Phaedo
(Về Hồn-người)
(Φαίδων, Phaidōn)
Plato (Πλάτων, Plátōn, 428/427– 348/347
TCN)
Dẫn nhập của người biên tập bản tiếng Anh
Phaedo, [1] được
những học giả cổ HyLa biết dưới nhan đề mô tả nội dung hơn, Về
Hồn-người, là một màn kịch về những giờ phút cuối cùng, và cái chết của
Socrates, trong nhà tù tại Athens. Trên đường trở về nhà ở Elis, một trong
những học trò gần gũi của ông, Phaedo, người đã ở bên Socrates khi đó, tạm dừng
xe ở Phlius, một thành phố trong bán đảo Peloponnese. Tại đây, Phaedo thuật tất
cả lại cho một nhóm người theo học phái Pythagoras đã định cư ở đây sau khi họ
bị trục xuất khỏi miền Nam nước Ý. Sự liên hệ với nhóm Pythagoras thêm rõ
ràng hơn trong chính đàm thoại này, vì Simmias và Cebes, hai người theo và bàn
luận với Socrates, – từ Thebes, một thành phố khác, nơi những thành viên của
nhóm huynh đệ bị trục xuất đã định cư, đều là cộng sự của Philolaus, người đứng
đầu nhóm Pythagoras ở đó. Những người theo học phái Pythagoras được ghi nhận vì
tin tưởng của họ vào sự bất tử của hồn người (psuchē), và sự tái sinh hay đúng hơn sự đầu thai (reincarnation) của nó trong dạng người
hoặc động vật, và với quan tâm như hệ quả của hai điều trên là giữ hồn người
cho tinh khiết, bằng cách tránh đừng để nó bị thân xác làm nhơ bẩn, như thế để
lấy được một đời sau tốt nhất có thể có được. Socrates dệt tất cả những chủ đề
này vào thảo luận của ông về sự bất tử của hồn người.
Phaedo kết thúc với một huyền thoại, mô tả số phận của
hồn người sau khi chết. Những huyền thoại kết thúc trong những đàm thoại khác,
có thể so sánh với huyền thoại này, là những huyền thoại trong Gorgias và Republic.
Nó cũng nên được so sánh với huyền thoại trong bài nói chuyện thứ hai của
Socrates trong Phaedrus.
Mặc dù có những đổi mới trong lý thuyết triết học
Plato, Phaedo trình bày một bức tranh cảm động nổi tiếng của
sự gắn bó sâu xa với triết học, và với đời sống triết học của Socrates, đặc
biệt, ngay cả khi đối mặt với cái chết đã áp đặt một cách bất công.
John M. Cooper
Lời giới thiệu của người dịch bản tiếng Việt
1
Chuyện xảy
ra ở thị trấn Phlius hẻo lánh trong vùng Peloponnesus, Echecrates gặp Phaedo
người thành Elis, Phaedo là một trong những người đã có mặt trong những giờ
phút cuối cùng của Socrates tại nhà giam ở Athens. Thiết tha muốn biết sự thể
câu chuyện từ một nhân chứng trực tiếp, Echecrates ép nài Phaedo kể cho mình
nghe về những gì đã xảy ra. Và đàm thoại Phaedo này, là những
gì Plato viết qua lời kể của Phaedo.
Phaedo, cho
đến nay vẫn là đàm thoại nổi tiếng và phổ thông nhất của Plato, nhìn theo cả
hai phương diện triết học và văn học. Về triết học, đứng cùng Republic, Phaedo có
một nội dung dày đặc lý thuyết nhất. Sau một lập luận mở đầu, tán dương một đời
sống lấy triết học làm dẫn đạo, và đặc biệt triết gia chân chính nên sống như
sửa soạn chính cái chết không tránh được của mình; Socrates lần lượt trình bày,
với Simmias và Cebes, bốn luận chứng về sự bất tử của hồn người: Luận chứng Đối
lập, Luận chứng Tương Cận, Luận chứng dựa trên lý thuyết xem Kiến thức là sự
Nhớ lại, và Luận chứng sau cùng, nhằm phản bác sự hoài nghi còn lại của Cebes.
Hai luận chứng sau, có phần dài dòng hơn cả, đều trực tiếp đến từ Lý thuyết về
Thể dạng. Như thế, trong Phaedo, chúng ta có được giới thiệu mở
rộng đầu tiên của Lý thuyết về những Thể dạng nổi tiếng của Plato. Trong Phaedo, chúng
ta cũng gặp Plato đối thoại với những lý thuyết về thế giới và hồn người, đặc
biệt của Pythagoras, Anaxagoras, và Heraclitus.
2
Phaedo,
dưới một tên gọi khác, cũng được biết như một luận văn chủ yếu bàn về hồn
người, đặc biệt qua cái chết của chính Socrates. Hình thức của những luận văn
của Plato là một đàm thoại, gần với của những màn kịch, trong đó có những nhân
vật đối đáp về những câu hỏi xoay quanh những vấn đề triết học, và nhân vật chính
của những đàm thoại này là Socrates, ông đóng vai dẫn dắt hay trợ giúp, qua
những câu hỏi, theo một phương pháp tra vấn đặc biệt, có chủ đích gạn lọc tình
cảm và ý định chủ quan, chỉ giữ lại quan điểm, ý kiến khách quan đến từ lý trí,
thường xoay đặt, mở rộng những câu hỏi, đi đến nhìn, cân nhắc, đánh giá lại, để
thông mở bế tắc, hướng tất cả tới, hay gần câu trả lời hơn, hoặc mở ra tầm nhìn
mới, hay ngay cả mở ra những bế tắc mới; nên những đàm thoại của Plato mang tên
là những đàm thoại Socrates, với phương pháp vấn đáp elenkhos của
nó. Ở đây, Phaedo là một đàm thoại đặc biệt, của một người sắp
chết, bàn về cái chết của chính mình, nên sau những elenkhos nhằm
chứng minh hồn người vô hình bên trong không bị hủy hoại như áo mặc hữu hình là
thân xác bên ngoài, Plato cuối cùng đi đến kể một huyền thoại về số phận
của hồn người sau cái chết của thân xác.
