinh hóa con người.
Khi kỹ thuật sinh học và máy biết học được cải
thiện, nó sẽ trở nên dễ dàng hơn để thao túng những cảm xúc và ham muốn sâu xa
nhất của người ta, và nó sẽ trở nên nguy hiểm hơn bao giờ hết để chỉ ‘đi theo’
con tim của bạn. Khi Coca-Cola, Amazon, Baidu hay chính phủ biết cách giựt
dây của con tim bạn và bấm những nút của bộ óc của bạn, có thể nào bạn vẫn kể
ra được sự khác biệt giữa tự ngã của bạn và những nhà chuyên rao hàng của họ?
Để thành công trong một công việc quá khó khăn đến
nản chí như vậy, bạn sẽ cần phải làm việc rất chăm chỉ để tìm biết được tốt hơn
về ‘hệ điều hành’ của bạn. Để biết bạn là gì, và bạn muốn gì từ cuộc
đời. Đây dĩ nhiên, là lời khuyên xưa nhất trong sách: ‘hãy tự biết
mình!’. Trong hàng nghìn năm, những triết gia và tiên tri đã thúc giục
người ta hãy biết lấy chính mình. Nhưng trong thế kỷ 20, lời khuyên này đã
chưa bao giờ cấp bách hơn, vì không giống như trong những thời của Laozi hay
Socrates, bây giờ bạn có sự cạnh tranh nghiêm trọng. Coca-Cola, Amazon,
Baidu và chính phủ tất cả đều tranh đua để hack
bạn. Không phải smartphone của bạn, không phải cômputơ của bạn và không
phải tài khoản ngân hàng của bạn – họ đang trong cuộc chạy đua để hack bạn và
hệ điều hành hữu cơ của bạn. Bạn có thể đã nghe nói rằng chúng ta đang
sống trong thời của những cômputơ biết hack, nhưng đó chỉ hầu như chưa được nửa
sự thật. Thực sự, chúng ta đang sống trong thời của những con người bị hack.
Ngay lúc này, những algorithm đang theo dõi
bạn. Chúng đang theo dõi bạn đi những đâu, mua những gì, gặp những
ai. Chẳng mấy chốc chúng sẽ theo dõi tất cả những bước đi của bạn, tất cả
hơi thở của bạn, tất cả nhịp tim đập của bạn. Chúng đang dựa vào Data Lớn và máy biết học để hiểu bạn rõ
hơn và tốt hơn. Và một khi những algorithm này biết bạn tốt hơn bạn tự
biết, chúng có thể kiểm soát và thao túng bạn, và bạn sẽ không có khả năng làm
được gì nhiều về việc đó. Bạn sẽ sống trong matrix, hay trong The Truman Show. Cuối cùng, đó
là một vấn đề thực nghiệm đơn giản: nếu những algorithm thực sự hiểu những gì
đang xảy ra bên trong bạn tốt hơn bạn hiểu nó, thẩm quyền sẽ chuyển sang chúng.
Dĩ nhiên, bạn có thể hoàn toàn hạnh phúc khi nhượng
tất cả thẩm quyền cho những algorithm và tin vào chúng để chúng quyết định mọi
sự vật việc cho bạn và cho phần thế giới còn lại. Nếu vậy, chỉ cần bớt căng
thẳng và vui hưởng chuyến đi dài. Bạn không cần phải làm gì cả về việc đó.
Những algorithm sẽ chăm sóc mọi sự vật việc. Tuy nhiên, nếu bạn muốn giữ
lại một vài quyền kiểm soát cuộc hiện sinh cá nhân và của tương lai đời sống,
bạn phải chạy nhanh hơn những algorithm, nhanh hơn Amazon và chính phủ, và tìm
biết được chính bạn trước khi chúng làm được việc đó. Để chạy nhanh, đừng
ôm theo bạn nhiều hành lý. Hãy để lại đằng sau tất cả những ảo tưởng của
bạn. Chúng rất nặng.
Ý Nghĩa
Đời người không là một câu chuyện
Tôi là ai? Tôi nên làm gì trong cuộc
đời? Ý nghĩa của cuộc đời là gì? Con người đã từng đặt những câu hỏi này
từ thời xa xưa. Mỗi thế hệ cần một trả lời mới, vì những gì chúng ta biết
và không biết vẫn tiếp tục thay đổi. Đứng trước tất cả mọi sự vật việc chúng ta
biết và không biết về khoa học, về Gót, về chính trị và về tôn giáo – ngày nay,
trả lời tốt nhất chúng ta có thể đưa ra là gì?
Loại trả lời nào người ta mong đợi? Trong hầu
hết trường hợp, khi người ta hỏi về ý nghĩa của cuộc đời, họ mong được kể cho
nghe một câu chuyện. Homo sapiens là một loài vật kể chuyện,
suy nghĩ bằng những câu chuyện nhưng không bằng những con số, hay những đồ thị,
và tin rằng tự thân vũ trụ hoạt động như một câu chuyện, đầy những anh hùng và
những nhân vật phản diện, những xung đột và phân giải, những cực điểm căng
thẳng và những kết cuộc hạnh phúc. Khi chúng ta tìm ý nghĩa cho cuộc đời,
chúng ta muốn một câu chuyện sẽ giải thích hiện thực tất cả là gì và vai trò cá
biệt của tôi trong vở kịch vũ trụ là gì. Vai trò này định nghĩa tôi là ai,
và đem ý nghĩa cho tất cả những kinh nghiệm và những lựa chọn của tôi.
Một câu chuyện phổ thông, đã kể trong hàng nghìn
năm, cho hàng tỷ những con người khắc khoải, giải thích rằng chúng ta tất cả
đều là phần của một vòng quay vĩnh cửu bao gồm và kết nối tất cả những sinh
vật. Mỗi sinh vật có một chức phận chuyên biệt để hoàn tất trong vòng
quay. Để hiểu được ý nghĩa của đời sống có nghĩa là hiểu được thân phận độc đáo
duy nhất của bạn, và sống một đời sống tốt có nghĩa là làm xong thân phận đó.
Sử thi Hindu Bhagavadgita
[12] kể cho thấy như thế nào,
đang giữa một nội chiến đầy người chết, hoàng tử chiến sĩ vĩ đại Arjuna đã bị
những nghi ngờ chiếm trọn bản thân. Sau khi thấy những người bạn và họ
hàng trong đoàn quân đối địch, ông do dự không muốn chiến đấu với họ và không
muốn giết họ. Ông bắt đầu tự hỏi thiện và ác là gì, ai quyết định nó, và mục
đích của đời người là gì. Thần Krishna khi đó giải thích cho Arjuna rằng
bên trong chu kỳ vũ trụ vĩ đại mỗi sinh linh sở hữu một ‘dharma’ [13] duy nhất, con đường bạn
phải đi và những nhiệm vụ bạn phải hoàn thành. Nếu bạn nhận ra ‘dharma’ của bạn, bất kể con đường có thể
khó khăn thế nào, bạn sẽ an lòng, thanh thản và thoát khỏi mọi hoài
nghi. Nếu bạn từ chối tuân theo dharma
của bạn, và gắng đi theo con đường của người khác – hay lang thang không có con
đường nào – bạn sẽ làm xáo trộn sự cân bằng vũ trụ, và sẽ không bao giờ có thể
tìm thấy an bình hay hạnh phúc. Dù con đường cụ thể của bạn là gì, cũng không
thành vấn đề, miễn là bạn biết đi theo nó. Một người phụ nữ chuyên việc giặt
quần áo, người tận tụy đi theo con đường của người giặt quần áo thì vượt trội
hơn một hoàng tử, người bị xa lạc khỏi con đường của hoàng tử. Sau khi
hiểu ý nghĩa của đời sống, Arjuna tuân hành theo dharma của mình như
một chiến sĩ. Ông giết những bạn bè và những họ hàng, đưa đoàn quân mình đến
chiến thắng và trở thành một trong những anh hùng được kính trọng và yêu quý
nhất trong thế giới Hindu. [14]
Năm 1994, một anh hùng ca của Disney, phim The
Lion King, lấy lại câu chuyện cổ
này nhưng đóng gói cho hợp khẩu vị khán giả thời nay, với con sư tử con Simba
đứng vào chỗ của Arjuna. Khi nào Simba muốn biết ý nghĩa của cuộc hiện
sinh, cha nó – sư tử vua Mufasa – kể cho nó nghe về Vòng Sống Vĩ Đại. Mufasa giải thích rằng loài linh dương ăn
cỏ, loài sư tử ăn loài linh dương, và khi những con sư tử chết cơ thể của chúng
phân hủy và nuôi loài cỏ. Đây là cách sự sống tiếp tục từ từ thế hệ này
sang thế hệ khác, miễn là mỗi con vật đóng vai trò trong vở kịch. Mọi sự vật
việc đều kết nối với nhau và mỗi sinh vật đều tùy thuộc vào những sinh vật
khác, vì vậy, ngay cả khi một lá cỏ không hoàn thành sứ mạng của nó, toàn bộ
Vòng Sống có thể bị sổ tung. Sứ mạng của Simba, Mufasa nói, sau khi Mufasa
chết là trị vì vương quốc có vua sư tử, và giữ những loài vật khác trong trật
tự.
Tuy nhiên, khi Mufasa chết sớm vì bị Scar, người em
trai ác độc, đánh lừa vào chỗ chết, Simba cũng bị đánh lừa, tự đổ lỗi cho mình
về thảm họa đó, khốn khổ với tội lỗi tưởng tượng, Simba đã rời bỏ vương quốc sư
tử, tránh né thân thế giòng vua của mình, và sống lang thang trong rừng
hoang. Ở đó nó gặp hai con vật khác, một con chồn meerkat và một con lợn
rừng, cả ba cùng nhau trải qua một vài năm sống vô tư, lánh xa những lối đời
đông người đi. Triết lý phản xã hội của chúng có nghĩa là chúng trả lời
mọi câu hỏi bằng hát câu thần chú ‘Hakuna matata’ – ‘đừng có
lo!’.
Nhưng Simba không thể trốn mãi dharma của mình. Khi trưởng thành, nó ngày càng trở nên thấy
khó xử, không biết chính nó là ai và nên làm gì trong cuộc đời. Ở đỉnh cao căng
thẳng nhất của phim, cinê, anh hồn của Mufasa hiển lộ cho Simba thấy trong một
cảnh mộng, và nhắc nhở Simba về Vòng Sống và của thân thế sư tử, loài làm vua
những loài vật, của nó. Simba cũng biết rằng trong khi mình vắng mặt, Scar
đã tiếm ngôi và cai quản vương quốc một cách tệ hại, tất cả đang khốn khổ nặng
nề, vì nạn bất hòa và nạn đói. Simba cuối cùng cũng hiểu nó là ai và nó
nên làm gì. Nó trở về vương quốc sư tử, giết chú, trở thành vua sư tử, và
thiết lập lại sự hài hòa và thịnh vượng cho tất cả. Phim kết thúc với một
Simba tự hào, trưng bày sư tử con mới sinh, kế tục của mình cho bầy động vật tụ
họp đông đảo, bảo đảm sự tiếp nối của Vòng Sống Vĩ Đại.
Vòng vĩ đại của sự sống trình bày vở kịch vũ trụ
như một câu chuyện theo đường tròn. Với tất cả những gì Simba và Arjuna
được biết, loài sư tử ăn thịt loài linh dương và những chiến sĩ đã đánh những
trận chiến trong hằng hà sa số những aeon
và sẽ tiếp tục làm như thế mãi mãi. Sự lập lại vĩnh cửu đem cho câu chuyện
sức mạnh, hàm ý rằng đây là tiến trình tự nhiên của mọi sự vật việc, và rằng
nếu Arjuna tránh chiến đấu, hay nếu Simba từ chối thành vua sư tử, họ đều sẽ là
nổi loạn chống lại chính những luật của Tự nhiên.
Nếu tôi tin vào một phiên bản nào đó của câu chuyện
về Vòng Sống, điều đó có nghĩa rằng tôi có một bản sắc nhận diện cố định và
đúng thực, nó ấn định rõ ràng những nhiệm vụ của tôi trong đời sống. Trong
nhiều năm tôi có thể ngờ vực hay không biết gì về bản sắc nhận diện này, nhưng
một ngày, trong một khoảnh khắc trọng đại, nó sẽ được ‘vén lên cho thấy’, và
tôi sẽ hiểu vai trò của tôi trong vở kịch vũ trụ, và mặc dù sau đó tôi có thể
gặp nhiều thử thách và khốn khổ, nhưng tôi sẽ tránh khỏi những hoài nghi và
tuyệt vọng.
Những tôn giáo và hệ tư tưởng khác đều tin vào một
vở kịch vũ trụ diễn theo đường thẳng, nó có một khởi đầu dứt khoát, một khúc
giữa không quá dài, và một kết thúc cho ‘một lần tất cả và mãi mãi’ [15]. Lấy thí dụ, câu chuyện
Islam nói rằng khởi đầu Allah đã tạo ra toàn bộ vũ trụ và đặt xuống những luật
của nó. Sau đó, ông vén lên cho thấy những luật này trong Qur’an cho con
người. Thật không may, những người ngu dốt và xấu xa nổi loạn chống lại
Allah và cố gắng phá vỡ hay che giấu những luật này, và đó là (bổn phận) những
người Muslim đạo đức và trung thành để duy trì những luật này và truyền bá hiểu
biết về chúng. Cuối cùng, vào Ngày Phán xét Cuối cùng, Allah sẽ ban phán
quyết về hành vi của mỗi và mọi cá nhân. Ông sẽ ban cho người công bình
hạnh phúc đời đời trên thiên đường, và quăng kẻ ác vào hố lửa của hỏa ngục cháy
mãi.
Câu chuyện lớn này ngụ ý rằng vai trò nhỏ bé nhưng
quan trọng của tôi trong đời sống là làm theo những lệnh của Allah, truyền bá
kiến thức về luật pháp của ông, và bảo đảm tuân theo những ước muốn của
ông. Nếu tôi tin vào câu chuyện của những Muslim, tôi tìm thấy ý nghĩa
trong việc cầu nguyện năm lần một ngày, quyên góp tiền để xây một mosque mới,
và đấu tranh chống lại những người bỏ đạo và những người ngoại đạo. Ngay
cả những hoạt động trần tục nhất – rửa tay, uống rượu, hay ăn nằm với nhau –
cũng đều thấm nhiễm ý nghĩa vũ trụ lớn lao.
Chủ nghĩa dân tộc cũng thế, cũng duy trì một câu
chuyện kể theo đường thẳng. Thế nên, câu chuyện của những người trong phong
trào Zion-nít bắt đầu bằng những phiêu bạt và thành tựu trong kinh thánh của
dân tộc Jew, kể lại 2.000 năm lưu vong và chịu khủng bố, đến một đỉnh cao với
thảm họa Holocaust và sự thành lập
nhà nước của Israel, và hướng tới một ngày Israel sẽ được hưởng hòa bình và
thịnh vượng; và trở thành một ngọn hải đăng đạo đức và tinh thần cho tất cả thế
giới. Nếu tôi tin vào câu chuyện Zion-nít, tôi kết luận rằng sứ mệnh cuộc
đời của tôi là thúc đẩy những lợi ích của quốc gia Jew bằng cách bảo vệ sự
thuần khiết của ngôn ngữ Hebrew, bằng chiến đấu để lấy lại lãnh thổ Jew đã mất,
hay có lẽ bằng sinh sản và nuôi dưỡng một thế hệ mới của những đứa trẻ Israel
trung thành. [16]
Trong trường hợp này cũng vậy, ngay cả những chủ
trương nhàm chán cũng được rót đầy ý nghĩa. Trong lễ Độc lập, những học
sinh Israel thường cùng nhau hát một bài hát Hebrew, ca ngợi bất kỳ một hành
động nào đã thực hiện vì lợi ích của tổ quốc. Một đứa trẻ hát ‘Tôi đã xây
một ngôi nhà trên đất Israel’, một đứa trẻ khác lớn giọng ‘Tôi đã trồng một cây
trên đất Israel,’ một đứa thứ ba phụ họa: ‘Tôi đã viết một bài thơ về đất
Israel,’ và cứ tiếp tục, cho đến cuối cùng chúng cùng đồng xướng một điệp khúc
‘Như thế, chúng ta có một nhà, một cây và một bài thơ [và bất cứ gì khác bạn
muốn thêm] trên đất Israel’.
Chủ nghĩa Cộng sản kể một câu chuyện tương tự,
nhưng tập trung vào giai cấp hơn là dân tộc. Bản Tuyên ngôn Cộng sản mở
ra bằng tuyên bố rằng:
Lịch sử của tất cả xã
hội hiện tại cho đến nay là lịch sử của giai cấp đấu tranh. Người tự do và
kẻ nô lệ, quý tộc và bình dân, lãnh chúa và nông nô, thợ cả phường hội và thợ
học nghề, nói tóm lại, những người áp bức và những người bị áp bức, luôn luôn
đối kháng nhau, đã tiến hành một đấu tranh không gián đoạn, lúc ngấm ngầm, lúc
công khai, mỗi lần chấm dứt một đấu tranh, đều bằng một sự khôi phục cách mạng
toàn bộ xã hội, hay bằng sự xụp đổ chung của những giai cấp thù nghịch. [17]
Bản tuyên ngôn tiếp tục giải thích rằng trong thời
ngày nay, ‘Xã hội như một toàn thể ngày càng tách ra thành hai phe thù địch
lớn, thành hai giai cấp trực tiếp đối đầu với nhau: Tư sản và Vô sản. [18] Cuộc đấu tranh của họ sẽ
kết thúc với chiến thắng của giai cấp vô sản, vốn sẽ báo hiệu sự chấm dứt của
lịch sử, và việc thiết lập thiên đường cộng sản trên trái đất, trong đó không
ai sẽ sở hữu bất cứ gì riêng tư, và mọi người sẽ hoàn toàn tự do và hạnh phúc.
Nếu tôi tin vào câu chuyện cộng sản này, tôi kết
luận rằng sứ mạng của đời tôi là đẩy mạnh cách mạng vô sản trên toàn thế giới
cho nhanh hơn, bằng viết những truyền đơn nảy lửa, tổ chức những đình công và
những biểu tình, hay có lẽ ám sát những nhà tư bản tham lam và chiến đấu chống
những tay sai của họ. Câu chuyện mang lại ý nghĩa cho những động tác dù
nhỏ nhất, chẳng hạn như tẩy chay, không mua hàng của một công ty bóc lột công
nhân dệt may ở Bangladesh, hay tranh luận với ‘con lợn tư bản’ là bố chồng tôi
trong bữa ăn gia đình đêm Nô-en.
Khi nhìn vào toàn bộ lĩnh vực những câu chuyện vốn
tìm cách để xác định bản sắc nhận diện đích thực của tôi và mang lại ý nghĩa
cho những hành động của tôi, điều đập mạnh nổi bật để nhận ra rằng quy mô tỉ lệ
rất ít thành vấn đề. Một số câu chuyện, chẳng hạn như Vòng Sống của Simba,
dường như kéo dài mãi mãi. Đó là chỉ trong chống lại bối cảnh của toàn bộ
vũ trụ mà tôi có thể biết tôi là ai. Những câu chuyện khác, chẳng hạn như hầu
hết những huyền thoại dân tộc và bộ tộc, khi so sánh đều nhỏ và yếu. Chủ
nghĩa Zion-nít gìn giữ thiêng liêng những phiêu lưu của khoảng 0,2 phần trăm
loài người, và 0,005 phần trăm bề mặt trái đất, trong một khoảnh khắc nhỏ tí
của khoảng thời gian dài vô tận. Câu chuyện Zion-nít không khắc ghi bất kỳ
một ý nghĩa nào với những đế quốc Tàu, với những bộ tộc New Guinea, và với
thiên hà Andromeda, cũng như với vô tận những aeon đã trôi qua trước khi có
những nhân vật Moses, Abraham và sự tiến hóa của loài ape.
Thiển cận như vậy có thể có những hậu quả nghiêm
trọng. Lấy thí dụ, một trong những những trở ngại lớn cho bất kỳ hiệp ước
hòa bình nào giữa Israel và Palestine, là Israel không muốn chia thành phố
Jerusalem với dân Palestine. Họ lập luận rằng thành phố này là ‘kinh thành
vĩnh cửu bất diệt’của dân tộc Jew’ – và chắc chắn bạn không thể thỏa hiệp về
một gì đó vĩnh cửu. [19] Một vài người chết thì có là gì so với vĩnh
cửu? Điều này dĩ nhiên là cực kỳ vô nghĩa. Sự ‘vĩnh cửu’ ít nhất là 13,8
tỷ năm – tuổi của vũ trụ tính đến nay. Hành tinh Đất đã hình thành khoảng
4,5 tỷ năm trước, và con người đã tồn tại ít nhất từ 2 triệu năm
nay. Ngược lại, thành phố Jerusalem được thành lập cách đây chỉ 5.000 năm,
và dân tộc Jew nhiều nhất là đã có được khoảng 3.000 năm. Điều này khó để
xem đủ điều kiện gọi là vĩnh cửu.
Về phần tương lai, vật lý cho chúng ta biết rằng
hành tinh Đất sẽ bị hút vào một mặt trời phình lớn (thành một khối lửa đỏ khổng
lồ) khoảng 7,5 tỷ năm kể từ bây giờ, [20] và vũ trụ của chúng ta sẽ tiếp tục tồn tại ít nhất
13 tỷ năm nữa. Có ai nghiêm trang thành thật tin rằng dân tộc Jew, quốc
gia Israel, hay thành phố Jerusalem sẽ vẫn tồn tại 13.000 năm nữa kể từ bây
giờ, đừng nói chi đến 13 tỷ năm? Nhìn vào tương lai, Zion-nít có một đường
chân trời không quá vài trăm năm, nhưng nó là đủ để nung nóng trí tưởng tượng
của hầu hết những người Israel và bằng cách nào đó đủ điều kiện để gọi là ‘vĩnh
cửu’. Và người ta sẵn sàng hy sinh cho ‘thành phố vĩnh cửu’, mà họ có lẽ sẽ
không chịu nhìn nhận nó là một tập hợp gồm những phố phường nhà ở tất cả phù
du, chỉ thoáng qua, trong ngắn ngủi.
Là một đứa trẻ tuổi teen ở Israel, tôi ban đầu cũng
bị chủ nghĩa dân tộc quyến rũ, hứa sẽ trở thành phần của một gì đó lớn hơn bản
thân mình. Tôi muốn tin rằng nếu như tôi đem đời mình dâng cho dân tộc,
tôi sẽ sống mãi mãi trong lòng dân tộc. Nhưng tôi không thể thấu hiểu được
‘sống mãi mãi trong lòng dân tộc’ có nghĩa là gì. Cụm từ nghe rất thâm
sâu, nhưng nó thực sự có ý nghĩa gì? Tôi nhớ một ngày lễ kỷ niệm độc lập
đặc biệt, khi tôi khoảng mười ba hay mười bốn tuổi. Trong khi ngày lễ kỷ niệm
độc lập ở USA được đánh dấu chủ yếu bằng mua sắm hàng bán ‘đại hạ giá’, Ở
Israel ngày lễ kỷ niệm độc lập này là một sự kiện cực kỳ trang nghiêm và long
trọng. Vào ngày này, những trường học tổ chức những lễ tưởng niệm những
người lính đã hy sinh trong nhiều những chiến tranh của Israel. Những đứa
trẻ mặc áo trắng, đọc thơ, hát những bài hát, đặt vòng hoa tưởng niệm và vẫy
cờ. Vì vậy, tôi cũng thế, áo trắng, trong lễ kỷ niệm của trường tôi, và
giữa những cờ vẫy và những đọc thơ, tôi tự nhiên suy nghĩ với bản thân mình
rằng khi lớn lên tôi cũng muốn trở thành một người lính hy sinh cho đất nước.
Xét cho cùng, nếu tôi là một người lính anh hùng hy sinh mạng sống cho Israel,
sau đó tôi sẽ được tất cả những đứa trẻ này đọc thơ và vẫy cờ tôn vinh tôi.
Nhưng rồi tôi nghĩ, ‘Khoan đã. Nếu tôi đã chết
rồi, làm thế nào tôi biết những đứa trẻ này đã thực sự đọc thơ để vinh danh
tôi?’ Vì vậy, tôi đã cố gắng tưởng tượng bản thân mình đã chết. Và tôi
tưởng tượng mình đang nằm dưới một trong số những mộ bia màu trắng trong một
nghĩa địa quân sự, lắng nghe những bài thơ vọng đến từ mặt đất. Nhưng sau
đó tôi nghĩ, ‘Nếu tôi đã chết, thì tôi không thể nghe bất kỳ bài thơ nào, vì
tôi không có tai, và tôi không có óc, và tôi không thể nghe hay cảm nhận gì
cả. Vì vậy, làm thế này có nghĩa lý gì?’
Ngay cả tệ hơn, lúc tôi mười ba tuổi, tôi biết rằng
tuổi của vũ trụ thì khoảng dăm ba vài tỷ năm, và có lẽ sẽ tiếp tục tồn tại hàng
tỉ năm nữa. Liệu tôi có thể thực sự mong đợi Israel sẽ tồn tại trong một
thời gian dài như vậy? Liệu những đứa trẻ Homo sapiens mặc áo
trắng vẫn còn ngâm nga những bài thơ để vinh danh tôi 200 triệu năm
sau? Có một gì đó ám muội về toàn bộ sự thể công việc.
Nếu như bạn là người Palestine, đừng cảm thấy tự
mãn. Cũng đúng là không chắc rằng quanh đây sẽ có bất kỳ một người
Palestine nào tính từ bây giờ về sau khoảng 200 triệu năm nữa. Thật vậy,
trong mọi xác suất có thể có, lúc đó sẽ không còn bất kỳ một loài động vật loài
có vú nào. Những phong trào dân tộc khác cũng đều chỉ hẹp hòi giống
thế. Chủ nghĩa dân tộc Serbia chẳng quan tâm gì về những sự kiện trong kỷ
nguyên Jurassic, trong khi những người theo chủ nghĩa dân tộc Korea tin rằng
một bán đảo nhỏ trên bờ biển ở đông Asia là phần vũ trụ độc nhất thực sự quan
trọng trong kế hoạch lớn của mọi sự vật việc.
Dĩ nhiên ngay cả Simba – với tất cả dâng hiến của
nó cho Vòng Vĩ đại của Sự Sống – không bao giờ suy ngẫm về sự kiện rằng loài sư
tử, loài linh dương và loài cỏ đều thật sự không trường tồn mãi mãi. Simba
không xem xét vũ trụ giống như thế nào trước khi có tiến hóa của những động vật
loài có vú, cũng không xem xét số phận của những đồng cỏ nhiệt đới Africa yêu
quý của nó một khi con người giết tất cả sư tử và phủ nhựa đường lẫn bê tông
lên trên những đồng cỏ đó. Có phải điều này khiến đời sống của Simba thành
hết sức vô nghĩa?
Tất cả mọi câu chuyện đều không hoàn tất. Tuy
nhiên, để tạo dựng một bản sắc nhận diện khả hữu sống động làm được cho bản
thân và mang ý nghĩa cho đời tôi, tôi không thực sự cần một câu chuyện trước
sau đâu đó xong xuôi, tránh hết những điểm mù mờ, và những mâu thuẫn nội
bộ. Để mang lại ý nghĩa cho đời sống của tôi, một câu chuyện chỉ cần thỏa
mãn hai điều kiện: đầu tiên, nó phải cho tôi một vài vai trò
để đóng. Một người dân bộ tộc ở New Guinea thì chắc chắn không tin vào chủ
nghĩa Zion-nít, hay vào chủ nghĩa dân tộc Serbia, vì những câu chuyện này không
quan tâm gì đến New Guinea và dân chúng của nó. Giống như những ngôi sao
màn bạc, con người chỉ thích những truyện phim dành cho họ một vai trò quan
trọng trong đó.
Thứ hai, khi một câu chuyện hay tuy không cần phải
kéo dài đến vô tận, nhưng nó phải kéo dài vượt ngoài tầm nhìn của tôi. Câu
chuyện cung cấp cho tôi một bản sắc nhận diện và đem ý nghĩa cho cuộc đời tôi,
bằng chôn gài vào trong tôi một gì đó lớn hơn bản thân tôi. Nhưng luôn luôn có
một nguy cơ rằng tôi có thể bắt đầu tự hỏi điều gì mang ý nghĩa đến cho ‘một gì
lớn hơn’ đó. Nếu ý nghĩa của cuộc đời tôi là giúp ích cho giai cấp vô sản,
hay đất nước Poland, vậy chính xác là gì mang ý nghĩa đến cho giai cấp vô sản,
hay cho chủ nghĩa dân tộc Poland? Có một câu chuyện về một người đã tuyên
bố rằng thế giới được giữ đâu vào đó, bằng tất cả được đặt trên lưng một con
voi khổng lồ. Khi được hỏi con voi này đứng ở đâu, người này trả lời rằng
nó đứng trên lưng một con rùa lớn. Và con rùa này đứng trên gì? Trên
lưng một con rùa khác còn lớn hơn. Và con rùa khác lớn hơn đó? Người này
khoát tay và nói: ‘Đừng bận tâm về việc đó. Từ đó tuốt xuống dưới tất cả chỉ
đều là những rùa và rùa thôi.’
Hầu hết những câu chuyện thành công vẫn để kết thúc
bỏ ngỏ. Chúng không bao giờ cần phải giải thích ý nghĩa sau cùng đến từ
đâu, vì chúng rất giỏi trong việc nắm lấy sự chú ý của người ta, và giữ nó
trong một vùng an toàn. Thế nên, khi giải thích xong rằng thế giới dựa
trên lưng một con voi khổng lồ, bạn nên ngăn trước bất kỳ những câu hỏi khó
khăn nào, bằng đánh lạc hướng người nghe, bằng mô tả thật chi tiết rằng khi con
voi vẫy hai tai khổng lồ, chúng gây gió bão dữ dội, và khi voi quặn mình giận
dữ, gây đông đất rung chuyển mặt đất. Nếu bạn tô dệt đủ khéo léo, sẽ xảy
ra là không có bất cứ ai sẽ hỏi con voi đang đứng trên cái gì. Tương tự như
vậy, chủ nghĩa dân tộc làm phấn khởi lòng dạ chúng ta với những câu chuyện của
chủ nghĩa anh hùng, làm chúng ta ứa nước mắt khi nhắc lại những thảm họa quá
khứ, và đốt nóng giận dữ của chúng ta bằng nấn ná lâu dài trong những bất công
đất nước chúng ta đã phải chịu đựng. Chúng ta bị cuốn hút đắm chìm trong sử thi
dân tộc này, khiến chúng ta bắt đầu đánh giá tất cả mọi sự vật việc xảy ra trên
thế giới trên tác động của chúng vào quốc gia chúng ta, và hầu như không nghĩ
trước tiên hãy tự hỏi điều gì làm đất nước chúng ta thành quan trọng đến như
thế.
Khi bạn tin vào một câu chuyện cá biệt, nó làm bạn
thích thú, hết sức chăm chú vào những chi tiết nhỏ nhặt nhất của nó, trong khi
tiếp tục giữ bạn như mù, không thấy bất cứ gì rơi ngoài phạm vi của
nó. Những người cộng sản tín mộ có thể dành hàng giờ không đếm được, tranh
luận liệu có thể được phép liên minh với những người dân chủ xã hội hay không,
trong những giai đoạn đầu của cách mạng, nhưng họ hiếm khi dừng lại để tự hỏi
về vị trí của giai cấp vô sản trong sự tiến hóa của sự sống loài động vật có vú
trên hành tinh Đất, hay trong sự lan truyền của sự sống hữu cơ trong vũ
trụ. Nói chuyện loại ‘rỗi hơi’ như vậy thì bị xem là một việc phản cách
mạng, phí thì giờ chẳng ai buồn nghe.
Mặc dù một vài câu chuyện đã chịu khó vươn tới bao
trùm toàn thể của không gian lẫn thời gian, nhưng khả năng để điều khiển sự chú
ý đã khiến nhiều câu chuyện thành công khác vẫn giữ phạm vi nội dung của nó
khiêm tốn hơn nhiều. Một qui luật quyết định chủ yếu của việc kể chuyện là
rằng một khi một câu chuyện xoay sở thành công vượt quá tầm nhìn chân trời của
người nghe, phạm vi nội dung cuối cùng của nó thì rất ít quan trọng. Người
ta có thể trưng bày vẫn cùng một chủ nghĩa cuồng tín giết người vì lợi ích của
một dân tộc tuổi một nghìn năm vì lợi ích của một gót tuổi một tỷ năm. Mọi
người đều chỉ là không rành rẽ thông thạo lắm với những con số lớn. Trong
hầu hết trường hợp, điều ngạc nhiên là chỉ cần rất ít để làm kiệt quệ trí tưởng
tượng của chúng ta.
Giả thiết tất cả mọi sự vật việc chúng ta có thể đã
biết về vũ trụ, có vẻ hoàn toàn là điều không thể nào xảy ra được cho bất kỳ
một ai với đầu óc lành mạnh để tin rằng sự thật tối thượng về vũ trụ và sự hiện
hữu của con người là trong câu chuyện của chủ nghĩa dân tộc Israel, Germany hay
Russia – hay quả thực trong chủ nghĩa dân tộc nói chung. Một câu chuyện đã
bỏ qua hầu như toàn bộ thời gian, toàn bộ không gian, Big Bang, vật lý quantum
và sự tiến hóa của sự sống thì nhiều nhất chỉ là một phần cỏn con của sự
thật. Thế nhưng, bằng cách nào đó người ta đã xoay sở thành công để không
nhìn thấy xa hơn nó.
Thật vậy, hàng tỷ người trong suốt lịch sử đã tin
rằng để cuộc đời của họ có ý nghĩa, họ không ngay cả cần phải được đồng hóa vào
một quốc gia hay một phong trào của hệ ý thức vĩ đại nào. Nó là đủ nếu họ
chỉ ‘để lại đằng sau một gì đó’, qua đó bảo đảm rằng câu chuyện của cá nhân họ
vẫn tiếp tục sau cái chết của họ. ’Một gì đó’ tôi để lại đằng sau thì lý
tưởng nếu là hồn người của tôi hay yếu tính của tôi. Nếu tôi tái sinh
trong một thân xác mới sau cái chết của thân xác hiện tại, khi dó chết không là
sự chấm dứt. Nó đơn thuần chỉ là không gian giữa hai chương sách, và cốt
truyện đã bắt đầu trong một chương sẽ tiếp tục vào trong một chương
tiếp. Nhiều người có ít nhất một lòng tin mơ hồ vào một thuyết loại như
vậy, ngay cả nếu như họ không dựa nó trên bất kỳ một thuyết gót học
nào. Họ không cần một giáo điều phức tạp – họ chỉ cần sự yên lòng cảm nhận
rằng câu chuyện của họ tiếp tục vượt qua bên kia chân trời của cái chết.
Lý thuyết về đời sống như một thiên anh hùng ca bất
tận này thì hết sức hấp dẫn và phổ thông, nhưng nó có khuyết điểm của hai vấn
đề chính. Đầu tiên, bằng kéo dài câu chuyện cá nhân của tôi, tôi không
thực sự làm nó có ý nghĩa hơn. Tôi chỉ làm nó dài hơn. Thật vậy, hai tôn
giáo lớn vốn ôm giữ ý tưởng về một vòng khép kín không bao giờ dứt của sinh và
tử – đạo Hindu và đạo Phật – đều cùng có chung một kinh hoàng trước sự phù
phiếm tất cả của nó. Hàng triệu rồi hàng triệu lần tôi học để bước đi chập
chững, tôi lớn lên, tôi cãi cọ với mẹ vợ tôi, tôi bị bệnh, tôi chết – và sau đó
lại làm tất cả lại từ đầu. Thế có ý nghĩa gì? Nếu tôi tích lũy tất cả
những nước mắt tôi đã gạt đi trong tất cả những kiếp đời, chúng tất làm đầy
biển Pacific; nếu tôi thu tập tất cả răng và tóc tôi đã rơi rụng, chúng
tất cao hơn rặng Himalaya. Và tôi đã phải đi đến những đâu cho tất cả
những thế đó? Không ngạc nhiên khi những nhà hiền triết của cả hai đạo
Hindu và đạo Phật đều tập trung nhiều những gắng sức của họ vào việc tìm kiếm một
con đường để thoát khỏi vòng quay không dứt này, thay vì kéo dài nó.
