(tiếp theo)
Quyển Một – Triết học Cổ thời
Phần II. Socrates, Plato, và Aristotle
Chương 16. Lý thuyết của Plato về sự Bất tử.
Bản văn đàm thoại được gọi theo tên của Phaedo [1] đáng chú ý về nhiều phương diện. Nó có mục đích mô tả những giờ phút cuối trong đời của Socrates: cuộc trò chuyện của ông liền trước khi ông uống thuốc độc hemlock, và ngay sau đó, đến khi ông lịm đi, mất hữu thức. Đàm thoại này trình bày lý tưởng của Plato về một con người, người ấy vừa khôn ngoan vừa tốt lành ở mức độ cao nhất, và người ấy hoàn toàn không sợ cái chết. Socrates trước cái chết, như được Plato trình bày, đã là quan trọng về đạo đức, cả trong cổ đại và trong hiện đại. Những gì Phúc âm giải thích về sự thống khổ và sự đóng đinh hành hình đã là với những tín đồ Kitô, thì Phaedo đã là với những người ngoài đạo Kitô, hay những triết gia tự do từ chối không tin [2]. Nhưng sự bình tĩnh không nao núng của Socrates trong giờ cuối cùng của ông đã buộc với niềm tin của ông vào sự bất tử, và Phaedo là quan trọng như đã nói rõ ra, không chỉ cái chết của một kẻ tuẫn đạo, nhưng cũng nhiều những học thuyết vốn về sau đã thành của đạo Kitô. Thần học của St. Paul và của những vị dựng đạo (Kitô) đã phần lớn bắt nguồn từ nó, trực tiếp hoặc gián tiếp, và khó có thể hiểu được, nếu bỏ qua Plato.
Quyển Một – Triết học Cổ thời
Phần II. Socrates, Plato, và Aristotle
Chương 16. Lý thuyết của Plato về sự Bất tử.
Bản văn đàm thoại được gọi theo tên của Phaedo [1] đáng chú ý về nhiều phương diện. Nó có mục đích mô tả những giờ phút cuối trong đời của Socrates: cuộc trò chuyện của ông liền trước khi ông uống thuốc độc hemlock, và ngay sau đó, đến khi ông lịm đi, mất hữu thức. Đàm thoại này trình bày lý tưởng của Plato về một con người, người ấy vừa khôn ngoan vừa tốt lành ở mức độ cao nhất, và người ấy hoàn toàn không sợ cái chết. Socrates trước cái chết, như được Plato trình bày, đã là quan trọng về đạo đức, cả trong cổ đại và trong hiện đại. Những gì Phúc âm giải thích về sự thống khổ và sự đóng đinh hành hình đã là với những tín đồ Kitô, thì Phaedo đã là với những người ngoài đạo Kitô, hay những triết gia tự do từ chối không tin [2]. Nhưng sự bình tĩnh không nao núng của Socrates trong giờ cuối cùng của ông đã buộc với niềm tin của ông vào sự bất tử, và Phaedo là quan trọng như đã nói rõ ra, không chỉ cái chết của một kẻ tuẫn đạo, nhưng cũng nhiều những học thuyết vốn về sau đã thành của đạo Kitô. Thần học của St. Paul và của những vị dựng đạo (Kitô) đã phần lớn bắt nguồn từ nó, trực tiếp hoặc gián tiếp, và khó có thể hiểu được, nếu bỏ qua Plato.