Phaedo thành
gần gũi hơn cả với một màn kịch sống, diễn lại những giờ phút cuối cùng
của Socrates, với cao điểm là nhân vật chính này đã kết thúc đời mình bằng
liều thuốc độc hemlock nổi tiếng, Màn kịch Phaedo này, có
những chi tiết chọn lọc làm mủi lòng những thế hệ người đọc xưa lẫn nay. Socrates của chúng ta – cũng như bao
nhiêu con người đã đi qua trần gian này, Socrates cũng phải-chết; chúng ta hẳn
không quên thí dụ về tam đoạn luận nổi tiếng, quen thuộc; có lẽ là tam đoạn
luận đầu tiên chúng ta đã học – “Socrates là người, người ai ai cũng chết, nên
Socrates cũng chết”. Thế nhưng cái chết của Socrates là một cái chết khác lạ.
Những chi tiết trong Phaedo bắt đầu cho chúng ta thấy sự khác
lạ này. Cái chết và cách chết của một người cũng phản ảnh con người đó và ảnh
hưởng những người ở lại; nên Plato đã khéo léo dùng chính cái chết của Socrates
để nói với chúng ta – về chân dung người thày của mình: “Một người, chúng tôi sẽ nói, trong tất cả những
người chúng tôi đã biết, là bậc nhất, và cũng là người khôn ngoan nhất và ngay
thẳng nhất.”
Đặc
biệt, mọi người đều không thể không chú ý tới lời Socrates lúc lâm chung, lạnh
đã nửa thân, vẫn dặn người bạn già Crito – nhớ cúng thần y học chữa bệnh
một con gà! – Nếu chúng ta đều là những bệnh nhân trong đời sống, ra khỏi đời
này có lẽ là cách chữa chạy hay nhất và may ra là cách duy nhất khỏi được bệnh
sống! Nhưng đó là tin tưởng chân thực của thày trò Socrates và Plato vào sự
hiện hữu của một thế giới bên dưới lòng đất. Hiển nhiên tin tưởng đó khiến
Socrates đã chết thanh thản, yên tĩnh, có phần hân hoan như chờ đợi trước một
gì đang hé mở tươi sáng, tốt lành, may mắn hơn những gì đang có, lúc cuối cùng,
ở đây. Và như thế trong Phaedo, nhân vật Socrates của chúng ta uống
thuốc độc câyhemlock, điềm nhiên thi hành bản án khắc nghiệt đã biết một
tháng trước đó, trong Apology, và ra đi giữa những bạn bè thân cận
nhất.
Cảnh
chết trong Phaedo là cảnh chết nổi tiếng và được diễn dịch với
nhiều ý nghĩa khác nhau nhất trong lịch sử phương Tây. Những chi tiết của nó
chắc chắn sẽ còn được bàn luận lâu dài chừng nào còn nhân loại và nền văn minh
đó.
3
Thế
nên, Phaedo là một kiệt tác của Plato, trong đó ông cho thấy
ngòi bút tài hoa của nhà viết tản văn, và ngòi bút sâu sắc của một bậc thày
triết học. Những vấn đề khó khăn có nội dung triết lý hết sức sâu xa lồng trong
một câu chuyện sống động và được kể bằng giọng lôi cuốn người đọc. Tất cả chỉ trong 61 trang Stephanus, từ
[57a] đến [118a], nhưng hơn tất cả những đàm thoại Socrates khác, (chỉ
trừ Republic dài hơn nhiều), Phaedo cô đọng những lý
thuyết tiêu biểu nhất của Plato: Sự bất tử của hồn-người (psuchē), lý thuyết
về những Thể Dạng – hay những Ý-tưởng vĩnh cửu, học tập như sự nhớ lại,
phương pháp suy luận bằng Giả thuyết, và Phẩm hạnh đạo đức như sự thanh tẩy.
Học tập như sự hồi ức là nhận thức luận nổi tiếng của Plato. Trong những chứng
minh rằng hồn người không bị huỷ diệt cùng xác người, Plato trình bày siêu hình
học nổi tiếng khác: một thế giới vô hình, bất diệt của những thể dạng, hay
những ý tưởng tuyệt đối, chúng khác biệt với thế giới hữu hình, bất toàn, nhất
thời, chịu huỷ hoại của những gì cụ thể cảm nhận được bằng giác quan. Trong lịch sử triết học, Phaedo là
một tác phẩm kinh điển hiếm hoi vì có thể đọc khá dễ dàng và nhiều thích thú,
trước khi đi sâu vào nghiên cứu nội dung những vấn đề triết lý đã mở ra cho
chúng ta từ bản văn ngắn này.
Để
dễ theo dõi Phaedo (cũng như những văn bản triết học khác,)
chúng ta hãy theo lời khuyên – tự hỏi Plato viết luận văn này nhằm trả lời
những câu hỏi nào? Nhìn theo hướng như thế, nội dung chính yếu của Phaedo rõ
ràng là để giải đáp hai câu hỏi triết học: Một triết gia có nên vui nhận cái
chết hay không, hay nói khác đi có phải hồn-người sẽ tốt đẹp hơn sau khi rời bỏ
thân xác hay không. Câu hỏi này giả định là sau khi lìa khỏi xác, hồn vẫn tồn
tại, vì nếu không thế hẳn đã không có câu hỏi. Và câu hỏi thứ hai là khai triển
câu trên – trong phần dài hơn của đàm thoại – đó là, phải chăng hồn-người thì
bất tử, không chết? Sau khi “hồn rời khỏi xác”, những gì sẽ xảy ra? – đến đây,
Socrates kể một muthos – một huyền thoại dài nhất trong những
huyền thoại của Plato, để gián tiếp trả lời câu hỏi này, tạm rời bàn luận thuần
lý để sang suy đoán tin tưởng.