Vấn đề thứ hai với lý thuyết này là sự nghèo nàn
của bằng chứng hỗ trợ. Bằng chứng nào tôi đã có rằng trong một đời quá khứ, tôi
đã từng là một nông dân trung cổ, hay một thợ săn Neanderthal, hay một
Tyrannosaurus rex, hay một con amip
(nếu tôi thực sự đã sống hàng triệu kiếp sống, tôi phải từng là một con đai-na-so và một amip vào một thời điểm nào đó, vì con người đã có mặt chỉ trong 2,5
triệu năm qua)? Ai cam đoan rằng trong tương lai tôi sẽ tái sinh như một
cyborg, một nhà thám hiểm giữa những chùm sao, hay ngay cả một con
ếch? Dựa đời sống của tôi trên hứa hẹn này thì một chút giống như việc bán
nhà tôi đang ở để nhận một tấm séc ghi ngày rút tiền trong tương lai, từ một
nhà băng trên những tầng mây.
Những người ngờ rằng một vài loại của hồn người hay
tinh thần thực sự sống sót sau cái chết của họ, do đó cố gắng để lại đằng sau
một gì đó một chút hữu hình hơn. ‘Một gì đó hữu hình’ có thể có một trong
hai dạng: văn hóa hay sinh học. Tôi có thể để lại một bài thơ, hay một số
gene di truyền quý giá của tôi. Cuộc đời tôi đã có ý nghĩa vì một trăm năm
sau người ta vẫn đọc bài thơ của tôi, hay vì những con cháu tôi sẽ vẫn có mặt
quanh đây. Và thế còn ý nghĩa của cuộc đời của chúng là gì? Vâng, đó
là vấn đề của chúng, không phải của tôi. Ý nghĩa của cuộc đời như vậy
giống một chút như chơi với một quả lựu đạn có chốt. đã tháo sẵn Một khi
bạn chuyền nó sang tay người khác, bạn an toàn!
Than ôi, hy vọng khiêm tốn của chỉ ‘để lại một gì
đó đằng sau’ này hiếm khi được hoàn thành. Hầu hết những sinh vật từng tồn tại
đều đã tuyệt chủng, không để lại một bất kỳ kế thừa di truyền nào. Hầu hết
tất cả những loài đai-na-so, lấy thí
dụ. hay một gia đình Neanderthal đã tuyệt chủng khi Sapiens chiếm chỗ khắp quả
đất. Hay gia tộc của bà tôi ở Poland. Năm 1934, bà Fanny của tôi di cư đến
Jerusalem với cha mẹ và hai chị em, nhưng hầu hết những người thân của họ vẫn ở
lại trong hai thị trấn Chmielnik và Częstochowa ở Poland. Một vài năm sau,
những người Nazi đã đến và xóa sạch họ đến đứa trẻ cuối cùng.
Những gắng sức trong việc để lại sau lưng một vài di
sản văn hóa đều hiếm khi thành công hơn. Không gì đã còn lại của họ hàng
nhà bà tôi ở Poland, trừ một vài khuôn mặt phai mờ trong album gia đình, và ở
tuổi chín mươi sáu, ngay cả bà tôi cũng không thể ghép những tên người nào với
những khuôn mặt nào. Theo như mức tôi biết, họ đã không để lại một bất kỳ
sáng tạo văn hóa nào – không một bài thơ, không một nhật ký, ngay cả cũng không
một sổ ghi chép chi tiêu vặt vãnh những món hàng tạp hóa. Bạn có thể biện
luận rằng họ có một phần trong thừa kế tập thể của những người Jew, hay của
phong trào Zion-nít, nhưng điều đó hầu như khó để nói là có mang lại ý nghĩa
nào cho cuộc đời cá nhân của họ. Hơn nữa, làm sao bạn biết tất cả họ đã
thực sự yêu quí bản sắc nhận diện dân tộc Jew của họ, hay đã đồng ý với phong
trào Zion-nít? Có lẽ một trong số họ đã là một người cộng sản trung thành,
và đã hy sinh đời mình khi làm gián điệp cho USSR? Có lẽ một người khác đã
không muốn gì hơn là đồng hóa vào xã hội Poland, và đã phục vụ như một sĩ quan
trong quân đội Poland, và bị quân đội USSR giết trong vụ thảm sát
Katyn? Có lẽ một người thứ ba là một người có lập trường cấp tiến phụ nữ
bình quyền, từ chối tất cả những bản sắc tôn giáo và truyền thống dân
tộc? Vì họ không để lại gì đằng sau, là điều tất cả quá dễ dàng để sau khi
họ đã chết đem gán chọn cho họ với sứ mạng này hay nọ, và họ không thể ngay cả
phản đối.
Nếu chúng ta không thể để lại một gì đó hữu hình
đằng sau – chẳng hạn như một gene di truyền hay một bài thơ – có lẽ là đủ nếu
chúng ta chỉ làm thế giới thành tốt hơn một chút? Bạn có thể giúp một ai
đó, và một ai đó nối tiếp sẽ giúp một ai đó khác, và như thế bạn góp phần vào
việc cải thiện chung cho thế giới, và tạo thành một móc nối nhỏ trong chuỗi kết
nối lớn lao của sự tốt lành tử tế. Có thể bạn làm cố vấn đỡ đầu cho một
đứa trẻ gặp hoàn cảnh khó khăn nhưng thông minh, đứa trẻ sau đó là một y sĩ cứu
sống hàng trăm người? Có lẽ bạn giúp một bà cụ già băng sang đường, và đã
làm sáng lên một giờ của đời bà cụ cô quạnh? Mặc dù nó có giá trị của nó,
chuỗi lớn lao tuyệt vời của lòng tốt lành thì một chút giống như chuỗi lớn
những con rùa – nó còn rất xa với việc rõ ràng về ý nghĩa của nó đến từ
đâu. Một cụ già khôn ngoan đã được hỏi những gì cụ đã học về ý nghĩa của
đời sống. ‘Vâng,’ cụ trả lời, ‘Tôi đã học được rằng tôi ở đây trên trái đất là
để giúp đỡ những người khác. Những gì tôi vẫn chưa tìm ra được là tại sao
những người khác lại ở đây.’
Đối với những ai là người không tin tưởng bất kỳ
chuỗi lớn lao nào, bất kỳ di sản tương lai nào, hay bất kỳ anh hùng ca tập thể
nào, có lẽ là câu chuyện an toàn nhất và giản dị tiện tặn nhất mà họ có thể
quay sang là lãng mạn. Nó không tìm cách vượt khỏi ở đây và bây
giờ. Như vô số những bài thơ tình yêu làm chứng, khi bạn đang yêu, toàn bộ
vũ trụ thu giảm xuống vành tai, hàng mi hay núm vú ngực của người bạn
yêu. Khi ngắm Juliet dựa má vào tay nàng, Romeo kêu lên ‘Ôi, ước rằng tôi
là một chiếc găng tay trên bàn tay đó, rằng tôi có thể chạm vào má đó!’ Bằng
kết nối với một thân thể duy nhất ở đây và lúc này, bạn cảm thấy kết nối với
toàn bộ vũ trụ.
Thực sự, người yêu của bạn thì chỉ là một con người
khác, yếu tính không có gì khác với vô số người hàng ngày bạn vẫn dửng dưng với
họ trên tàu điện và trong siêu thị. Nhưng với bạn, anh ta hay cô ấy xem
dường là vĩnh cửu, và bạn sung sướng khi đánh mất tự thân, ‘tan mình’ trong
vĩnh cửu đó. Những nhà thơ thần bí trong tất cả những truyền thống đều
thường thổi phồng tình yêu lãng mạn với sự hòa nhập cùng vũ trụ, viết về Gót
như về một người yêu. Những nhà thơ lãng mạn đã đáp trả sự khen tặng bằng viết
về những người yêu của họ như những gót, hay những thiên thần. Nếu bạn
thực sự yêu một ai đó, bạn không bao giờ lo lắng về ý nghĩa của cuộc đời.
Và nếu bạn không yêu ai cả thì sao? Vâng, nếu
bạn tin vào câu chuyện lãng mạn nhưng bạn không yêu đương, ít nhất bạn cũng
biết mục tiêu của cuộc sống là gì: để đi tìm tình yêu chân thực. Bạn đã
thấy nó trong vô số phim ảnh và đọc về nó trong vô số sách. Bạn biết rằng
một ngày nào đó bạn sẽ gặp một người nào đó đặc biệt đó, bạn sẽ thấy ‘thiên
thu’ trong hai mắt lấp lánh, toàn bộ đời sống của bạn sẽ đột nhiên có ý nghĩa,
và tất cả những câu hỏi mà bạn từng có sẽ được trả lời bằng việc lập đi lập lại
tên một người, giống như Tony trong Câu chuyện ở phía Tây Thành phố [21]
hay ‘chàng’ Romeo
khi thấy ‘nàng’ Juliet từ ban công trông xuống thấy mình.
Sức Đè Của Mái Nặng
Trong khi một câu chuyện hay phải cho tôi một vai
trò, và phải vượt quá khỏi những chân trời của tôi, nó không cần phải là sự
thật. Một câu chuyện có thể là thuần túy tưởng tượng, nhưng cung cấp được
cho tôi với một bản sắc nhận diện và làm tôi cảm thấy rằng đời sống của tôi có
ý nghĩa. Thật vậy, với hiểu biết tốt nhất về khoa học của chúng ta, không
một nào trong số hàng nghìn câu chuyện của những văn hóa, tôn giáo và bộ tộc
khác nhau đã sáng tác ra trong suốt lịch sử là sự thật. Chúng chỉ là những
tạo tác của con người. Nếu bạn hỏi ý nghĩa thực sự của đời sống và nhận
được trả lời bằng một câu chuyện, biết ngay rằng đây là trả lời sai. Những chi
tiết chính xác thì thực sự không quan trọng. Bất kỳ câu chuyện
nào cũng sai, chỉ đơn giản vì nó là một chuyện kể. Vũ trụ chỉ không hoạt động
như một chuyện kể.
Vậy tại sao người ta tin vào những hư cấu
này? Một lý do là bản sắc nhận diện cá nhân của họ thì được dựng trên câu
chuyện. Người ta đã được dạy để tin vào câu chuyện ngay từ thơ ấu. Họ
nghe nó từ những bậc cha mẹ, những thày giáo, hàng xóm và văn hóa chung của họ,
rất lâu trước khi họ phát triển sự độc lập trí tuệ và tình cảm cần thiết để đặt
câu hỏi và dò xét những câu chuyện loại đó. Đến khi trí tuệ của họ trưởng
thành, họ đã chồng chất để gửi gấm rất nhiều vào câu chuyện, khiến nhiều phần
xảy ra là họ sẽ dùng trí tuệ của họ để làm câu chuyện thành hợp lý hơn, thay vì
để hoài nghi nó. Hầu hết những người tiếp tục công việc đi tìm bản sắc
nhận diện, cũng giống như trẻ em chơi trò đi tìm kho báu chôn dấu. Họ chỉ
tìm thấy những gì cha mẹ họ đã dấu sẵn trước đó cho họ.
Thứ hai, không chỉ những bản sắc nhận diện cá nhân
của chúng ta nhưng cũng cả những tổ chức tập thể của chúng ta cũng được xây
trên câu chuyện kể. Do đó, nó là hết sức khiếp hãi để nghi ngờ câu
chuyện. Trong nhiều xã hội, bất cứ ai cố gắng làm như vậy đều bị khai trừ
hay hãm hại. Ngay cả nếu không thế, phải cần có dũng khí hay đảm lược mạnh mẽ
để đặt câu hỏi về chính giềng mối thêu dệt của xã hội. Vì nếu thực sự câu
chuyện thì sai, sau đó tất cả thế giới như chúng ta biết không có ý nghĩa gì
cả. Luật pháp nhà nước, những tiêu chuẩn xã hội, những thể chế kinh tế – tất cả
đều có thể sụp đổ. [22]
Hầu hết những câu chuyện được giữ lại với nhau do
sức nặng của mái che của chúng, hơn là bởi sức mạnh của những nền móng của
chúng. Hãy xem xét câu chuyện đạo Kitô. Nó có những nền móng hời hợt
mong manh nhất. Chúng ta có bằng chứng gì cho thấy rằng con trai của đấng sáng
tạo vũ trụ đã được sinh ra như một dạng sống dựa trên cácbon ở đâu đó trong giải
Ngân hà cách đây khoảng 2.000 năm? Chúng ta có bằng chứng gì rằng việc thế
đó đã xảy ra trong vùng đất Galilee, và rằng mẹ của người này là một ‘trinh
nữ’? Thế nhưng những tổ chức khổng lồ trên thế giới đã xây đắp trên câu
chuyện kể đó, và sức nặng của chúng đè xuống với sức mạnh khống chế như vậy
khiến chúng giữ câu chuyện kể vững yên tại chỗ. Những chiến tranh khốc
liệt đã được khởi dậy tất cả chỉ vì sự thay đổi một chữ duy nhất trong câu
chuyện. Sự phân lý lớn trong tôn giáo hàng nghìn năm giữa những người Kitô
phương Tây và những người Kitô chính thống phương Đông, đến gần đây vẫn còn tự
thể hiện trong việc bắn giết lẫn nhau, dân Serbs bắn giết dân Croatia và dân
Croatia bắn giết dân Serbs, đã bắt đầu chỉ từ một chữ đơn độc ‘filioque’ (‘và từ con trai’ trong Latin).
Những người Kitô phương Tây muốn chèn từ này vào lời tuyên xưng lòng tin của
người Kitô, trong khi những người Kitô phương Đông kịch liệt phản
đối. (Những ý nghĩa gót học của việc thêm chữ đó thì phức tạp đến tối tăm,
khiến giải thích chúng ở đây là điều không thể nào làm nổi, dù trong bất kỳ
cách nào để có được ý nghĩa. Nếu bạn tò mò, hãy ‘hỏi’ Google.) [23]
Một khi bản sác định tính cá nhân và toàn bộ hệ
thống xã hội được xây dựng trên một câu chuyện, nó trở nên không thể tưởng
tượng nổi, không thể suy nghĩ được để đi đến hoài nghi nó, không phải vì có
bằng chứng nào đó vẫn cho là hỗ trợ được nó, nhưng vì sự sụp đổ của nó sẽ kích
động một tai biến, trời long đất lở cho cá nhân và xã hội. Trong lịch sử,
mái nhà đôi khi quan trọng hơn những nền móng.
‘Úm Ba La, Đây Là Xác Ta’ Và Kỹ Nghệ chế tạo Lòng Tin
Những câu chuyện với ý nghĩa và bản sắc nhận diện
vốn cung cấp cho chúng ta đều là hư cấu, nhưng con người cần để tin vào
chúng. Vậy làm thế nào để làm câu chuyện kể được cảm nhận là thực? Tại sao con người
muốn tin vào câu chuyện là điều rõ ràng, nhưng họ thực sự tin thế nào? Đã
hàng nghìn năm trước, những thày mo, phù thủy và những nhà chăn chiên đã tìm ra
được trả lời: những nghi lễ. Một nghi lễ là một hành động kỳ diệu làm sự
trừu tượng thành cụ thể như bê tông, và hư cấu thành có thực. Yếu tính của
nghi lễ là câu thần chú huyền diệu ‘Hocus
pocus, X là Y!’[24]
Làm thế nào để Christ thành có-thực với những người
sùng mộ ông? Trong nghi lễ gọi là ‘Bí tích Thánh thể’, một thày chăn chiên
cầm một mẩu bánh làm bằng bột mì và một cốc rượu nho, rồi tuyên bố rằng mẩu
bánh này là thịt của Christ, rượu này là máu của Christ, và bằng ăn và uống
chúng, những tín đồ được ‘hiệp thông’, nghĩa là giao tiếp được cùng với
Christ. Còn gì có thể thật hơn việc đang thực sự ‘nếm’ Christ trong ‘mồm’
bạn? Theo tập tục thành truyền thống, nhà chăn chiên đã làm những tuyên bố
trâng tráo này bằng tiếng Latinh, ngôn ngữ cổ xưa của tôn giáo, luật pháp và
của những bí ẩn của đời sống. Trước những con mắt ngẩn ngơ kinh ngạc của
đông đảo những nông dân đang tụ họp, nhà chăn chiên dương lên cao một mẩu bánh
bột mì và kêu lên ‘Hoc est corpus! ’- ‘Đây là thân xác!’ – và mẩu
bánh được cho là đã thành thịt Christ. Trong đầu óc những nông dân mù chữ,
những người vốn một chữ Latin bẻ đôi cũng không biết, ‘Hoc est corpus!’
đã được lập lại lệch lạc thành ‘Hocus
pocus!’ và như thế đã ra đời câu thần chú mạnh mẽ có thể biến một con
ếch thành một hoàng tử, và một quả bí rợ thành một cỗ xe ngựa. [25]
Một nghìn năm trước sự ra đời của đạo Kitô, những
người Hindu thời cổ đã dùng cùng một thủ thuật. Brihadaranyaka Upanishad giải thích nghi lễ hy sinh của một con
ngựa như là một sự thể hiện của toàn thể câu chuyện về vũ trụ. Bản văn đi
theo cấu trúc ‘Hocus pocus, X là Y!’,
khi nói rằng: ‘Đầu của con ngựa đang cúng tế là bình minh, mắt của nó mặt trời,
khí lực là gió, miệng mở là lửa gọi là Vaisvanara,
và cơ thể của con ngựa hy sinh là năm... những phần cơ thể của nó là những mùa,
những khớp của nó trong những tháng và hai tuần, chân của nó trong những ngày
và đêm, xương của nó những ngôi sao, và thịt của nó là những đám mây ... ngáp
của nó là sét, rung lắc cơ thể của nó là sấm sét, nước nó làm là mưa, và tiếng
nó hí là giọng nói.’ [26]
Hầu như bất cứ gì đều có thể được biến đổi vào
thành một nghi lễ, bằng đem cho một ý nghĩa tôn giáo sâu xa với những cử chỉ
trần tục giống như đốt nến, rung chuông, hay đếm chuỗi hạt. Tương tự cũng
đúng như thế với những cử động của thân thế, chẳng hạn như cúi đầu, xụp mình
nằm dài trên đất, hay hai bàn tay chấp vào nhau. Nhiều những hình dạng của
mũ đội đầu, từ turban của người Sikh,
đến hijab của người Muslim, tất cả
đều đã được chất nặng như thế với ý nghĩa, đến nỗi chúng đã khởi dậy những
chiến tranh cuồng nhiệt trong hàng thế kỷ.
Thức ăn cũng có thể được chồng chất với ý nghĩa
tinh thần vượt quá giá trị dinh dưỡng của nó, có thể là trứng Phục sinh tượng trưng cho đời sống mới và sự sống lại của
Christ, hay những loại rau đắng và bánh mì bằng bột không men mà người Jew phải
ăn trong lễ Vượt Qua để nhớ lại thời
nô lệ và sự đào thoát thần diệu của họ ở Egypt. Khó có một món ăn nào trên
thế giới mà không được diễn giải để tượng trưng một gì đó. Thế nên ngày
đầu năm mới, người Jew mộ đạo ăn mật ong để năm tới sẽ được ngọt ngào, họ ăn
đầu cá để họ sẽ sinh sôi nảy nở như cá, và sẽ tiến về trước thay vì lùi về sau,
và họ ăn lựu để những hành động tốt của họ sẽ được nhân lên nhiều như hạt quả
lựu.
Những nghi lễ tương tự cũng được dùng cho những mục
đích chính trị. Trong hàng nghìn năm, những mũ vua đội, ghế vua ngồi và
gậy vua cầm đã tiêu biểu cho những vương quốc và cả những đế quốc, và hàng
triệu người đã chết trong những cuộc chiến tranh tàn khốc dành ‘ngai vàng’ hay
‘vương miện’. Những triều đình cấy trồng những nghi lễ cực kỳ phức tạp, không
kém gì những nghi lễ tôn giáo phức tạp nhất. Trong quân đội, không thể
tách rời kỷ luật và nghi thức, và những người lính, từ Rome thời cổ đến ngày
nay, dành không biết bao nhiêu thì giờ để tập đi cho đều bước theo đội hình, để
chào kính cấp trên, và để đánh giày cho bóng. Napoleon đã có nhận xét nổi
tiếng rằng ông có thể làm người ta hy sinh mạng sống cho một dải ruy băng đầy
màu sắc.[27]
Có lẽ không ai hiểu được sự quan trọng chính trị
của những nghi lễ hay hơn Confucius, người đã nhìn thấy sự tuân thủ nghiêm ngặt
những nghi lễ (li) như là chìa khóa cho sự hài hòa xã hội và sự ổn định
chính trị. Những tác phẩm kinh điển của học thuyết Confucius như Lễ Ký,
Chu Lễ và Nghi Lễ [28] ghi lại trong những chi tiết nhỏ
nhất nghi thức nào nên được thực hiện, vào dịp nào của nhà nước, xuống đến con
số đếm những lư bình cúng tế được dùng trong buổi lễ nào, loại nhạc và nhạc cụ
nào được cử, và áo màu nào được mặc. Bất cứ khi nào nước Tàu bị chấn động
vì một vài khủng hoảng, những học giả theo học thuyết Confucius đã nhanh chóng
đổ lỗi cho sự bỏ bê nghi lễ, giống như một trung sĩ đổ lỗi sự thất bại quân sự
tất cả cho sự chểnh mảng của những người lính đã không đánh giày họ cho thật
bóng. [29]
Ở phương Tây thời nay, sự ám ảnh với những nghi
thức loại như của Confucius thường được xem như một dấu hiệu của sự nông cạn và
sự tồn cổ. Trong thực tế, nó có lẽ làm chứng cho sự thấu hiểm sâu xa và
vượt thời gian của Confucius về bản chất con người. Có lẽ không phải ngẫu
nhiên mà những văn hóa chịu ảnh hưởng tư tưởng Confucius – đầu tiên và quan
trọng nhất ở nước Tàu, mà cũng còn ở Korea, Việt Nam và Japan – đã sản xuất
những cấu trúc chính trị và xã hội cực kỳ lâu dài. Nếu bạn muốn biết sự
thật sau cùng của đời sống, những nghi thức và nghi lễ là một trở ngại
lớn. Nhưng nếu bạn quan tâm – như Confucius – về sự cân bằng và hài hòa xã
hội, sự thật thường là gánh nặng, trong khi những nghi thức và nghi lễ đều là
những đồng minh tốt nhất của bạn.
Điều này thì có ý nghĩa liên quan trong thế kỷ 21,
như đã có ở nước Tàu thời cổ. Sức mạnh của Hocus
Pocus vẫn còn sống và mạnh trong thế giới kỹ nghệ thời nay của chúng ta.
Đối với nhiều người năm 2018, hai cây gậy gỗ đóng đinh lại với nhau thành một
chữ thập là Gót, một tấm poster đầy màu sắc trên tường là Cách mạng, và một
miếng vải phần phật bay trong gió là quốc gia. Bạn không thể nhìn thấy hay
nghe được quốc gia hay nhà nước có tên gọi là France, vì nó chỉ tồn tại trong
trí tưởng tượng của bạn, nhưng bạn chắc chắn có thể thấy lá cờ ba màu và nghe
bài ‘Marseillaise’. Vì vậy, bằng vẫy lá cờ nhiều màu và hát một bài hát,
bạn biến đổi quốc gia từ một câu chuyện trừu tượng thành một hiện thực hữu
hình.
Hàng nghìn năm trước, người Hindu mộ đạo đã hiến
sinh những con ngựa quý – ngày nay họ đầu tư vào việc sản xuất những là cờ tốn
kém. Lá cờ quốc gia của India được gọi là Tiranga (theo nghĩa đen, ba
màu), vì nó gồm ba sọc màu nghệ, trắng và xanh. Bộ luật cờ năm 2002 của
India tuyên bố rằng lá cờ ‘đại diện cho những hy vọng và nguyện vọng của người
dân India. Nó là biểu tượng của niềm tự hào dân tộc của chúng
ta. Trong năm chục năm qua, nhiều người gồm những thành viên những lực
lượng vũ trang đã không tiếc mạng sống của họ để giữ lá cờ ba màu bay trong
trọn vẹn vinh quang của nó.’ [30] Bộ luật Cờ sau đó trích dẫn lời Sarvepalli
Radhakrishnan, tổng thống thứ hai của India, người đã giải thích rằng:
Màu vàng nghệ biểu
thị sự từ bỏ hay lãnh đạm. Lãnh đạo của chúng ta phải thờ ơ với những lợi
ích vật chất và cống hiến bản thân cho công việc. Màu trắng ở giữa là ánh
sáng, con đường của sự thật để hướng dẫn hạnh kiểm. Màu xanh lá cây cho
thấy sự quan hệ của chúng ta với đất, sự quan hệ của chúng ta với cuộc sống
thực vật ở đây mà tất cả những cuộc sống khác tùy thuộc. Bánh xe Ashoka ở
giữa phần màu trắng là bánh xe của pháp luật của dharma. Chân lý hay
Satya, dharma hay đức hạnh phải là nguyên tắc kiểm soát của tất cả những ai làm
việc dưới cờ này. [31]
Năm 2017, chính phủ đảng dân tộc Hindu [32] của India đã treo một
trong những lá cờ lớn nhất thế giới, tại thành phố Attari, biên giới
India-Pakistan, trong một cử chỉ được tính toán không phải nhằm gây hứng khởi
cho việc từ bỏ hay lãnh đạm, nhưng là sự ghen tỵ của Pakistan. Lá cờ ba màu đặc
biệt đó, dài 36 mét và rộng 24 mét, và treo trên một cột cờ cao 110 mét (Freud
sẽ nói gì về cột cờ đó?) [33]. Lá cờ có thể được
trông thấy từ rất xa, từ Lahore, thành phố lớn thứ nhì của Pakistan. Thật không
may, gió mạnh đã liên tục làm rách cờ, và tự hào dân tộc đòi hỏi rằng nó phải
được khâu lại liên tục không ngừng, với chi phí rất lớn cho người đóng thuế
India. [34]
Tại sao chính phủ India phí nguồn tài nguyên khan hiếm vào việc may dệt những
lá cờ khổng lồ, thay vì xây dựng hệ thống cống thải nước bẩn trong những khu ổ
chuột ở thủ đô Delhi? Vì lá cờ làm India thành có-thực theo cách mà hệ thống
cống thoát nước không làm được.
Thật vậy, chính chi phí rất lớn về lá cờ làm nghi
lễ thành hiệu quả hơn. Trong tất cả những nghi lễ, hiến tế hy sinh là mạnh
mẽ hiệu nghiệm nhất, vì trong tất cả mọi sự vật việc trên thế giới, sự khổ đau
là thực nhất. Bạn không bao giờ
có thể làm ngơ được nó hay ngờ vực được nó. Nếu bạn muốn làm người ta thực
sự tin vào một vài hư cấu, dăm ba tượng tượng nào đó, hãy lôi kéo họ làm một hy
sinh cho biểu trưng của nó, hay cho ủy nhiệm của nó. Một khi bạn để một
câu chuyện làm đau lòng, hay cảm động, hay khổ sở; điều đó thường đủ để thuyết
phục bạn rằng câu chuyện là thực. Nếu bạn nhịn ăn, hay ăn kiêng vì Gót đã
ra lệnh bạn làm vậy, cảm giác đói khát hữu hình hiển nhiên làm Gót hiện diện
nhiều hơn bất kỳ pho tượng hay biểu tượng nào [35]. Nếu bạn bị cụt chân
trong một chiến tranh ái quốc, khúc đùi còn lại và xe lăn của bạn làm quốc gia
thành có-thực hơn bất kỳ bài thơ hay bài hát nào. Ở mức độ không to
chuyện, kém phô trương hơn, bằng hành động thà mua thứ pasta kém ngon thay vì
mua thứ pasta ngon hơn nhưng nhập cảng, bạn có thể làm một hy sinh nhỏ thường
ngày khiến bạn cảm thấy đất nước Italy của bạn có thực hơn ngay cả trong siêu
thị. [36]
Dĩ nhiên đây là một ngịch lý, phản lôgích. Nếu
bạn khổ đau vì tin tưởng của bạn vào Gót hay vào quốc gia, điều đó không chứng
minh rằng những tin tưởng của bạn là đúng. Có lẽ bạn chỉ đang phải chịu
cái giá của sự ‘nhẹ dạ cả tin’ của bạn? Tuy nhiên, hầu hết người ta không
thích thú nhận rằng họ là những người ngu dốt, dễ bị lừa dối. Hệ quả là hy
sinh càng nhiều hơn cho một tin tưởng đặc biệt, lòng tin của họ càng trở nên
mạnh mẽ hơn. Đây là bí ẩn ‘hóa sắt thành vàng’ của sự hy sinh. Để đặt
chúng ta dưới quyền năng của mình, việc nhà chăn chiên làm lễ hiến sinh không
cần phải đem cho chúng ta một bất cứ gì – không phải mưa, cũng không phải tiền
bạc, cũng không phải thắng chiến tranh. Thay vào đó, nhà chăn chiên cần lấy đi
một gì đó. Một khi nhà chăn chiên thuyết phục chúng ta làm một vài hy sinh
nào đó đau đớn hay tốn kém, chúng ta bị mắc bẫy.
Nó cũng thành công trong thế giới thương mại
nữa. Nếu bạn mua lại một chiếc ôtô hiệu Fiat cũ, giá $ 2,000, có nhiều
phần xảy ra là bạn sẽ ca thán về nó cho bất cứ ai sẵn lòng nghe. Nhưng nếu
bạn mua một chiếc Ferrari mới tinh, giá 200.000 đôla, bạn sẽ líu lo khen ngợi
nó mọi nơi khắp chốn, không phải vì nó là một chiếc xe tốt quá sức đến như thế,
nhưng vì bạn đã tốn rất nhiều tiền cho nó khiến bạn phải tin rằng nó là điều tuyệt diệu nhất thế gian. Ngay cả trong tình
yêu lãng mạn, bất kỳ một ai có tham vọng làm Romeo hay Werther đều biết rằng
nếu không có hy sinh, không có tình yêu
đích thực. Sự hy sinh không chỉ là một cách để thuyết phục người yêu
của bạn rằng bạn nghiêm trọng thành thật – nhưng đó cũng là một cách để thuyết
phục chính bạn rằng bạn thực sự trong yêu đương. Bạn có nghĩ tại sao phụ nữ
thường đòi những người yêu họ mang đến cho họ những nhẫn đính kim
cương? Một khi người yêu phải chịu một sự hy sinh tiền bạc lớn lao như
vậy, anh chàng phải thuyết phục chính mình rằng nó thì đáng giá cho một nguyên
nhân xứng đáng.
Tự hy sinh thì có tính chất hết sức thuyết phục
không chỉ với chính những người chết vì tôn giáo, nhưng cũng còn cho những
người ngoài cuộc. Ít có những gót, quốc gia hay cách mạng nào có thể tự
duy trì mà không có những tử đạo, những người tự nguyện chết vì nó. Giả sử
bạn đặt câu hỏi nghi ngờ vở kịch thần thánh, thần thoại dân tộc, hay saga cách
mạng, bạn ngay lập tức bị mắng: ‘Nhưng những tử đạo, hay liệt sĩ linh thiêng đã
chết cho điều này! Có phải bạn dám nói rằng họ chết không cho gì
cả? Có phải bạn nghĩ những anh hùng này là những kẻ ngốc? ‘
Đối với những người Muslim Shiite, vở kịch của vũ
trụ đã đến điểm căng thẳng nhất của nó vào ngày Ashura, ngày thứ mười của tháng
Muharram, sáu mươi mốt năm sau Hijrah (ngày 10 tháng 10 năm 680, theo lịch
Kitô). Vào ngày đó, tại Karbala ở Iraq, đội quân của người thoán nghịch tà
ác Yazid đã giết Husayn ibn Ali, cháu trai của nhà tiên tri Muhammad, cùng với
một nhóm nhỏ những người theo Ali. Đối với những người Shiite, sự tử đạo
của Husayn đã đến để tượng trưng cho sự đấu tranh vĩnh cửu của thiện chống ác,
và của người bị áp bức chống bất công. Cũng giống đúng như những người
Kitô lập đi lập lại vở kịch Giêsu để mình chịu đóng đinh để chết, và bắt chước
khổ hành này của Giêsu [37]. Cũng thế, người Shiite
lập lại vở kịch Ashura và bắt chước khổ hành của Husayn. Hàng năm, hàng
triệu người Shiite đổ xô đến ngôi đền thánh ở Karbala, được thành lập nơi Husayn
đã tử đạo, và vào ngày Ashura, Shiites trên khắp thế giới cử hành những nghi lễ
tưởng niệm người chết, trong một vài trường hợp, những tín đồ đã tự đánh mình
bằng xích sắt và và tự cắt thịt mình bằng dao sắc. [38]
Tuy nhiên, sự quan trọng của Ashura không chỉ giới
hạn ở một nơi và vào một ngày nào đó. Ayatollah Ruhollah Khomeini và nhiều
những nhà lãnh đạo Shiite khác đã nhiều lần nói với những tín đồ của phái
Muslim này rằng ‘mỗi ngày là Ashura và mọi nơi là Karbala’. [39] Như thế, chuyện tử đạo của Husayn tại Karbala đem ý
nghĩa cho mọi sự kiện, bất cứ nơi nào, bất cứ lúc nào, và ngay cả những quyết
định trần tục nhất nên được nhìn như có một tác động vào cuộc đấu tranh vũ trụ
vĩ đại giữa thiện và ác. Nếu bạn dám ngờ vực câu chuyện này, bạn sẽ ngay lập tức
được nhắc nhở về Karbala – và nghi ngờ hay chế nhạo việc tử đạo của Husayn thì
đúng là một bất kính xấu xa nhất bạn có thể phạm phải.
Ngoài ra, nếu những người tử đạo thì khó kiếm, và
người ta không sẵn sàng để hy sinh bản thân họ cho tôn giáo, người chuyên tế lễ
tôn giáo, hành lễ hy sinh, đều có thể chọn một người nào khác làm ‘vật hy sinh’
thay thế. Bạn có thể hy sinh một người cho gót Ba’al hận thù [40], trói cọc đốt sống một kẻ
dị giáo, người làm ‘rối đạo’ cho vinh quang lớn lao của Giêsu Kitô, ném đá cho
chết một phụ nữ ngoại tình vì Allah đã dạy như vậy, hay đày những người thù
địch của giai cấp đến Gulag. Một khi bạn làm điều đó, một gì đó hơi giống
thuật luyện giả kim, biến sắt thành vàng, bắt đầu làm pháp thuật của nó với
chính bạn. Khi bạn gây khổ đau cho chính bạn nhân danh một số câu chuyện,
nó cho bạn một lựa chọn: ‘Hoặc là câu chuyện thì đúng thực, hoặc tôi là một kẻ
nhẹ dạ ngu ngốc.’ Khi bạn gây khổ đau cho những người khác, bạn cũng được
cho một lựa chọn: ‘Hoặc là câu chuyện thì đúng thực, hoặc tôi là một kẻ xấu xa
ác độc.’ Và đúng như chúng ta không muốn thừa nhận chúng ta là kẻ ngu, chúng ta
cũng không muốn thừa nhận chúng ta là những kẻ xấu xa ác độc, vì vậy chúng ta
muốn tin rằng câu chuyện là đúng thực.
Tháng 3 năm 1839, tại thành phố Mashhad của Iran,
một phụ nữ người Jew bị khổ sở vì một vài chứng bệnh ngoài da, đã được một
‘lang băm’ địa phương bảo rằng nếu cô ấy đem giết một con chó và rửa tay trong
máu nó, cô sẽ khỏi bệnh. Những người Muslim Shiite coi Mashhad là một
‘thánh địa’, và điều đã xảy ra là người phụ nữ này thực hành cách chữa bệnh ghê
gớm đó nhằm đúng vào ngày Ashura thiêng liêng. Cô bị một số người Shiite theo
dõi trông thấy, những người này tin rằng – hay tuyên bố tin rằng – người phụ nữ
này đã đem giết con chó để báng bổ sự tử đạo ở Karbala. Lời đồn về một sự
phạm thánh không thể tưởng được này nhanh chóng lan khắp những đường phố của
Mashhad. Được một imam địa phương thúc dục, một đám đông giận dữ đã đột
nhập vào khu phố những người Jew sính sống, đốt đền thờ Jew, và giết chết ba
mươi sáu người Jew ngay tại chỗ. Tất cả những người Jew sống sót của
Mashhad sau đó được cho một lựa chọn: hoặc đổi đạo sang Islam ngay lập tức,
hoặc bị giết. Câu chuyện kể lại gớm ghiếc nhơ nhuốc này hầu như không làm
tổn hại danh tiếng của Mashhad là ‘thủ đô tinh thần của Iran’. [41]
Khi chúng ta nghĩ về việc đem người giết làm vật hy
sinh, chúng ta thường có trong đầu những nghi lễ khủng khiếp trong những đền
đài của những tôn giáo tin-nhiều-gót vùng Canaan hay của dân tộc Aztec, và
người ta thường cho rằng tôn giáo tin-chỉ-một-gót đã chấm sự dứt sự thực hành
khủng khiếp này. Trong thực tế, những tôn giáo tin-chỉ-một-gót đã thực hành
giết người hy sinh trên một quy mô còn lớn rộng hơn nhiều so với hầu hết những
tín ngưỡng tin-nhiều-gót. Đạo Kitô và Islam, nhân danh gót ‘chỉ có một’ của họ,
đã giết nhiều người hơn là những tín đồ của Ba’al hay Huitzilopochtli đã
giết. Vào thời điểm những conquistadore
xâm lược Spain đã chấm dứt tất cả những hiến tế hy sinh con người cho những vị
gót của dân Aztec và Inca ở America, nhưng trên quê hương Spain của họ, những
tòa án khủng bố tôn giáo Catô đang thiêu sống hàng xe chở đầy những người ‘dị
giáo’, làm ‘rối đạo’ (với gót Kitô).