Chúng
ta sẽ gặp ở đây – và tôi vội phải nhấn mạnh ngay từ đầu – để đừng lẫn lộn với
những gì ngày nay gọi là “linh” hồn, vì psuchē như những người
Greece hiểu là một gì bị giam buộc trong thân xác, đem cho nó sự sống động, là
nguyên lý của đời sống (Aristotle), cũng hiểu là nguyên lý của suy tưởng và cảm
xúc, và “chết” là xác không có hồn ngụ nữa, bất động, mất cả suy tưởng, ý chí
lẫn cảm xúc. Psuchē, như trong quan điểm nhị nguyên hiển nhiên đó,
là những gì không-thân-xác, khác với phần vật chất của con người; nên vẫn còn
dịch, có phần đúng hơn, là “tâm lý”, như thế chặt chẽ hơn, còn nếu
muốn rộng rãi hơn, là “tinh thần”. Tôi dùng “hồn người” để
chỉ tất cả những gì bao gồm trong đời sống bên trong (tránh từ “nội tâm”, cũng
như “linh hồn”). Chúng ta suy nghĩ, lý luận và hình thành những tin tưởng, nói
khác đi chúng ta có tinh thần, hay não thức. Chúng ta nhận biết tình cảm, cảm
xúc, và mong ước: chúng ta có những đam mê. Chúng ta hành động, chủ định và
quyết định: chúng ta có ý chí. Chúng ta nhận biết những trạng thái não thức
hiện tại và quyết định với một sự chắc chắn và tức thời khác thường: chúng ta
tự ý thức. Hồn người gồm tất cả những liệt kê đó: não thức, đam mê, ý chí và tự
ngã.
Thêm
nữa, ngoài psuchē, chúng ta cũng làm quen với “nous” và “syneidesis”.
Plato dùng “nous” để trỏ khả năng trí tuệ hay năng lực lý trí của psuchē; nous là
những gì khiến hồn mỗi người có khả năng để hiểu và thích ứng với sự thay đổi
đa dạng của những giác quan, để tìm và hiểu cái phổ quát, để ‘ghì chặt’ ý kiến
đúng thực như những gì sẽ thành kiến thức. Còn syneidesis,
ngày nay phần đông thường quen dịch là “lương tâm” (dịch theo Latin sai lạc
của conscientia); nhưng ở đây, syneidesis đúng hơn
là ý thức của con người về đúng/sai, phải/trái. Nguyên nghĩa là một cảm nhận,
hay một “tiếng nói” từ bên trong con người (Socrates cho là của quỉ thần
– daemon), được xem như đóng vai hướng dẫn cho ứng xử của mỗi người,
đâu là phải, đâu là trái, thế nào là đúng, thế nào là sai, ... (trước hết, với
phong tục, lề thói, xã hội, thành phố) – trong Phaedo, Socrates đã
giải thích khái niệm này với thí dụ cụ thể, cho những người nghe của ông.
Đó là những gì chúng ta sắp nghe Socrates bàn luận với những người bạn của ông trong Phaedo này, ở Athens, khoảng 2500 năm trước.
Lê Dọn Bàn
(Nov/2013 – viết lại Oct/2014)
Nhân vật trong Phaedo,
ngoài Socrates:
1. Người kể và người nghe chuyện:
a. Phaedo (khoảng cuối thế kỷ 5 TCN –), hay
Phaedo người thành Elis, người kể chuyện và do
đó tên ông là tên của đàm thoại này. Triết gia, sáng lập một trường dạy triết học theo
giảng dạy của Socrates, ở thành phố Ilia, bán đảo Peloponnese, và tác giả của
nhiều công trình về biện chứng và đạo đức. Sinh trưởng trong một gia đình quý
tộc, Phaedo bị bắt làm tù nhân trong cuộc chiến giữa Elis và Sparta (400 – 399
TCN; và sau đó bị bán như một nô lệ. Được một người
Athens, bạn của Socrates, chuộc và trả tự do. Là một thanh niên trẻ tuổi, tuấn
tú, Phaedo đã trở thành một trong những học trò, vừa say mê người thầy vừa
ngưỡng phục giảng dạy, của Socrates.
Sau cái chết của Socrates, Phaedo trở lại Ilia và lập
trường học của mình. Giống như Plato, Phaedo lịch sử dành trọn đời cho triết
học, và viết những đối thoại loại như Socrates để vinh danh người thầy của
mình. Có nhiều đàm thoại được cho là của Phaedo người thành Elis, nhưng nay chỉ còn Zopyrus
và Simon sống sót.
b. Echecrates – Người nghe chuyện. Triết gia, học phái Pythagoras, sống ở thành phố Phlius
vùng Peloponnesus. Tại đây, ông gặp và hỏi Phaedo về những gì xảy ra trong ngày
cuối của Socrates. Thỉnh thoảng, câu chuyện kể có chen lẫn những hỏi đáp ngắn
giữa Echecrates và Phaedo
2. Những người hỏi đáp với Socrates:
a. Simmias – một trong hai
người đàm thoại chính với Socrates trong Phaedo.
Triết gia, học phái Pythagoras, đến Athens từ thành Thebes.
b. Cebes – một trong hai
người đàm thoại chính với Socrates. Triết gia, học phái Pythagoras, đến Athens
từ thành Phaedondas.
5. Những nhân vật phụ có mặt trong nhà tù Athens, ngày
Socrates chết
a. Crito – Một người bạn già
của Socrates, khoảng cùng tuổi. Crito là người đàm thoại chính trong Crito, một đàm thoại khác của Plato,
trước đó cũng xảy ra trong phòng giam Socrates. Trong Phaedo, Crito không bàn luận gì về triết học, chỉ đóng vai người
bạn thân cận nhất của Socrates.
b.
Xanthippe – Vợ Socrates, mang 3 con đến gặp Socrates lần cuối. Thái độ lãnh đạm
của Socrates với vợ con, cho thấy ông đã sẵn sàng lên đường, tách mình khỏi thế
giới vật chất trước mặt, trong đó gồm gia đình.
c.
Người coi tù: Trong thời gian Socrates bị giam ở
đây, người này đã có dịp trò chuyện với Socrates. Khi Socrates phải uống thuốc
độc chết, người này đã không cầm được nước mắt, bày tỏ cảm tình và kính
mến nhân cách của Socrates.
Phaedo
Plato
(57a)
ECHECRATES: Có phải chính bạn đã ở
bên cạnh Socrates, Phaedo, vào đúng ngày ông uống thuốc độc trong tù, hay một
ai đó khác kể cho bạn biết về nó?
PHAEDO: Chính tôi đã ở đó,
Echecrates.
ECHECRATES: Thế những điều ông nói
trước khi chết là gì? Và ông đã chết như thế nào? Tôi
sẽ được nhẹ lòng để nghe chuyện này. Ngày nay hầu như không ai từ
Phlius đi thăm Athens, và cũng đã lâu chẳng có bất kỳ một người lạ nào từ
Athens đến đây để có thể đem cho chúng tôi một giải thích rõ ràng về những gì
đã xảy ra, ngoại trừ việc ông ấy đã uống thuốc độc và chết, nhưng không gì hơn.
PHAEDO: Có phải ngay cả phiên tòa đã
diễn ra như thế nào bạn cũng chưa nghe?
ECHECRATES: Có, một ai đó quả đã kể
cho chúng tôi về điều đó, và chúng tôi đã tự hỏi rằng dường như ông đã phải chờ
một thời gian dài sau khi phiên tòa đã diễn ra xong mới chết. Tại sao vậy,
Phaedo?
PHAEDO: Điều đó đã là do ngẫu nhiên,
Echecrates. Ngày hôm trước phiên tòa, như đã xảy ra, mũi con thuyền mà người
Athens phái tới đảo Delos đã được gắn những vòng hoa kết hình vương miện.
ECHECRATES: Đó là thuyền gì?
PHAEDO: Đó là con thuyền, người
Athens nói, trên đó Theseus một lần đã dong buồm đến đảo Crete, mang theo hai
nhóm người chọn bằng rút thăm, mỗi nhóm gồm bảy nạn nhân [5]. Theseus đã cứu họ và đã cứu chính mình. Người Athens khi đó đã hứa với
Apollo, đó là chuyện kể như thế, rằng những người này nếu được cứu sống, mỗi
năm họ sẽ gửi một phái đoàn đến đảo Delos. Và từ thời đó đến nay, hàng năm họ
vẫn gửi một phái đoàn như thế đến vị gót. Họ có ban hành một luật để giữ thành
phố cho tinh khiết trong khi sứ mạng đương còn chưa xong, và không một án tử
hình nào có thể đem thi hành, một khi nhiệm vụ đã bắt đầu, cho đến khi con
thuyền làm xong hành trình của nó đến Delos và trở về Athens, và điều này đôi
khi có thể mất một thời gian dài, nếu bị gió biển làm chậm trễ. Sứ mạng bắt đầu
khi những thày tu của đền thờ Apollo gắn vương miện lên mũi con thuyền, và điều
này đã xảy ra, như tôi nói, một ngày trước khi có phiên tòa của Socrates. Đó là
lý do tại sao Socrates, giữa phiên tòa xử và thi hành bản án, ông đã ở
trong tù một thời gian dài
ECHECRATES: Thế còn cái chết thực sự
của ông thì sao, Phaedo? Ông ấy đã nói những gì? Ông đã làm gì? Ai là những bạn
của ông đã ở bên ông? Hay có phải những nhà chức trách đã không cho phép họ có
mặt, và ông đã chết mà không có bạn bè hiện diện?
PHAEDO: Hoàn toàn không phải. Một số
đã có mặt, thực sự, đã có rất nhiều người.
ECHECRATES: Xin làm ơn cho trọn, hãy
gắng kể cho chúng tôi tất cả đã xảy ra đó thật đầy đủ đến như có thể được, trừ
khi bạn có công việc gì cấp bách phải làm.
PHAEDO: Tôi có thì giờ và tôi sẽ cố
gắng để kể cho bạn biết toàn bộ câu chuyện, vì không gì khiến tôi vui nhiều hơn
là gợi nhắc đến Socrates trong não thức, cho dù là chính tôi nói về ông, hay
nghe một người nào khác làm như vậy.
ECHECRATES: Những người nghe bạn chắc
chắn sẽ giống như bạn về điều này, Phaedo. Thế thì hãy thực gắng kể cho chúng
tôi biết từng chi tiết thật chính xác như bạn có thể.