Những hy sinh có thể đi vào trong tất cả những hình
dạng và kích thước. Chúng không luôn luôn chỉ gồm những nhà chăn chiên cầm
dao, hay những pogrom đẫm
máu. Đạo Juda, lấy thí dụ, cấm làm việc hay đi lại vào ngày thánh Sabbath
(nghĩa đen của từ ‘sabbath’ là ‘để đứng yên’ hay ‘để nghỉ ngơi’). Ngày
Sa-bát bắt đầu lúc hoàng hôn Thứ Sáu, và kéo dài cho đến khi mặt trời lặn Thứ
Bảy, và giữa hai thời điểm đó, những người đạo Juda Chính thống tránh làm gần
như bất kỳ một công việc nào dù thuộc loại gì, kể cả việc xé giấy vệ sinh từ
một cuộn giấy trong nhà vệ sinh. (Đã có một số thảo luận về điều này giữa
hầu hết những giáo sĩ học thức, và họ đã kết luận rằng xé giấy vệ sinh sẽ phá
vỡ những tabu ngày Sabbath, và do đó những người Jew ngoan đạo, những người
muốn đi vệ sinh trong ngày Sa-bát phải chuẩn bị một tập giấy vệ sinh đã xé sẵn
từ hôm trước. [42] )
Ở Israel, những người Jew mộ đạo thường cố gắng ép
buộc người Jew thế tục và ngay cả những người hoàn toàn tin-không-có-gót phải
tuân giữ những tabu này. Vì những đảng chính trị đạo Juda chính thống
thường nắm cán cân quyền lực chính trị của Israel, qua nhiều năm họ đã thành
công trong việc thông qua nhiều đạo luật cấm tất cả những loại hoạt động trong
ngày Sa-bát. Mặc dù họ không thể cấm tư nhân dùng xe ô tô riêng trong ngày
Sa-bát, họ đã thành công trong việc cấm phương tiện vận chuyển công cộng. Sự
hy sinh vì lý do tôn giáo này trên toàn quốc chủ yếu đánh vào những tầng lớp
nghèo nhất xã hội, đặc biệt ngày thứ bảy là ngày duy nhất trong tuần khi người
lao động được nghỉ, thong thả đi chơi và thăm những người thân, bạn bè và những
địa điểm du lịch xa thành phố. Một cụ bà nội hay ngoại giàu có sẽ không có
khó khăn gì khi lái ô tô mới toanh của cụ đi thăm những đứa cháu ở một thị trấn
khác, nhưng một bà cụ nghèo không thể làm như vậy, vì không có xe buýt hay xe
lửa công cộng.
Bằng gây những khó khăn như vậy cho hàng trăm ngàn
công dân, những đảng tôn giáo chứng minh và củng cố lòng tin vững chắc của họ
trong đạo Juda. Mặc dù không có máu đổ, nhưng hạnh phúc của nhiều người vẫn
đang phải chịu hy sinh. Nếu đạo Juda chỉ là một câu chuyện hư cấu, thì đó
là một sự tàn ác và nhẫn tâm khi ngăn một cụ bà đi thăm cháu mình hay để ngăn
cản một học sinh nghèo với một vài giải trí vui vẻ trên bãi biển. Tuy
nhiên, bằng làm như vậy, những đảng chính trị dựa trên tôn giáo nói với thế
giới – và tự nhủ với chính họ – rằng họ thực sự tin vào câu chuyện tôn giáo và
dân tộc Jew. Điều gì vậy, có phải bạn nghĩ rằng họ thích thú làm thiệt hại
những người khác dù không có lý do dẫu tốt lành hay không?
Sự hy sinh không chỉ làm vững mạnh lòng tin của bạn
vào câu chuyện, nhưng thường thường thế chỗ cho tất cả những bổn phận khác của
bạn với nó. Hầu hết những câu chuyện lớn lao của loài người đã thiết lập
những lý tưởng mà hầu hết người ta không thể hoàn thành. Bao nhiêu người
Kitô thực sự tuân theo mười điều răn đến từng câu từng chữ, không bao giờ nói
dối hay thèm muốn những gì không thuộc của mình? Có bao nhiêu người đạo
Phật đến nay đã đạt đến mức không chấp ngã? Có bao nhiêu người theo chủ nghĩa
xã hội chủ động làm việc hết sức mình trong khi không lấy nhiều hơn mức họ thực
sự cần có?
Không thể sống đến mức lý tưởng, người ta quay sang
để hy sinh như một giải pháp. Một người Hindu có thể nhúng tay vào việc
gian lận thuế, vẫn thỉnh thoảng ghé thăm một cô gái điếm và thường ngược đãi
cha mẹ già của mình, nhưng sau đó tự thuyết phục rằng mình là một người rất đạo
đức, vì người này ủng hộ việc phá bỏ nhà thờ Islam Babri ở Ayodhya, và ngay cả
đã cúng tiền để dựng một đền Hindu thế chỗ. Cũng như ở những thời xa xưa,
thời nay trong thế kỷ 21 cũng vậy, nhiệm vụ tìm kiếm ý nghĩa của con người tất
cả thường cũng kết thúc với một chuỗi tiếp nối gồm những hy sinh.
Hồ sơ bản sắc nhận diện
Những người Egypt, Canaan và Greece thời cổ đã chọn
thái độ ‘lọt trong còn ngoài’, đánh cuộc nhiều mặt trên những hy sinh của
họ. Họ có nhiều thần linh, và nếu một một thần này thất bại, họ hy vọng
rằng vẫn sẽ còn trông mong được vào một thần khác. Vì vậy, họ đã hiến sinh
cho thần nam mặt trời vào buổi sáng, cho thần nữ trái đất vào buổi trưa, và cho
rất nhiều tiên cô và quỷ thần vào buổi tối. Điều đó cũng thế, đã không
thay đổi nhiều. Tất cả những câu chuyện và thần linh mà người ta ngày nay
tin – dù họ là Yahweh, Mammon, Quốc gia, hay Cách mạng – đều không đầy đủ, đầy
những lỗ hổng, và hư hỏng bởi những mâu thuẫn. Do đó người ta hiếm khi đặt
toàn bộ lòng tin trong một câu chuyện. Thay vào đó, họ giữ một hồ sơ gồm
nhiều những câu chuyện và một số bản sắc nhận diện, chuyển từ một này sang một
kia, khi có nhu cầu nổi lên. Những bất đồng trong nhận thức như vậy vốn
thừa kế trong hầu hết những xã hội và những phong trào.
Hãy xem xét một người điển hình ủng hộ phong trào
Tea Party [43]
bằng cách nào đó đánh đồng một tin tưởng nồng nhiệt vào Giêsu Kitô với sự phản
đối mạnh mẽ những chính sách phúc lợi của chính phủ và một sự ủng hộ nhiệt tình
cho Hiệp hội Tay Súng Quốc gia [44]. Không là phải là
chúa Giê-xu đã thiết tha một chút với việc giúp đỡ người nghèo hơn là với việc
bạn tự nai nịt đến tận răng với súng lẫn đạn? Có vẻ như không tương đồng,
nhưng bộ óc con người có rất nhiều ngăn và nhiều phòng, và một số tế bào thần
kinh chỉ là không nói chuyện với nhau. Tương tự, bạn có thể tìm thấy nhiều
trong những người ủng hộ Bernie Sanders [45] có vài tin tưởng mơ hồ
vào một cách mạng tương lai nào đó, trong khi họ cũng tin vào sự quan trọng của
việc đầu tư tiền của bạn một cách khôn ngoan. Họ có thể dễ dàng chuyển
thảo luận từ sự không công bằng trong phân bố tài sản trên thế giới sang thảo
luận về hiệu suất của những đầu tư của họ trong thị trường chứng khoán Wall
Street.
Hầu như không phải ai cũng chỉ có một bản sắc nhận
diện. Không ai chỉ là một người Muslim, hay chỉ là một người Italy, hay
chỉ là một nhà tư bản. Nhưng thỉnh thoảng lại nổi lên một tín ngưỡng cuồng
tín, và nó nhấn mạnh rằng người ta chỉ nên tin vào một câu chuyện và chỉ có một
một bản sắc nhận diện. Trong những thế hệ gần đây, tín ngưỡng cuồng tín
nhất như vậy là chủ nghĩa Phátxít. [46] Chủ nghĩa phát xít nhấn mạnh
rằng người ta không nên tin vào bất kỳ câu chuyện nào ngoại trừ câu chuyện dân
tộc, và không nên có bản sắc nhận diện nào ngoại trừ bản sắc nhận diện dân tộc
của họ. Không phải tất cả những người theo chủ nghĩa dân tộc đều là những người
phát xít. Hầu hết những người theo chủ nghĩa dân tộc đều có tin tưởng lớn
vào câu chuyện của quốc gia của họ, và nhấn mạnh vào những giá trị độc đáo của
quốc gia họ và bổn phận độc đáo họ có với quốc gia họ – nhưng dẫu sao họ vẫn
thừa nhận rằng thế giới còn có nhiều hơn, không chỉ một mình quốc gia
họ. Tôi có thể là một người Italy trung thành với những bổn phận đặc biệt
với quốc gia Italy, và vẫn có bản sắc nhận diện khác. Tôi cũng có thể là
một người theo chủ nghĩa xã hội, một người Catô Rôma, một người chồng, một người
cha, một nhà khoa học và một người ăn chay, và mỗi bản sắc nhận diện này đòi
hỏi thêm những bổn phận. Đôi khi một số bản sắc nhận diện của tôi kéo tôi
vào những hướng khác nhau, và một số bổn phận của tôi đi đến mâu thuẫn với
nhau. Nhưng, đã có ai nói đời sống thì dễ dàng đâu?
Chủ nghĩa phát xít là những gì xảy ra khi chủ nghĩa
dân tộc muốn làm đời sống quá dễ dàng cho chính nó bằng phủ nhận tất cả những bản
sắc nhận diện và bổn phận khác. Đã có rất nhiều lẫn lộn gần đây về ý nghĩa
chính xác của chủ nghĩa Phátxít. Người ta gọi gần như bất cứ ai họ không
thích là ‘một kẻ phát xít’. Thuật ngữ có nguy cơ thoái hóa thành một thuật
ngữ dùng bừa bãi, cho tất cả những mục đích khác nhau. Vậy từ đó thực sự
có nghĩa là gì? Vắn tắt, trong khi chủ nghĩa dân tộc dạy tôi rằng quốc gia
của tôi là duy nhất và tôi có bổn phận đặc biệt với nó, chủ nghĩa Phátxít nói
rằng quốc gia của tôi là tối cao, và tôi nợ quốc gia của tôi những nghĩa vụ độc
quyền. Quốc gia của tôi là điều quan trọng duy nhất trên thế giới, và tôi
không bao giờ nên chuộng lợi ích của bất kỳ nhóm hay cá nhân nào trên lợi ích
của đất nước tôi, bất kể những hoàn cảnh nào. Ngay cả khi quốc gia tôi
cuối cùng chỉ nhận thêm vài lợi ích cỏn con từ việc gây nhiều khổ đau cho hàng
triệu người lạ ở một vùng đất xa xôi, tôi không nên nghĩ ngợi gì, nhưng nhắm
mắt ủng hộ quốc gia tôi. Nếu không, tôi là một kẻ phản bội đê hèn.
Nếu quốc gia của tôi yêu cầu tôi giết hàng triệu
người, tôi phải giết hàng triệu người. Nếu quốc gia tôi yêu cầu tôi hy
sinh gia đình tôi, tôi nên hy sinh gia đình tôi. Nếu quốc gia tôi yêu cầu tôi
phản bội sự thật và cái đẹp, tôi nên phản bội sự thật và cái đẹp.
Một người phát xít đánh giá nghệ thuật thế
nào? Làm thế nào để một người phát xít biết liệu một phim cinê là một phim
cinê hay? Rất đơn giản. Chỉ có một thước đo. Nếu phim phục vụ
lợi ích quốc gia, đó là một phim cinê hay. Nếu phim không phục vụ lợi ích
quốc gia, đó là một phim cinê dở. Và một người phát xít quyết định thế nào
về việc dạy trẻ em ở trường? Người này dùng cùng một thước đo. Dạy
bọn trẻ bất cứ gì phục vụ lợi ích dân tộc; sự thật thì không quan
trọng. [47]
Sự thờ phụng của đất nước thì cực kỳ lôi cuốn,
không chỉ vì nó đơn giản hoá nhiều những đilemma khó khăn, nhưng cũng vì nó
khiến người ta suy nghĩ rằng họ thuộc về điều quan trọng nhất và đẹp nhất trên
thế giới – quốc gia của họ. Những kinh hoàng của Thế Chiến Thứ hai và
Holocaust cho thấy những hậu quả khủng khiếp của dòng suy nghĩ này. Thật
không may, khi người ta nói về những căn bệnh của chủ nghĩa Phátxít, họ thường
làm một công việc tồi, vì họ có khuynh hướng miêu tả phát xít như một con quái
vật gớm ghiếc trong khi không giải thích điều gì quyến rũ về nó. Đây là
tại sao ngày nay người ta đôi khi áp dụng những ý tưởng phát xít mà không nhận
ra nó. Người ta nghĩ, ‘Tôi được dạy rằng chủ nghĩa Phátxít là xấu xí, và
khi tôi nhìn trong gương tôi thấy một gì đó rất đẹp, vì vậy tôi không thể là
người phát xít.’
Nó giống như những sai lầm của phim cinê Hollywood
khi họ trình bày hình ảnh kẻ xấu – Voldemort, Lord Sauron, Darth Vader – như
xấu xí và ác độc. Họ thường tàn nhẫn và khó chịu ngay cả đối với những
người ủng hộ trung thành nhất của họ. Những gì tôi không bao giờ hiểu khi
xem những phim cinê như vậy là tại sao lại cso một người nào sẽ bị cám dỗ để
theo một con nhân vật kinh tởm như Voldemort.
Vấn đề với cái ác là trong đời thực, nó không nhất
thiết là xấu xí. Nó có thể trông rất đẹp. Đạo Kitô biết điều này hay
hơn Hollywood, đó là tại sao mỹ thuật Kitô truyền thống lại có khuynh hướng bày
Sa-tan như một người cao lớn có thân hình quyến rũ tuyệt đẹp. Đó là lý do
để chống lại sự cám dỗ của Satan thì rất khó. Đó cũng là lý do để đối phó
với chủ nghĩa Phátxít thì rất khó. Khi bạn nhìn vào gương soi phát xít,
bạn thấy không có gì xấu cả. Khi người Germany nhìn vào tấm gương phát xít
trong những năm 1930, họ đã coi Germany là điều đẹp nhất trên thế
giới. Nếu hôm nay người Russia nhìn vào tấm gương phát xít, họ sẽ thấy
Russia là đẹp nhất điều trên thế giới. Và nếu người Israel nhìn vào tấm
gương phát xít, họ sẽ thấy Israel là điều đẹp nhất trên thế giới. Sau đó,
họ sẽ muốn buông thả đánh mất chính họ trong cái tập thể xinh đẹp đó.
Từ ‘chủ nghĩa Phátxít’ xuất phát từ ‘fascis’ của tiếng Latinh, có nghĩa là ‘một
bó que gỗ’. Nghe có vẻ giống như một biểu tượng chẳng có gì tán tụng cho
một trong những những hệ ý thức tàn ác và giết người trong lịch sử thế
giới. Nhưng nó có một ý nghĩa sâu xa và đen tối. Một que gỗ đon độc
thì rất yếu, và bạn có thể dễ dàng bẻ nó làm đôi. Tuy nhiên, một khi bạn bó
nhiều que gỗ lại với nhau thành một fascis, nó sẽ trở thành hầu như
không thể bẻ gãy được chúng. Điều này ngụ ý rằng cá nhân là một gì đó
không có hiệu quả, nhưng cho đến chừng nào tập thể bó cứng gắn chặt vào nhau,
nó có quyền lực rất lớn. [48] Những người phát xít
do đó tin vào tính đặc quyền của những lợi ích tập thể hơn là của bất kỳ một cá
nhân nào và đòi hỏi rằng không một que gỗ nào dám bẻ gãy sự thống nhất của cả
bó.
Dĩ nhiên, không bao giờ là điều rõ ràng rằng chỗ
nào một ‘bó que’ người chấm dứt và chỗ khác bắt đầu. Tại sao tôi nên xem
Italy như ‘bó que’ mà tôi thuộc về nó? Tại sao không phải gia đình tôi,
hay thành phố Florence, hay tỉnh Tuscany, hay lục địa Europe, hay toàn thể loài
người? Những hình thức nhẹ của chủ nghĩa dân tộc sẽ bảo tôi rằng tôi thực
sự có thể có bổn phận đối với gia đình tôi, Florence, Europe và toàn thể loài
người, cũng như có bổn phận đặc biệt đối với Italy. Ngược lại, những người
phát xít Italy sẽ đòi hỏi trung thành tuyệt đối với chỉ một mình Italy.
Mặc dù những gắng sức tốt nhất của Mussolini và đảng
phát xít của ông, hầu hết những người Italy vẫn khá thờ ơ về việc đặt Italy
trước famiglia của họ. Ở
Germany, guồng máy tuyên truyền Nazi đã làm được một công việc kỹ lưỡng hơn
nhiều, nhưng ngay cả cả Hitler cũng không làm người ta quên đi tất cả những câu
chuyện có thể thay thế khác. Ngay cả trong những ngày đen tối nhất của thời
Nazi, người ta luôn giữ một số những câu chuyện dự phòng, ngoài câu chuyện
chính thức. Điều này trở nên hiển nhiên rõ ràng năm 1945. Bạn đã nghĩ rằng
sau mười hai năm của Nazi tẩy não nhiều người Germany sẽ hoàn toàn không có khả
năng hiểu được cuộc sống sau chiến tranh của họ. Sau khi đặt tất cả tin tưởng
vào một câu chuyện tuyệt vời, phải làm gì khi câu chuyện đó vỡ tung? Tuy
nhiên, hầu hết những người Germany đã phục hồi với tốc độ đáng kinh
ngạc. Trong nơi nào đó não thức họ đã duy trì một số câu chuyện khác về
thế giới, và không muộn hơn sau khi Hitler tự bắn một viên đạn vào đầu ông,
những người ở Berlin, Hamburg và Munich đã tiếp nhận những bản sắc nhận diện
mới và đã tìm thấy những ý nghĩa mới cho đời sống của họ.
Đúng vậy, khoảng 20% số người thủ lãnh của đảng
Nazi – những lãnh đạo đảng trong khu vực – đã tự sát, cũng như khoảng 10% tướng
lĩnh. [49] Nhưng điều đó có nghĩa là 80% số người người thủ
lãnh và 90% những tướng lĩnh đã hoàn toàn vui vẻ tiếp tục sống. Đại đa số
những ngườiy Nazi có thẻ đảng và ngay cả cả hàng ngũ SS thường, đã không điên
loạn hay tự sát. Họ tiếp tục là những người nông dân, thày giáo, thày
thuốc hay những người bán bảo hiểm bình thường.
Thật vậy, ngay cả tự sát cũng không chứng minh một
cam kết tuyệt đối đối với một câu chuyện duy nhất. Ngày 13 tháng 11 năm
2015, Tổ chức Nhà nước Islam đã xếp đặt một số những tấn công tự sát ở Paris,
giết chết 130 người. Nhóm cực đoan giải thích đã làm như vậy để trả thù
cho vụ không quân France thả bom xuống những phần tử tích cực của Nhà nước
Islam ở Syria và Iraq, bởi và với hy vọng rằng sẽ ngăn cản France không thực
hiện những oanh tạc như vậy trong tương lai. [50] Nhung cùng một giọng điệu, Nhà nước Islam cũng
tuyên bố rằng tất cả Muslim đã bị lực lượng không quân France giết chết đều là
những người tử đạo, hiện đang hưởng hạnh phúc vĩnh cửu trên thiên đàng.
Một gì đó ở đây không có nghĩa lý gì cả. Nếu
thực sự những người tử đạo, đã bị máy bay France giết chết nhưng hiện đang ở
trên thiên đàng, tại sao lại có một ai nên tìm cách trả thù việc đó? Trả thù
gì, chính xác là với ai và vì ai? Vì đã gửi người ta lên thiên
đường? Nếu bạn vừa nghe rằng người anh em thân yêu của bạn đã trúng xổ số
một triệu đôla, bạn có sẽ bắt đầu bắn tung những quầy xổ số để trả
thù? Vậy tại sao lại điên cuồng bắn phá ở Paris vì máy bay quân France đã
cho vài người anh em của bạn một tấm vé không khứ hồi, đi tàu xuốt lên thiên
đường? Ngay cả sẽ là điều tệ hơn nếu bạn thực sự thành công để ngăn chặn
người France thực hiện thêm những vụ thả bom ở Syria. Trong trường hợp đó,
ít người Muslim hơn sẽ được lên thiên đàng.
Chúng ta có thể phải nghiêng sang kết luận rằng
những phần tử hoạt động tích cực của Nhà nước Islam không thực sự tin rằng
những người tử đạo lên thiên đàng. Đó là tại sao họ tức giận khi họ bị thả
bom và giết chết. Nhưng nếu vậy, tại sao một vài người của họ nai nịt chất
nổ đầy người và sẵn sàng tự bắn tung xác thành muôn mảnh vụn? Trong mọi
điều có thể xảy ra, trả lời là họ đã ôm giữ hai câu chuyện mâu thuẫn, không suy
nghĩ quá nhiều về những mâu thuẫn. Như đã nói ở trên, một số tế bào thần
kinh tức giận đã không nói với nhau.
Tám thế kỷ trước, trước khi có những máy bay của
France oanh tạc những vị trí cố thủ của Nhà nước Islam ở Syria và Iraq, một đội
quân khác của France đã xâm lăng Trung Đông, trong những gì về sau gọi là ‘Cuộc
Viễn chinh Thánh chiến Kitô thứ bảy’. Được ‘vua thánh’ Louis IX lãnh đạo,
đoàn lính viễn chinh thánh chiến này hy vọng chiếm Thung lũng sông Nile và đưa
Egypt vào trong vòng thành đạo Kitô. Tuy nhiên, họ đã bị đánh bại trong
trận chiến Mansoura và hầu hết đoàn lính viễn chinh đã bị bắt. Một hiệp sĩ
thánh chiến, Jean de Joinville, sau này viết trong hồi ký của mình, rằng khi họ
thua trận và quyết định đầu hàng, một trong những người trong đoàn nói rằng
‘Tôi không thể đồng ý với quyết định này. Điều tôi khuyên là tất cả chúng
ta nên để mình bị giết, như vậy chúng ta sẽ lên thiên đường’. Joinville bình
luận lạnh lùng rằng ‘không ai trong chúng tôi chú ý đến khuyên bảo của người
này’.
Joinville không giải thích tại sao họ từ
chối. Xét cho cùng, đây là những người đã rời những lâu đài tiện nghi của
họ ở France cho một phiêu lưu dài và nguy hiểm trong vùng Trung Đông, phần lớn
vì họ tin vào hứa hẹn hẹn của sự cứu rỗi vĩnh cửu. Tại sao, sau đó, khi họ
chỉ còn một khoảnh khắc để bước vào hạnh phúc vĩnh cửu của thiên đường Kitô,
nhưng họ lại chọn để bị những người Muslim bắt? Rõ ràng, mặc dù những người
viễn chinh thánh chiến Kitô nhiệt thành tin vào sự cứu rỗi và thiên đường, tại
thời điểm của sự thật, họ đã giữ thái độ ‘lọt trong còn ngoài’, đánh cuộc nhiều
mặt trên những hy sinh của họ.[51]
Siêu thị ở thành phố Elsinore [52]
Suốt lịch sử, trong cùng một thời, hầu như tất cả
con người đều tin vào một số những câu chuyện, và đã không bao giờ hoàn toàn bị
thuyết phục về sự thật của bất kỳ một câu chuyện nào trong số chúng. Sự không
chắc chắn này đã làm hầu hết những tôn giáo bực dọc và lo lắng không yên, do đó
những tôn giáo đã xem tin tưởng như một đức hạnh tối cao (‘đức tin’) và hoài
nghi là trong những tội lỗi ghê gớm xấu xa nhất có thể có. Như thể có một
gì đó là tự nhiên, có yếu tính là tốt trong sự tin tưởng về những sự vật việc
không bằng chứng. Tuy nhiên, với sự phát triển của văn hóa thời nay, những bảng
giá trị đã xoay chiều. Lòng tin tôn giáo ngày càng trông giống như sự nô lệ
tinh thần, trong khi hoài nghi được xem như là một điều kiện tiên quyết cho tự
do tinh thần, khai mở trí tuệ.
Vào khoảng giữa những năm 1599 và năm 1602, William
Shakespeare đã viết Hamlet, có thể xem như phiên bản The Lion King của
ông. Tuy nhiên, không giống như Simba, Hamlet không hoàn tất Vòng lớn
của Sự Sống. Vị hoàng tử này vẫn hoài nghi và lưỡng lự, nước đôi cho đến
tận kết thúc, Hamlet chưa bao giờ tìm ra được cuộc đời là về những gì, và chưa
bao giờ quyết định được cho xong, vẫn phân vân– nên sống hay không nên sống, điều nào tốt hơn? Trong này,
Hamlet là hình ảnh điển hình của người anh hùng thời nay. [53] Thời nay đã không
gạt bỏ số rất đông những câu chuyện mà nó thừa kế từ quá khứ. Thay vào đó,
nó mở một siêu thị cho chúng. Con người thời nay thì tự do để thử mẫu xem
hàng tất cả, chọn lựa và gộp chung bất cứ gì phù hợp với khẩu vị của mình.
Một số người không thể chịu được với có quá nhiều
tự do và không chắc chắn như thế. Thời nay những phong trào độc tài như
chủ nghĩa Phátxít đã phản ứng dữ dội với siêu thị trưng bày những ý tưởng hoài
nghi, và ngay cả đã làm hơn những tôn giáo truyền thống trong sự yêu cầu tin
tưởng tuyệt đối vào một câu chuyện duy nhất. Tuy nhiên, hầu hết người ta
thời nay đều thích siêu thị. Bạn làm gì khi bạn không biết cuộc đời là về
những gì và câu chuyện nào để tin? Bạn đứng mãi trong lối đi giữa những kệ
hàng siêu thị, với khả năng và tự do để lựa chọn bất cứ gì bạn thích. Bạn
đứng mãi mãi trên những lối đi giữa những kệ hàng trong siêu thị, với quyền
năng và tự do để lựa chọn bất cứ gì bạn thích, xem xét những món hàng bày ra trước
bạn, và ... giữ yên khung hình đó, cắt, Dứt Chuyện. Tính tiền vào những
thẻ tín dụng.
Theo như huyền thoại tự do, nếu bạn đứng đủ lâu
trong siêu thị lớn đó, sớm hay muộn bạn sẽ kinh nghiệm sự hiển linh của tự do,
và bạn sẽ nhận ra ý nghĩa thực sự của đời sống. Tất cả những câu chuyện
trên những kệ siêu thị đều là hàng giả. Ý nghĩa của đời sống không là một
sản phẩm làm sẵn. Không có kịch bản thần thánh nào, và không có gì bên
ngoài tôi có thể mang lại ý nghĩa cho đời sống của tôi. Đó là chính tôi là
người cưu mang trong mình tất cả mọi sự vật việc với ý nghĩa qua những lựa chọn
tự do của tôi và qua những tình cảm của riêng tôi.
Trong phim cinê huyễn tưởng Willow
– một câu chuyện thần kỳ cho trẻ em của George Lucas, bình
thường không gì đặc biệt – người anh hùng cùng tên, Willow là một người lùn
bình thường, người mơ ước trở thành một phù thủy vĩ đại và quán triệt những bí
mật của sự là-có. Một ngày, một phù thủy loại như thế đi qua làng của
người lùn để tìm một người học việc. Willow và hai người lùn cùng hy vọng
khác tìm đến ra mắt, và người phù thủy cho những người khao khát này một thí nghiệm
đơn giản. Ông mở rộng bàn tay phải của mình, chìa những ngón tay và hỏi
với giọng nói giống như của nhân vật Yoda (trong cinê Star Wars): ‘Sức mạnh để
kiểm soát thế giới, là ngón tay nào?’ Mỗi người lùn chọn một ngón tay –
nhưng tất cả đều chọn sai. Tuy nhiên, phù thủy nhận thấy một điều gì đó về
Willow, và sau đó hỏi anh ta ‘Khi ta giơ những ngón tay lên, động lực đầu tiên
của anh là gì?’ ’Vâng, đó là ngu ngốc,’ Willow nói với xấu hổ, ‘để chọn
ngón tay của tôi.’ ’Aha!’ người phù thủy kêu lên thắng thế, ‘Đó là trả lời
đúng! Anh thiếu lòng tin vào chính mình.’ Huyền thoại tự do không bao
giờ chán, luôn lập lại bài học này.
Đó là chính những ngón tay con người chúng ta đã
viết những quyển Kinh thánh, Qur’an và Vedas, và đó là não thức của chúng ta đã
đem quyền năng cho những câu chuyện. này. Không nghi ngờ gì, chúng là những câu
chuyện đẹp đẽ, nhưng đẹp đẽ của chúng thì đúng là chỉ thấy trong mắt của nhưng
người nhìn. Jerusalem, Mecca, Varanasi và Bodh Gaya là những thánh địa
linh thiêng, nhưng chỉ vì những kinh nghiệm cảm xúc con người khi họ đến những
nơi đó. Trong tự thân, vũ trụ chỉ là một mớ hỗn độn vô nghĩa của những atom. Không
có gì là đẹp, là thiêng liêng hay là gợi cảm – nhưng những tình cảm của con
người làm nó thành như vậy. Đó chỉ là những cảm xúc của con người đã làm
một quả táo đỏ thành ngon lành quyến rũ và một đống cứt thành kinh
tởm. Lấy đi cảm xúc con người, và bạn còn lại với một đống nhỏ của những
molecule.
Chúng ta hy vọng tìm được ý nghĩa bằng đặt chính
mình vừa vặn vào một số câu chuyện về vũ trụ đã có-sẵn, nhưng theo cách giải
thích của tư tưởng tự do về thế giới, sự thật chính xác là ngược lại. Vũ
trụ không cho tôi ý nghĩa. Tôi cho vũ trụ ý nghĩa. Đây là
‘thiên chức’ vũ trụ của tôi. Tôi không có số phận cố định, hay
dharma. Nếu tôi đặt mình trong tư thế của Simba hay Arjuna, tôi có thể
chọn để chiến đấu cho ngai vàng của một vương quốc, nhưng tôi không buộc phải
làm thế. Tôi cũng có thể nhập đoàn xiếc rong đi diễn lang thang, đi đến
Broadway để hát trong một vở nhạc kịch, hay dời đến Thung lũng Silicon và khởi
dựng một công ty kỹ thuật mới rồi sẽ phát triển nhanh chóng. Tôi thì tự do
để tạo dharma của riêng mình.
Như vậy, giống như tất cả những câu chuyện vũ trụ
khác, câu chuyện tự do cũng bắt đầu với một thuật kể về sự sáng tạo. Nó
nói rằng sự sáng tạo xảy ra trong mọi khoảnh khắc, và tôi là người sáng tạo.
Vậy thì mục đích của cuộc đời tôi là gì? Để tạo ra ý nghĩa bằng tình cảm,
bằng suy nghĩ, bằng ham muốn, và bằng phát minh. Bất cứ gì giới hạn sự tự
do của con người để cảm nhận, để suy nghĩ, ham muốn và phát minh, đều là hạn
chế ý nghĩa của vũ trụ. Vì thế tự do với những hạn chế như vậy là lý tưởng
tối cao.
Trong thực tiễn, những người tin vào câu chuyện tự
do sống dưới ánh sáng của hai điều răn: sáng tạo, và chiến đấu cho tự
do. Sáng tạo có thể hiển thị chính nó bằng viết một bài thơ, khám phá đời
sống tình dục của bạn, phát minh một app
mới, hay tìm ra được một hóa chất đến nay vẫn chưa rõ. Chiến đấu vì tự do
bao gồm mọi sự vật việc nhằm giải phóng người ta khỏi những ràng buộc xã hội,
sinh lý và vật chất, có thể là biểu tình chống lại những nhà độc tài tàn bạo,
dạy những cô gái (nghèo) cho họ biết chữ, tìm cách chữa trị những bệnh ung thư,
hay xây dựng một tàu vũ trụ. Đền thờ những anh hùng của huyền thoại tự do có
những tượng của Rosa Parks và Pablo Picasso cùng với Louis Pasteur và anh em
nhà Wright.
Điều này nghe có vẻ hết sứclôi cuốn thú vị và sâu
xa Trên lý thuyết. Không may, sự tự do của con người và sự sáng tạo của
con người không là những gì mà câu chuyện tự do tưởng tượng ra chúng. Theo
hiểu biết khoa học tốt nhất của chúng ta, không có phép thuật nào đằng sau sự
lựa chọn và sáng tạo của chúng ta. Chúng là sản phẩm của hàng tỷ neuron
trao đổi những tín hiệu sinh hóa, và ngay cả nếu bạn giải phóng con người khỏi
ách xiềng xích của hội Nhà thờ Catô Rôma hay của USSR, lựa chọn của họ vẫn sẽ
là được quyết định bởi những algorithm sinh hóa, cũng tàn nhẫn như của những
tòa án tôn giáo Catô khủng bố tín đồ, hay của cơ quan mật vụ KGB.
Câu chuyện tự do hướng dẫn tôi tìm kiếm sự tự do để
diễn tả và thể hiện chính tôi. Nhưng cả ‘tự ngã’ và tự do đều là những
quái vật đầu sư tử đuôi rồng thần thoại [54] được mượn từ những chuyện
thần tiên của Hellas thời cổ. Chủ nghĩa tự do có một sự bối rối lẫm lộn
đặc biệt về khái niệm ‘ý chí tự do’. Con người rõ ràng có ý chí, họ có
những ham muốn, và đôi khi họ tự do thực hiện những ham muốn của mình. Nếu
nói ‘ý chí tự do’, bạn muốn nói với nghĩa là tự do để làm những gì bạn mong muốn – thế thì có, con người có ý chí tự
do. Nhưng nếu nói ‘ý chí tự do’ bạn muốn nói với nghĩa là có tự do để chọn lựa những gì để mong muốn – thế
thì không, con người không có ý chí tự do.
[55]
Nếu tôi cảm thấy có
thu hút tình dục với phái nam, tôi có thể có tự do để hiện thực những tưởng
tượng của mình, nhưng tôi không có tự do để cảm thấy được thu hút tình dục với
phái nữ, thay vào đó. Trong một vài trường hợp, tôi có thể quyết định kiềm
chế những thôi thúc tình dục của tôi, hay ngay cả thử một điều trị tâm lý ‘chuyển
hướng tình dục’, nhưng chính mong muốn để thay đổi khuynh hướng tình dục của
tôi là một gì đó những neuron của tôi thúc đẩy tôi, có lẽ được kích động từ
những thành kiến văn hóa và tôn giáo. Tại sao một người cảm thấy xấu hổ
về tình dục của mình và cố gắng thay đổi nó, trong khi một người khác vui vẻ
với những ham muốn tình dục cũng như thế nhưng không dấu vết mảy may nào truy
về tội lỗi? Bạn có thể nói rằng người trước có thể có những cảm xúc tôn giáo
mạnh mẽ hơn người sau. Nhưng người ta có tự do lựa chọn để có những cảm
xúc tôn giáo mạnh hay yếu không? Lại nữa, một người có thể quyết định đi
nhà thờ vào mỗi Chủ Nhật trong một gắng sức có ý thức để làm mạnh thêm những
cảm xúc tôn giáo yếu đuối của mình – nhưng tại sao một người khao khát để được là
tôn giáo hơn, trong khi một người khác hoàn toàn hạnh phúc vẫn là một người
tin-không-có-gót? Điều này có thể là kết quả của một số lượng bất kỳ nào đó
về khuynh hướng văn hóa và di truyền, nhưng nó không bao giờ là kết quả của ‘ý
chí tự do’.
Những gì là đúng với ham muốn tình dục cũng đúng
với mọi ham muốn, và thực sự với tất cả những cảm xúc và những suy
nghĩ. Chỉ cần xem xét ý nghĩ kế tiếp nảy lên trong não thức của
bạn. Nó từ đâu đến? Bạn có tự do lựa chọn nó để suy nghĩ, và chỉ sau
đó bạn mới nghĩ về nó? Chắc chắn không. Tiến trình tự khám phá bắt
đầu với những sự vật việc đơn giản, và dần trở nên khó khăn hơn. Lúc đầu,
chúng ta nhận ra rằng chúng ta không kiểm soát thế giới bên ngoài chúng ta. Tôi
không quyết định khi nào trời mưa. Sau đó, chúng ta nhận ra rằng chúng ta
không kiểm soát những gì đang xảy ra bên trong cơ thể của chính chúng
ta. Tôi không kiểm soát mức huyết áp. Tiếp theo, chúng ta hiểu rằng
chúng ta ngay cả không điều khiển bộ óc của mình. Tôi không bảo với những
neuron khi nào chúng ‘bắn’ những tín hiệu. Cuối cùng chúng ta nên nhận ra
rằng chúng ta không kiểm soát những ham muốn của chúng ta, hay ngay cả những
phản ứng của chúng ta với những ham muốn này.
Nhận thức được điều này có thể giúp chúng ta bớt bị
ám ảnh hơn về những ý kiến của mình, về những cảm xúc của chúng ta, và về
những ham muốn của chúng ta. Chúng ta không có ý chí tự do, nhưng chúng ta có
thể có một chút tự do hơn với sự bạo ngược của ý chí của chúng ta. Con người
thường đem cho những ham muốn của họ quá nhiều quan trọng đến mức họ cố gắng
kiểm soát và thay hình đổi dạng toàn thế giới theo như những ham muốn
này. Trong việc theo đuổi những ham muốn của họ, con người bay lên tận mặt
trăng, khởi những thế chiến, và phá mất sự ổn định của toàn bộ hệ sinh
thái. Nếu chúng ta hiểu rằng những ham muốn của chúng ta không là những
biểu hiện huyền diệu của ý chí tự do, nhưng đúng hơn là sản phẩm của những tiến
trình sinh hóa (chịu ảnh hưởng của những yếu tố văn hóa ngoài kiểm soát của
chúng ta), chúng ta có thể ít bận tâm hơn với chúng. Điều là tốt hơn để
hiểu chính mình, não thức của chúng ta và những mong muốn của chúng ta thay vì
cố gắng để thực hiện bất cứ gì tưởng tượng bật lên trong đầu của chúng ta.
Và để hiểu chính mình, một bước quan trọng là phải
thừa nhận rằng ‘tự ngã’ là một câu chuyện hư cấu của tưởng tượng, rằng những cơ
chế tinh vi phức tạp của não thức chúng ta liên tục sản xuất, cập nhật và viết
lại. Có một người kể chuyện trong đầu tôi giải thích tôi là ai, tôi từ đâu
đến, nơi tôi đang hướng đến đâu, và những gì đang xảy ra ngay bây
giờ. Giống như những người phát ngôn của chính phủ, người giải thích những
biến động chính trị mới nhất, người tường thuật bên trong liên tục sai lầm,
nhưng hiếm khi, nếu có, thú nhận nó. Và cũng giống như chính phủ dựng lên
một huyền thoại quốc gia với cờ, biểu tượng và diễn hành, cũng giống vậy bộ máy
tuyên truyền bên trong tôi dựng lên một huyền thoại cá nhân với những kỷ niệm
được đề cao, và những chấn thương tâm lý ấp ủ vốn thường rất ít giống với sự
thật.
Trong thời ngày nay của Facebook và Instagram, bạn
có thể quan sát tiến trình tạo dựng huyền thoại này rõ ràng hơn bao giờ hết, vì
một số đã được giao khoán cho cômputơ, bên ngoài não thức. Đó là kinh dị
và khiếp sợ khi nhìn những người dành không biết bao nhiêu thì giờ để tạo dựng
và tô điểm một tự ngã online toàn
hảo, sau khi trở nên gắn liền với sự sáng tạo riêng của chính họ và nhầm lẫn nó
với sự thật về bản thân họ. [56] Đó là như thế nào một dịp nghỉ lễ, hay nghỉ mát
toàn gia đình, nhưng đầy những tắc nghẽn giao thông, những cãi vặt nhỏ và những
im lặng căng thẳng trở thành một sưu tập của những tấm ảnh toàn cảnh đẹp đẽ,
những bữa ăn tối toàn hảo, và những khuôn mặt tươi cười; 99% những gì
chúng ta kinh nghiệm không bao giờ trở thành phần của câu chuyện về tự ngã.
Điều đặc biệt đáng ghi nhận là tự ngã tưởng tượng
của chúng ta thường nghiêng sang là rất hình ảnh, trong khi kinh nghiệm thực tế
của chúng ta đều là thân xác vật chất. Trong tưởng tượng, bạn quan sát một
cảnh tượng trong mắt của não thức bạn hay trên màn ảnh cômputơ. Bạn thấy
mình đứng trên một bãi biển nhiệt đới, biển xanh phía sau bạn, một nụ cười lớn
trên mặt bạn, một tay cầm một ly cocktail, tay kia quàng quanh eo người yêu của
bạn. Thật là thiên đường. Những gì hình ảnh không trưng bày là con ruồi
khó chịu, đang cắn chân bạn, cảm giác quặn bụng của bạn sau bữa tối ăn súp nấu
với cá thiu, căng thẳng trong hàm mặt bạn khi bạn đang giả bộ có một nụ cười
lớn, và dư vị cuộc cãi nhau xấu xí vừa mới có chỉ năm mười phút trước, của lứa
đôi bây giờ trông hạnh phúc. Nếu chúng ta có thể chỉ cảm nhận được người
trong ảnh cảm thấy những gì trong khi họ đang chụp ảnh!
Do đó nếu bạn thực sự muốn hiểu chính bạn, bạn
không nên định tính bản sắc với những gì ghi trong sổ ghi tên với Facebook của
bạn, hay với câu chuyện bên trong của bản thân. Thay vào đó, bạn nên quan
sát dòng chảy hiện thực của cơ thể và não thức. Bạn sẽ thấy những suy
nghĩ, những cảm xúc và những ham muốn xuất hiện và biến mất mà không có nhiều
lý do và không có bất kỳ mệnh lệnh nào từ bạn, cũng giống như những cơn gió
khác nhau thổi từ hướng này hay hướng kia và làm rối tóc bạn. Và cũng
giống như bạn không là gió, vì vậy cũng bạn không là đám hỗn độn của những suy
nghĩ, cảm xúc và mong muốn mà bạn kinh nghiệm, và bạn chắc chắn không là câu
chuyện được chải chuốt sạch sẽ mà bạn kể về chúng với hiểu biết muộn màng đến
sau. Bạn kinh nghiệm tất cả chúng, nhưng bạn không kiểm soát chúng, bạn không
sở hữu chúng, và bạn không là chúng. Người ta hỏi ‘Tôi là ai?’ và
mong được kể một câu chuyện. Điều đầu tiên bạn cần biết về bản thân bạn, là bạn
không là một câu chuyện.
Không là câu chuyện
Chủ nghĩa tự do đã tiến một bước triệt để trong sự
phủ nhận tất cả những vở kịch vũ trụ, nhưng sau đó đã dựng trở lại vở kịch bên
trong con người – vũ trụ không có tình tiết cốt truyện, vì vậy là tùy vào con
người chúng ta để tạo ra một cốt truyện, và đây là ‘nghề nghiệp chọn lựa’ của
chúng ta và ý nghĩa của đời sống của chúng ta. Hàng nghìn năm trước thời
chủ nghĩa tự do của chúng ta, đạo Phật thời cổ đã tiến xa hơn nữa bằng phủ nhận
không chỉ tất cả những vở kịch vũ trụ, mà ngay cả những vở kịch bên trong do sự
sáng tạo của con người. Vũ trụ không có ý nghĩa, và những tình cảm của con
người cũng không là phần của một câu chuyện vũ trụ vĩ đại. Chúng là những
rung động thoáng qua, hiện ra và mất đi không vì mục đích riêng biệt
nào. Đó là sự thật. Hãy nhận lấy nó và sống tiếp.
Như đã ghi nhận ở trên, Brihadaranyaka
Upanishad nói với chúng ta rằng ‘Đầu con ngựa hy sinh là bình minh,
mắt của nó mặt trời ... những phần thân xác nó là những mùa, khớp của nó những
tháng và nửa tháng, chân của nó là ngày và đêm, xương của nó những vì sao và
thịt của nó là những đám mây.’ Ngược lại, Mahasatipatthana Sutta, một
bản văn then chốt đạo Phật [57], giải thích rằng khi một
người thiền định, người đó cẩn thận quán sát cơ thể, ghi nhận rằng ‘Trong cơ
thể này, có tóc trên đầu, lông trên da, móng tay, răng, da, thịt, gân, xương,
tủy, thận, tim… nước miếng, nhầy mũi, chất lòng khớp xương và nước
tiểu. Như thế, người ấy ta quán sát cơ thể … Bây giờ sự hiểu biết của
người ấy được thành lập: “Đây là cơ thể!” [58] Những lông tóc, xương hay nước tiểu không thay mặt cho một gì
khác. Chúng chỉ là những gì chúng đang là.
Trong đoạn này tiếp đoạn sau, bản văn tiếp tục để
giải thích rằng không kể rằng người ngồi thiền quán sát trong cơ thể hay trong
não thức, người ấy chỉ hiểu nó như nó là. Vì
vậy, khi một nhà sư thở, ‘Thở vào một hơi thở dài, người ấy hiểu đúng “Tôi đang
vào một hơi thở dài”. Thở vào một hơi thở ngắn, người ấy hiểu đúng “Tôi đang
thở vào một hơi thở ngắn.” [59] Hơi thở dài không đại
diện cho những mùa và hơi thở ngắn không đại diện cho những ngày. Chúng
chỉ là những dao động trong cơ thể.
Đức Phật đã dạy rằng ba thực tại cơ bản của vũ trụ
là mọi sự vật việc thì đều liên tục thay đổi, không gì có một bất kỳ bản thể
vĩnh cửu nào, và không gì thì được hoàn toàn thỏa mãn. [60] Bạn có thể thăm dò
những nơi xa nhất đến được của thiên hà, của cơ thể bạn, hay trong não thức bạn
– nhưng bạn sẽ không bao giờ gặp một gì đó vốn không thay đổi, vốn có bản thể
vĩnh cửu, và vốn làm bạn hoàn toàn vừa lòng.
Khổ đau xuất hiện vì người ta thất bại, không thấu
hiểu điều này. Họ tin rằng có một vài bản thể vĩnh cửu ở đâu đó, và nếu họ
có thể chỉ tìm thấy nó và kết hợp với nó, họ sẽ được hoàn toàn hài lòng, sung
sướng. Bản thể vĩnh cửu này đôi khi được gọi là Gót, đôi khi là quốc gia,
đôi khi là linh hồn, đôi khi bản ngã đích thực, và đôi khi tình yêu chân thực –
và người ta càng gắn bó với nó nhiều bao nhiêu, người ta càng trở nên thất vọng
và khốn khổ hơn bấy nhiêu, vì thất bại, không tìm thấy được nó. Tệ hơn
nữa, sự gắn bó càng lớn trong những người loại như thế, phát triển sự căm ghét
càng lớn hơn hướng về bất kỳ một người, nhóm hay tổ chức nào nếu bị xem như
đứng chắn giữa họ và mục tiêu ấp ủ của họ.
Theo đức Phật, sau đó, đời sống (tự nó) không có ý
nghĩa, và người ta không cần phải tạo ra bất kỳ ý nghĩa nào (cho nó). Họ
chỉ cần nhận ra rằng không có ý nghĩa, và như thế được giải thoát khỏi những
khổ đau gây nên bởi những chấp trước ràng buộc của chúng ta và sự xác định bản
sắc nhận diện của chúng ta với những hiện tượng trống không. ‘Tôi nên làm gì?’ người ta hỏi, và Phật khuyên:
‘Đừng làm gì cả. Tuyệt đối làm
không gì cả’. Toàn bộ vấn đề là chúng ta liên tục làm một gì
đó. Không nhất thiết trên tầng mức cơ thể – chúng ta có thể ngồi bất động
trong nhiều giờ với mắt khép kín – nhưng ở tầng mức tinh thần, chúng ta vô cùng
bận rộn tạo ra những câu chuyện và những bản sắc nhận diện, tả xung hữu đột
chiến trận và chiến thắng khải hoàn. Để thực sự không làm gì cả, có nghĩa
là não thức cũng vậy, không làm gì cả và không tạo gì cả.
Thật không may, điều này cũng thế, rất dễ biến
thành một sử thi anh hùng. Ngay cả khi bạn ngồi với mắt nhắm và quán sát
hơi thở vào và ra qua mũi, bạn cũng rất có thể bắt đầu xây dựng những câu
chuyện về nó. ’Hơi thở của tôi bị dồn hơi mạnh, và nếu tôi thở bình tĩnh
hơn, tôi sẽ trở nên khỏe mạnh hơn’, hay ‘nếu tôi chỉ tiếp tục quán sát hơi thở
của tôi và không làm gì cả, tôi sẽ trở thành giác ngộ, và là người khôn ngoan
nhất và hạnh phúc nhất trên thế giới’. Sau đó, câu chuyện anh hùng bắt đầu mở
rộng và người ta bắt tay vào một sứ mệnh không chỉ để tự giải thoát mình khỏi
những chấp trước, nhưng còn thuyết phục những người khác làm như vậy. Đã
chấp nhận rằng đời sống không có ý nghĩa tự thân, tôi tìm thấy ý nghĩa trong
việc giải thích sự thật này cho người khác, tranh cãi với những người không
tin, giảng dạy cho những người hoài nghi, quyên góp tiền để xây dựng thiền
viện, v.v. ‘Không có câu chuyện’ có thể tất cả quá dễ dàng chỉ để trở
thành một câu chuyện khác.
Lịch sử của đạo Phật cung cấp hàng nghìn những thí
dụ về như thế nào người ta dù đã tin vào sự thoáng qua và trống rỗng của mọi
hiện tượng và vào sự quan trọng của việc không giữ những ràng buộc hay chấp
trước, nhưng vẫn có thể đi đến tranh cãi lớn tiếng và tranh đấu dành chính
quyền của một quốc gia, về sở hữu một tòa nhà, hay ngay cả về ý nghĩa của một
từ ngữ. Chiến đấu với những người khác vì bạn tin vào vinh quang của một
Gót vĩnh cửu, thì không may nhưng còn hiểu được; tranh đấu với người khác
vì bạn tin vào sự trống rỗng của tất cả mọi hiện tượng thì thực sự kỳ quái –
nhưng rất đỗi con người.
Vào thế kỷ thứ mười tám, những triều đại hoàng gia
của cả Burma và láng giềng Siam đều tự hào về lòng sùng mộ của họ với đức Phật,
và được chính danh qua việc bảo vệ lòng tin đạo Phật. Những vị vua đã ban cấp
cho những tu viện, dựng những chùa, và hàng tuần đều nghe những nhà sư uyên bác
thuyết giảng những ‘bài pháp’ hùng hồn về năm giới – năm cam kết đạo đức cơ bản
cho mọi người: không sát sinh, không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối và
không dùng chất gây say sưa. Nhưng dẫu thế, hai vương quốc vẫn chiến đấu
với nhau không ngừng nghỉ. Ngày 7 tháng 4 năm 1767 quân đội của nhà vua Burma
Hsinbyushin xông vào tàn phá thủ đô của Siam, sau một vây hãm dài [61]. Những người lính
chiến thắng giết, cướp phá, hiếp dâm và có lẽ cũng say sưa ở đây và ở
đó. Sau đó, họ đốt cháy phần lớn thành phố, với cung điện, tu viện và
chùa, và mang về nhà hàng ngàn nô lệ và những xe tải chất đầy vàng và ngọc đá
quí.
Không phải là vua Hsinbyushin đã cọi nhẹ đạo Phật
của mình. Bảy năm sau chiến thắng vĩ đại, nhà vua đã thực hiện một chuyến
tuần du xuôi theo sông Irrawaddy vĩ đại, dâng cúng những ngôi chùa quan trọng
dọc đường, và cầu Phật ban phước cho quân đội của mình với nhiều chiến thắng
hơn. Khi Hsinbyushin đến Rangoon, ông xây dựng lại và mở rộng một kiến
trúc được xem như thiêng liêng nhất tất cả Burma – Chùa Shwedagon. Sau đó
nhà vua cho mạ vàng chùa được mở rộng này với khối vàng của chính ông, và dựng
một ngọn tháp bằng vàng trên đỉnh chùa và nạm nó với những ngọc quý (có thể đã
cướp từ Siam). Ông cũng đã dùng dịp này để xử tử vua của Pegu cùng anh và
con trai của vua này, tất cả đang bị giam giữ. [62]
Vào những năm 1930 ở Japan, người ta ngay cả đã tìm
được những cách tưởng tượng để kết hợp những học thuyết đạo Phật với chủ nghĩa
dân tộc, chủ nghĩa quân phiệt và chủ nghĩa Phátxít. Những nhà tư tưởng
theo đạo Phật nhưng cực đoan, chẳng hạn như Nissho Inoue, Ikki Kita và Tanaka
Chigaku đã biện luận rằng để phân hủy những chấp trước tự ngã của một người,
người ta nên hoàn toàn dâng đời mình lên hoàng đế, cắt bỏ mọi suy nghĩ cá nhân,
và tuân thủ trung thành tuyệt đối với quốc gia. Nhiều tổ chức quốc gia cực
đoan khác nhau đã khởi hứng từ những ý tưởng như vậy, gồm một nhóm quân sự
cuồng tín đã tìm cách lật đổ hệ thống chính trị bảo thủ của Japan bằng một
chiến dịch ám sát. Họ đã sát hại cựu bộ trưởng tài chính, tổng giám đốc
của tập đoàn Mitsui, và cuối cùng là thủ tướng Inukai Tsuyoshi. Do đó, họ đẩy
nhanh việc chuyển đổi Japan thành một chế độ độc tài quân sự. Khi quân đội
bắt đầu chiến tranh, những tu sĩ đạo Phật và những thiền sư đã thuyết giảng về
sự quên mình, tuân phục giới chức nhà nước, và đã đề nghị sự tự hy sinh cho gắng sức chiến tranh. Ngược lại, những giáo lý đạo Phật về từ bi và bất bạo
động không hiểu sao đã bị bỏ quên, và không có ảnh hưởng đáng kể nào đến hành
vi của quân đội Japan ở Nanjing, Manila hay Seoul. [63]
Ngày nay, hồ sơ nhân quyền của Myanmar, quốc gia
theo đạo Phật, là một trong những hồ sơ tệ nhất trên thế giới, và một nhà sư
đạo Phật, Ashin Wirathu, dẫn đầu phong trào chống Islam trong nước. Ông
tuyên bố rằng ông chỉ muốn bảo vệ Myanmar và đạo Phật chống lại những âm mưu jihad của những người Muslim, nhưng bài
giảng và những bài viết của ông đã rất bốc lửa kích động, khiến tháng 2 năm
2018, Facebook đã cắt bỏ những trang web của ông, viện dẫn chủ trương của nó là
cấm những lời lẽ kích động thù địch. Trong một phỏng vấn năm 2017 trên báo Guardian, nhà sư rao giảng
từ bi đến với cả một con muỗi bay qua, nhưng khi đối mặt với cáo buộc rằng
những phụ nữ Islam đã bị quân lính Myanmar hãm hiếp, ông cười và nói ‘Không
thể. Thân thể của họ đều quá kinh tởm.’[64]
Có rất ít cơ may rằng hòa bình thế giới và hòa hợp
toàn cầu sẽ xảy ra một khi 8 tỷ người bắt đầu thiền định thường
xuyên. Quán sát sự thật về bản thân bạn thì rất khó! Ngay cả nếu bạn
bằng cách nào đó thành công để có được hầu hết người ta thử làm điều đó, nhiều
người trong chúng ta sẽ nhanh chóng bóp méo sự thật mà chúng ta bắt gặp vào
trong một số câu chuyện với những anh hùng, những côn đồ hung ác và những kẻ
thù, và tìm được những bào chữa hết sức khéo léo để đi đến chiến tranh.
Cơ sở đế thẩm định hiện thực
Mặc dù tất cả những câu chuyện lớn này đều là những
hư cấu được não thức chúng ta tạo ra, đừng lấy đó làm lý do để tuyệt
vọng. Hiện thực vẫn còn đó. Bạn không thể đóng một phần trong bất kỳ
vở kịch đã được làm-cho-tin-là-thực nào, nhưng trước hết, tại sao bạn lại muốn
làm việc đó? Câu hỏi lớn đối với con
người không là ‘ý nghĩa của đời sống là gì?’ nhưng đúng hơn là, ‘làm sao
chúng ta thoát khỏi khổ đau?’ [65] Khi bạn buông bỏ tất cả
những những câu chuyện hư cấu, bạn có thể quán sát hiện thực với rõ ràng hơn
nhiều so với trước đó, và nếu bạn thực sự biết sự thật về bản thân và về thế
giới, không gì có thể làm bạn khốn khổ. Nhưng dĩ nhiên đó là nhiều dễ dàng
để nói hơn để làm.
Con người chúng ta đã chinh phục thế giới nhờ khả
năng tạo ra và tin vào những câu chuyện hư cấu. Do đó, chúng ta đặc biệt
không giỏi giang gì trong việc nhận hiểu sự khác biệt giữa hư cấu và hiện
thực. Không nhìn thấy khác biệt này đã là một vấn đề sống còn cho chúng
ta. Nếu bạn dẫu sao vẫn muốn biết sự khác biệt, chỗ để bắt đầu là với sự
khổ đau. Vì sự vật việc có thực nhất trên thế giới là sự khổ đau.
Khi bạn phải đối mặt với một số câu chuyện hay, và
bạn muốn biết nếu nó là có thực hay tưởng tượng, một trong những câu hỏi quan
trọng cần đặt ra là liệu người anh hùng trung tâm của câu chuyện có thể bị khổ
đau không. Lấy thí dụ, nếu ai đó nói với bạn câu chuyện về quốc gia
Poland, hãy dành một chút thời giờ để suy nghĩ liệu Poland có thể chịu khổ đau
hay không. Adam Mickiewicz, nhà thơ lãng mạn vĩ đại và là cha đẻ của chủ nghĩa
dân tộc Poland ngày nay, nổi tiếng vì đã gọi Poland là ‘Christ của những quốc
gia’. Viết năm 1832, sau khi Poland bị phân chia giữa Russia, Prussia và
Austria, và ngay sau cuộc nổi dậy của Poland bị Russia dập tắt tàn bạo năm
1830, Mickiewicz giải thích rằng nỗi đau khủng khiếp của Poland là một sự hy
sinh thay mặt cho toàn thể loài người, có thể so sánh với sự hy sinh của
Christ, và giống như Christ, Poland sẽ sống lại từ cõi chết. Trong một đoạn văn
nổi tiếng Mickiewicz đã viết rằng:
Poland nói [với dân
chúng Europe], ‘Bất cứ ai sẽ đến với tôi sẽ được tự do và bình đẳng vì tôi là
TỰ DO’. Nhưng những vị vua, khi họ nghe điều này, trong lòng họ đã sợ hãi, và
họ đã đóng đinh cho chết quốc gia Poland, và chôn nó xuống mồ của nó, kêu lên
‘chúng ta đã giết và chôn Tự do.’ Nhưng họ đã kêu một cách ngu dại... Vì quốc
gia Poland đã không chết ... ngày thứ ba, Hồn sẽ về lại Xác; và Quốc gia
sẽ đứng dậy và giải phóng tất cả những dân tộc Europe khỏi Nô lệ. [66]
Một quốc gia có thể thực sự đau đớn hay
không? Một quốc gia có mắt, có tay, có giác quan, có những tình cảm và
những đam mê hay không? Nếu bạn đâm nó, nó có thể chảy máu không? Rõ
ràng là không. Nếu nó bị đánh bại trong chiến tranh, mất một tỉnh, hay
ngay cả mất độc lập, nó vẫn không thể kinh nghiệm sự đau đớn, buồn bã hay bất
kỳ loại khổ đau nào khác, vì nó hoàn toàn không thân thể, không não thức, và
không cảm xúc. Trong sự thực, nó thì chỉ là một ẩn dụ. Chỉ trong sự
tưởng tượng của một số người nhất định nào đó thì Poland thực sự là một thực
thể, có khả năng chịu khổ đau. Poland gánh chịu khổ đau vì những con người
này cho nó mượn thân xác của họ – không chỉ bằng phục vụ như những người lính
trong quân đội Poland, nhưng bằng đem những vui và buồn của dân tộc hóa thân
vào trong thể xác họ. Vào tháng 5 năm 1831, khi tin tức về thất bại của
Poland trong trận chiến Ostrołęka đã về tới Warsaw, những dạ dày người quặn
thắt trong cùng quẫn, những ngực người đè nặng với đau đớn, những mắt người đẫm
lệ ứa trào.
Tất cả những điều đó không biện minh cho sự xâm
lăng của Russia, dĩ nhiên, cũng không làm suy yếu quyền của dân tộc Poland để
thiết lập một quốc gia độc lập và ấn định luật pháp và phong tục của riêng
họ. Tuy nhiên, điều đó có nghĩa là cuối cùng, hiện thực không thể là câu
chuyện của dân tộc Poland, vì chính sự hiện hữu của Poland tùy thuộc vào những
hình ảnh (chỉ có) trong não thức con người.
Ngược lại, hãy xem xét số phận của một người phụ nữ
Warsaw bị cướp và bị hiếp dâm bởi những toán quân Russia xâm lăng. Không
giống như sự khổ đau ẩn dụ của quốc gia Poland, khổ đau của người phụ nữ đã là
rất thực. Nó cũng đã có thể là được gây ra bởi những tin tưởng của con
người trong những hư cấu khác nhau, chẳng hạn như trong chủ nghĩa dân tộc
Russia, trong đạo Kitô chính thống, và trong chủ nghĩa nam nhi anh hùng, tất cả
chúng đều truyền cảm hứng cho nhiều những nhà chính trị và những người lính
Russia. Tuy nhiên, khổ đau như hậu quả đã vẫn là 100% có thực.
Bất cứ khi nào những nhà chính trị bắt đầu nói dùng
những từ ngữ huyền diệu, hãy cẩn thận. Họ có thể cố gắng ngụy trang và tha
thứ cho khổ đau thực bằng gói nó trong những từ lớn rất khó hiểu. Đặc biệt
thận trọng về bốn từ sau: hy sinh, vĩnh
cửu, tinh khiết, cứu chuộc. Nếu bạn nghe thấy bất kỳ một nào trong số
này, hãy rung chuông báo động. Và nếu xảy ra bạn sinh sống ở một đất nước
mà người lãnh đạo thường xuyên nói những thứ như ‘Sự hy sinh của họ sẽ cứu
chuộc sự tinh khiết của đất nước vĩnh cửu của chúng ta’ – biết rằng bạn đang
trong những hoàn cảnh nguy nan. Để cứu lấy sự tỉnh táo của bạn, hãy luôn
cố gắng dịch những nhảm nhí như thế vào trong những từ ngữ thực: một người lính
kêu khóc trong hấp hối, một phụ nữ bị đánh và đối xử tàn bạo, một đứa trẻ run
rẩy trong sợ hãi.
Vì vậy, nếu bạn muốn biết sự thật về vũ trụ, về ý
nghĩa của đời sống, và về bản sắc nhận diện riêng của bạn, chỗ tốt nhất để bắt
đầu là qua việc quán sát sự khổ đau và thăm dò xem nó là gì.
Trả lời thì không là một câu chuyện để kể.
21
Chỉ Quán Sát
Sau khi đã phê bình như thế về rất nhiều những câu
chuyện, những tôn giáo và những hệ ý thức, cũng chỉ là điều công bằng để tôi tự
đặt mình vào vị trí hứng chịu những chỉ trích, và để giải thích nếu một ai đó
hoài nghi dường thế nhưng sao mỗi sáng thức dậy vẫn có thể tươi tỉnh. Tôi
ngần ngại làm như vậy một phần vì sợ vướng vào thái độ tự-mãn, và một phần vì
tôi không muốn đem đến một ấn tượng sai lầm, như thể nếu những gì làm được việc
cho tôi cũng làm được việc cho tất cả người khác. Tôi ý thức rất rõ rằng
những khí chất riêng của những gene, nơron, lịch sử cá nhân và dhamma [68] của tôi đều không cùng
giống nhau để chia sẻ với tất cả mọi người. Nhưng có lẽ là điều tốt để ít
nhất những người đọc nên biết tôi nhìn thế giới qua cặp kính màu nào, với những
sắc gì, do đó làm lệch lạc quan điểm lẫn bài viết của tôi.
Khi còn là một thiếu niên, tôi đã là một người lo
lắng không yên và bứt rứt thao thức. Với tôi, thế giới đã không có ý
nghĩa, tôi đã có những câu hỏi lớn về cuộc đời và đã không có được những trả
lời. Đặc biệt, tôi đã không hiểu tại sao có quá nhiều khổ đau trên thế
giới và trong đời sống riêng tôi, và có thể làm được gì về điều đó. Tất cả
những gì tôi đã nhận được từ những người quanh tôi và những sách tôi đọc đều là
những hư cấu dài dòng phức tạp: những huyền thoại tôn giáo về những gót và
thiên đường, những huyền thoại dân tộc về tổ quốc và những sứ mạng lịch sử của
nó, những huyền thoại lãng mạn về tình yêu và phiêu lưu, hay những huyền thoại
tư bản về tăng trưởng kinh tế và việc mua sắm hàng hóa những thứ này nọ sẽ làm tôi sung sướng như thế
nào. Tôi đã có đủ cảm thức để nhận ra rằng những điều này có lẽ tất cả đã
là những bịa đặt tưởng tượng, nhưng tôi tuyệt không biết thế nào để tìm sự
thật.
Khi tôi đã bắt đầu theo học đại học, tôi đã nghĩ đó
sẽ là nơi lý tưởng để tìm những trả lời. Nhưng tôi đã thất vọng. Thế
giới học hỏi sách vở chữ nghĩa đã cung ứng cho tôi với những dụng cụ hiệu quả
để phá gỡ cấu trúc [69] của tất cả những huyền
thoại con người từng tạo ra, nhưng với những câu hỏi lớn của đời sống, nó đã
không đem cho những trả lời hài lòng. Ngược lại, nó khuyến khích tôi tập
trung vào những câu hỏi ngày càng hẹp hơn. Tôi cuối cùng thấy chính mình
viết luận án tiến sĩ ở Oxford về những bản văn tự truyện của những người lính
thời trung cổ. [70] Như
một sở thích phụ, tôi tiếp tục đọc rất nhiều sách triết học và dự nhiều những
tranh luận triết học, mặc dù việc này không ngừng đem đến sự tiêu khiển trí
thức, nhưng khó mà gọi là đã đem lại cái nhìn sâu xa thực sự. Nó đã là vô
cùng nản lòng thất vọng.
Sau cùng, người bạn thân của tôi, Ron Merom, đã đề
nghị rằng tôi hãy bỏ sang một bên tất cả những sách và những thảo luận trí thức
trong vài ngày, và theo học một khóa Vipassanā (‘Vipassanā’ có nghĩa là ‘nhìn
vào bên trong chính mình’ trong ngôn ngữ Pali
của India thời cổ.) Tôi đã nghĩ rằng nó đã là một thứ gì đó như kiểu “Tâm linh Thời Mới” rối rắm lủng củng [71], và vì tôi không có hứng
thú trong việc lại nghe một huyền thoại khác, tôi thoái thác không
đi. Nhưng sau một năm kiên nhẫn mè nheo và dục giã, tháng 4 năm 2000,
người bạn này đã khiến tôi đi dự một khóa mười ngày tĩnh cư Vipassanā. [72]
Trước đó, tôi biết rất ít về quán niệm, và đã cho
rằng nó phải gồm tất cả mọi loại lý thuyết huyền bí rối rắm phức tạp. Thế
nên tôi đã ngạc nhiên sửng sốt trước cách giảng dạy quay ra là hết sức thực
tiễn. Người thày trong khóa học, S.N. Goenka, hướng dẫn những người học
ngồi chân bắt chéo và mắt khép hờ, tập trung tất cả chú ý của họ vào hơi thở ra
và vào qua ống mũi của họ. ‘Đừng làm gì cả,’ ông cứ phải nói. ’Đừng cố để
kiểm soát hơi thở, hay để thở theo bất kỳ một cách đặc biệt nào. Chỉ quan
sát hiện thực của khoảnh khắc đang có, bất kể nó có thể là gì. Khi thở vào, bạn chỉ chú ý – bây giờ hơi thở đang đi
vào. Khi thở ra, bạn chỉ chú ý – bây giờ hơi thở đang đi ra. Và khi bạn
mất tập trung và não thức bạn bắt đầu lang thang trong những nhớ lại và những
tưởng tượng, bạn chỉ chú ý – bây giờ não thức của tôi đã lang thang xa khỏi hơi
thở’. Đó đã là điều quan trọng nhất được một ai bất kỳ nào từng bảo tôi. [73]
Khi người ta hỏi những câu hỏi lớn của đời người,
thường thường họ tuyệt không có quan tâm gì về việc để biết khi nào hơi thở của
họ đang đi vào và khi nào nó đang đi ra ngoài hai ống mũi của chính
họ. Thay vào đó, họ muốn biết những sự vật việc thuộc loại như – những gì
xảy ra sau khi bạn chết. Thế nhưng, bí ẩn và khó hiểu thực sự của đời
người thì không là những gì xảy ra sau khi bạn chết, nhưng những gì xảy ra
trước khi bạn chết. Nếu bạn muốn hiểu cái
chết, bạn cần hiểu cái sống.
Người ta hỏi ‘Khi tôi chết, có đúng là tôi sẽ hoàn
toàn không có nữa? Tôi sẽ lên thiên đàng chứ? Có phải tôi sẽ tái sinh
trong một cơ thể mới?’ Những câu hỏi này đều dựa trên sự giả định rằng có một ‘cái tôi’ vốn kéo dài từ lúc sinh đến lúc
chết, và câu hỏi là ‘Điều gì sẽ xảy ra với cái
tôi này khi chết?’ Nhưng ‘cái gì’ (nếu như) có đó vốn tồn tại dài từ lúc
sinh đến lúc chết là gì? Cơ thể liên tục thay đổi từng khoảnh khắc, bộ óc
liên tục thay đổi từng khoảnh khắc, não thức liên tục thay đổi từng khoảnh
khắc. Càng xem xét bản thân bạn nghiêm ngặt bao nhiêu, càng rõ ràng hơn
bấy nhiều rằng không-gì tồn tại kéo dài, ngay cả chỉ từ khoảnh khắc này sang
khoảnh khắc sau. Như thế, điều gì giữ cho toàn bộ sự sống vào cùng với
nhau? nếu bạn không biết trả lời với điều đó, bạn không hiểu sự sống, và chắc
chắn bạn không có cơ may nào để hiểu sự chết. Chỉ nếu và khi bạn tìm ra
được điều gì giữ sự sống vào cùng với nhau, trả lời với câu hỏi lớn về cái chết
sẽ cũng trở thành hiển nhiên rõ ràng.