PHAEDO: Tôi chắc chắn đã tìm thấy
trong sự có mặt ở đó một kinh nghiệm đáng kinh ngạc. Mặc dù tôi đã chứng kiến
cái chết của một người là bạn của tôi, tôi không có cảm giác thương hại, bởi
người ấy xuất hiện tươi tỉnh vui vẻ cả trong tư thái lẫn trong lời nói, vì ông
đã chết một cách cao thượng và không sợ hãi, Echecrates, như thế điều đã đánh
mạnh vào tôi rằng ngay cả khi đi xuống thế giới bên dưới, ông ra đi với phúc
lành của những vị gót, và rằng ông sẽ thành công tốt đẹp khi ông đến đó, nếu
như có một ai đã từng làm thế. Đó là lý do tại sao tôi không có xúc cảm của
thương hại, loại giống như đã xem dường tự nhiên trong u buồn của tôi, cũng quả
thực không của vui thích, như khi chúng tôi tham dự vào thảo luận triết học như
chúng tôi đã quen làm thế – vì những lập luận của chúng tôi đã thuộc vào một
loại như thế – nhưng tôi đã có một cảm xúc kỳ lạ, một sự trộn lẫn
không-từng-quen-biết của niềm vui và nỗi buồn đồng thời khi tôi nghĩ lại rằng
ông ta đã đúng là sắp sửa chết. Tất cả chúng tôi hiện diện đều bị ảnh
hưởng trong cùng một cách nhiều phần giống nhau, đôi khi cười lớn tiếng, sau đó
khóc lóc; đặc biệt là một người trong chúng tôi, Apollodorus – bạn biết con
người và cách thế của anh ta.[6]
ECHECRATES: Dĩ nhiên là tôi biết.
PHAEDO: Anh ta đã hoàn toàn không cầm
được, nhưng tôi đã tự mình không gượng được, và những người khác cũng thế.
ECHECRATES: Ai, Phaedo, là những
người đã có mặt?
PHAEDO: Trong số những người địa
phương có Apollodorus, người mà tôi đã nhắc, Critobulus và cha anh ta [7] , cũng có Hermogenes, Epigenes, Aeschines và Antisthenes.
Ctesippus của Paeania đã ở đó, Menexenus và một vài người khác. Plato, tôi tin
rằng, bị ốm.
ECHECRATES: Có một số người từ những
thành phố khác có mặt ở đó không?
PHAEDO: Có, Simmias từ Thebes, với
Cebes và Phaedondes, và từ Megara, có Euclides và Terpsion.
ECHECRATES: Thế còn Aristippus và
Cleombrotus thì sao? Họ có đấy không?
PHAEDO: Không. Họ đã được nói là ở
Aegina.
ECHECRATES: Đã có ai nào khác hay
không?
PHAEDO: Tôi nghĩ rằng tất cả có thế
thôi.
ECHECRATES: Vậy thì, sau đó bạn nói
cuộc đàm luận là về những gì?
PHAEDO: Tôi sẽ cố gắng để kể cho bạn
biết tất cả mọi việc từ đầu. Vào những ngày trước đó, những người khác và cũng
cả tôi nữa, đã quen đến thăm Socrates. Lúc tảng sáng, chúng tôi đã tụ hợp nhau
ở sân tòa án, nơi vụ xử đã diễn ra, vì nó gần với nhà tù, và mỗi ngày chúng tôi
quen với quanh quẩn chờ đợi, nói chuyện cho đến khi nhà tù mở cửa, vì nó không
mở sớm. Khi cửa mở, chúng tôi đã quen đi vào gặp Socrates và dành gần trọn ngày
với ông. Vào ngày hôm đó, chúng tôi đã tụ hợp nhau có phần khá sớm, vì khi
chúng tôi rời nhà tù vào tối hôm trước, chúng tôi đã được thông báo rằng con
thuyền từ Delos đã trở về, và vì vậy, chúng tôi bảo nhau hãy đi đến chỗ gặp
thường lệ càng sớm càng tốt. Khi chúng tôi đến, người gác cổng là người vẫn
quen trả lời tiếng gõ cửa của chúng tôi đi ra, và nói với chúng tôi phải đợi,
và đừng đi vào, hãy chờ đến khi ông bảo chúng tôi làm thế. “Những ông ở phòng
Mười Một” [8], người gác cổng nói, đang cởi trói cho Socrates, và nói với ông ta cái
chết của ông sẽ xảy ra trong ngày hôm nay như thế nào”. Một thời gian ngắn sau,
người gác cổng đi ra và bảo chúng tôi đi vào. Chúng tôi thấy Socrates vừa mới
được cởi dây xích của ông, và Xanthippe – bạn biết bà ấy – đang ngồi bên ông,
ôm đứa con bé của họ. Khi bà nhìn thấy chúng tôi, bà kêu nấc lên và nói đại
loại những điều mà phụ nữ thường nói: “Socrates, đây là lần cuối cùng bạn bè
của ông sẽ trò chuyện với ông, và ông với họ”. Socrates nhìn sang Crito. “Crito”,
ông nói, “hãy cho một ai đó đưa bà ấy về nhà”. Và một vài người trong nhóm
Crito đã dẫn bà ấy đi, vừa than khóc vừa đập vào ngực mình.
Socrates ngồi thẳng trên giường, co
chân và xoa nó với tay ông, và khi xoa chân, nói: “Thật là một điều kỳ lạ rằng
những gì con người gọi là thích thú vui sướng xem ra có vẻ, và có quan hệ đáng
kinh ngạc biết bao, với những gì được nghĩ là đối nghịch của nó, cụ thể là đau
đớn khó chịu! Một người không thể có cả hai cùng một lúc. Thế nhưng, nếu hắn
theo đuổi và bắt được một, hắn gần như luôn luôn bị buộc để bắt cả cái kia nữa,
giống như hai sinh vật có một đầu. Tôi nghĩ rằng nếu Aesop đã để ý điều này,
ông hẳn đã soạn một ngụ ngôn, rằng một vị gót đã muốn hòa giải sự đối kháng của
chúng, nhưng đã không thể làm được như vậy, nên ông đã nối hai đầu chúng lại
với nhau, và do đó khi một người có một, một kia đến theo tiếp sau. Điều này
dường như đương xảy ra với tôi. Những dây trói đã gây đau ở chân tôi, và bây
giờ thích thú có vẻ đương theo đến ”.