Người ta nói ‘Hồn người tồn tại từ khi sinh dài đến
khi chết và bằng cách ấy giữ sự sống vào cùng với nhau’ – nhưng đó chỉ là một
câu chuyện kể. Bạn đã từng bao giờ quán sát, hay nghiêm ngặt theo dõi, một
hồn người chưa? Bạn có thể thăm
dò điều này bất cứ lúc nào, không chỉ đợi lúc chết. Nếu bạn có thể hiểu
những gì xảy ra với bạn khi một khoảnh khắc kết thúc và một khoảnh khắc khác
bắt đầu – bạn cũng sẽ hiểu những gì sẽ xảy ra với bạn ở khoảnh khắc của cái
chết. Nếu bạn thực sự có thể quán sát bản thân trong khoảng thời gian của
một hơi thở – bạn sẽ hiểu sự việc đó tất cả. [74]
Điều đầu tiên tôi đã học được bằng việc quán sát
hơi thở của tôi là mặc dù tất cả những sách tôi đã đọc và tất cả những lớp tôi
đã theo học ở trường đại học, hầu như tôi đã không biết gì về não thức của tôi,
và để điều khiển nó, tôi đã có rất ít. Mặc dù những gắng gỏi giỏi nhất của
tôi, tôi không thể quán sát được thực tại của hơi tôi thở vào và ra mũi của
mình được hơn mười giây, trước khi trí óc tôi bỏ đi loanh quanh. Đã hàng
bao nhiêu năm tôi sống với ấn tượng rằng tôi là ‘ông chủ’ của đời tôi, và làm
CEO (tổng giám đốc điều hành) của cái mác cá nhân là ‘Tôi’ vốn mỗi người vẫn gắn
cho mình. Nhưng một vài giờ Vipassanā là đã đủ cho tôi thấy rằng tôi hầu
như không hề nắm giữ một bất kỳ điều khiển nào với bản thân mình. Tôi đã
không là CEO – tôi đã xấp xỉ chỉ là người gác cổng. Tôi được bảo hãy đứng
ở cổng ra vào của cơ thể tôi – hai ống mũi – và quan sát chỉ bất cứ gì thở vào
hay thở ra. Thế nhưng, sau một vài khoảnh khắc, tôi đã mất tập trung và đã
đánh mất chỗ đứng gác của mình. Nó là một kinh nghiệm làm sáng mắt.
Khi khóa học tiến triển, những người học được dạy
quán sát không chỉ hơi thở, nhưng những cảm giác thấy có khắp cơ thể
họ. Không những cảm giác đặc biệt của vui sướng mãnh liệt và cực kỳ ngây
ngất, nhưng đúng hơn là những cảm giác trần tục và thông thường nhất: nóng bức,
thúc bách, đau đớn và vân vân. Kỹ thuật của Vipassanā dựa trên sự thấu
hiểu sâu xa rằng dòng chảy của não thức thì liên kết chặt chẽ với những cảm
giác của cơ thể. Giữa tôi và thế giới luôn có những cảm xúc của thân xác. Tôi không bao giờ phản ứng với những sự kiện
trong thế giới bên ngoài; Tôi luôn phản ứng với những cảm xúc trong cơ thể
của chính tôi. Khi cảm giác là khó chịu, tôi phản ứng với ác
cảm. Khi cảm giác dễ chịu, tôi phản ứng với thèm muốn mong có thêm nhiều
hơn. Ngay cả khi chúng ta nghĩ rằng chúng ta phản ứng với những gì một
người khác đã làm, với tweet mới nhất
của tổng thống Trump, hay về một ký ức xa xôi thời thơ ấu, sự thật là chúng ta
luôn phản ứng với những cảm giác trực tiếp đang có trong cơ thể của chúng
ta. Nếu chúng ta giận tím mặt khi ai đó xúc phạm quốc gia hay thần thánh
của chúng ta, những gì làm sự xúc phạm này không thể chịu nổi là những cảm giác
nóng cháy đang bừng trong bụng dạ
chúng ta, và đau đớn đang kìm chặt tim chúng
ta. Đất nước chúng ta không có cảm xúc gì, nhưng thực sự thương tổn là cơ
thể chúng ta.
Bạn muốn biết sự giận dữ là gì ư? Vâng, hãy
quán sát chỉ những cảm xúc nổi lên và chạy qua cơ thể bạn đương khi bạn tức
giận. Tôi hai mươi bốn tuổi khi tôi đến khóa học này, và đã kinh nghiệm sự
tức giận có lẽ là 10.000 lần trước đó, nhưng tôi chưa bao giờ bận tâm để theo
dõi tức giận thực sự cảm nhận thế nào. Bất cứ khi nào tôi nổi giận, tôi tập
trung vào đối tượng của giận dữ – một gì đó do một ai đó đã làm, hay đã nói –
thay vì trên thực tại được cảm nhận của sự tức giận.
Tôi nghĩ tôi đã học được nhiều về bản thân và về
con người nói chung, bằng việc quán sát những cảm xúc của tôi trong mười ngày
này, hơn là tôi đã học được cả đời mình đến thời điểm đó. Và để làm thế,
tôi đã không phải chấp nhận bất kỳ một câu chuyện kể, lý thuyết, hay huyền
thoại nào. Tôi đã chỉ phải quán sát thực
tại như nó là. Điều quan trọng nhất tôi đã nhận ra đó là nguồn gốc sâu
xa nhất của sự khổ đau của tôi thì trong những mẫu thức của não thức riêng
tôi. Khi tôi muốn một gì đó và nó không xảy ra, não thức tôi phản ứng bằng
tạo ra khổ đau. Khổ đau thì không là một điều kiện khách quan trong thế
giới bên ngoài. Nó là một phản ứng tâm lý do não thức tôi đã khơi
dậy. Học được điều này là bước đầu tiên hướng tới việc ngừng lại, đừng tạo
dựng thêm nhiều khổ đau hơn.
Từ khóa học đầu tiên năm 2000 đó, tôi đã bắt đầu
quán niệm mỗi ngày hai giờ, và mỗi năm tôi theo một khóa Vipassanā dài một hay
hai tháng [75].
Nó không là một đào thoát khỏi thực tại. Nó là sự có được tiếp xúc, ‘nói
nhìn’ với thực tại. Ít nhất trong 2 giờ mỗi ngày, tôi thực sự quán sát thực tại như nó là; trong khi còn lại 22
giờ kia, tôi chịu trận với những email và tweet và những video (mời mọc loại
như dí vào tận mắt những hình ảnh) cute-puppy
làm choáng ngợp. Không có được sự tập trung và sáng sủa rõ ràng do thực
hành quán niệm này đem lại, tôi đã không thể viết những quyển sách như Sapiens
hay Homo Deus. Ít
nhất với tôi, quán niệm Vipassanā không bao giờ đã đi vào mâu thuẫn với khảo
cứu khoa học. Đúng hơn, nó đã là một dụng cụ có giá trị khác, trong túi đồ
nghề cá nhân, để khảo cứu khoa học, đặc biệt khi cố gắng để tìm hiểu não thức
con người.
Đào vào cả từ hai đầu
Khoa học tìm thấy rằng khó để đọc ra và hiểu được
những bí ẩn của não thức, phần lớn vì chúng ta thiếu những dụng cụ hữu
hiệu. Nhiều người, gồm nhiều nhà khoa học, nghiêng sang nhầm lẫn não thức
với bộ óc, nhưng chúng thực sự là những thứ rất khác nhau. Bộ óc là một
mạng lưới vật chất gồm những neuron,
synapse, và những chất sinh-hóa. Não thức là một dòng chảy những kinh
nghiệm chủ quan, chẳng hạn như đau đớn, vui sướng, giận dữ và yêu
thương. Những nhà sinh vật học giả định rằng bộ óc bằng cách nào đó tạo ra
não thức, và rằng những phản ứng sinh hóa xảy ra trong hàng tỷ những neuron
bằng cách nào đó ‘tạo ra’ những kinh nghiệm như khổ đau và yêu thương. Tuy
nhiên, cho đến nay chúng ta tuyệt không có được giải thích về việc não thức nổi
lên từ bộ óc như thế nào. Làm thế nào khi hàng tỷ neuron đang bắn những
tín hiệu điện theo một mẫu thức đặc thù nào đó, tôi cảm thấy đau, và khi vẫn
cùng những neuron đó, nhưng bắn theo một mẫu thức nào đó khác, tôi cảm thấy yêu
thương? chúng ta chưa có lấy một manh mối lần mò nào. Thế nên ngay cả
nếu não thức quả thực ‘nổi lên’ từ bộ óc, ít nhất bây giờ nghiên cứu não thức
là một công việc khác biệt với nghiên cứu bộ óc.
Khảo cứu về bộ óc con người đang tiến triển nhanh
chóng đến sửng sốt với những bước nhảy vọt, nhờ sự giúp đỡ của những kính hiển
vi, những máy quét dò chụp hình óc [76] và những cômputơ có năng
lực lớn. Nhưng chúng ta không thể nhìn thấy được não thức dưới những kính
hiển vi hay quét dò chụp hình óc. Những dụng cụ đặc biệt này cho chúng ta khả
năng để dò xem được chi tiết những hoạt động điện và phản ứng sinh hóa trong
óc, nhưng không cho chúng ta bất kỳ tiếp xúc gần gũi nào với những kinh nghiệm
chủ quan gắn kết với bản thân những hoạt động này. Cho đến 2018, não thức
duy nhất tôi có thể tiếp cận trực tiếp là não thức riêng của tôi. Nếu tôi
muốn biết những sinh vật có tri giác khác đang kinh nghiệm gì, tôi chỉ có thể
làm như vậy dựa trên cơ sở của những thuật kể gián tiếp, không đến từ gốc nên
bản chất tự nhiên của chúng thì có nhiều lệch lạc và chịu giới hạn.
Chắc chắn rằng chúng ta có thể thu thập nhiều những
tường thuật, giá trị như những nguồn thứ cấp, từ nhiều người, và dùng thống kê
để nhận diện những lập đi lập lại như những mẫu thức. Những phương pháp như vậy
đã đem cho những nhà tâm lý học và những nhà khoa học chuyên về não, khả năng
để không chỉ đạt được một hiểu biết tốt hơn nhiều về não thức, những cũng còn
làm tốt hơn và ngay cả cứu được mạng sống của hàng triệu người. Tuy nhiên,
thật khó để đi xa hơn một giới hạn nào đó nếu chỉ dùng những nguồn thứ
cấp. Trong khoa học, khi bạn điều tra một hiện tượng cụ thể đặc biệt nào
đó, điều tốt nhất là quan sát nó trực tiếp. Lấy thí dụ, những nhà nhân
loại học rộng rãi dùng nhiều những nguồn thứ cấp, nhưng nếu bạn thực sự muốn
hiểu văn hóa Samoa, sớm hay muộn bạn sẽ phải mua vé tàu, đeo balô và chính bạn
phải đến thăm quần đảo Samoa.
Dĩ nhiên đi thăm thì không đủ. Một blog do một
khách du lịch ba lô viết khi đi qua Samoa sẽ không được coi là một nghiên cứu
khoa học của nhân loại học, vì hầu hết những khách du lịch ba lô đều thiếu
những dụng cụ và huấn luyện cần thiết. Những quan sát của họ đều quá ngẫu
nhiên và thiên vị. Để trở nên những nhà nhân loại học đáng tin cậy, chúng
ta phải học quan sát những văn hóa con người theo một cách khách quan và có
phương pháp, đứng ngoài những những thành kiến và tiên kiến. Đó là những gì bạn
học ở khoa nhân loại học, và đó là những gì đem khả năng cho những nhà nhân
loại học đóng một vai trò quan trọng trong việc bắc cầu nối những khoảng cách
giữa những văn hóa khác nhau.
Nghiên cứu khoa học về não thức hiếm khi đi theo mô
hình này như trong thí dụ về nhân loại học. Trong khi những nhà nhân loại học
thường tường thuật những chuyến đi thăm của họ đến những đảo xa xôi và những
đất nước bí ẩn, những học giả về não thức hiếm khi thực hiện những hành trình
cá nhân như vậy đến những ‘cõi/vùng’ não thức. Vì não thức duy nhất tôi có
thể trực tiếp quan sát là não thức của riêng tôi, và cho dù quan sát văn hóa
Samoa khó khăn như thế nào với không thiên vị và thành kiến, quan sát khách
quan não thức của chính tôi ngay cả lại còn nhiều khó khăn hơn. Sau hơn
một trăm năm làm việc vất vả, ngày nay những nhà nhân chủng học đã có những
tiến trình giải quyết đủ khả năng cho quan sát khách quan, được ấn định thành
những phương thức chặt chẽ. Ngược lại, trong khi những học giả nghiên cứu
não thức đã phát triển nhiều dụng cụ để thu thập và phân tích những tường thuật
như những tài liệu thứ cấp, nhưng khi đi đến việc quan sát não thức của chính
chúng ta, chúng ta hầu như chỉ mới với tới được mặt nổi ngoài, và mới hiểu được
ở mức độ chỉ tối thiểu.
Trong sự thiếu vắng của những phương pháp thời nay
cho việc trực tiếp quan sát não thức, chúng ta có thể thử một vài dụng cụ do
những văn minh thời trước đã phát triển. Một số những nền văn minh cổ đã
dành rất nhiều chú ý vào việc nghiên cứu não thức, và họ không dựa trên sự thu
thập những tài liệu thứ cấp, nhưng dựa trên việc huấn luyện người ta để quan
sát những não thức của họ một cách hệ thống. Những phương pháp họ đã phát triển
được gộp với nhau dưới tên gọi chung là quán niệm. Ngày nay, thuật ngữ này
thường được liên kết với tôn giáo hay thuyết thần bí, nhưng về nguyên tắc quán
niệm là bất kỳ phương pháp trực tiếp nào dùng vào việc quan sát não thức của
chính mình. Thực sự, nhiều tôn giáo đã rộng rãi đem dùng những kỹ thuật
quán niệm khác nhau, nhưng điều này không có nghĩa là quán niệm phải nhất thiết
là tôn giáo. Nhiều tôn giáo cũng đã dùng nhiều kinh sách, nhưng không có
nghĩa là hễ dùng kinh sách là theo một thực hành tôn giáo.
Qua hàng nghìn năm, con người đã phát triển hàng
trăm những kỹ thuật quán niệm, vốn khác nhau về nguyên tắc và hiệu quả của
chúng. Tôi đã có kinh nghiệm cá nhân với chỉ một kỹ thuật – Vipassanā – thế nên nó là kỹ thuật duy
nhất tôi có thể nói với một trình độ hiểu biết thẩm quyền nào đó. Giống
như một số kỹ thuật quán niệm khác, Vipassanā được cho là đức Phật đã tìm ra, ở
India thời cổ. Qua hàng nhiều trăm năm, nhiều lý thuyết và câu chuyện đã gán
cho đức Phật, dù thường không có bằng chứng hỗ trợ. Nhưng bạn không cần
phải tin vào bất kỳ một nào trong số chúng để quán niệm. Người thày tôi đã
học Vipassanā, Goenka, là một thày dạy thuộc loại có hướng dẫn rất thực
tiễn. Ông đã hướng dẫn học sinh, lập đi lập lại nhiều lần, rằng khi quán
sát não thức họ phải đặt qua bên tất cả những mô tả thứ cấp gián tiếp, những
giáo điều tôn giáo, những lý thuyết dự phóng triết học, và tập trung vào kinh
nghiệm riêng của mình, và vào bất kỳ thực tại nào họ thực sự bắt gặp. Mỗi
ngày đông đảo sinh viên đã đến phòng ông để tìm chỉ dẫn và đặt những câu
hỏi. Ở lối vào phòng, có gắn một bảng viết: ‘Xin tránh những thảo luận về
lý thuyết và triết học, và tập trung những câu hỏi vào những vấn đề liên quan
đến thực tập hiện giờ của bạn.’ [77]
Thực tập hiện giờ có nghĩa là quán sát những cảm
giác cơ thể và những phản ứng tâm lý với những cảm giác trong một phương thức
khách quan, liên tục, và có phương pháp, qua đó tìm ra được những mô thức căn
bản của não thức. Người ta đôi khi chuyển quán niệm (hơi thở và cảm giác
thân xác) sang theo đuổi những kinh nghiệm đặc biệt của vui sướng mãnh liệt và
cực kỳ ngây ngất. Thế nhưng, thực ra, ý thức là sự bí ẩn lớn nhất trong vũ
trụ, và những cảm xúc trần tục của nóng và ngứa đều chính từng mẩu nhỏ cũng bí
hiểm như những cảm xúc của ngây ngất nhập định hay của sự hợp nhất ‘làm-một’với
vũ trụ. Những người quán niệm Vipassanā được dặn dò cẩn thận rằng đừng bao
giờ bắt đầu vào một tìm kiếm những kinh nghiệm đặc biệt, nhưng hãy tập trung vào
việc hiểu biết thực tại của những não thức của họ, dù thực tại này có thể là
bất cứ gì đi nữa.
Trong những năm gần đây, những học giả của cả về
não thức và về não bộ đã cho thấy việc tăng thêm quan tâm vào những kỹ thuật
quán niệm loại như vậy, nhưng cho đến nay hầu hết những nhà nghiên cứu đã dùng
dụng cụ này chỉ một cách gián tiếp. [78] Nhà khoa học điển hình
không thực sự thực hành quán niệm. Thay vào đó, người này mời những hành
giả có kinh nghiệm đến phòng thí nghiệm của mình, gắn những đầu điện cực khắp
đầu họ, bảo họ quán niệm (hay thiền định), và quan sát kết quả của những hoạt
động trong não. Việc đó có thể dạy chúng ta nhiều sự việc thú vị về bộ
não, nhưng nếu mục đích là để hiểu não thức, chúng ta thiếu một số thông tin
chi tiết quan trọng nhất. Nó giống như một người cố gắng hiểu cấu trúc của
vật chất bằng quan sát một hòn đá qua một kính lúp. Bạn đến cạnh người
này, đưa cho anh ta một chiếc kính hiển vi, và nói: ‘Thử cái này đi. Bạn có thể
nhìn thấy rõ hơn nhiều’. Anh ta đón lấy kính hiển vi, cầm lên chiếc kính
lúp đã tin cậy của mình cẩn thận quan sát qua kính lúp này xem vật chất gì đã
dùng làm kính hiển vi. Quán niệm là một dụng cụ cho việc trực tiếp quan sát não
thức. Bạn bỏ lỡ hầu hết tiềm năng của nó, nếu thay vì tự quán niệm, bạn
theo dõi những hoạt động điện trong não của một số hành giả khác đang quán
niệm.
Tôi chắc chắn không đề nghị từ bỏ những dụng cụ và
thực hành hiện nay của khoa học nghiên cứu não. Quán niệm không thay thế
chúng, nhưng nó có thể bổ túc cho chúng. Nó một chút giống như những kỹ sư
đang đào một đường hầm xuyên qua một ngọn núi khổng lồ. Tại sao chỉ đào từ một
bên? Tốt hơn hãy đồng thời đào từ cả hai bên. Nếu não bộ và não thức
thực sự là một và như nhau, hai đường hầm đào vào buộc phải gặp nhau. Còn
nếu bộ óc và não thức không giống nhau? Khi đó, lại là quan trọng hơn tất
cả để đào sâu vào trong não thức, và không chỉ vào trong não bộ.
Một số trường đại học và phòng thí nghiệm thực sự
đã bắt đầu dùng quán niệm như một dụng cụ nghiên cứu thay vì chỉ đoen thuần như
một đối tượng cho những nghiên cứu não bộ. Tuy nhiên, bước tiến này thì
vẫn còn trong giai đoạn trứng nước, một phần vì nó đòi hỏi sự đầu tư đặc biệt
khác thường về phần những nhà nghiên cứu. Quán niệm nghiêm chỉnh đòi hỏi
một mức độ rất cao về kỷ luật. Nếu bạn cố gắng theo dõi khách quan những
cảm xúc của bạn, điều đầu tiên bạn sẽ ghi nhận là não thức hoang dại chưa thuần
thục và thiếu kiên nhẫn đến như thế nào. Ngay cả nếu bạn tập trung vào
quán sát một cảm giác tương đối tách biệt như hơi thở vào và ra mũi của bạn,
não thức của bạn thường làm điều đó có thể không hơn được một vài giây trước
khi nó mất tập trung và bắt đầu loanh quanh trong những nghĩ ngợi, những nhớ
lại và những mơ màng.
Khi một kính hiển vi bị lệch điểm ngắm tập trung,
chúng ta chỉ cần vặn một núm cầm nhỏ để chữa lại cho đúng. Nếu núm cầm này bị
hỏng, chúng ta có thể nhờ một người thợ chuyên môn chữa nó. Nhưng khi não
thức mất tập trung, chúng ta không thể chữa nó dễ dàng như vậy. Thường mất
rất nhiều huấn luyện để lấy bình tĩnh và tập trung não thức, để nó có thể bắt
đầu quán sát chính nó một cách có phương pháp và khách quan. Có lẽ trong
tương lai chúng ta có thể nuốt chửng một viên thuốc và ngay lập tức có được sự
tập trung. Thế nhưng, Vipassanā có mục đích thăm dò não thức thay vì chỉ
tập trung vào nó, một lối tắt như vậy có thể chứng tỏ bị phản tác
dụng. Viên thuốc có thể làm chúng ta rất tỉnh táo và tập trung, nhưng đồng
thời nó cũng có thể ngăn cản chúng ta thăm dò được toàn bộ mọi chiều ngang dọc
của não thức. Xét cho cùng, ngay cả hôm nay chúng ta có thể dễ dàng tập
trung não thức bằng xem một phim kinh dị hay trên TV – nhưng não thức thì quá
tập trung vào phim truyện khiến nó không thể quán sát những động lực riêng của
nó.
Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta không thể dựa vào
những gadget [79] kỹ thuật như vậy, chúng
ta không nên bỏ cuộc. Chúng ta có thể nhận hứng khởi từ những nhà nhân loại
học, động vật học và những nhà phi hành không gian. Những nhà nhân loại học và
động vật học sống nhiều năm trên những hòn đảo xa xôi, tiếp xúc đầy những bệnh
tật lạ và nguy hiểm. Những nhà phi hành không gian dành nhiều năm chịu những
chế độ huấn luyện khó khăn, chuẩn bị cho những chuyến du hành không gian đầy
nguy hiểm của họ. Nếu chúng ta sẵn sàng để thực hiện những cố gắng loại
như vậy để hiểu những văn hóa xa lạ, những chủng loại chưa biết và những hành
tinh xa xôi, có thể là điều cũng đáng làm việc cần mẫn như vậy để hiểu những
não thức của chính chúng ta. Và chúng ta tốt hơn nên hiểu rõ những não
thức của chúng ta trước khi những algorithm
làm những quyết định và những chọn lựa cho chính chúng ta. [80]
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ
nhất
(Sep/2018)
[1] “Nothing endures but change. There
is nothing permanent except change. All is flux, nothing stays still.”
Heraclitus
[2]
[Wayne A. Wiegand and Donald G. Davis
(eds.), Encyclopedia of Library History (New York, London: Garland
Publishing, 1994), 432–3.]
[3] [Verity
Smith (ed.), Concise Encyclopedia of Latin American Literature (London,
New York: Routledge, 2013), 142, 180.]
[4] grand narrative (grands récits): chuyện kể lớn. Thuật
ngữ của Lyotard cho những totalizing narratives hoặc metadiscourses
của lý thuyết hậu-hiện đại, vốn đã đem cho những hệ tư tưởng một triết lý hợp
thức về lịch sử. Ví dụ, những chuyện kể lớn về phong trào Khai sáng, dân chủ
và chủ nghĩa Mác xít. Hayden White, một nhà sử học người Mỹ, cho rằng có bốn câu chuyện kể lớn của phương Tây: Câu
chuyện định mệnh của Hy Lạp, câu chuyện cứu chuộc của đạo Kitô, câu chuyện về
tiến bộ của giai cấp trưởng giả tư sản, và câu chuyện về không tưởng trong
Mácxít.
[5] critical thinking +communication +
collaboration + creativity
[6]
[Cathy N. Davidson, The
New Education: How to Revolutionize the University to Prepare Students for a
World in Flux (New York: Basic Books, 2017); Bernie Trilling, 21st
Century Skills: Learning for Life in Our Times (San Francisco: Jossey-Bass,
2009); Charles Kivunja, ‘Teaching Students to Learn and to Work Well with 21st
Century Skills: Unpacking the Career and Life Skills Domain of the New Learning
Paradigm’, International Journal of Higher Education 4:1 (2015). For the
website of P21, see: ‘P21 Partnership for 21st Century Learning’, http://www.p21.org/our-work/4cs-research-series, accessed 12 January
2018. For an example for the implementation of new pedagogical methods, see,
for example, the US National Education Association’s publication: ‘Preparing
21st Century Students for a Global Society’, NEA, http://www.nea.org/assets/docs/A-Guide-to-Four-Cs.pdf, accessed 21 January
2018.]
[7] “All that is solid melts into
air”: Marx muốn nói những tin tưởng bản thể của những nhà tư bản thời ông – gồm
những thứ như tiền, hàng hóa và vốn - quay ra đều không có nền tảng vững chắc
trong thế giới thực: tiền, hàng hóa và vốn đều là những thứ trừu tượng trống rỗng
một khi bạn bắt đầu nhìn cho sâu kỹ hơn (Nguyên văn phát biểu nối tiếng này: ‘All that is solid melts into air, all that
is holy is profaned, and man is at last compelled to face with sober senses,
his real conditions of life, and his relations with his kind.’)
[8] gender-non-specific: không rõ rệt
một phái tính nào
[9] phần vỏ não những nơ rôn nghe và nhìn –
[10] [Maddalaine
Ansell, ‘Jobs for Life Are a Thing of the Past. Bring On Lifelong Learning’, Guardian,
31 May 2016.]
[11]
[Erik B. Bloss et al.,
‘Evidence for Reduced Experience-Dependent Dendritic Spine Plasticity in the
Aging Prefrontal Cortex’, Journal of Neuroscience 31:21 (2011): 7831–9;
Miriam Matamales et al., ‘Aging- Related Dysfunction of Striatal Cholinergic
Interneurons Produces Conflict in Action Selection’, Neuron 90:2 (2016),
362–72; Mo Costandi, ‘Does your brain produce new cells? A skeptical view of
human adult neurogenesis’, Guardian, 23 February 2012; Gianluigi
Mongillo, Simon Rumpel and Yonatan Loewenstein, ‘Intrinsic volatility of
synaptic connections – a challenge to the synaptic trace theory of memory’, Current
Opinion in Neurobiology 46 (2017), 7–13.]
[12] The Bhagavad Gītā: भगवद्गीता: bản
văn India cổ điển, là một tác phẩm quan trọng bậc nhất của truyền thống Hindu về
văn học và triết học. Bhagavad Gītā
(Sanskrit: from bhaga + gītā) – Bài Ca của Đấng Chí tôn, chứa đựng những chủ đề then chốt trong
truyền thống tư tưởng và tôn giáo của văn minh India, viết như một tập thơ dài.
Mặc dù thường phổ biến như một bản văn độc lập, Bhagavad Gītā thực sự là phần của
Mahābhārata (Sử thi vĩ đại của triều đại Bharata) sử thi dài nhất của India (sử
thi dài kia là Ramayana), và cũng là
một sử thi vĩ đại của nhân loại. Bhagavad
Gītā là quyển 6, có 18 chương, dài 700 câu (23–40), gọi tắt là Gītā của của tập Mahābhārata, có năm tháng khoảng những năm 400 TCN -200 CN. Giống như Vedas và những Upanishad,
chúng ta không thể rõ
tác giả của Gītā . Truyền thống vẫn cho Veda Vyāsa đã viết Mahabharata,
nhưng nhà hiền
triết này
là một
nhân vật của truyền
thuyết hơn là của lịch
sử; dù Vyāsa thường được sánh với
Homer, một nhân vật truyền thuyết vĩ đại khác của sử thi Hellas.
Gītā viết trong thời kỳ ở India, có những thay đổi xã hội quan trọng. Những
vương quốc ngày càng lớn, thành thị hoá ngày càng tăng, hoạt động thương mại
ngày càng phức tạp, và những mâu thuẫn xã hội ngày càng trầm trọng. Văn bản
India cổ điển này là trả lời của một dân tộc triết học cho sự tìm kiếm thanh thản,
an tĩnh, và vĩnh cửu trong một thế giới vô thường đang thay đổi nhanh chóng và
tìm cách hài hòa những giá trị tinh thần truyền thống vào đời sống bình thường.
Khoảng thời gian khi Gītā được viết,
sự tu tập khổ hạnh được nhìn ở India là cách thế lý tưởng để sống đời tâm linh.
Những nhà tu khổ hạnh từ những giáo phái khác nhau cùng những tín đồ của đạo
Jains và đạo Phật đều có vẻ đã đồng ý rằng bỏ lại tất cả ở đằng sau (gia đình,
tài sản, nghề nghiệp, đừng tạo karma, vv) là cách tốt nhất để sống có ý nghĩa,
với cùng đích là sự giải thoát (moksha). Theo ý hướng này, có thể nhìn Gītā
như xoay quanh những câu hỏi sau đây: Làm thế nào một người nào đó có thể sống
một cuộc sống có ý nghĩa tinh thần mà không rút lui khỏi xã hội? Một người
không muốn từ bỏ gia đình và khước từ những nghĩa vụ xã hội có thể sống trong
những cách đúng thực có ý nghĩa, như thế nào? Gītā thách thức quan điểm đương thời rằng chỉ có lối sống lánh đời
khổ hạnh của những tu sĩ trong những tôn giáo mới đưa đến một cứu cánh tinh thần
toàn hảo, nhưng nhấn mạnh vào những giá trị tinh thần và ý nghĩa của một đời sống
nhập thế tích cực.
Gītā là chuyện kể về
Arjuna, một hoàng tử, người đã được gọi đến để chỉ huy một trận chiến giữa những
anh em họ thân thích thuộc hai nhánh hoàng tộc Kauravas và Pandavas. Arjuna
không muốn chiến đấu – không phải vì Arjuna thiếu can đảm, hay thiếu tài năng,
nhưng vì đó là một cuộc chiến dành ngôi kế vị, nên những kẻ địch của Arjuna đều
là những anh em họ, bạn bè, và cả thày dạy cũ của Arjuna. Arjuna không muốn giết
họ. Bản văn bắt đầu với Dhritarashtra, nhà vua mù của vương quốc Kuru, hỏi
Samjaya, người cố vấn và cũng là người đánh xe của nhà vua, nói cho biết những
gì diễn ra trên cánh đồng Kurus, đang là chiến trường giữa hai phe Pandava.
Samjaya liệt kê những chiến binh chính trên chiến trường và sau đó đưa nhà vua
(và người đọc) chú ý vào hai nhân vật của Gītā là Arjuna và Krishna.
Arjuna, thuộc giai cấp Kshatriyas (chiến sĩ, giai cấp cai trị
xã hội) là cung thủ vĩ đại và lãnh đạo của Pandavas. Thế nên, buổi sáng,
khi trận chiến sắp bắt đầu. Arjuna bảo Krishna, người đánh xe, hãy đánh bầy ngựa đưa cỗ xe vào giữa
trận địa. Cảnh tượng trước mắt: đông đảo những thầy dạy, chú bác, anh em, con
trai, cháu trai, và những bạn bè và rõ ràng là tất cả sẽ bị giết. Tất
cả khiến ông chấn động. Nghĩ rằng nếu tất cả sẽ bị giết sạch thì ngôi
báu và chiến thắng cùng cuộc đời rồi sẽ không có ý nghĩa gì nữa. Arjuna quay
sang tâm sự với người đánh xe của mình, cũng là người bạn và
hướng dẫn tinh thần, và hỏi người đánh xe này những câu hỏi sâu xa hơn về đời sống
chưa từng hỏi trước đó.
Người đánh cỗ xe ngựa
chiến này của Arjuna là thần Krishna (là “bhagavan-svayam”:
biểu hiện cuối cùng, cao nhất và nguyên thủy của Tối cao.) Krishna là một trong
những avatāra của Vishnu.
Krishna thấy Arjuna định
bỏ cuộc và bắt đầu thuyết phục Arjuna nên nhận nhiệm vụ chiến sĩ của mình, tiến
đánh kẻ địch.
Ta
không ham muốn chiến thắng, Krishna, Cũng không ngôi vua, cũng không những
thú
vui, hạnh phúc.
Ngai
vàng có nghĩa gì với chúng ta? Krishna? Những sung sướng là gì, ngay cả cuộc sống?
….
Ta
không có mong muốn để giết họ, những người ham hố chuyện chém giết, Krishna,
Ngay
cả làm vua của ba tầng thế giới (Trời, Đất, Người). Khi ấy, trên Đất (này) còn
lại được bao nhiêu … (I:32-35)
Ông ném bỏ cung tên, từ chối chiến đấu, lòng
ông của ông tràn ngập buồn thương. Thà chết:
Nếu
… giết ta trong trận chiến, đương khi ta đã không chống cự và không vũ trang,
Điều này sẽ là hạnh phúc lớn hơn cho ta. …
Đã
nói xong như thế về chiến trường, Arjuna ngồi xuống ghế của xe ngựa chiến,
Ném
xuống cả tên lẫn cung, với một trái tim tràn ngập buồn thương. (I:46-47)
…
Sau
khi bàn với Krishna như thế, Arjuna nói, ‘Ta sẽ không chiến đấu’, Và nói xong,
ông đã trở nên im lặng. (II:9)
Bài ca
của đấng Chí tôn là trả lời của Krishna cho Arjuna,
vì người đánh xe là hóa thân của chính thần Krishna: Gītā được trình bày như một trò chuyện giữa Arjuna và
Krishna, một con người và một vị thần, một người tìm kiếm và một người hiểu biết
(ý nghĩa của đời sống). Đối thoại giữa hai người thành một đối thoại triết
học. Gītā kết hợp chặt chẽ những khái
niệm triết lý về karma, dharma, reincarnation, atman, brahman, maya và moksha,
trong trả lời của Krishna với dilemma của Arjuna. Krishna kiên nhẫn và hùng hồn
dạy cho Arjuna cách áp dụng những triết lý cốt lõi này vào đời sống để thoát khỏi
khổ đau và đạt được giải thoát và hạnh phúc vĩnh cửu.
Chính xác như thế nào Krishna đã biến đổi Arjuna,
từ một người đầy nghi ngờ thành một người có tri thức lớn lao và phân
giải? Krishna bắt đầu chương 2 bằng giải thích Yoga của Tri thức,
kể lại chi tiết cho Arjuna những thấu đáo để tiếp nhận triết lý Samkhya:
Ngươi
đã than khóc những người vốn không nên được than khóc, và ngươi nói những lời
như thể với khôn ngoan; Người khôn ngoan không than khóc cho người chết hay cho
người sống.
Thực
sự đã chưa bao giờ có một thời khi ta không có, ngươi cũng không, những lãnh
chúa này cũng không; Và cũng sẽ chẳng có một thời khi chúng ta thôi không là tồn
tại, kể từ lúc này trở đi.
Cũng
giống như thời thơ ấu, thời trưởng thành và tuổi già xảy ra trong cơ thể với một
hữu thể hiện thân, cũng vậy, kẻ (hữu thể hiện thân) nhận lấy một cơ thể khác.
Người khôn ngoan thì không bị ảo tưởng về việc này.
(II:11-12-13)
Krishna nhắc nhở rằng mặc dù tiếp xúc với những đối
tượng của giác quan tạo ra vui sướng và đau đớn, nhưng cả hai đều không kéo dài
Những cảm giác đến từ cơ thể, thật đấy, Arjuna, Gây lạnh, nóng, sung
sướng hay đau đớn,
Đến và đi và nhất thời, thoáng qua. Thế nên, hãy gắng gỏi chịu đựng
chúng, Arjuna. (II: 14).
Ông nói về một gì vượt trên mọi thay đổi: dao kiếm
không cắt được nó; lửa không đốt cháy nó; nước không làm ướt
nó; gió không làm khô nó. Krishna nói với Arjuna rằng là một chiến binh,
nhiệm vụ của ông là chiến đấu. Nếu ông thắng, ông giành cả trái đất, nếu
ông thua, ông sẽ lên cõi trời. Krishna thúc giục Arjuna hãy tự mình sẵn sàng để
chiến đấu, hãy nhìn vui sướng và khổ đau, thành tựu và mất mát, chiến thắng và
thất bại, đều tất cả như nhau. Chỉ khi nào Arjuna từ bỏ quan tâm đến những
thành quả của hành động của mình, ông mới có thể tìm thấy bình an thực sự. Tôi
dịch thêm vài đoạn, mong làm rõ ràng hơn những ý tưởng về Atman bất hoại này
Người
ta tìm thấy rằng cái không-thực không có hữu thể; Người ta tìm thấy rằng không
có không-hữu thể của cái thực. Sự chắc chắn của cả hai mệnh đề này thì quả thực
rõ ràng, với những người thấu hiểu được sự thật. Biết rằng tất cả vũ trụ này thấm
nhiệm điều đó, thì thực sự là không thể hủy hoại; Không ai có khả năng để hoàn
thành sự hủy hoại của điều không thể hủy diệt. (II:16-17)
Những
cơ thể này – vĩnh cửu ngụ trong đó, Tự Ngã hiện thể, không thể phá hủy, vô hạn,
được nói là đi đến một cứu cánh. Vì vậy chiến đấu, Arjuna! Ai là người tưởng tượng
điều này (Tự Ngã hiện thể) giết người, và ai là người tưởng tượng điều này (Tự
Ngã hiện thể) bi giết. Không ai trong họ hiểu điều này (Tự Ngã hiện thể) không
giết, cũng bị giết. (II:18-19)
Không
phải là điều này (Tự Ngã hiện thể) sinh ra, cũng không phải nó chết bất cứ thời
nào,
Cũng
chưa từng là-có, cũng sẽ không là-có lần nữa. Không sinh ra, vĩnh cửu, thường
xuyên, nguyên sơ. Nó không bị giết khi cơ thể bị giết.