Cebes chen vào và nói: “Zeus ơi, đúng
vậy, Socrates, ông đã khéo nhắc tôi. Ngày hôm kia, Evenus [9] đã hỏi tôi, cũng như những người khác trước đây đã hỏi, điều gì đã xui
khiến ông làm thơ sau khi vào nhà tù, ông là người trước đây chưa bao giờ từng
làm một bài thơ nào, lại đưa truyện ngụ ngôn Aesop vào thành thơ, và sáng tác
những bài tụng ca Apollo. Nếu như đó có là một bận tâm bất kỳ nào với ông rằng
tôi nên có một trả lời cho Evenus, khi ông ta lập lại câu hỏi của mình, vì tôi
biết ông ấy sẽ, hãy bảo tôi biết phải nói gì với ông ta”.
“Hãy bảo ông ấy sự thật, Cebes, hãy
cho ông ấy biết, rằng tôi không làm chuyện này với ý tranh bì với ông, hay với
thơ của ông, vì tôi biết rằng sẽ không là dễ dàng, nhưng tôi đã cố gắng để tìm
ra ý nghĩa của những giấc mơ nhất định, và đáp ứng ý thức về phải trái [10]
của tôi trong trường hợp nó là loại nghệ thuật này mà chúng đã thường xuyên ra
lệnh tôi để thực hành. Những giấc mơ là một gì đó như thế này: cùng một giấc mơ
thường đến với tôi trong quá khứ, bây giờ trong một dạng, bây giờ một dạng khác,
nhưng nói cùng một điều: “Socrates,” nó nói, “thực hành và trau dồi nghệ
thuật.” Trong quá khứ, tôi đã tưởng tượng rằng nó đã hướng dẫn và khuyên bảo
tôi để làm những gì tôi đang làm, giống như thể những người là người khuyến
khích những ai đang chạy trong một cuộc chạy đua, rằng giấc mơ như thế mời chào
tôi làm đúng như chính những gì tôi đã đang làm, cụ thể là, để thực hành nghệ
thuật của triết học, đây là loại cao nhất của nghệ thuật, và tôi đã làm điều
đó.
Nhưng bây giờ, sau khi vụ xử án tôi
đã diễn ra xong, và lễ hội của gót đã ngăn sự hành quyết tôi, Tôi nghĩ rằng,
trong trường hợp giấc mơ của tôi, đã là sự mời gọi để tôi thực hành nghệ thuật
phổ biến này, tôi không nên không tuân theo nó, nhưng nên làm thơ. Tôi nghĩ là
an toàn hơn nếu đừng rời khỏi đây đến khi đã làm ý thức về phải trái tôi hài
lòng bằng cách viết những bài thơ, tuân phục theo giấc mơ. Thế nên, đầu tiên
tôi viết để vinh danh vị gót của lễ hội hiện nay. Sau đó, tôi đã nhận ra rằng
một nhà thơ, nếu như ông ta là một nhà thơ, phải sáng tác những ngụ ngôn, không
phải những biện luận. Với tư cách bản thân không là người kể những ngụ ngôn,
tôi đã lấy những câu chuyện tôi đã biết, và đã có sẵn trong tay, những ngụ ngôn
của Aesop, và tôi chuyển sang vần điệu những truyện đầu tiên tôi đã gặp ngẫu
nhiên. Cebes, hãy kể điều này với Evenus, chúc ông ta mạnh khỏe, chuyển lời
chào vĩnh biệt của tôi, và nói với ông ấy, nếu ông khôn ngoan, hãy theo tôi
càng sớm càng tốt. Ngày hôm nay, tôi sắp sửa ra đi, xem ra như thế, vì những
người Athens ra lệnh thế.
Simmias nói: “Đây là loại khuyên bảo
gì vậy mà ông đem cho Evenus, hả Socrates? Tôi đã gặp ông ta nhiều lần, và theo
quan sát của tôi, ông ấy thì không có cơ may nào tất cả để sẵn sàng nghe theo
nó đâu”.
Sao lại thế, ông nói, không phải
Evenus là một triết gia sao?
Tôi nghĩ như vậy, Simmias nói.
Nếu vậy, Evenus sẽ sẵn sàng, như mọi
người là con người đón nhận xứng đáng của triết học. Tuy rằng, có lẽ ông sẽ
không lấy đi mạng sống của chính mình, vì người ta nói, điều đó là không phải.
Khi ông nói điều này, Socrates đặt chân xuống nền đất, và vẫn đứng ở vị trí này
suốt phần còn lại của cuộc nói chuyện.
Khi đó, Cebes hỏi: “Ông nói thế nghĩa
là thế nào, Socrates, rằng bạo động với chính mình là không phải, thế nhưng
triết gia sẽ là sẵn sàng để đi theo một người là người sắp chết?”
Thật không tin được! Cebes, có phải
bạn và Simmias, nhưng người quen biết với Philolaus [11] không nghe gì về những điều như vậy
sao?
Không gì cả, chắc chắn
thế, Socrates ạ.