Ai
là người biết điều này, điều không thể phá hủy, vĩnh cửu, vô sinh, không thể hủy
diệt, (Vậy,) xảy ra cách nào người này bị giết, Arjuna? người này giết ai?
Như,
sau khi vứt bỏ quần áo mặc mòn, Một người sau đó mặc những quần áo mới,
Giống
vậy, sau khi vứt đi những thân thể bị mòn, Tự Ngã hiện thân gặp áo quần khác,
những quần áo mới. (II:20-21-22)
Gươm
giáo không đâm thủng thứ này (Tự Ngã hiện thể) Lửa không đốt cháy thứ này, Nước
không làm ướt thứ này, Gió cũng không làm nó khô héo. Thứ này không thể bị đâm
thủng, bị đốt cháy, bị ướt nát, hoặc khô héo.
Thứ
này là vĩnh cửu, thấm nhiễm tất cả, vững chặt; Thứ này bất động và nguyên thủy. (II:23-24)
Đối với người sinh, chết thì chắc chắn; Đối với người chết, chắc chắn có sinh. Vì vậy, vì điều này, hậu quả không thể tránh, Ngươi không nên khóc than (II:28)
Thứ này, Tự
Ngã được hiện thể, thì vĩnh cửu, không thể hủy diệt, trong cơ thể của tất cả, Arjuna. Do đó, ngươi không nên than khóc cho bất kỳ hữu thể nào (II:30)
Hoặc
là, sau khi bị giết, ngươi sẽ đạt được thiên đường, Hoặc, sau khi chinh phục chế
ngự, ngươi sẽ hưởng trái đất.
Do
đó đứng lên, quyết tâm chiến đấu (II: 37).
Trong chương 3, Yoga của Hành động,
Arjuna được khuyên nên thực hiện hành động phải được thực hiện, luôn
luôn tránh xa sự gắn bó hay ràng buộc (III: 19). Krishna chỉ ra rằng đó là
do một mình hành động khiến Janaka, nhà vua-triết gia, đạt được sự toàn hảo, và
nói với Arjuna nên hành động, tham dự vào sự kềm giữ với nhau của thế giới (loka-samgraha) (III: 20). Nhắc
dẫn hệ thống tư tưởng Samkya, nhắc lại rằng nhữnghành động được thực hiện
một mình bởi gunas của prakrti (những phẩm tính nội tại của vật
chất nguyên thủy); chỉ là người bị
lừa gạt mới nghĩ rằng ‘Tôi là người làm – chủ thể của hành động’ (III: 27). Sau
khi biết rằng tất cả điều này thì chỉ là gunas,
những phẩm tính, người ta trở nên tránh khỏi chấp trước, ràng buộc. Khi
được hỏi bởi Arjuna tại sao một người bị buộc phải làm điều ác, Krishna đáp ứng
rằng ham muốn và giận dữ, sinh ra từ đam mê (raja), che giấu kiến thức địch
thực và thúc đẩy những tri giác. Chỉ bằng chinh phục những tri giác và
kiểm soát não thức, ham muốn mới bị vượt qua.
Trong một nói chuyện về Yoga của Từ bỏ của Hành động trong Tri thức trong
chương 4, Krishna cung cấp một giảng dạy khác. Ông giải thích rằng người
ta phải thấy hành động trong không hành động và không hành động trong hành
động; chỉ khi đó một người mới có thể không bị ham muốn cưỡng
chế. Điều này được thực hiện bằng cách từ bỏ quả của hành động (karma- phala – asanga), dẫn đến sự
hài lòng và độc lập liên tục. Người như vậy được cho là không làm gì cả,
mặc dù đã tham dự vào hành động (IV: 20). Hy sinh được dẫn nhắc như là mô
hình cho hành động thích ứng; sự hy sinh của tri thức (jñana-yajña) được cho là mang đến sự
hoàn thành mọi hành động (IV: 33). Trong chương 5, Yoga của Từ bỏ,
Krishna tiếp tục nói rõ hơn sự cần thiết cho việc từ bỏ chấp trước, nói
rằng những người khôn ngoan nhìn thấy một con bò, một con voi, một con chó, một
kẻ ti tiện không có giai cấp, và ngay cả một người học thức và một Brahmin khôn
ngoan đều tất cả như nhau (V: 18). Ông mô tả ý định khôn ngoan hiền triết
được phóng thích khi một người kiếm soát được tri giác, não thức và thông minh,
một ai thắng vượt ham muốn, sợ hãi và giận dữ; một người như vậy được giải
thoát vĩnh viễn (V: 28).
Những phương tiện để đạt được điều này được mô tả
trong một giảng dạy khác, Yoga của Quán niệm. Để đạt được yoga, Krishna khuyên “Bỏ rơi những ham
muốn đó có nguồn gốc nằm trong ý định của một người, tất cả đều không có ngoại
lệ, và hoàn toàn kiềm chế nhiều những tri giác với não thức; từng chút
một, người này đi đến nghỉ ngơi, với trí thông minh được nắm chặt. Não
thức của người này đã được cố định trong tự ngã, người này không nên nghĩ đến
bất cứ gì khác” (VI: 24–25). Krishna bảo đảm với Arjuna rằng ngay cả một
lượng nhỏ của thực hành cũng sẽ có ích lợi.
Cũng như trong những chương trước, không giảng dạy
nào trong số này giải quyết được khủng hoảng của Arjuna. Thế nên, Krishna
tiếp tục. Trong bốn chương tiếp theo, Krishna nói với Arjuna về tự ngã cao
nhất, có thể đạt được qua chính Krishna. Trong Yoga của Kiến thức và Kỳ
thị, Krishna phân biệt giữa prakrti thấp
hơn, đó là thế giới của những tri giác quan và não thức, và prakrti cao hơn, vốn từ đó nổi lên
tất cả sự sống. Cả hai đều được cho là có nguồn gốc của chúng trong
Krishna, vị thần này là ‘hạt giống của tất cả những sự sống’. Ông tuyên bố rằng
ngay cả những ai hy sinh cho những vị thần thấp hơn trong thực tế đều là hy
sinh cho Krishna, nhưng được ít hậu quả. Trong Yoga của Brahman không thể hủy
hoại, Krishna giải thích Purusa như
sự hỗ trợ của những sự vật việc, thị kiến để đạt được, ‘trên đó đứng tất cả
sinh linh, qua đó tất cả vũ trụ này được thâm nhập’ (VIII: 22). Khi biết
điều này, tất cả các loại hoa trái của hành động đều siêu việt và đạt
được an bình.
Trong Yoga của Kiến thức Vương giả,
và của Sự bí ẩn Vương giả, chương 9, Krishna nói
về prakrti vốn đi ra từ ông. Những người thấy prakrti cao hơn qua hy sinh và
tận hiến cúng dường hy sinh của họ cho Krishna: đó là nhân chứng, nơi trú ẩn
cuối cùng; nguồn gốc, giải thể, và nền tảng; bất tử; hiện hữu và
không hiện hữu; người tận hưởng của tất cả mọi hy sinh. Trong chương
10, Yoga của Biểu Hiện, Krishna giải thích bản chất của lòng từ bi
của mình: bằng cách xuất hiện như nhiều vị thần, hiền triết, cây cối, ngựa, vũ
khí, quỷ thần, thần chú, chiến binh, sông, chiến thắng, thánh ca Veda, và nhiều
hơn nữa, ông đã được chứng minh là biểu hiện của tất cả những gì xứng đáng với
sự thờ phượng, tất cả những gì truyền hứng khởi cho sự vươn lên tự ngã đích
thực. Cuối cùng, ông tuyên bố, ‘Ta trì độ toàn bộ vũ trụ này liên tục với
duy nhất một phần của Tự Ngã Ta’ (X: 42).
Arjuna giờ đã có kinh nghiệm trực tiếp về những gì
đã được Krishna ca ngợi và mô tả. Tự ngã chân thực không còn là một trừu
tượng lý thuyết nhưng được thể hiện bằng hình dạng. Krishna làm sáng tỏ
khác biệt giữa giải thoát và những điều kiện ràng buộc và sau đó, trong chương
kết luận, giải thích Yoga của Tự do bằng Từ bỏ. Nội dung của
chương phản ánh mối quan tâm mà Krishna đã giải quyết một cách nhất quán kể từ
chương 2: sự hy sinh của những thành quả hành động, những phân biệt của gunas, sự cấy trồng của an bình thanh
thản, quan trọng của không-là-chủ
nhân-của-hành-động. Câu quan trọng của chương cuối cùng, rằng công
việc của Krishna là người dạy đã hoàn thành, như sau: “Thế nên bởi Ta, ngươi đã
được giải thích những kiến thức bí mật hơn sự bí mật. Sau khi suy ngẫm
đủ về điều này, hãy làm như ngươi mong muốn” (XVIII: 63).
Arjuna, khi kết thúc Gītā, thì
tự do để hành động. Trong chương 11 Arjuna hỏi Krishna hãy hiển lộ hình dạng
như mô tả là đấng Chí Tôn và Tự Ngã Cao nhất không. Arjuna cầu một kinh
nghiệm trực tiếp, một hiển thị (darsana):
“Nếu ngài nghĩ rằng có thể cho tôi thấy điều này, Ôi Chí
Tôn ơi, Hoàng tử của Yoga, thì với tôi sẽ thấy được chính Ngài, Đấng Bất
hoại” (XI: 4).
Krishna
chiều ý, hiển lộ cho Arjuna thấy một cảnh tượng thần kỳ kinh ngạc ’không thể tưởng tượng’. Vị thần này hiện ra trong thể dạng vũ trụ, một thần linh với nghìn
đầu nghìn tay:
Nếu một
ngàn mặt trời, đồng thời mọc trên vòm trời. Có thể xem rạng rỡ tuyệt vời đó,
Sánh ngang với vinh quang tuyệt vời của Hữu Thể vĩ đại đó.
Trong
hình dạng tuyệt vời nhưng khủng khiếp
nhất của thần linh này,
Arjuna thấy vĩnh cửu, thấy những mình sắp giết, đã chết trong tương lai, hiện hình trong miệng Krishna mở rộng.
Đã thấy hình
dạng vĩ đại của Ngài,Với nhiều miệng và mắt, có nhiều cánh tay, đùi, và chân,
có nhiều bụng và miệng há lớn với nhiều răng lớn nhọn, Ô Krishna, thế giới run
rẩy, và tôi cũng thế. (11:23)
Và bước vào
Ngài, tất cả các con trai của Dhritarashtra, Cùng với đám đông của các vị vua,
Bhishma, Drona, và Kama, con trai của Người đánh xe,Và cũng với các chiến binh
trưởng của chúng tôi, (11:26)
Krishna nói với
Arjuna:
Ta là Thời gian,
nguyên nhân phi thường của sự phá hủy thế giới Kẻ đã tiến ra để tiêu diệt thế
giới.
Thậm chí không
có bất kỳ hành động nào của ngươi, tất cả những chiến binh này những người xếp
trong nhũng đội ngũ đối lập, sẽ chấm dứt kiếp sống.
Do đó đứng lên
và chiếm lấy vinh quang! Sau khi chinh phục kẻ thù, vui hưởng vương quyền thịnh
vượng.
Những sự vật
việc này đã xảy ra do Ta; Hãy (đóng vai) là chỉ công cụ, Oh Arjuna. (11:32-33)
Anh hùng, uy
nghi, cứng chắc, khéo léo, Không chạy trốn trong trận chiến, hào sảng, và
tinh thần chủ tể là những nhiệm vụ của kshatriyas, sinh ra từ bản chất bẩm
sinh của họ.
Dâng hiến trọn cho nhiệm vụ của mình, Một người đạt được sự toàn
hảo. (18: 43-45)
Cuối chương 18,
sau khi Krishna hỏi, Arjuna đã trả lời :
Ảo tưởng của tôi
bị phá hủy và tôi đã nhận được khôn ngoan. Nhờ ơn cao
của Ngài, Krishna, những hoài nghi của tôi đã biến mất.
Tôi sẽ làm như lệnh Ngài truyền. (18: 73)
Cũng nói thêm, đã vẫn có hai lập trường về Gītā,
qua trường hợp của Arjuna, hầu như xung khắc dù không hoàn toàn mâu thuẫn:Trước
hết, lập trường chính thống Hindu không lên án chiến tranh với giai cấp chiến
sĩ (kshatryas, vì đây là dharma, trách nhiệm đạo đức của những
chiến sĩ để chiến đấu cho một cứu cánh tốt, mặc dù không bao giờ cho những lãnh
tụ tà ác (phần này được khai triển thành những ứng xử hào hiệp, những qui luật
công chính của chiến tranh chính nghĩa). Theo lập trường này, bài học của Mahabhrata
(cũng của Gītā) là mặc dù chiến tranh thì tà ác, nhưng là một tà ác
không thể tránh – một tà ác vừa bi thương vừa vinh dự cho giới chiến sĩ.
Chiến tranh nếu có một cứu cánh chính đáng thì thuận hợp ý thần linh. Lập
trường thần bí tôn giáo thì tế nhị hơn, với quan điểm này, chiến tranh là một
ẩn dụ cho một trận chiến vũ trụ giữa Thiện và Ác. Krishna hiển lộ thân thế Chí
tôn của mình để tái lập công chính, qua việc nhắc dạy Arjuna phải tham dự vào
cuộc tranh đấu tinh thần này, vốn không chỉ là một tranh đấu thế tục giữa những
con người. Theo diễn dịch này, Arjuna được đòi hỏi ra trận không với những thân
thuộc bằng hữu bên ngoài mình, nhưng với chính tự ngã thấp hèn trong chính
mình. Vậy cuộc chiến trong Gītā – là một cuộc chiến trong mỗi chúng ta,
thuận theo dhamma, ở đây là – trách nhiệm, đạo pháp, chính trực, đức
hạnh và danh dự – đi tới chiến thắng tự ngã – đó là một tự thắng, một
chủ đề lớn của tư tưởng Hindu.
Không vấn đề nào nếu quan trọng thiết yếu trong đời
người lại không thể dẫn về Bhagavad
Gītā, để mong tìm và nhận được một giải pháp toàn hảo. Gītā là một trong những thánh thư
vĩ đại nhất của nhân loại, chứa đựng những câu hỏi sâu xa bao trùm nhất con
người đã đặt cho mình, qua đó hình thành tư tưởng văn học Sanskrit của
India thời cổ. Ngày nay, đời sống chúng ta chưa bao giờ có vẻ vô nghĩa hơn. Sau tất cả
những tiến bộ kỹ thuật và thịnh vượng vật chất, trong hai thế kỷ vừa qua,
con người vẫn không được an bình, vẫn sống lo âu và giữa những khiếp sợ
trước cuồng nộ bạo lực ngày càng tăng, đến từ những mâu thuẫn xem dường không
thể hòa giải. Mỗi chúng ta đều vướng trong một giấc mơ khủng khiếp, rằng
theo đuổi những khát vọng tinh thần sẽ đưa đến hạnh phúc, và đặc biệt hai thế
kỷ qua đến nay, theo đuổi thành công vật chất sẽ dẫn đến bảo đảm vật chất
lâu dài, và hệ quả là hầu hết chúng ta thời nay không có mục đích trong
đời sống nào khác hơn là theo đuổi những điều này, mong chúng mang lại
thành công cá nhân cho mỗi chúng ta, dẫu biết, ít hay nhiều, rằng chúng là
nguyên nhân gây thương đau cho những sinh vật, tàn phá những quốc gia, hủy hoại
môi trường sinh sống của cả hành tinh.
Bhagavad Gītā cho chúng ta thấy giải pháp có
thể đánh thức giấc mơ này. Trong Sanskrit, ngôn ngữ của Gītā, thực tại cơ bản của đời sống
được gọi bằng một thuật ngữ đơn giản nhưng rất mạnh mẽ: advaita, ‘không hai.’ Theo lời của
một nhà huyền học India hiện đại: “Bạn và tôi không phải là ‘chúng
ta’; bạn và tôi là Một. “Không tách rời, không phân thành những mảnh
nhỏ; cho dù chúng ta có thể xuất hiện dưới những dạng ngoài khác biệt,
nhưng tốt lành của mỗi chúng ta không thể tách rời tốt lành của tất cả phần còn
lại. Ngay cả ở tầng mức cơ thể cá nhân, chúng ta biết rằng, thí
dụ, trong cancer, toàn thể cấu trúc sinh vật sau cùng bị hủy hoại,
khi có dẫu chỉ một tế bào đơn lẻ của nó, một mình theo đuổi một đường phát
triển riêng, độc lập với tất cả. Tương tự, Bhagavad Gītā nói với chúng ta, bạn và tôi không thể hoàn
thiện bản thân bằng cách mỗi người theo một con đường riêng. Chúng ta
chỉ có thể tìm được hoàn thiện lâu dài chỉ bằng đóng góp cho hạnh phúc và hoàn
thiện của những người khác, trong đó hạnh phúc và hoàn thiện của chúng ta
cùng có chung. Đây không phải là một phát biểu xuông triết học, nhưng
là một nguyên lý thực tiễn cchúng ta phải học để cùng sống, nếu muốn văn minh
loài người tồn tại.
Gītā minh họa sự thật sâu xa này của
Upaniṣad, Tat tvam asi: ‘Đó là ngươi’ Sáu chương đầu tiên là
một giải thích về tvam, ‘ngươi,’ the Ātman, và cho
thấy bản chất của bản ngã đích thực, vĩnh cửu của chúng ta. Sáu chương
tiếp theo liên quan đến Tat, ‘Đó’: Brahman, Thực tại tối cao nằm dưới mọi sáng tạo. Sáu
chương cuối giải thích asi,
‘là’, mối quan hệ giữa tvam và
Tat: bản thể định tính của Tự
Ngã bên trong và Thực tại tối cao, kết hợp tất cả sự hiện hữu vào trong
một tổng thể. Gītā khi
triển sự thật này, Tat tvam asi, trong
những thuật ngữ thực tiễn: bằng cách khám phá bản ngã thực của chúng ta, chúng
ta nhận ra sự thống nhất không thể phân chia của đời sống và nhận
ra trở nên hợp nhất với Nền tảng thiêng liêng của sự hiện hữu.
Bhagavad Gītā, nằm trong sử thi Mahābhārata,
thánh thư có ảnh hưởng sâu xa, mọi thời, lâu dài nhất của India. Đó là
tinh hoa của của khôn ngoan vĩnh cửu trong Upaniṣads
đem cho chúng ta trong cách có thể thực hành hệ thống được. Upaniṣad, xuất hiện cuối Vedas, kinh điển Hindu tôn kính nhất,
thiêng liêng nhất (không do nguồn gốc thần linh, nhưng do giá trị chân lý của
chúng), chứa đựng những thị kiến soi chiếu vào bản chất của chính Sống và
Chết. Gītā đặt nhận thức trong Upaniṣad vào những trình tự, để chúng ta
thực hiện được những nguyên tắc tinh thần, để trong đời sống luôn nhận
thức được Thực tại Tối cao.
Upaniṣad
là những con bò vắt sữa bởi Gopāla, con trai của Nanda, và Arjuna là con bê.
Người
khôn ngoan và tinh khiết uống sữa, mật hoa tối cao, bất tử của Gītā
Gītā cũng dùng hình thức đàm thoại
của Upaniṣads và đặc
biệt tương tự Katha Upaniṣad,
trong đó Yama, Thần Chết, dạy cho thiếu niên Nachiketa để đạt đến bất
tử qua sự nhận thức được Tự ngã. Trong Gītā, đối thoại là giữa Sri Krishna (một hóa thân của Vishnu)
và Arjuna, một hoàng tử trẻ, đại diện cho chúng ta. Arjuna là con người
hành động, sống giữa xã hội và đối mặt với những vấn đề thách
thức tương tự như chúng ta ngày nay. Người bạn và vị thày tinh thần
của ông, Krishna, vẫn ngự sâu trong ý thức chúng ta. Vị ấy là Ātman, bản ngã đích thực của
chúng ta.
The Bhagavad Gītā là sự tóm hợp của triết học
Vedānta, và giữa những học thuyết khai triển rõ ràng của Vedānta, nó nổi bật như một trong những phát biểu trực tiếp nhất có
thể có được về những gì hình thành chính yếu tính của Tinh thần chúng ta. Trong
những kinh điển Hindu, suy tưởng để đạt Tinh thần này, hay nhận thức được kiến
thức tối thượng gọi là Brahmavidyā (Nhận thức về Brahman, nhận thức tự thân bao trùm tất cả, hiểu
biết/nhận thức Tuyệt Đối), trong đó tất cả khát vọng của con người
hoàn toàn được hoàn thành. Nếu chúng ta thực hành suy tưởng chân
thực, có hệ thống, và với sự nhiệt tình bền vững, những vấn đề thể chất và
tình cảm của chúng ta tìm thấy giải pháp của chúng, tất cả năng
lực nghệ thuật và sáng tạo của chúng ta đi đến trưởng thành trọn
vẹn, và chúng ta có thể đóng góp cho phúc lợi của gia đình và cộng đồng
của chúng ta. Chúng ta sống trong thế giới với tư cách là thành phần
không thể thiếu của toàn xã hội, và bằng cách biến đổi bản thân, chúng
ta cũng biến đổi những người mà chúng ta đang chung sống. Đây là
vui sống; không là chạy trốn vấn đề nhưng đối mặt với những vấn
đề của đời sống, với một sự tự tin an tĩnh và cái nhìn sâu sắc chưa từng
có, đến với chúng ta từng ngày trong thực hành suy tưởng đi đến có được
kiến thức tối thượng về Brahma này.
(tạm dịch dựa trên những bản dịch của Winthrop
Sargeant và Eknath Easwaran)
[13] Dharma: một trong những khái niệm then chốt của Gita; ở đây có thể
hiểu như ‘pháp/luật trời’’ hay ‘bổn phận/ trách nhiệm theo luật trời’.’ Every
being is subject to a cycle of birth and death in which one has to come to
Earth to work off their karma by fulfilling their dharma -- or duty -- in a
given lifetime. In the Gita, it is Arjuna’s karma that he must rescue his
kingdom from the evil Kauravas. But it is his dharma that he must fight in
battle in order to do so -his dharma is as a kshatriya, or as a warrior.
Mọi sinh mệnh đều phải trải qua một vòng luân hồi của
sinh tử, trong đó người ta phải đến Đất này để giải nghiệp của mình bằng cách
hoàn thành pháp của họ - hay bổn phận - trong một đời sống. Trong Gita, Arjuna
phải giải cứu vương quốc của ông khỏi tà ác Kauravas, đó là karrma của ông; Nhưng do dharma của ông
khiến ông làm như vậy bằng phải vào trận chiến - dharma của ông là của một kshatriya, một người thuộc giai cấp chiến
sĩ.
[14] Dựa trên khái niệm nề tảng atman, karma ở đây là tác động của một người trong kiếp sống này, rồi sẽ
quyết định số phận của họ trong kiếp sống sau. Với tin tưởng vào karma, tư tưởng Hindu nói đến và đề cao dharma, như năng lực hay nguyên lý vận
hành vũ trụ, đem trật tự cho Tự nhiên.
[15] Hầu hết những diễn dịch của Islam
và Kitô về thế giới đều có tính báo trước
sự chấm dứt thế giới. Khẳng định một sự chấm dứt vĩnh viễn của thế giới, sắp
xảy ra chỉ trong nay mai, là một trong những đặc tính của những tôn giáo này.
Thế giới sẽ chấm dứt như một biến động lớn theo sau những kinh hoàng làm thay đổi
trạng thái của trái đất, nếu không phải là của toàn bộ vũ trụ. Thuyết Hé Cho Thấy Những Huyền Bí (Khải huyền)
này là sự tin tưởng rằng thế giới này sẽ kết thúc trong một kịch bản đã như xếp
đặt trước qua một số lời tiên tri. Những chi tiết khác nhau trong những ‘khải
huyền’ đa dạng được thấy trong những truyền thống tôn giáo khác nhau. Ngay cả
trong một giáo phái cụ thể, có thể có sự khác biệt đáng kể về ý kiến về những
chi tiết của ngày tận thế sắp tới và khi nào nó sẽ xảy ra. Trong đạo Kitô sách
kinh thánh mới mô tả chúa Giêsu như một nhà tiên tri khải huyền. Quyển cuối
cùng của Kinh thánh Mới có tên là sách Khải Huyền, mô tả thời gian kết thúc, nhắc
đến Armageddon, tên gọi trận chiến cuối
cùng trên trái đất giữa những sức mạnh của Thiện và Ác, của Gót và Sa-tan.
Những thuyết như Thuyết nghìn năm, thuyết trước-nghìn
năm, thuyết phân-từng-giai đoạn (Millennialism, premillennialism và
dispensationalism) đều là những lý thuyết gót học đạo Kitô với mục đích răn dạy
qua sự đe dọa con người về sự kết thúc không tránh khỏi (được Gót Kitô đã định)
của tất cả thế giới. Chủ đề chính là số phận sau cùng của mọi người đều đã được
một Gót quyết định (vốn sáng tạo con người nên cũng định phận cuối cùng của con
người). Thế nên, những tín đồ tin rằng Gót có sẵn một kế hoạch thiêng liêng cho
sự kết thúc của mọi sự vật việc, vở kịch vũ trụ đã sửa soạn, chỉ chờ lớp lang lần
lượt thể hiện. Thuật ngữ cho chủ đề của thời kỳ cuối là eschatology (từ eschatos từ tiếng Greek có nghĩa là ‘cuối cùng’).
Nhiều lý thuyết cảm hứng từ tập sách cuối cùng trong Kinh Thánh. Phần lớn viết
soạn và giảng dạy về thời gian kết thúc theo như quyến sách này, là khiếp hãi
và kinh hoàng, và điều quan trọng cần ghi là những hội nhà thờ chính thống đều
thực sự tin rằng những ‘báo trước’ này nên được hiểu theo đúng những nghĩa đen
ghê gớm, khiếp hãi và đe dọa của chúng. Có những tính toán cho rằng định rõ được
ngày giờ nào sẽ xảy ra ‘tận thế’! Nhiều lần đã sai, dĩ nhiên, nhưng vẫn không
thất vọng, vẫn có những tính lại, tiên đoán lại!
Những khái niệm ‘tận thế’ cùng khái niệm con người sa
ngã và xã hội băng hoại, trong ba tôn giáo Abraham (một gót, một chân lý, tất cả
trong một quyển sách) hạnh phúc vĩnh cửu chỏ có trong thế giới bên kia. Chúng
phản lại với những khái niệm nhân bản của chúng ta về sinh vật tiến hóa, khoa học
tiến bộ, với tin tưởng rằng con người có thể xây dựng hạnh phúc với những giới
hạn của sự sống và trần gian vật lý này. Tận thế, nếu hiểu theo quan điểm khoa
học chỉ có nghĩa là một chấm dứt thế giới vật lý, khi mặt trời sẽ nổ tung, trái
đất này của chúng ta mất nguồn năng lượng vẫn có của nó.
[16] Zionism: Zion-nít : phong trào dân tộc Jew,
khởi lập bởi năm 1896, do Theodor Herzl (1860-1904), nhà báo, nhà vận động
chính trị, sinh quán Budapest, Hungary, chủ tịch đầu tiên của Tổ chức Zion-nít
Thế giới, có mục tiêu tạo dựng và hỗ trợ một quốc gia Jew ở
Palestine, quê hương thời cổ của người Jew (tiếng Hebrew: Eretz Yisraʾel, hay
Zion, đồi Zion, ngọn đồi trên đó có Đền Jerusalem. Với những người Jew từ Zion
đồng nghĩa với Jerusalem và Vùng đất của Israel) Mặc dù chủ nghĩa Zion có nguồn
gốc ở Đông và Trung Europe trong nửa sau của thế kỷ 19, một trong nhiều cách biểu
hiện của tiếp tục gắn bó của người Jew và tôn giáo của người Jew với vùng đất lịch
sử Palestine.
Zionism là hệ tư tưởng quốc gia của Israel. Những người
theo chủ thuyết này tin rằng đạo Juda là bản sắc nhận diện cho dân tộc Jew, như
một quốc tịch cũng như một tôn giáo, và những người Jew có quyền chính đáng
sinh sống trên quê hương tổ tiên của họ, Israel (dù họ đã bỏ đi từ nghìn năm
nay, một hiện tượng lưu vong đặc biệt nổi tiếng của dân tộc này). Trong thế kỷ
vừa qua, Zionism trước hết là động lực đã đưa những người Jew trở lại Israel,
và cũng là trọng tâm của những đối kháng của thế giới Arabs và những người
Palestine về một quốc gia Israel. Những người Jew thường truy dõi bản tính dân
tộc của họ trở lại thời vương quốc nhắc trong Kinh thánh của những nhân vật huyền
thoại David và Solomon, vẫn cho vào khoảng năm 950 TCN. Chủ nghĩa Zionism ngày
nay xây dựng trên khát khao lâu đời của dân tộc Jew lưu vong cho một “trở về Zion,” bắt đầu vào thế kỷ 19 –
đúng trong thời gian chủ nghĩa dân tộc bắt đầu nổi lên ở Europe. Nhà báo
Theodor Herzl là người đầu tiên biến những vang động của chủ nghĩa dân tộc Jew
thế tục thành một phong trào quốc tế vào khoảng năm 1896. Herzl đã đích thân chứng
kiến chủ nghĩa chống-Jew tàn bạo của Europe, và trở nên thuyết phục rằng dân
tộc Jew không bao giờ tồn tại được bên ngoài một quốc gia riêng của họ. Những
người Arab và đặc biệt người Palestine, những người Arab đang sinh sống trên đất
Palestine, đều mãnh liệt phản đối chủ nghĩa Zion, vì đặc tính Jew rõ ràng biểu
hiện của một nhà nước Israel có nghĩa là người Jew có những đặc quyền mà những
dân khác không có. Người Arab, như thế, thường nhìn Zionism như một suwk kéo
dài của chủ nghĩa thực dân (của Europe) và sau đó cũng là một chủ nghĩa kỳ thị
chủng tộc (của những người Jew), nhằm chiếm đoạt đất Palestine và tước quyền sở
hữu một cách có hệ thống của dân chúng Palestine đang sinh sống ở đây. Một nghị
quyết của Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đã ghi nhận Zionism ‘một dạng kỳ thị chủng
tộc và phân biệt chủng tộc’năm 1975.
[17] [Karl Marx and Friedrich Engels,
The Communist Manifesto (London, New York: Verso, 2012), 34–5.]
[18] [Ibid., 35.]
[19] [Raoul Wootlif, ‘Netanyahu
Welcomes Envoy Friedman to “Jerusalem, Our Eternal Capital’, Times of Israel, 16 May 2017; Peter
Beaumont, ‘Israeli Minister’s Jerusalem Dress Proves Controversial in Cannes’, Guardian, 18 May 2017; Lahav Harkov,
‘New 80–Majority Jerusalem Bill Has Loophole Enabling City to Be Divided’, Jerusalem Post, 2 January 2018.]
[20]
[K. P. Schroder and Robert Connon
Smith, ‘Distant Future of the Sun and Earth Revisited’, Monthly Notices of
the Royal Astronomical Society 386:1 (2008), 155–63.]
[21] Tony
và Maria trong vở kịch và phim cinê nổi tiếng the West Side Story (1961), thực sự là một khởi hứng từ chính Romeo and Juliet. Bi kịch tình yêu giữa
những nhân vật quí tộc trung cổ nay được viết lại với những nhân vật giới
găngtơ NewYork thời nay.
[22] Trong Bertrand Russell – Tại
Sao Tôi Không là người Kitô?
Erewhon Revisited của
Samuel Butler …trong Erewhon, có một ông Higgs đó, ông ta đi đến một
xứ thật cách biệt hẻo lánh, sống ở đó độ một thời gian, ông ta trốn về nhà, bằng
khinh khí cầu. Rồi hai mươi năm sau, ông ta lại trở lại cái xứ hẻo lánh đó, thấy
chính ông nay được thờ là giáo chủ của một tôn giáo mới, cái tôn giáo mới này gọi
ông với cái tên là “Con Trời”, và dân chúng ở đấy bảo rằng ông đã “thăng thiên”
về trời. Ông biết được rằng Lễ Thăng Thiên sắp sửa diễn ra, và ông nghe hai vị
giáo sư Hanky và Panky nói với nhau rằng họ chưa bao giờ nhìn tận mặt cái người
tên Higgs, và họ mong rằng rồi họ sẽ chẳng bao giờ phải gặp Higgs; nhưng họ lại
là những tu sĩ cao cấp nhất của tôn giáo thờ Con Trời. Higgs rất phẫn nộ, ông
ta đến trước họ và ông nói: “Tôi sẽ phơi bày tất cả những cái bịp bợm này, và
nói với mọi người trong xứ Erewhon, chuyện thực đã xảy ra cho tôi,
tôi – người tên Higgs, là tôi đã bay lên trên cao kia bằng khinh khí cầu”. Người
ta bảo ông ta: “Nhất định ông phải chớ có làm thế, vì tất cả đạo đức của xứ này
đều gắn buộc vào cái huyền thoại ấy. Và nếu một khi họ biết rằng ông thực không
có lên thiên đàng gì ráo trọi, họ thành hư hỏng đồi bại ngay”, và như thế, ông
ta đành chịu bị thuyết phục cách đó, và ông lặng lẽ đi mất.
(https://chuyendaudau.blogspot.com/2009/05/tai-sao-toi-khong-la-nguoi-kito_28.html)
[23] Chiến tranh giữa những người Serbs
Kitô Chính thống và những người Croat Kitô Catô, 1991-1995, sau khi Yugoslavia tan rã.: Có nguồn gốc
lịch sử sâu xa từ Sự phân rẽ lớn trong đạo Kitô (Schism/Đại Ly giáo) năm 1054 và cuộc Viễn chinh Thánh chiến thứ Tư
cướp phá Constantinople năm 1204, cả hai vẫn trong ký ức sống động, đặc biệt của
những người Kitô chính thống ngày nay, ở Đông Europe, và vẫn tiếp tục tác động
trên những quan hệ giữa hai giáo hội Chính thống – Catô, trong đó có dân Serb
và Croat ở vùng Balkan. Một số những khác biệt về giáo lý giữa hai hội nhà thờ
này, khi nhìn như lý do của phân rẽ dai dẳng đẫm máu này, ngày nay xem rất lố bịch
và vô nghĩa. Lấy ví dụ như mâu thuẫn về ý niệm ‘filioque’: theo Catô Roma, Gót Ma “tiến hành từ Gót Cha và Gót Con”
(et et procioque procedit), trong khi
hội nhà thờ Chính Thống tuyên bố rằng theo nguyên gốc tuyên bố giáo điều Nicene
Creed (325), Gót Ma chỉ tiến hành từ một mình Gót cha.
[24] [See especially: Roy A. Rappaport,
Ritual and Religion in the Making of
Humanity (Cambridge: Cambridge University Press, 1999); Graham Harvey,
Ritual and Religious Belief: A Reader (New York: Routledge, 2005).
[25] [Đây là các diễn giải phổ thông nhất,
mặc dù không phải là cách duy nhất, của sự ghép câu ghép chữ ‘hocus-pocus’:
Leslie K. Arnovick, Written Reliquaries
(Amsterdam: John Benjamins Publishing Company, 2006), 250, n.30.]
[26] [Joseph Campbell, The Hero with a Thousand Faces (London:
Fontana Press, 1993), 235.]
[27] ‘Un soldat se battra longtemps et
durement pour un peu de ruban coloré’ – Một người lính sẽ chiến đấu kiên cường
và gian khổ cho một dải ruy băng nhỏ nhiều màu ‘ – có lẽ vì thế Napoléon lập ra
huy chương nổi tiếng Ordre national de la Légion d’honneur – vẫn dịch là Bắc đẩu bội tinh,(tôi không hiểu tại
sao, nếu Bắc đẩu là cao nhất, thì huy chương cao nhất của nước nào cũng là ‘bắc
đẩu’ cả! ; có thể nói cách dịch như vậy (và được đông đảo chấp nhận, lập lại!) cho thấy một
tâm lý nô lệ, thời chúng ta bị France đô hộ, cái gì của France cũng là nhất,
……nên huy chương cao nhất của France phải là cao nhất thế giới như sao bắc đẩu trong vũ trụ!) – motto của cái ruy băng nhỏ nhiều màu đó là ‘Danh dự và Tổ quốc’, – tổ quốc ở đây
dĩ nhiên là France. Huy chương có nhiều cấp khác nhau – từ ‘hiệp sĩ’ tới ‘chữ
thập lớn’ (chevalier - grand cross). Dĩ nhiên, vẫn được France tự xem là huân chương cao
quý nhất của quốc gia này, do chính Napoléon Bonaparte thiết lập vào năm 1802, để tặng
thưởng cho những cá nhân hoặc tổ chức (cả dân sự và quân sự) có đóng góp đặc biệt
cho France.
Chúng ta thấy có những người ViêtNam có thể kể Đồng Khánh, Nguyễn Thân, Hoàng Cao Khải, đến những Trần Lục,
Petrus Ký, tất cả đều với ảnh chụp trang trọng khoe một ‘mề đai’ của nhà nước Đại Pháp
choán hết ngực. Họ có vẻ thành thực lẫn kiêu hãnh với những tích cực “đóng góp
đặc biệt cho France”, và chúng được ‘mẫu quốc’ công nhận! Hiếm có người biết tự trọng, như Nguyễn văn Vĩnh, đã từ chối không nhận huy chương ‘cao quí’
này, hẳn ông, tuy chỉ là một người được đào tạo để làm thông dịch (bốn người nổi tiếng Quỳnh, Vĩnh, Tốn, Tố) –
nhưng hẳn không muốn thấy mình xếp chung hàng với những nhân vật vừa kể trên. Hiển
nhiên không ai có thể nói đóng góp đặc biệt cho France – cũng là cho ViêtNam, – đương trong
thời kỳ France là một trong những thực dân Catô xấu xa nhất của phương Tây (thực dân kia là Belgium với Congo) đang thực hiện một chế độ thuộc địa tàn khốc và đẫm
máu ở ViêtNam.
[28] 儀禮 Nghi Lễ, 周禮 Chu Lễ và 禮記 Lễ Kí
[29] [Xinzhong Yao, An Introduction to Confucianism
(Cambridge: Cambridge University Press, 2000), 190–9.]
[30] [‘Flag Code of India, 2002’, Press
Information Bureau, Government of India.
[31] [Ibid.]
[32] Chính phủ của đảng cầm quyền Bharatiya Janata Party (BJP/ Indian People’s Party/Đảng Dân tộc), thủ tướng
Narendra Modi.
[33] Freud cho rằng cơ quan sinh dục được
biểu hiện trong những giấc mơ, nghệ thuật và những hình thức tương tự (thí dụ:
thần thoại) qua những vật thể tượng trưng có hình dạng tương tự như những đối
tượng sinh dục. Cơ quan sinh dục nam được biểu hiện bởi những vật thể dài (ví dụ:
cột cờ, thanh giáo) trong khi cơ quan
sinh dục nữ sẽ được đại diện bởi những vật thể tròn bao quanh (ví dụ: vòng
tròn, nhẫn).Tuy nhiên, ngoài sự tương tự về hình dạng vật lý, vẫn còn yếu tố
văn hóa, thí dụ, ở India, ngà voi được xem là tượng trưng cho dương vật, nhưng ở
nhiều văn hóa Africa, một côt gỗ cùng đủ làm tượng cho dương vật, và ở Europe,
ngay cả khinh khí cầu dài (zeppelin) và máy bay cũng đã được nhìn như thế.
[34] [‘Here’s Why India’s “Tallest”
Flag Cannot be Hoisted at Pakistan’s Border’, The News International (Pakistan), 30 March 2017.
[35] Thêm nữa, những nhà chăn chiên
Kitô còn thực hành nhiều hình thức tự hành xác để ‘thấm thía’ với Gót hay
Jesus. Những người Kitô ngay từ đầu đã có khuynh hướng cho rằng hành hạ thân
xác là biểu hiện của tự kiểm soát, làm chủ thân xác (vẫn cho thân xác là ‘nhơ bẩn’,
đã đến vì không giải quyết hợp lý được được những nhu cầu tâm sinh lý vốn tự
nhiên của thân xác), cho rằng như thế có thể dâng hiến trọn ‘mình’ vào sự tôn
thờ Gót.(thí dụ vua chiên John Paul thường tự lấy roi quất mình, và không ngủ
trên giường nệm, nhưng trên sàn nhà thô cứng). Đặc
biệt, tự đánh hay quất roi vào da cho bầm tím hay chảy máu, thường là lưng, như
cách trừng phạt thân xác, biểu hiện ăn năn về ‘tội lỗi’ theo quan niệm nói trên
– thân xác là xấu xa, vì là gốc của tội lỗi, phải kềm chế, đè nén thành hạ. Và
như tác giả nói một nguyên nhân sâu xa ở trên – những tín đồ tôn giáo hành xác,
tự gây đau đớn, vì chỉ sự đau đớn của thân xác (một gì đó không thể cho là
không thực) mới khiến một gì đó khác thành là-có, thành có-thực, thành hiện hữu.
Ở đây chúng ta có hình ảnh nổi tiếng vẫn truyền tụng – một nhân vật huyền thoại,
tự xưng hiện thế của một nhân vật huyễn tưởng khác – huyền thoại này khi đang
quằn quại hấp hối, máu đang chảy trên những thương tích trên người đau đớn, đã
kêu lớn tên huyễn tưởng kia: ‘Đức Chúa Trời tôi ôi! Đức Chúa Trời tôi ôi! sao Ngài
lìa bỏ tôi? Nhơn sao Ngài đứng xa, không giúp đỡ tôi, và chẳng nghe lời rên siết
tôi? – ‘Eloi Eloi lama sabachthani?’
(Psalm 22:1).
Những người Muslim, ăn kiêng trọn một
tháng, gọi là tháng Ramadan, trong tháng đó – khi còn ánh sáng mặt trời – tuyệt
đối không được ăn và uống. Những người Muslims nhịn ăn uống như thế vì tin rằng
Allah đã ra lệnh cho họ làm vậy. Họ nhịn ăn uống để làm đẹp ý Allah.
{Ramadan là
(tháng) được gửi xuống qua Quran, như một hướng dẫn cho loài người, và cũng là
những dấu hiệu rõ ràng để phân biệt và phán đoán (giữa tà và chính). Thế nên, tất
cả các ngươi có mặt (ở nhà) trong tháng đó, phải dành trọn tháng này vào việc
nhịn ăn uống.} (Al-Baqarah 2:185)
[36] Tương tự – vận động ‘người Việt
mua hàng Việt’ như một cách biểu thị lòng yêu nước của chúng ta
[37] Với một chân trên lịch sử thảm sát tôn giáo đáng kinh tởm này, và một
chân kia trên sự ngu muội khoa học, mà đạo Kitô giờ đây dương cao như một thánh
hoá thản nhiên phi lý. Như vẫn truyền tụng John the Baptist đã nói lần đầu tiên
trông thấy Jesus “Kìa, chiên con của đức Chúa Trời, là đấng cất tội lỗi thế
gian đi.” Với phần lớn tín đồ đạo Kitô, cái tin tưởng quái đản này vẫn tồn tại,
và vẫn giữ làm cốt lõi niềm tin của họ. Đạo Ki tô gói ghém trong xác quyết là
chúng ta phải yêu Gót và được Gót yêu, một Gót đã chấp nhận một vật tế thần
chịu hành tội, tra khảo, và giết chết oan nghiệt – (vật tế thần đó là) một
người – là con trai của Ông, như đền bù cho những sai trái và tội lỗi của tất
cả những kẻ khác.
Hãy để “tin lành”
truyền đi khắp cõi: chúng ta sống trong một vũ trụ, bao la đến nỗi chúng ta dẫu
trong tư tưởng chỉ có thể mới chớm mường tượng ra, trên một hành tinh đầy sinh
vật mà chúng ta mới bắt đầu tìm hiểu, nhưng toàn thể công trình đã thực đi đến
viên mãn tuyệt vời hơn hai mươi thế kỷ về trước, sau khi một loài trong giống
linh trưởng (của chúng ta) đã trèo từ cây xuống, phát minh ra canh nông và dụng
cụ đồ sắt, đã phóng mắt nhìn (như qua một cái ly , xẫm tối) đang kiếm xem có cách nào có thể được để giữ phân của nó khỏi
lẫn với thức ăn , và rồi (ấy thế mà) lôi ra chỉ một người trong bọn, để
đánh đập tàn nhẫn và đóng đinh treo lên một giá gỗ chữ thập.
Khái niệm Jesus
Christ chết cho tội lỗi chúng ta và cái chết của Ông đã tạo nên sự hòa giải
thành công với một Gót “nhân ái” – là hình thức trực tiếp và trá hình rơi rớt
xót lại từ tục man rợ giết vật tế thần, vốn đã hoành hành ở những giống dân
mông muội trong lịch sử. Nhìn trong một nội dung hiện đại, đây là một ý niệm
vừa phi nhân vừa cuồng tín, phê phán nó, thật khó, không biết phải bắt đầu từ
đâu. Thêm vào huyền thoại đê tiện xoay quanh một người chết vì cực hình – Những
khổ hình của Christ – sự tượng trưng tục ăn thịt người của lễ Bí tích
Thánh thể (Eucharist) Tôi đã nói “tượng trưng?” Xin lỗi, theo như
Vatican, nó đã đảm bảo là không hề tượng trưng chút nào. Thực sự, quan điểm của
hội đồng Trent vẫn còn hiệu lực ….
Dĩ nhiên, đạo Catô đã
tạo nhiều lý thuyết gót học vặn gãy lưng nhưng không công hiệu trong lĩnh vực
này, trong một cố gắng tạo ý nghĩa cho làm sao họ có thể thực sự ăn thân mình
Jesus, không phải chỉ là những miếng bánh qui dòn quấn bọc áo ẩn dụ, và thực sự
uống máu Ông mà lại không, trong thực sự, là một sùng bái quái đản sự ăn thịt
người đồng loại. (Sam
Haris - Sự Hy sinh Lý trí)
[38] Shīʿite, hay Shiite: Shite: giáo phái thiểu số của Islam. Những người Shiite
Muslim tin rằng Ali, con rể của Mohammed, là người thừa kế hợp thức của ông,
trong địa vị tiên tri nắm quyền lãnh đạo chính trị và tôn giáo. Nhưng khối
Muslim đông đảo hơn không đồng ý, đa số này là giáo phái Sunni, hay Sunnī. Những
người Sunni Muslim coi giáo phái của họ mới là chính thống và theo truyền thống
của Islam. Tranh chấp đã bắt đầu sau cái chết năm 632 của Muhammad, người sáng lập Islam. Những Muslim khi ấy, không đồng ý về
việc ai sẽ kế thừa vai trò lãnh đạo của người giáo chủ này. Phái đa số Sunni
(ngày nay khoảng 80% tổng số Muslim) đã ủng hộ Abu Bakr, người bạn và cũng là cha vợ của Muhammad (nhà tiên tri
này đã lấy một đứa trẻ mới 9 tuổi, con bạn mình là Aisha, làm vợ, người vợ trẻ
nhất trong số 11 người vợ của ông). Những người Shite coi người thân của
Muhammad là những người thừa kế hợp pháp. Họ tuyên bố Muhammad đã xức dầu cho
Ali, anh em họ và con rể của ông. Ali đã trở thành Shia, từ rút ngắn của
‘shiaat Ali’. Nhưng những người ủng hộ Abu Bakr đã thắng, mặc dù Ali đã ngắn ngủi
là caliph (danh vị cho người kế thừa
Mohammad) thứ 4. Sự phân chia Islam trở nên mạnh hơn khi con trai của Ali là
Hussein bị giết chết ở 680 tại Karbala (nay là Iraq) do đội quân của caliph cầm
quyền Sunni. Những nhà cai trị phe Sunni tiếp tục độc chiếm quyền lực chính trị,
trong khi phe Shia sống trong bóng tối của nhà nước, tìm đến hướng dẫn của những
imams của họ, mười hai imam đầu tiên
được cho là hậu duệ trực tiếp của Ali.
Như vậy, phân rẽ giữa Sunni và Shia, diễn ra trong thế
giới Muslim, không thực sự đến từ nguyên nhân trong khác biệt giữa quan điểm
hay nội dung lý thuyết tôn giáo (như giữa Catô và Phản thệ trong Kitô) nhưng do
tranh dành quyền lực lãnh đạo cả tôn giáo lẫn thế tục. (a) Phái Sunnis muốn
ngôi vị kế thừa Muhammad phải do cộng đồng Muslim chọn lựa (b) Phái Shiites muốn
giữ ngôi vị lãnh đạo này trong thân tộc gia đình Muhammad. Những người Sunni
chiếm đa số, đã chọn lãnh đạo mới của họ là Caliph
(về cơ bản là người đứng đầu Nhà nước). Những người Shiite không nhận lãnh đạo
mới này, và thay vào đó họ đã chọn Ali, con rể của Muhammad, làm Imam (về cơ bản
cũng có nghĩa là người đứng đầu Nhà nước) mới của họ, đây là nguồn gốc chính của
sự tranh chấp ban đầu.
[39] [Stephen C. Poulson, Social Movements in Twentieth-Century Iran:
Culture, Ideology and Mobilizing Frameworks (Lanham: Lexington Books, 2006),
44.
[40] Baal, god worshipped in many
ancient Middle Eastern communities, especially among the Canaanites, who
apparently considered him a fertility deity and one of the most important gods
in the pantheon. Also, Baal mentioned in the Hebrew Bible as the primary god of
the Phoenicians. In this hierarchy, Baal (usually spelt “Bael” in this context;
there is a possibility that the two figures aren’t connected) is ranked as the
first and principal king of Hell, ruling over the East.
[41] [Houman Sarshar (ed.), The Jews of Iran: The History, Religion and
Culture of a Community in the Islamic World (New York: Palgrave Macmillan,
2014), 52–5; Houman M. Sarshar, Jewish
Communities of Iran (New York: Encyclopedia Iranica Foundation, 2011),
158–60.]
Mashhad is Iran’s second largest city. Known first and
foremost as the home of Iran’s largest religious shrine. Not just a religious
city, Mashhad is called the holy city of Iran because it is home to the tomb
and shrine of Islam’s eighth Shia Imam, Imam Reza. Every year millions of
pilgrims from around the world flock to this shrine.
[42] [Gersion Appel, The Concise Code of Jewish Law, 2nd edn
(New York: KTAV Publishing House, 1991), 191.]
[43] Tea Party: Tên gọi một phong trào
chính trị có chủ trương bảo thủ tài chính ở U.S. (đòi giảm ngân sách, giảm thuế)
– xuất hiện dưới thời Obamma, bắt đầu năm 2009
[44] National Rifle Association.
[45] Tranh cử ứng viên tổng thống của đảng
Dân Chủ US (2016)
[46] Định nghĩa chính thức của chủ nghĩa Phátxít, từ Benito Mussolini, người sáng lập chủ nghĩa Phát-xít
(La dottrina del fascism), trong đó
ông trình bày tổng quát 3 nguyên tắc của một triết lý phát xít:
1. ‘Tất cả trong quốc gia –
Everything in the state’. Chính phủ là tối thượng, quốc gia là gồm tất cả, tất
cả trong nó phải tuân phục với một tập thể cầm quyền, thường là một nhà độc tài
lãnh đạo.
2. ‘Không gì ngoài quốc gia –
Nothing outside the state’. Quốc gia phải lớn mạnh, mục đích tiềm ẩn của mọi quốc
gia phát xít là để thống trị thế giới, và có tất cả mọi người tùng phục chính
phủ/nhà nước.
3. ‘Không gì phản/chống lại quốc
gia’. Bất kỳ câu hỏi dù loại nào về chính phủ đều không được dung thứ. Nếu bạn
không thấy mọi thứ theo cách của chúng tôi, bạn sai. Nếu bạn không đồng ý với
chính phủ, bạn không thể được phép sống và làm bẩn tâm trí của phần những công
dân tốt còn lại.
Duy trì một lực lượng quốc phòng hùng hậu, đề cao chủ
nghĩa quân phiệt (militarism) đã được xem như một phương tiện để thành tự được
một trong ba nguyên lý kể trên, chính yếu là giữ trật tự, ngăn ngừa phạm pháp,
cho mọi người, trong và ngoài nước. Thế nên những quốc gia phát xít được biết
là có ổn định xã hội, không có những đình công, biểu tình, không có những đảng
chính trị hay bầu cử giữa những đối lập. Nazi Germany là điển hình cực đoan,
sau dó là Italy thời Mussolin, Iraq, Iran, nhiều quốc gia Trung Đông.
[47] [See especially: Robert O. Paxton,
The Anatomy of Fascism (New York:
Vintage Books, 2005).
[48] [Richard Griffiths, Fascism (London, New York: Continuum,
2005), 33.]
[49] [Christian Goeschel, Suicide in the Third Reich (Oxford:
Oxford University Press, 2009).
[50] [‘Paris attacks: What happened on
the night’, BBC, 9 December 2015; Anna Cara, ‘ISIS expresses fury over French
airstrikes in Syria; France says they will continue’, CTV News, 14 November
2015.
[51] Những người tin vào thiên đàng và
Gót, có vẻ như chính họ đều không thực sự tin tưởng có Gót và thiên đường với
Gót vẫn cho là trên đó, vì hiểu thiên đường là chốn tuyệt với nhất có Gót cai
quản, và là đích đến của kiếp sau cho những người theo những đạo Abraham (Kitô,
Islam, Juda). Nhưng chính những tín đồ này không ai náo nức muốn đến chốn đó
ngay cả, có vẻ như họ đều tìm mọi cách trì hoãn – cho thấy họ đều không muốn ‘lịch
sử của cuộc đời họ’ đi ngay đến cuối đường – dù ngoài mặt vẫn như cho thấy lòng
tin rằng cuối đường đời đó là thiên đường, về bên Gót, trở lại vườn Eden. Còn
ai thánh thiện hơn một vua chiên, nhưng khi ông bị ám sát, ông này cũng tìm những
y sĩ giải phẫu giỏi nhất để cứu mạng sống, có vẻ như chính ông cũng không muốn
gặp Gót sớm hơn thời hạn!
Chúng ta đều không biết (a) con người từ đâu đến (b)
con người đi về đâu sau khi chết – nếu ai nói với bạn họ biết cả (a) lẫn (b) và
sau đó có khi nói thêm (c) họ còn biết cách làm thế nào, sống ra sao, nghĩ gì,
tin vào đâu … để đi đến (b). Ban không bao giờ sai lầm khi nói ràng người này
nói láo, nếu họ thành thực tin và nói như thế, bạn cũng nhận ra ngay rằng họ
thuộc loại những kẻ nói mà không biết chính mình nói gì!
[52] Helsingør, tên England là Elsinore, là một thành phố cảng ở miền
đông Denmark. Nhìn ra eo biển Øresund, Lâu đài Kronborg có từ thế kỷ 15 đã tạo
nên khung cảnh cho Hamlet của Shakespeare.
[53] “Il n'y a qu'un problème
philosophique vraiment sérieux: c'est le suicide. Juger que la vie vaut ou ne
vaut pas la peine d'être vécue, c'est répondre à la question fondamentale de la
philosophie. Le reste, si le monde a trois dimensions, si l'esprit a neuf ou
douze catégories, vient ensuite.” (Camus)
[54] chimeras
[55] Xem thêm bài Huyền
Thoại về Tự do – của
tác giả
[56] [Ray Williams, ‘How Facebook Can
Amplify Low Self-Esteem/Narcissism/Anxiety’, Psychology Today, 20 May 2014.]
[57] Kinh Đại Niệm xứ – Mahàsatipatthana sutta:
Này các Tỷ kheo, thế nào
là Tỷ kheo sống quán thân trên thân?
Này các Tỷ kheo, ở đây Tỷ
kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết
già, lưng thẳng và an trú chánh niệm trước mặt. Tỉnh giác, vị ấy thở vô; tỉnh
giác, vị ấy thở ra. Thở vô dài, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở vô dài”; hay thở ra
dài, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở ra dài”; hay thở vô ngắn, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở
vô ngắn”; hay thở ra dài, vị ấy tuệ tri: “Tôi thở ra ngắn”; Cảm giác toàn thân,
tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “Cảm giác toàn thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập; “An
tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập; “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra”,
vị ấy tập.
… Lại nữa này các Tỷ
kheo, Tỷ kheo quán sát thân này, dưới từ bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh
tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất tịnh sai biệt: “Trong thân này,
đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, thận, tủy, tim, gan, hoành
cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng, phân, mật, đàm, mủ, máu, mồi
hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước ở khớp xương, nước tiểu.”
Này các Tỷ kheo, cũng như
một bao đồ, hai đầu trống đựng đầy các loại hột như gạo, lúa, đậu xanh, đậu lớn,
mè, gạo đã xay rồi. Một người có mắt, đổ các hột ấy ra và quan sát: “Đây là hột
gạo, đây là hột lúa, đây là đậu xanh, đây là đậu đỏ, đây là mè, đây là hột lúa
đã xay rồi.” Cũng vậy, này các Tỷ kheo, một Tỷ kheo quán sát thân này dưới từ
bàn chân trở lên, trên cho đến đảnh tóc, bao bọc bởi da và chứa đầy những vật bất
tịnh sai biệt: “Trong thân này, đây là tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân,
xương, tủy, thận, tim, gan, hoành cách mô, lá lách, phổi, ruột, màng ruột, bụng,
phân, mật, đàm, mủ, máu, mồ hôi, mỡ, nước mắt, mỡ da, nước miếng, niêm dịch, nước
ở khớp xương, nước tiểu.”] (Thích Minh Châu)
[58] [Mahasatipatthana Sutta, ch. 2, section 1, ed. Vipassanā Research
Institute (Igatpuri: Vipassanā Research Institute, 2006), 12–13.]
[59] [Ibid., 5.]
[60] Vô thường, vô ngã, khổ
[61] Hsinbyushin (1763–76) vua thứ ba của
triều đại Alaungpaya, hay Konbaung của Myanmar. Ông theo đuổi một chính sách
bành trướng lãnh thổ, với những kết quả thiệt hại cho những nước láng giềng
(Thailand, Laos, India).
[62] [G. E. Harvey, History of Burma: From the Earliest Times to
10 March 1824 (London: Frank Cass & Co. Ltd, 1925), 252–60.
[63] Brian Daizen Victoria, Zen at War (Lanham: Rowman &
Littlefield, 2006); Buruma, Inventing Japan, op. cit.; Stephen S. Large,
‘Nationalist Extremism in Early Showa Japan: Inoue Nissho and the “Blood-Pledge
Corps Incident”, 1932’, Modern Asian Studies 35:3 (2001), 533–64; W. L. King, Zen and the Way of the Sword: Arming the
Samurai Psyche (New York: Oxford University Press, 1993); Danny Orbach, ‘A
Japanese prophet: eschatology and epistemology in the thought of Kita Ikki’, Japan Forum 23:3 (2011), 339–61.
[64] [‘Facebook removes Myanmar monk’s
page for “inflammatory posts” about Muslims’, Scroll.in, 27 February 2018;
Marella Oppenheim, ‘“It only takes one terrorist”: The Buddhist monk who
reviles Myanmar’s Muslims’, Guardian,
12 May 2017.
[65] Tôi viết nghiêng để nhấn mạnh
[66] [Jerzy Lukowski and Hubert
Zawadzki, A Concise History of Poland (Cambridge:
Cambridge University Press, 2001), 163.]
[67] Bài phỏng vấn tác giả sau
đây (tôi dịch một đoạn liên quan) có thể như giới thiệu chương này
Hỏi: Quán
tưởng có ý nghĩa gì đối với ông và tại sao nó quan trọng?
Đối với tôi, đó là một cách để hiểu thực tại trước
hết về bản thân tôi và sau đó là thực tại của phần thế giới còn lại,
với không (kèm theo) bất kỳ một chuyện kể và hư cấu và thần thoại nào. Chỉ
quán sát những gì đang thực sự xảy ra. Câu
hỏi quan trọng nhất đối với tôi là làm thế nào để nói về sự khác biệt giữa giả lập (của tưởng tượng) và thực tại,
và đó là lý do tại sao quán tưởng là một phần quan trọng trong cuộc đời tôi. Không biết điều đó có quan trọng với người khác hay không, nó
tùy thuộc vào người đó. Chương cuối cùng
(này) của tôi trong quyển sách mang tính cá nhân hơn bởi vì đó là về Vipassanā. Tôi lo lắng rằng mọi người sẽ nghĩ tôi đang nói rằng thiền
quán sẽ giải quyết mọi vấn đề tôi nêu ra. Thiền quán có thể giúp mọi người đối ứng với
sự căng thẳng của đời sống nhưng chắc chắn không là mũi tên thần diệu sẽ cứu
loài người khỏi tất cả những vấn đề của nó
Hỏi: Ông có
lo ngại rằng mọi người sẽ nhìn ông như một người khôn ngoan hay người khao khát
với tất cả những câu trả lời?
Vâng, đó là một áy náy lo lắng, đặc biệt là khi tôi
không có câu trả lời, ít nhất là hầu hết những câu trả lời. Và tôi
quen thuộc với khuynh hướng của con người muốn có một ai đó với tất cả những
câu trả lời, và để rồi chỉ làm theo những gì người ấy nói. Và tôi chắc chắn không phải là người đó. Vì vậy, tôi hy vọng rằng mọi người sẽ đọc quyển sách
không như một hướng dẫn không thể sai lầm
để sống trong thế kỷ 21, nhưng như một danh sách những câu hỏi. Bạn không thể có câu trả lời trước khi bạn có một bàn luận. Vì vậy, trước tiên chúng ta cần bắt đầu một bàn luận.
(Andrew Anthony phỏng vấn Yuval Noah Harari
https://www.theguardian.com/culture/2018/aug/05/yuval-noah-harari-free-information-extremely-dangerous-interview-21-lessons
https://www.theguardian.com/culture/2018/aug/05/yuval-noah-harari-free-information-extremely-dangerous-interview-21-lessons
[68]
dharma: (không viết hoa) ở đây có thể hiểu:
(a)
những hiện tượng trong vũ trụ, (triết
học Phật giáo)
(b)
những nguyên lý vận hành vũ trụ (luật
và trật tự vũ trụ)
(c)
những trình bày giảng dạy về những (a) và (b) (những giảng dạy của Đức Phật, hay chính đạo Phật) và những gì có/liên hệ/diễn
dịch từ/giữa (a) + (b) – hiểu như từ những giảng dạy suy diễn sau khi đức Phật
đã mất
Trong tiếng Tây phương, không có từ đồng nghĩa tương đương – nên nay có
khuynh hướng dùng ‘dharma’ – không dịch. Cũng nói thêm khái niệm ngược/phản/không dharma là adharma = a
+ dharma, Nó có nghĩa là vô đạo đức, tội lỗi, sai, độc ác, bất công, không công bình, bất công, hoặc không tự nhiên – [TDPH dich Dharma = Pháp 法 ; S: dharma; P: dhamma; cũng đươc dịch theo
âm Hán Việt là Ðạt-ma, Ðàm-ma; adharma (s) = tội 罪.]
Trong nhiều
trường hợp (b) và (c) có thể coi là một. Mặc dù – như đức Phật tuyên bố chỉ có
cơ hội, (những gì ngài nói/giảng như nắm lá cây trên tay, so với lá rừng…), hơn
nữa cũng chỉ cần nói về (c) [những gì trong (b) nhưng không cần cho cứu cánh giải
thoát – nói việc rút mũi tên ra, sao cho nhanh, không bàn ai bắn mũi tên, nó độc
thế nào…]; vậy cũng có thể nói với khá vững chắc: (c) là subset của (b).
Thu tóm và
nhìn khác đi nữa, để giải thích những gì liên quan ở đây:
(a)
thế giới quanh chúng ta và bản thân chúng ta là những hiện tượng, những gì thấy
bên ngoài, xem dường, có vẻ như tất cả hiểu như những gì cúng ta gọi là thế giới
là-có, (sau đó biết thêm là chúng không là-có,
nhưng là những đang-trở thành) đều là
những dharma [= ‘pháp’ trong ‘vạn pháp giai không’ trong Mahayana]
(b)
thế giới (a) đó có tính chất (b1) luôn luôn thay đổi, (b2) chịu những điều kiện
nhân quả, dựa vào nhau để có-mất,(b3) đến cùng, không có chủ thể cố định (do
b1+b2) nên không thể nói đươc một gì là có, … Những b1, b2, b3,…) này hiểu như
những nguyên lý hay qui luật tự nhiên tiềm ẩn vận hành chúng ta và thế giới
quanh ta cũng chính là Dharma [‘Pháp’ viết hoa = nguyên lý/qui luật/những
giảng day của Phật về những ‘pháp’, như những chân lý và những tuân giữ để đi đến
chân lý đó – thí dụ trong những Giới (s: śīla), Luật (s: vinaya) trong
Theravada.].
Đến đây, chúng
ta lại cũng có thể nói thêm: (b) và (c) cũng là những subset của (a) – tất cả hiện tượng trong vũ trụ, gồm con
người, chân lý giảng dạy cho con người, những chân lý nói đến đó là những qui
luật của vũ trụ và khi con người sống thuận hợp với chúng, con người được giải
thoát – Dharma cũng là những ‘dharma’, dharma=Dharma.
Thế nên con
người và sự sống của nó vừa là tự thân sự sống vừa là biểu hiện của dharma,
mỗi biểu hiện cá nhân là một cuộc đời trong những giới hạn thời-không của nó; nếu
hiểu cuộc đời chính là biểu hiện của sự sống, gọi là đời sống đời người cũng
chính là (một) dharma. Con người nhận và hiểu thế giới hiện tượng, được
giải thích về trật tự tự nhiên đích thực (qui luật/nguyên lý) của toàn thể vũ
trụ hay, sự tiếp nhận (tri thức) và tiếp
đãi/ứng xử (thực hành) trong thế giới tự nhiên và nhân văn theo như/thuận hợp
với hay dựa trên bản chất đích thực nội tại của chúng là dharma. Giảng dạy của
đức Phật, giáo pháp của Ðức Phật, những dharma
đã được nhận biết, truyền bá, để giác ngộ là là chính ‘đạo’ Phật. Từ ‘đạo Phật’
là từ mới phổ thông, dịch ‘Buddhism’
là từ gọi của người phương Tây, chúng ta gọi ‘đạo’ Phật là dharma, chúng ta không nói giảng đạo Phật, nhưng những nhà sư ‘nói
Pháp/thuyết pháp’, ‘pháp thoại’. Khi chúng ta nói một người như: ‘ông X có đạo’,
hay ‘cô/bà YZ theo đạo’, chúng ta hiểu họ là những người theo đạo Kitô. Nói về
đạo Phật, là nói về ‘đạo giác ngộ’, (đạo là con đường sống, không là tôn giáo)
là dharma, là Pháp, [như quyển kinh của
phái Thiền nước Tàu, ghi những bài giảng về con đường – ưng vô sở trụ nhi sinh
kỳ tâm – dẫn đến giác ngộ’ của Huệ Năng có tên gọi là Pháp bảo đàn kinh (法寶壇經), hay một thiền sư truyền ‘tâm pháp’ cho học trò (Truyền Tâm Pháp Yếu – Hoàng Bá).] Ngày nay, có
khuynh hướng gọi đạo Phật là ‘đạo Pháp’, Dharma dùng thay cho Buddhism (thí dụ
những tác phẩm của Bhikkhu Bodhi – Dhamma
Reflections, Investigating the Dhamma)
hiểu như nghĩa (c) ở trên.
Vậy những khái
niệm loại như … ‘đạo Phật đi vào cuộc đời’ (rồi ‘hiện đại hóa’, rồi ‘engaged
Buddhism’ 入世佛教 có
thể là một khái niệm không cơ sở; có phần gần gũi với một lập trường nhị nguyên
(có hai = đạo Phật + con người/cuộc đời), vốn không thực là quan điểm thấy có
trong triết học đạo Phật. Trong ý nghĩa gốc của từ dharma có thể nói là không
nguyên nào cả hay ít nhất chỉ là ‘nhất nguyên’ (có một = con người/cuộc đời/chân
lý về đời người= dharma=đạo Phật > đời=đạo) đạo Phật vẫn ở trong con người,
trong cuộc đời, chỉ có sự thể hiện
đúng hay không đúng. Những khái niệm Phật
tâm, Phật tánh trong Mahayana cũng có thể nhìn hiểu theo ý hướng này. Giữa
dualism và monism, hiểu theo những nghĩa phương Tây, một người theo đạo Phật hẳn
sẽ nghiêng sang lập trường monism, vì sẽ không tương phản với những gì thông
thường được nhận hiểu trong nội dung đạo Phật. Đạo Phật hiểu như cách thế sống
(dharma/pháp), theo như dharma vận hành (đạo Pháp). Thế nên, dharma là tất cả thế giới gồm những hiện
tượng chúng ta đang sống, gồm cả một hiện tượng/hiện thể là bản thân chúng ta,
không phải là một gì ngoài chúng ta, có thể hay để phải đem vào, để ‘nhập thế’
(đem dharma vào dharma!). Chúng ta và những gì quanh ta có là một hay không (dù
về vật chất, về vật lý, hóa học, ngay cả sinh học chắc chắn là một) còn là vấn
đề tranh luận, nhưng chúng ta và dharma là chỉ có một, theo những định nghĩa
trong đạo Phật, chắc chắn không thể là hai, nên không có trong/ngoài. Chúng là
những phổ quát biểu hiện qua những hiện tượng, và một đặc biệt của đạo Phật,
khác biệt như trỗi vượt trên những tư tưởng, triết học khác – là những phổ quát
đó cũng vô thường, nghĩa là thay đổi, không vĩnh viễn, phản lại với tư tưởng
Hindu.
Khái niệm ‘đạo
Phật đi vào cuộc đời’ như thế xa lạ,
đến mâu thuẫn, với chính nội dung đạo Phật – nội dung đó nói về những gì quanh
đây, cuộc đời này, biểu hiện sự sống này, tồn tại này của tất cả chúng ta, nếu
chấp nhận ngay cả thời gian chỉ là khái niệm giả tạo (cũng như tự ngã, chúng ta
đặt ra để ăn nói, bàn luận,truyền thông) – khái niệm ‘đi vào cuộc đời’ gần gũi
với khái niệm logos xuống trần, nhập
thế, trong đó những ước vọng đời người, cứu cánh của trần gian hiện sinh này là
một gì đó – không rõ – nhưng được định nghĩa và tuyên xưng là ở ngoài cuộc đời,
ở trên cuộc đời, trong một thế giới nào đó hứa hẹn chỉ có sau cái chết.
Tôi
dài dòng như thế, vì chương cuối này, tác giả viết ‘my dharma’; dù ở đây dharma (Sanskrit)
hay dhamma (Pali) mang ý nghĩa có trong tư tưởng Hindu, như
trong Gita (xem chương trước) nhưng
là một từ những người đạo Phật cũng rất hay dùng. Trong đạo Phật, nó nhắc một
trong ba điều quí giá (tam bảo) là: Phật, những giáo lý Phật giảng dạy, và những
người gìn giữ/truyền bá/thực hành những giảng dạy đó (Phật, Pháp, Tăng =
Buddha, dharma, sangha). Nhưng dharma là
một từ rất cổ, trước đạo Phật rất lâu, nên không chỉ là một tên gọi để chỉ những
gì thông thường ngày nay những người theo đạo Phật hiểu hạn hẹp, hiểu dharma =
Pháp = ‘những giảng dạy của đức Phật. Từ dharma đã có trong những
tôn giáo khác của India, trong đạo Hindu, trước nó, và đạo Jain đồng thời với
nó. Nghĩa nguyên thủy của dharma là một gì đó như ‘luật của/trong tự
nhiên’. Gốc ‘dham’, có nghĩa là ‘gìn giữ/duy trì’ hay ‘tán thành/ủng hộ/chốngđỡ’.