Quả thực, tôi cũng thế,
nói về điều này theo lời đồn đãi, nhưng tôi không ngại bảo với bạn những gì tôi
đã nghe, vì điều có lẽ là thích hợp nhất cho một người là người sắp sửa ra đi
về hướng đó, để nói và xem xét những chuyện kể về hành trình chúng ta
tin đó sẽ là giống những gì. Trong thời gian chúng ta có, từ giờ cho
đến lúc mặt trời lặn, ai có thể làm gì khác được đây?
Nhưng dẫu lý do là gì đi
nữa, Socrates, tại sao người ta nói rằng tự mình giết mình, đó là điều không
phải? Vê phần câu hỏi của ông mới vừa đây, tôi đã nghe Philolaus nói điều này,
khi tôi ở thành Thebes, và tôi cũng đã nghe nó từ những người khác, nhưng tôi
chưa từng bao giờ nghe bất kỳ một ai đem lại một giải thích rõ ràng cho vấn đề
này.
(62a)
Vâng, ông nói, chúng ta phải gắng làm
hết sức mình, và các bạn có thể chưa nghe một ai. Và nó có thể cũng làm các bạn
sửng sốt nếu chủ đề này, mình nó trong tất cả mọi sự việc, thì đơn giản[12], và nó thì không bao giờ, như với tất cả mọi sự việc khác, trong những
thời gian nhất định nào đó, và cho một người nhất định nào đó, thì để chết là
tốt hơn để sống. Và nếu điều này có là như vậy, các bạn cũng có thể thấy nó
đáng kinh ngạc, rằng những người mà với họ, điều tốt hơn là để chết, họ là sai
nếu tự giúp chính họ, và rằng họ phải đợi cho một người nào khác để làm điều
ích lợi cho họ.[13]
Và Cebes, khi quên bẵng, bằng phương
ngữ riêng của mình, đã cười lặng lẽ và nói: “Nhưng Zeus biết nó là gì”.
Thực vậy, Socrates nói, nó đúng là
xem ra có vẻ không hợp lý khi nói lên như thế, nhưng có lẽ là có lý do của nó.
Có sự giải thích mà nó được đặt trong ngôn ngữ của những bí ẩn, rằng những con
người chúng ta là đang ở trong một thứ của nhà tù, và rằng người ta phải đừng
có tự thoát ra, hay bỏ chạy. Điều đó với tôi có vẻ là một học thuyết đáng chú ý
sâu đậm đặc biệt, và người ta không dễ dàng để hiểu nó trọn vẹn. Tuy nhiên,
Cebes, điều này dường như với tôi đã bày tỏ rõ ràng, rằng những vị gót là những
giám hộ của chúng ta, và những người chúng ta là một trong những sở hữu của họ [14]. Hay các bạn không nghĩ như vậy?
Tôi có nghĩ vậy, Cebes nói.
Và có phải là bạn sẽ không nổi giận
nếu một trong những sở hữu của bạn giết chết chính nó, khi bạn đã không đem cho
bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy bạn muốn nó chết, và nếu bạn có bất kỳ hình phạt
nào bạn có thể gây ra, bạn có sẽ gây ra hay không?
Chắc chắn có, ông nói.
Có lẽ sau đó, nói theo cách này,
không phải là điều không hợp lý rằng một người không nên tự giết mình, trước
khi một vị gót đã chỉ ra một vài tất yếu phải làm như vậy, giống như sự tất yếu
bây giờ đặt trên chúng ta.
Điều đó xem dường có thể xảy ra,
Cebes nói. Về phần những gì ông đương nói, rằng những triết gia nên sẵn lòng và
sẵn sàng để chết, điều đó xem có vẻ lạ lùng, Socrates, nếu những gì chúng ta
vừa mới nói bây giờ là hợp lý, cụ thể rằng một vị gót là người bảo bọc chúng ta
và rằng chúng ta là những sở hữu của ông. Không phải là hợp lý rằng người khôn
ngoan nhất của những con người không nên oán giận rời khỏi dịch vụ này, trong
đó họ được người thầy tốt nhất của những người thầy cai quản, những vị gót, vì
một người khôn ngoan không thể tin rằng anh ta sẽ chăm sóc bản thân mình tốt
hơn khi anh ta được tự do. Một người ngu dại có thể dễ dàng nghĩ như vậy, rằng
anh ta phải trốn thoát khỏi ông chủ của mình, anh ta sẽ không ngẫm nghĩ rằng
người ta phải đừng trốn thoát khỏi một ông chủ tốt, nhưng ở lại với ông ấy thật
lâu cho đến có thể được, vì trốn thoát sẽ là điều ngu dại. Nhưng con người khôn
ngoan thận trọng sẽ luôn luôn muốn ở lại với một người tốt hơn bản thân mình.
Vì vậy, Socrates, ngược lại với những gì đã nói ở trước xem dường là sự thật,
người khôn ngoan sẽ oán giận cái chết, trong khi kẻ ngu dại sẽ vui mừng tiếp
nhận nó.
Tôi nghĩ rằng lúc Socrates nghe điều
này, ông đã hài lòng vì biện luận của Cebes. Khi liếc sang chúng tôi, ông nói:
“Cebes luôn luôn theo kịp đường đi của một số luận chứng, ông chắc chắn là không
sẵn sàng để bị những gì người ta nói thuyết phục ngay lập tức.”
(63a)
Simmias nói: “Socrates, nhưng bản
thân tôi thực sự nghĩ rằng rằng bây giờ Cebes có một luận điểm. Tại sao con
người thực sự khôn ngoan sẽ muốn tránh những dịch vụ của những bậc thầy tốt hơn
bản thân họ, và dễ dàng rời bỏ họ. Và tôi nghĩ Cebes đang nhắm lập luận của
mình vào ông, vì ông đang cho thấy rời bỏ chúng tôi rất nhẹ nhõm, và rời bỏ
những bậc thầy tốt đó, như chính ông nói, những vị gót”.
Cả hai bạn đều có lý, trong những gì
các bạn nói, và tôi nghĩ bạn muốn nói rằng với điều này tôi phải làm một biện
hộ, như thể tôi trong tòa án.
Ông chắc chắn phải thế, Simmias nói.
Lê Dọn Bàn tạm
dịch – bản nháp thứ nhất
(Nov/2013)
[1] Theo bản tiếng Anh của George M. A. Grube (1899 – 1982) – Plato’s Phaedo. Indianapolis:
Hackett, 1977. Trong bộ Plato
Complete Works. Plato (Tác giả), John M. Cooper (Biên tập, giới thiệu),
D. S. Hutchinson (Phụ biên tâp).
Tham khảo và đối chiếu với các bản:
(a) Bản tiếng Anh
của Plato. Plato in Twelve
Volumes, Vol. 1 - Harold North Fowler dịch; W.R.M. Lamb giới thiệu.
Cambridge, MA, Harvard University Press; London, William Heinemann Ltd. 1966.
(b) Bản Song ngữ Anh-Greek
của Perseus Collection.
(c) Plato Phaedo. Bản dịch và chú thích của David
Gallop Clarendon Press: Oxford University Press
(d) Bản tiếng Pháp: Phédon (De L'âme)
trong Oeuvres de Platon của Victor Cousin (Premier volume; l'édition en
13 volumes), édités à Paris (de 1822 à 1840).
Tất cả những trang có đánh số Stephanus từ [57a] –
[118a]
Các chú thích của các dịch giả sẽ giữ trong ngoặc vuông [ … ]
Những chú thích khác với sai lầm nếu có, như thường lệ, là
của tôi.
[2] Tôi đã dịch đầy
đủ – xem Phiên tòa và Cái chết của Socrates
[4] Tôi đã dịch gần
đầy đủ – xem Plato
– Republic (Cộng Hòa)
[5] Truyền thuyết
nói rằng Minos, vua đảo Crete, buộc dân thành Athens hàng năm phải gửi bảy trai
tân và bảy gái trinh đến đảo để hiến sinh cho con quái vật đầu bò mình người
Minotaur, cho đến khi Theseus đã giết được Minotaur, và cứu dân Athens khỏi nạn
này.
[7] Xem Crito trong Phiên tòa và Cái
chết của Socrates
[Cha của
Critobulus là Crito, cũng là tên một đàm thoại ngắn, Crito. Nhiều những
bạn khác của Socrates có tên nhắc ở trong đàm thoại này, cũng đã xuất hiện
trong những đàm thoại khác. Hermogenes là một trong
những người nói truyện trong Cratylus. Epigenes đã nhắc trong Apology (33d), cũng như Aeschines, là một người viết văn trong những đàm thoại Socrate (những đàm thoại của
Plato với Socartes xuất hiện như nhân vật nối kết). Menexenus có trong Lysis
và có một đàm thoại mang tên ông; Ctesippus xuất hiện trong cả Lysis và Euthydemus. Euclides và
Terpsion là những diễn giả trong phần giới thiệu vào đầu của Theaetetus, và
Euclides cũng viết một đàm thoại Socrate.
Simmias và Cebes đã nhắc trong Crito, (45b), là những người đã mang tiền đến Athens sửa soạn một kế
hoạch nhưng không thành, dự định thuyết phục Socrates vượt ngục, trốn ra nước
ngoài.]
[8]
Nhóm Mười Một là những ủy viên cảnh sát ở Athens. Areiopagos là tên gọi tổ chức tòa án hình sự cổ nhất ở Greece. Nó
gồm những arkhons hay những phán
quan, là những người giữ chức vụ hành chính của tòa án. Trong số những arkhons là một hội đồng gồm 11 thành
viên, gọi là Nhóm Mười Một, – họ có trách nhiệm giam giữ người tù, và thi hành
án lệnh tử hình.
[9] Nhân vật trong Apology, Socrates đã nhắc như một sophist (những nhà có kiến thức chuyên
môn, sống bằng nghề dạy học lấy tiền); và Evenus dạy học cho những người trẻ
tuổi ở Athens.
[10] Conscience:
(Latin: conscientia): ý
thức về phải trái. Ngày nay chúng ta quen
dịch là “lương tâm”, nhưng ở đây, nguyên nghĩa là một cảm nhận, hay một “tiếng
nói” từ bên trong con người, được xem như đóng vai hướng dẫn cho ứng xử của
chúng ta, đâu là phải, đâu là trái, thế nào là đúng, thế nào là sai,... (trước
hết, với phong tục, lề thói, xã hội) – Socrates cho chúng một thí dụ, gián tiếp
giải thích như trên.
[11] [Xem lời dẫn nhập]
[12] Bản Fowler – “bạn phải có can đảm” và
“chỉ mình nó không có ngoại lệ” và cùng một ý (chết lúc nào không phải cho bản
thân một người quyết định). Bản Cousin có ý hơi khác, rõ hơn, nhưng chật hẹp
hơn – “đừng mất can đảm”, và “câu hỏi này, mình nó trong tất cả câu hỏi, chỉ có
một giải pháp – và không bao giờ để cho con người quyết định – “cette question
seule entre toutes ne comporte qu’une solution et ne soit jamais laissée à la
décision de l’homme.”
[13] Fowler – “and it
will perhaps seem strange to you that these human beings for whom it is better
to die cannot without impiety do good to themselves, but must wait for some
other benefactor.”
[14] Fowler – con người chúng ta là một vật phụ thuộc dời chuyển được
(như bàn ghế trong nhà) của những vị gót (we men are one of the chattels of the gods).