Trong nghĩ rộng chung với nhiều tôn giáo truyền thống India này, dharma là những
gì gìn giữ, duy trì trật tự có sẵn/tự nhiên của vũ trụ, như ở trên, ‘pháp’, hiểu
trong đạo Phật, và dharma cũng là tán thành, ửng hộ sự thực hành của những gì
(lý thuyết)/ những ai là người thuận hợp, thể hiện, hay sống thuận hợp với nó,
trong chiều hướng này này, dharma là những ứng xử đạo đức chân chính hay sự
ngay thẳng chính trưc theo ý hướng tôn giáo. Trong một vài truyền thống Hindu, dharma dùng để nói về ‘trách nhiệm/bổn
phận thiêng liêng’. Nhắc lại một chú thích ở chương trước – Dựa trên khái niệm
nề tảng atman, karma là tác động của
một người trong đời sống quyết định số phận của kiếp sống sau của họ. Với tin
tưởng này vào karma, tư tưởng Hindu
nói về và đề cao dharma, năng lực hay
nguyên lý vận hành vũ trụ, đem trật tự cho Tự nhiên.Hiểu như vậy, chúng ta thấy dharma
bao trùm karma, dharma duy trì trật tự vũ trụ, và karma là thể hiện tương quan
nhân quả trong thế giới con người trên tầm mức vũ trụ, đem lại công bình (trật
tự) cho vũ trụ.
[69] deconstruct
[70] Sinh quán Haifa, Israel, 1976, luận
án PhD ở đai học Oxford, England: History
and I: War and the Relations between History and Personal Identity in
Renaissance Military Memoirs, c. 1450-1600 (2002)
[71] New Age: Tâm Linh thời đại Mới: một lối sống và nghĩ (tự cho là mới)
trong đó nhấn mạnh ý thức về phần tinh thần (thay vì vật chất hay tiêu thụ vật
chất), đa phát triển trong những năm 1980’s, dựa trên những ý tưởng đã có trước
những lý thuyết khoa học và kinh tế mới của thời nay. Thí dụ chiêm tinh học (astrology), Y
học Bổ xung/Thay thế (alternative
medicine).
(a)
Xem thêm chú thích trong bản dịch Sapiens của tôi trên blog này:’…
‘Vipassanā, có nghĩa là để xem những sự vật việc như
chúng thực sự là, là một trong những kỹ thuật quán tưởng cổ xưa nhất của India.
Nó đã được dạy ở India cách đây hơn 2500 năm như là một phương thuốc phổ quát
cho những bệnh phổ quát (của đời sống), tức là, một Nghệ thuật Sống.’
(Định nghĩa trong những khóa giảng dạy của S.N. Goenka, theo truyền thống của
Sayagyi U Ba Khin).
Vipassanā: sự chiếu kiến,minh sát,
tuệ quán, hay Quán (觀); S: vipaśyanā; P: Vipassanā,
gần đây là Thiền Minh sát, hay Tuệ
Minh sát. …’.
(b) Nguyên văn là ‘meditation’–
(meditation = Tĩnh lự (靜 慮)); do trong bài, tác giả thực sự chỉ nói về Vipassanā.
chúng ta đã thường dùng ‘thiền’
để dịch ‘jhana’. [S: dhyāna; P: jhāna đã phiên âm là Thiền-na (禪 那), rồi dùng tắt là ‘Thiền’]; nhưng đã không dịch Vipassanā
là Thiền. [Cũng nói thêm, trước đây, người
Tàu không dịch, chỉ phiên âm là ‘duy ba sa na’ 維巴沙那,
cổ văn Tàu cũng còn phiên âm là ‘bì bà xá na’, ‘bì bát xá na’ 作毗婆舍那、毗缽舍那.
] Nên tôi giữ tên gọi chương quan trọng
này (theo nội dung rõ ràng của tác giả) là Thiền
Vipassanā. Nhiều chỗ tác giả dùng
‘meditation’ nhưng chúng ta hiểu ở đây, dựa vào giải thích của tác giả ở trên,
chỉ là ‘kỹ thuật’ tự theo dõi hơi thở kỹ lưỡng, nghiêm nhặt, như vẫn dịch ‘quán niệm hơi thở’- (tương tự như quán sổ
tức trong thiền), nên chỉ có thể dịch là quán niệm, nhưng không hẳn là thiền định.
Về từ nguyên, chúng ta có: śamatha
(s) (p: samatha); định 定; thiền định
禪 定; tịch tĩnh 寂 靜; xa-ma-tha 奢 摩 他 vipassanā (p) (s:
vipaśyanā); Quán 觀; tì-bà-xá-na 毘 婆 舍 那; tì-bát-xá-na 毘 鉢 舎 那 śamatha-vipaśyanā (s); chỉ quán 止 觀. (TDPH). Như nói trên Vipassanā = nhìn sự vật việc
như chúng thực sự là, là một trong những kỹ thuật quán niệm chung, tuy từ truyền
thống Theravada, nhưng đã có từ trước của India (đức Phật đã thực hành), còn ‘thiền’ zen, trực tiếp có gốc từ ‘jhana’;
vậy có thể nói là trong/của/thuộc đạo Phật.
[73] Anàpànasati sutta: Kinh Nhập tức, Xuất tức
niệm (Kinh Quán niệm Hơi thở): Lời Phật: “… Và này các Tỷ-kheo, như thế tu
tập nhập tức xuất tức niệm? …Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi
đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết-già, lưng thẳng và trú niệm
trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra. …Thở vô dài, vị ấy
biết: “Tôi thở vô dài”. Hay thở ra dài, vị ấy biết: “Tôi thở ra dài”. Hay thở
vô ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở vô ngắn”. Hay thở ra ngắn, vị ấy biết: “Tôi thở
ra ngắn”. “Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập. “Cảm giác cả toàn
thân, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập. “An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô”, vị ấy tập.
“An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra”, vị ấy tập.” (Thích Minh Châu)
[74] Pneuma (πνεῦμα) là từ Greek cổ, nghĩa là ‘hơi thở’ và tyrong nội
dung tôn giáo Abraham là ‘tinh thần’ hay ‘linh hồn’. Trong kinh Thánh
‘Giê-hô-va Đức Chúa Trời bèn lấy bụi đất nắn nên hình người, hà sanh khí vào lỗ mũi; thì người trở nên một
loài sanh linh’(Genesis 2:7). Trong văn hóa Trung Đông, vẫn có tin tưởng hơi thở
những gì làm nên sự sống, là ‘linh hồn’ sinh vật. Trong Hebrew, co thể là
‘bāsār’, và hơi thở là ‘nefeš’. Từ ‘nefeš’ = ‘hơi thở’trong kinh Thánh thường
dịch là ‘linh hồn’.
[75] Chữ của tác giả là meditation retreat trong những khóa học Vipassanā,
người học thường yên lặng ngồi một mình trong phòng riêng, từ sáng sớm đến tối
trương tự như truyền thống yên lặng ngồi trong phòng quán niệm một mình = ‘nhập
thất nhiếp tâm’ như thường nói trong Zen (sesshin
= nhiếp tâm = 攝心).
[76] Brain scanner
[77] Vipassanā (Pāli) or Vipaśyanā (Sanskrit): có nghĩa là ‘cái
nhìn sâu sắc’ hoặc ‘nhìn rõ ràng’. Đây là một thực hành trong đạo Phật truyền thống, có từ thế kỷ 6 TCN. Trong
Theravada, Vipassanā (Thiền
Minh sát), tạm dịch như thông thường hiểu là sự ‘quán tưởng nội tâm’, là kinh
nghiệm thức tỉnh trực tiếp và rõ ràng về những
gì thực sự diễn ra như nó đang ở đây-lúc này.
Ở Đông Nam Asia, Vipassanā là ‘thiền’ thực hành phổ thông nhất ở Sri Lanka và những
nước đạo Phật Theravada. Vào đầu thế kỷ 20, đã có một sự hồi sinh quan trọng
của hình thức thiền cổ xưa này do hòa thượng Mahasi Sayadaw của Myanmar lãnh
đạo. Sau khi Mahasi Sayadaw qua đời năm 1982, học trò của ngài là hòa thượng
Sayadaw U Pandita, tu viện trưởng Trung tâm Thiền định Paṇḍitārāma ở Yangon đã
thay thế trong vai trò lãnh đạo. U Pandita là một trong những thiền sư hàng đầu
thế giới về Vipassanā và tạo ảnh hưởng quan trọng với nhiều người dạy
Vipassanā.Trong nhiều những chục năm qua ở
phương Tây, Vipassanā được S. N. Goenka (người trực tiếp dạy tác giả
Harari) trong Phong trào Vipassanā phổ biến rộng rãi trong giới trí thức thành
thị. Phong trào Vipassanā, còn gọi là Phong
trào Quán niệm Vipassanā (Insight Meditation Movement), từ một số nhánh của
đạo Phật Theravada hiện đại, tất cả nhấn mạnh vào sự phát triển một cái nhìn
sâu sắc theo hướng của ba Pháp ấn đạo Phật, như kinh nghiệm chính để đạt sự
tỉnh thức. Gốc của nó thấy trong (a) những ảnh hưởng hiện đại trên truyền thống
đạo Phật Myanmar, Lao, Thailand và Sri Lanka, (b) và những giảng dạy được những
tên tuổi trong Theravāda làm mới rộng rãi, như Mahasi Sayadaw (‘Phương pháp
Myanmar mới’), Ledi Sayadaw (dòng Ledi), Anagarika Munindra và Pa Auk Sayadaw;
cũng như từ những phát triển không thuộc hệ phái nào, dù cùng truyền thống
Theravāda, như phong trào do S.N. Goenka nói trên (cùng vợ ông, bà Illaichi
Devi) dẫn đầu. Goenka, người sinh trưởng trong một gia đình Hindu, đã học
Vipassanā với Sayagyi U Ba Khin, một cư sĩ đạo Phật ở Myanmar. Những tên tuổi
nổi tiếng của Phong trào Vipassanā hiện nay ở U.S.A là: Joseph Goldstein, Tara
Brach, Gil Fronsdal, Sharon Salzberg, Ruth Denison và Jack Kornfield.
Cũng phải nói thêm một chút ở đây, vì
‘Thiền’ ngày nay, với người đọc Việt, đã là một từ ngữ có nghĩa rất rộng rãi. Từ ‘thiền’ chúng ta thường dùng thực sự trỏ về thực hành quán tưởng
theo truyền thống của Thiền tông ở Tàu, đã phát triển sang Korea, Japan, và VN
(Thiền (禅) > Zen > Zazen), những nước đạo Phật Bắc
Truyền (Mahayana).. Do những học giả,
thiền sư Japan, Zen với những từ satori, zazen, và koans, đầu thế kỷ
trước, đã trở nên phổ thông ở phương Tây, thế
nên ở đây, tôi dịch ‘mediation theo
như tác giả trình bày trong bài = Vipassanā.
Đây là Thiền Minh
Sát, khác với Thiền trong Thiền tông nói trên (gần đây những vị Theravada
cũng đã phổ biến như một gì mới ở VietNam, cũng gọi là thiền chánh niệm, nhấn
mạnh ‘tự quán sát thân tâm của mình bằng cách quán niệm hơi thở’). Trong ngôn
ngữ văn học Pali của Theravada, thiền như phương pháp quán niệm được gọi là Vipassanā và Samatha. Vipassanā, nói ở trên, được hiểu/dịch là ‘Cái nhìn sâu sắc/thấu
triệt’, một nhận thức rõ ràng về đích xác những gì xảy ra khi nó đang xảy ra. Còn Samatha có thể được
dịch là ‘tập trung’ hay ‘tĩnh lặng/tĩnh lự’ (Ðịnh (定; s, p: samādhi). Đó là trạng thái mà não thức được dẫn đến sự nghỉ ngơi,
khi tập trung chỉ vào một gì đó và không để cho đi lang thang. Khi kinh nghiệm này được tự thực hiện,
những thiền giả nói là có một sự bình tĩnh sâu xa tràn ngập cơ thể và não thức,
một trạng thái yên bình mà phải tự có kinh nghiệm mới hiểu được.
Hầu hết những hệ thống thiền nhấn
mạnh phần Samatha (Ðịnh (定; s, p: samādhi). Người thiền tập trung não thức của mình vào
một số sự vật việc, như lời cầu nguyện, một loại hộp nhất định nào đó, một
kinh/kệ tụng, ngọn nến cháy, một hình tượng tôn giáo, hay bất cứ một gì nào đó
khác, và loại trừ tất cả những suy nghĩ và nhận thức khác khỏi ý thức của người
đó. Kết quả là một trạng thái sung
sướng/khoan khoái/dễ chịu kéo dài cho đến khi người thiền kết thúc, ‘xả thiền’,
thường là đứng lên khỏi tư thế ngồi. Nó
đẹp, thú vị, đầy ý nghĩa và lôi cuốn, nhưng – nhiều người nói – chỉ tạm thời.
Thiền Vipassanā giải quyết phần khác,
cái nhìn sâu sắc/thấu triệt. Trong
Vipassanā, người quán niệm dùng sự tập trung của mình như một dụng cụ, qua đó
nhận thức (sammasati). có thể dần dần phá vỡ bức tường ảo tưởng
vẫn cắt đứt người này khỏi ánh sáng sống động của thực tại Nó là một tiến trình
nhận thức tiệm tiến, ngày càng tăng vào trong những hoạt động bên trong của
chính thực tại. Phải mất nhiều năm, nhưng
đến một ngày nào đó, người thiền cắt mài qua được bức tường đó và lao vào sự
hiện diện của ánh sáng. Quá trình chuyển
đổi thành hoàn tất. Nó được gọi là giải
thoát, và nó thì vĩnh cửu. Giải thoát là
mục tiêu của tất cả những hệ thống thực hành đạo Phật. Nhưng những con đường để đạt được kết thúc đó khoác nhiều
những hình thức và qua những thực hành khác nhau.
Vipassanā là thực hành quán niệm lâu
đời nhất của đạo Phật. Phương
pháp này cho là xuất phát trực tiếp từ Satipatthana
Sutta [Nền tảng của Chánh niệm], một bài giảng được xem là từ chính đức
Phật:
‘… Này những Tỷ-kheo, đây là con
đường độc nhất đưa đến thanh tịnh cho chúng sanh, vượt khỏi sầu não, diệt trừ
khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Niết-bàn. Đó là Bốn Niệm xứ. Thế nào là
bốn? Này những Tỷ-kheo, ở đây Tỷ-kheo sống quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh
giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán thọ trên những thọ, nhiệt
tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán tâm trên tâm,
nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán pháp trên
những pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. …’ (Kinh Niệm Xứ/ThíchMinhChâu)
Về thực hành cụ thể: Điều kiện thực
tập tốt nhất, là một người ngồi trên một cái đệm riêng, trên sàn nhà, chân bắt
chéo, lưng thẳng; nếu không, cũng có thể ngồi trên một cái ghế, nhưng lưng
không dựa và cũng giữ thẳng.
Đầu tiên là phát triển sự tập trung,
thông qua thực hành samatha (định)
Điều này thường được thực hiện qua tập trung chú ý chỉ về hơi thở của chính
mình. Chú ý, từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc sau, vào chuyển động của hơi
thở của một người. Chú ý những cảm giác tinh tế của sự chuyển động của bụng lên
và xuống. Ngoài ra, người ta có thể tập trung vào cảm giác của không khí đi qua
hai cánh mũi và chạm vào da môi trên, mặc dù điều này đòi hỏi nhiều thực tập
hơn một chút vì cũng khó khăn hơn, sau những tiến bộ rõ rệt về những thực tập
đầu tiên.
Khi tập trung vào hơi thở, sẽ nhận thấy
rằng có những nhận thức và cảm giác khác tiếp tục
xuất hiện: những âm thanh, cảm xúc trong cơ thể, những tình cảm, vv
Đơn giản chỉ cần ghi nhận những hiện tượng này khi chúng nổi
lên trong lĩnh vực nhận thức, và sau đó trở lại với cảm giác thở. Sự
chú ý thì giữ vào đối tượng của sự tập
trung (hơi thở), trong khi những suy nghĩ hoặc cảm giác khác chỉ đơn giản là ‘tiếng ồn nền/phía sau’
Đối tượng vốn là tập trung chú ý của
thực hành (ví dụ, chuyển động của bụng) được gọi là ‘đối tượng chính’. Và ‘đối
tượng thứ cấp’ là bất kỳ gì khác nảy sinh trong lĩnh vực nhận thức, hoặc qua
năm giác quan (âm thanh, mùi, ngứa trong cơ thể, vv) hoặc qua não thức (tư
tưởng, trí nhớ, tình cảm, vv). Nếu một đối tượng thứ cấp thu hút sự chú
ý của người thiền và kéo chú ý đi, hoặc nếu nó gây ra ham
muốn hoặc ác cảm xuất hiện, người thiền nên tập trung vào đối tượng phụ đó trong một hoặc
hai giây, dán cho nó một cái nhãn với một
ghi chú tưởng tượng, như ‘suy nghĩ’, ‘trí nhớ’, ‘Nghe’,
‘ham muốn’. Thực hành này thường được gọi là ‘ghi chú, hay ghi nhận’.
Một ghi chú như thế xác
định một đối tượng trong tổng quát nhưng không trong cụ thể.
Ví dụ: khi người thiền nhận biết âm thanh, hãy gắn nhãn là ‘nghe’
thay vì ‘xe mô tô’, ‘những tiếng nói’
hoặc ‘tiếng chó sủa’. Nếu phát sinh cảm giác khó
chịu, hãy ghi chú là ‘đau’ hoặc ‘cảm giác’ thay vì ‘đau đầu gối’ ‘mỏi sống lưng’
hoặc ‘đau gót chân’ Sau đó người thiền trở lại
sự chú ý của mình vào đối tượng chính. Khi nhận biết mùi
thơm, hãy như nói thầm, ghi chú ‘mùi’ trong một hay hai khoảnh khắc, không cần phải nghĩ thêm là mùi hương gì.
Khi một người đã đạt đến được ‘sự tập
trung’ như thế, sự chú ý sau đó được chuyển sang đối
tượng của thực hành, đó thường là ý nghĩ hay cảm giác cơ thể.
Một người quan sát những đối tượng của nhận thức nhưng không
có chấp trước, để cho những suy nghĩ và cảm giác nảy sinh và biến mất theo cách
riêng của chúng. Ghi nhận trong trí (giải
thích trên) thường được sử dụng như một cách để ngăn một người khỏi bị những
suy nghĩ mang đi, và giữ cho một người chỉ chú ý đến chúng với nhiều lãnh đạm, khách
quan hơn.
Một vài Kỹ thuật hay Phương pháp quán
tưởng phổ thông khác trong truyền thống Hindu (Veda & Yoga)
Quán tưởng Yoga:
Nếu muốn có một khái niệm sơ sài – về quán tưởng trong truyền thống tôn
giáo India – Quán tưởng Yoga có lẽ là cổ xưa nhất. Thực sự, không có một loại quán tưởng nào là ‘Quán tưởng Yoga’ cả, vì vậy ở đây nó có nghĩa là một số nhiều những loại quán tưởng được
dạy trong truyền thống yoga. Yoga có nghĩa là ‘hợp nhất’.
Truyền thống quán tưởng này có thể truy gốc về đến năm 1700 TCN, và có mục tiêu
cao nhất của nó là thanh lọc tinh thần và tự
biết mình. Yoga cổ điển phân chia thực hành thành những quy tắc
ứng xử (yamas và niyamas), tư thế thân thể (asana), thực tập thở
(pranayama), và những thực
hành quán tưởng (pratyahara,
dharana, dhyana, samadhi). Truyền thống Yoga là thực hành quán
tưởng cổ nhất từng có trên
trái đất, và do thế, cũng là một trong những thực hành quán tưởng đa dạng
nhất.
Quán tưởng Tự Hỏi và Tôi là Ai
(Self-Enquiry and ‘I Am’ Meditation)
‘Tự hỏi’ là dịch theo tiếng England của từ Sanskrit atma vichara. Nó có nghĩa là ‘điều tra’ bản chất đích thực của
chúng ta, để tìm trả lời cho câu hỏi ‘Tôi là ai?’, vốn lên đến đỉnh cao nhất là
sự hiểu biết Tự Ngã của chúng ta, con người thật, hay bản thể đích thực của
chúng ta. Chúng ta thấy những dẫn chứng về sự quán niệm này trong những bản văn
India rất cổ; tuy nhiên, nó được nhà hiền triết India thế kỷ 20 Ramana Maharshi
(1879-1950) phổ biến rộng rãi và khai triển trong thế kỷ 20. Phong trào phi nhị
nguyên thời nay (Neo-Advaita, cũng
gọi là phong trào Satsang-movement và Nondualism,), với những guru như Nisargadatta Maharaj (1897-1981) và Sri H. W. L. Poonja
(Papaji) đều mạnh mẽ sử dụng kỹ thuật này và những biến thể của nó. Ngày nay sử
dụng phương pháp này nổi tiếng nhất là Mooji, Adyashanti, và Eckhart Tolle.
Thực hành này rất đơn giản, nhưng cũng rất tinh tế. Tuy nhiên, khi giải
thích nó, nó nghe có vẻ rất trừu tượng. Cảm thức của một người về ‘tôi’ (hay
cái ta/ ego) là trung tâm của vũ trụ của một người. Nó ở đó, dưới hình thức này
hay hình thức khác, đằng sau tất cả suy nghĩ, cảm xúc, ký ức và nhận thức của
một người. Tuy nhiên, chúng ta không rõ ràng về cái ‘tôi’ này là về con người
thực sự của chúng ta, về bản chất, và lẫn lộn nó với cơ thể, não thức, vai trò,
những nhãn hiệu của chúng ta. Đó là bí ẩn lớn nhất trong đời sống của chúng ta.
Với Tự Hỏi, câu hỏi ‘Tôi là ai?’ đặt ra với chính một người. Một người phải gạt
bỏ bất kỳ trả lời nào bằng lời nói nào có thể đến, và sử dụng câu hỏi này đơn
giản như một dụng cụ để giúp một người chú ý đến tình cảm chủ quan của ‘Tôi’
hay ‘Tôi là’. Trở thành là một với nó, đi sâu vào trong nó. Điều này khi đó sẽ
hiển lộ cái ‘tôi’ thật của một người, bản ngã thực sự của một người như ý thức
thuần khiết, vượt trên mọi giới hạn. Nó không phải là một sự theo đuổi trí tuệ,
mà là một câu hỏi để đưa sự chú ý đến yếu tố cốt lõi của nhận thức và kinh
nghiệm của một người: cái ‘Ta’. Đây không phải là bản sác định tính của một
người, mà là một cảm xúc tinh khiết, chủ quan về sự hiện hữu mà không có bất kỳ
hình ảnh hay khái niệm nào gắn liền với nó. Bất cứ khi nào những suy nghĩ / cảm
xúc nảy sinh, một người tự hỏi mình, ‘điều này phát sinh cho ai?’ Hoặc ‘Ai thì
nhận thức được (tức giận, sợ hãi, đau đớn, hay bất cứ điều gì)?’ Câu trả lời sẽ
là ‘Đó là tôi!’. Từ đó một người hỏi ‘Tôi là ai?’, Để thu hút sự chú ý trở lại
với cảm giác chủ quan của bản thân, của sự hiện hữu. Nó là sự hiện hữu thuần
khiết, sự nhận thức không có đối tượng và ít lựa chọn hơn. Một cách khác để
giải thích thực hành này là chỉ tập trung não thức vào tình cảm của hữu thể,
cái ‘Tôi’ không nói tỏa sáng bên trong một người. Giữ cho nó tinh khiết, không
liên kết với bất cứ gì một người cảm nhận. Với tất cả những loại quán niệm
khác, cái ‘tôi’ (bản thân một người) thì tập trung vào một số đối tượng, bên
trong hoặc bên ngoài, thể chất hoặc tinh thần. Trong quán niệm Tự hỏi, cái
‘tôi’ thì tập trung vào chính nó, chủ thể. Đó là sự chú ý quay về nguồn của nó.
[78] Britta K. Hölzel et al., ‘How Does
Mindfulness Meditation Work? Proposing Mechanisms of Action from a Conceptual
and Neural Perspective’, Perspectives on Psychological Science 6:6
(2011), 537–59; Adam Moore and Peter Malinowski, ‘Meditation, Mindfulness and
Cognitive Flexibility’, Consciousness and Cognition 18:1 (2009), 176–86;
Alberto Chiesa, Raffaella Calati and Alessandro Serretti, ‘Does Mindfulness
Training Improve Cognitive Abilities? A Systematic Review of Neuropsychological
Findings’, Clinical Psychology Review 31:3 (2011), 449–64; Antoine Lutz
et al., ‘Attention Regulation and Monitoring in Meditation’, Trends in
Cognitive Sciences 12:4 (2008), 163–9; Richard J. Davidson et al.,
‘Alterations in Brain and Immune Function Produced by Mindfulness Meditation’, Psychosomatic
Medicine 65:4 (2003), 564–70; Fadel Zeidan et al., ‘Mindfulness Meditation
Improves Cognition: Evidence of Brief Mental Training’, Consciousness and
Cognition 19:2 (2010), 597–605.
[79] gadgets: những đồ dùng nhỏ mới lạ bằng máy móc điện toán, mới đến nỗi
người dùng thường vẫn chưa biết tên gọi chính thức của nó (gizmos)
(H: Ông là người thực
hành Vipassanā, có phải điều đó giúp ông đến gần sức mạnh (tinh thần)
hơn, có phải đó là nơi ông đến gần hơn với năng lượng?)
Tôi thực hành quán niệm Vipassanā để nhìn được thực tại rõ
ràng hơn, để có khả năng thấy thực
tại là gì, những gì thực sự đang diễn ra ngay tại đây, lúc
này, bây giờ. Tôi không làm điều này như một bất kỳ loại thực hành tôn
giáo nào, để liên lạc với huyền lực này này hoặc quyền năng kia, với
chuyện kể này hay chuyện kể kia. Thế nên với tôi, nó thực sự là
một gì ít giáo điều nhất mà tôi đã từng gặp trong đời, nó
là thiền Vipassanā. Nó chỉ bảo rằng
bạn hãy quán sát chỉ những gì thực sự đang
xảy ra bây giờ, như nó là thế, khi đang xảy ra, mà
không cố gắng áp đặt bất kỳ một chuyện kể nào trên nó, không cố gắng
thay đổi nó theo bất kỳ cách nào. Tôi nhớ lần đầu tiên tôi
đến khóa học Vipassanā, và hướng dẫn đầu tiên tôi nhận
được từ người thầy dạy là hãy quán sát hơi thở của bạn, nhưng không
quán sát Gót, không quan sát ‘linh hồn’, nhưng chỉ quán sát hơi thở của
bạn, nó đi vào và đi ra qua hai ống mũi của bạn, và chỉ chấp
nhận hơi thở như bất cứ gì nó là, … (còn việc) nếu nó mạnh hay nó
yếu,? nếu nó có phải đến từ hai ống mũi này không? …. tất cả những điều đó
đều không thành vấn đề, chỉ quán sát thực tại như nó là thế, và điều
đã làm tôi sửng sốt ngạc nhiên là tôi đã không thể làm điều đó
được hơn 10 giây, vì ngay lập tức não thức tôi bỏ chạy đến một số
chuyện kể tưởng tượng, một số kỷ niệm. Nếu tôi không thể
quan sát thực tại của chính hơi thở của riêng tôi cho được 10 giây
đồng hồ; làm thế nào tôi hy vọng có thể quan sát thực tại của hệ thống
chính trị thế giới, hay của hệ thống kinh tế toàn thế giới,
(H: Có phải đó đúng là vấn đề?)
Thế nên, tôi đã cố gắng, và tôi vẫn cố làm
cả hai. Tôi tập Vipassanā đã 18 năm nay, và việc ‘hành thiền’
vẫn xảy ra rất tốt đẹp, …. Được hơn 10 giây chứ? Ồ, tôi đã cố
gắng, … và đôi khi tôi thành công! Năm nay, tôi đã dự một khóa
Vipassanā 60 ngày … (Dĩ nhiên) tôi không ngồi thiền/quán niệm dài được
suốt cả mọi ngày; Trong hàng nhiều ngày, tôi đã không tập trung được, dĩ
nhiên não thức vẫn tiếp tục chạy trốn, nhưng tôi vẫn tiếp tục
cố gắng, và tôi không nghĩ rằng tôi đã có thể viết được bất
kỳ một quyển sách nào của tôi với sự trong sáng rõ ràng thấy trong
chúng, nếu không có sự giúp đỡ của sự tập trung và kỷ luật (suy
tưởng) vốn loại thiền Vipassanā này đã đem cho tôi.
(H: Như thế, khi ông đang ở sâu trong thiền định tôi
đang cố gắng hỏi điều này, câu hỏi mà chúng tôi có khá nhiều người từ
giới cinê Bollywood ở đây hôm
nay, hay họ rõ ràng đã xem một số những phim này có phải mọi sự vật
việc bắt đầu trông giống như trong những algorithm và viết
(theo những ‘code’ của những program của cômputơ) như trong phim Matrix?)
Không đâu! bạn bị đau trong bụng và bị đau đầu gối, và
rồi não thức bỏ chạy đến một số ký ức, loại như…. tôi đã nên nói điều
này, và tôi đã nên nói thế đó, và đây là cách để bạn nhận biết chính mình, tôi
nghĩ vậy. Tôi nghĩ người ta mắc phải một sai lầm về thiền quán, khi họ nghĩ
thiền là một dụng cụ để có được tất cả mọi loại của những kinh nghiệm đặc
biệt, giống như (người ta) đi đến công viên giải trí, và đây là
một loại công viên giải trí khác. Tôi sẽ dùng thiền để có đủ mọi loại kinh
nghiệm đặc biệt. Nhưng thực sự tôi nghĩ lợi ích quan trọng nhất của
thiền là hiểu biết về những mẫu thức thông thường xảy ra nhất trong não
thức của ban, và của cơ thể bạn, để biết được sự giận dữ của bạn, khổ
đau của bạn, vui sướng của bạn, và nhàm chán
của bạn, bởi vì đây là những gì bạn phải đối phó với chúng trong cuộc
đời, trong đời sống. Nếu thiền chỉ là một loại đi nghỉ mát trong một
vài ngày để tôi có những kinh nghiệm tâm lý hay tinh thần thuộc loại
này, nhưng rồi trong gần như trọn năm, tôi vẫn phải đối phó với tức
giận của tôi và chán nản của tôi, nó thực sự đã không giúp tôi (về
chuyện) có phải đây là cứu cánh của đời sống
(H: Có phải đây là cứu cánh của đời sống như ông thấy nó?)
Vâng, tôi nghĩ rằng chìa khóa để mở ra một đời sống tốt đẹp là
khả năng quan sát được thực tại như nó là để thực sự hiểu được
những gì là sự thật về bản thân tôi, và về thế giới (quanh tôi), mà
không chạy trốn đến với tất cả những loại tưởng tượng xa vời và những
chuyện kể và những hư cấu. Và tôi nghĩ nếu bạn có thể quan sát được ở một mức
độ nào đó thực tại như nó là, bạn không chỉ là, … sẽ không chỉ là…
một người tốt hơn nhiều, nhưng có thể bạn sẽ là người an bình hơn và hạnh
phúc hơn, vì nguồn gốc sâu xa của rất nhiều những vấn đề cá nhân và tập
thể của chúng ta là ở trong những tưởng tượng vốn chúng ta tạo
ra, và sau đó chúng ta nhầm lẫn (tưởng tượng với thực tại/ hư với
thực) chúng ta nhầm lẫn thực tại này sang thực tại khác, và khi đó
chúng ta cố gắng áp đặt chúng (những tưởng tượng) trên thực tại, và
chúng ta nhận chịu cực kỳ khó chịu, khi nó không hoạt
động, khi thực tại không thuận hợp với hình ảnh ưa thích, hay muốn có
của chúng ta .
(H: Nhưng có phải nó cũng là phần của nghịch lý (của đời sống) vì những
gì ông đang nói là ngồi yên lặng trong thiền định, và sau đó chúng ta
có tất cả công nghệ này liên tục réo gọi chúng ta, ý tôi là mọi người ở
đây chắc sẽ đồng ý với tôi rằng nếu ông xa iphone của ông trong 5 phút,
ông sẽ (cuống cuồng) như …. điện thoại của tôi đâu iphone của tôi ở đâu?
tôi muốn xem có ai phone tôi, có ai email hay, text tôi không ???...)
Đúng như thế! Cũng quan sát để thấy rằng, khi những gì
đang xảy ra với bạn, đương khi bạn nhìn quanh không thấy cái phone của
mình đâu, hãy quan sát những gì đang diễn ra trong cơ thể bạn, sẽ
thấy rằng có một khối cảm giác khó chịu trong cơ thể vào thời điểm
đó, sẽ thấy những gì đang xảy ra trong não thức bạn. Đây là cách bạn biết
được về chính mình, bạn tự biết mình không phải bằng quan sát một số
kinh nghiệm hạnh phúc siêu hình huyền nhiệm, nhưng bạn tự biết mình
bằng chỉ quan sát những gì đang xảy ra với chính bạn, như khi không
thấy phone của ban đâu, chẳng hạn. Một khi bạn chứng kiến bao
nhiêu khổ đau vốn tự gây ra cho chính mình, vì thói quen cứ 5, 10
phút lại ngừng mọi việc để cầm lên cái phone, điều này có thể giúp bạn
trong việc thay đổi những thói quen có hại này.
(H: Như thế, một trong những điều ông đã nói trước đây là khổ đau là một dấu hiệu của ý thức, nếu
một gì đó bị dau khổ, nó là thực, và nó có ý thức vậy có phải mục đích của
chúng ta là để khổ đau thay vì để sung sướng ??)
Chắc chắn không phải thế, tôi đang không nói rằng chúng
ta ở đây để kham chịu khổ đau. Chúng ta cố gắng để được hạnh phúc, chúng
ta có thể giải thoát mình khỏi khổ đau. Những gì tôi muốn nói trong
một số những gì tôi viết là cách thử tốt nhất để biết liệu một thực thể là
thật hay là nó là hư cấu, được những nhà chính trị phát minh, và sau
đó còn thêm vào những nhà lãnh đạo tôn giáo, hay ngược lại, và vv …
là hỏi, ’thực thể này có thể khổ đau không?’một quốc gia, lấy
thí dụ, chỉ là một sáng tạo của con người, đó là một chuyện kể hư cấu do
con người tạo ra. Làm sao bạn biết điều đó? Bạn chỉ cần tự hỏi
một quốc gia có thể khổ đau không? nếu bạn thua một cuộc chiến, thực
sự quốc gia bạn có khổ đau không? Không, quốc gia không có não
thức, không tình cảm, không có cảm giác; những người lính chết
trong chiến tranh họ khổ đau, những người dân thường mất nhà cửa, hoặc mất
những người thân yêu vì chiến tranh nên họ khổ đau, những loài
vật cũng có thể khổ đau, nhưng một quốc gia thì không thể khổ
đau; nó chỉ là một chuyện kể chúng ta tạo ra vì vậy đây là ý tưởng
của kiểm tra dùng khổ đau, đó là một thử nghiệm để biết liệu một gì
đó là có thực hay không. Tương tự, tôi không biết, nếu bạn có một
vài đền thờ, và ai đó phá hủy ngôi đền, ngôi đền không khổ đau, chỉ có
người khổ đau, những người quan tâm đến ngôi đền này, khi họ nghe thấy nó bị
phá hủy, họ có một cảm giác rất khó chịu trong cơ thể, họ có những
xúc động rất khó chịu trong não thức, họ khổ đau, nhưng đền thờ, bạn
biết đấy, nó chỉ là những đá và gạch và gỗ vv …
(H: Nhưng nó biểu hiện cho một số cảm xúc nhất định nào đó? Như
hiện nay, (ngôi đền) ở Israel được kết nối với mọi thứ, chúng tôi
có một ngôi đền ở đây cũng là loại kết nối với mọi thứ vậy .. ..)
Phải đấy, nhưng chúng ta đặt sự quan trọng vào ngôi
đền, chúng ta khổ đau khi ngôi đền bị phá hủy, chúng ta vui
mừng khi ngôi đền được xây dựng; nó là thực tại về chúng
ta, không phải về ngôi đền, và tôi cũng nói với những người ở
Israel, những người quan tâm rất nhiều về những đền thờ, nhưng, mục
đích sâu xa của một nơi, như một đền thờ là để mang lại an bình và hòa hợp
vào thế giới, để làm mọi người (được an bình, xã hội con người hòa
hợp) Tôi đi đến một ngôi đền, để kinh nghiệm sự an bình (trong
tôi) và hài hòa (với ngoài tôi), bây giờ nếu ngôi đền mang đến bạo
động và bất hòa cho thế giới, đó là một ngôi đền đã vỡ, vậy (còn) bạn
cần nó làm gì?
(Yuval Noah Harari nói về Vipassanā,
Thực tại, Khổ đau, và Ý thức Diễn đàn
India Today Conclave (March/2018) https www.youtube.com watch? v = i_YhlXiuxE)