Huyền
thoại về Tự do
(The
Myth of Freedom)
Yuval Noah Harari
Chính
phủ và những tập đoàn sẽ sớm biết bạn giỏi hơn bạn biết chính mình. Lòng tin
vào ý tưởng ‘ý chí tự do’ đã trở thành nguy hiểm.
Huyền
thoại về Tự do [1]
Những học giả nên phục vụ sự thật,
ngay cả với sự tổn hại cho sự hài hòa xã hội? Bạn có nên phơi bày một câu chuyện
cho thấy nó hoàn toàn là tưởng tượng, ngay cả khi câu chuyện hư cấu đó duy trì
trật tự xã hội? Khi viết quyển sách mới nhất của tôi, 21 Bài Học Cho Thế Kỷ 21, tôi đã phải chật vật với dilemma
này, một tình cảnh khó xử của tiến không xong nhưng lùi không xuôi, nhìn theo hướng
của chủ nghĩa tự do. [2]
Một mặt, tôi tin rằng câu chuyện nói
về tính cách tự do (con người) là sai lầm không đúng, rằng nó không nói sự thật
về loài người, và rằng ngõ hầu để tồn tại và thịnh vượng trong thế kỷ 21, chúng
ta cần phải vượt qua nó. Mặt khác, hiện
nay câu chuyện tự do thì vẫn là nền tảng cho sự vận hành của sự phân bối quyền
lực trên toàn thế giới. Hơn nữa, chủ nghĩa tự do hiện đang bị những phái cuồng
tín tôn giáo và những người theo chủ nghĩa dân tộc cực đoan tấn công, những người
quay về tin vào những huyễn tưởng của quá khứ, vốn lại còn nguy hiểm và tai hại
hơn nhiều.
Vì vậy, tôi có nên cởi mở và thẳng thắn
nói những gì tôi nghĩ, sau khi liều lĩnh rằng những lời tôi nói có thể bị lấy
ra khỏi ngữ cảnh và bị những nhà chính trị mị đám đông và những nhà cai trị nắm
quyền tuyệt đối đem dùng để tiếp tục tấn công trật tự của những thể chế tự do?
Hay tôi nên kiểm duyệt chính mình? Đó là một dấu hiệu của những chế độ phản tự
do hẹp hòi khiến chúng làm quyền tự do phát biểu khó khăn hơn ngay cả bên ngoài
biên giới của chúng. Do sự lan tràn của những chế độ như vậy, ngày càng trở
thành nguy hiểm để suy nghĩ một cách phê phán về tương lai của loài người chúng
ta.
Cuối cùng tôi đã chọn thảo luận cởi mở
tự do thay vì tự kiểm duyệt, nhờ vào tin tưởng của tôi cả về sức mạnh của hệ ý
thức lẫn thể chế dân chủ tự do, [3] và
vào sự cần thiết phải sửa chữa làm mới nó. Ưu thế lớn của chủ nghĩa tự do so với
những hệ ý thức khác là nó linh hoạt và không giáo điều. Nó có thể đón nhận phê
bình giỏi hơn bất kỳ trật tự xã hội nào khác. Thật vậy, nó là trật tự xã hội
duy nhất cho phép mọi người đặt câu hỏi ngay cả vào những nền tảng riêng của
nó. Chủ nghĩa tự do đã sống sót sau ba cuộc khủng hoảng lớn – chiến tranh thế
giới thứ nhất, thách thức của chủ nghĩa phát xít những năm 1930 và của chủ
nghĩa cộng sản những năm 1950-1970. Nếu bạn nghĩ rằng bây giờ chủ nghĩa tự do
đang gặp phải khó khăn rắc rối, chỉ cần nhớ lại đã có bao nhiêu những khó khăn tệ
hại hơn nhiều vào những năm 1918, 1938 hoặc 1968.
Thách
thức chính của chủ nghĩa tự do phải đối diện ngày nay không phải do chủ nghĩa
phát xít hay chủ nghĩa cộng sản nhưng đến từ những phòng thí nghiệm
Vào năm 1968, những hệ thống dân chủ
tự do đã dường như là một loài có nguy cơ tuyệt chủng, và ngay cả trong biên giới
của chúng, chúng bị rung chuyển bởi những bạo loạn, ám sát, tấn công khủng bố
và những trận chiến hệ ý thức khốc liệt. Nếu bạn tình cờ bị vây quanh giữa những
đám đông bạo loạn ở Washington ngày sau khi Martin Luther King bị ám sát, hoặc ở
Paris vào tháng 5 năm 1968, hoặc ở Hội nghị đảng Dân chủ ở Chicago tháng 8 năm 1968,
bạn chắc có thể nghĩ rằng sự kết thúc đã rất gần. Trong khi Washington, Paris
và Chicago đang rơi vào những hỗn loạn, Moscow và Leningrad đều yên tĩnh, và hệ
thống Xôviết dường như bền gan đứng vững mãi mãi. Thế nhưng, 20 năm sau, đó là hệ
thống Xôviết đã sụp đổ. Những đụng độ của những năm 1960 đã làm vững mạnh thêm hệ
thống dân chủ tự do, trong khi khí hậu ngột ngạt bên trong khối Xôviết báo trước
sự sụp đổ của nó.
Vì vậy, chúng ta hy vọng chủ nghĩa tự
do có thể tái tạo lại chính nó. Nhưng thách thức chính mà nó phải đối mặt ngày
hôm nay không phải từ chủ nghĩa phát xít hay chủ nghĩa cộng sản, và thậm chí
không phải từ những nhà chính trị mị đám đông và những nhà cai trị nắm quyền
tuyệt đối đang lan rộng khắp nơi như những con ếch inh ỏi sau những trận mưa. Lần
này thách thức chính hiện lên từ những phòng thí nghiệm.
Chủ nghĩa tự do được thành lập dựa
trên lòng tin vào tự do của con người. Không giống như loài chuột và loài khỉ,
con người có đã được giả định là có “ý chí tự do”. Đây là những gì làm những
tình cảm của con người và những lựa chọn của con người là thẩm quyền tối cao về
chính trị và đạo đức trên thế giới. Chủ nghĩa tự do cho chúng ta biết rằng những
cử tri biết rõ nhất, rằng khách hàng luôn luôn đúng, và chúng ta nên suy nghĩ
cho chính mình và tuân theo những tiếng gọi của con tim chúng ta.
Thật không may, “ý chí tự do” không
phải là một thực tế khoa học. Đó là một huyền thoại thừa hưởng từ gót học đạo
Kitô. Những nhà gót học Kitô đã khai triển ý tưởng “ý chí tự do” để giải thích
tại sao một Gót ‘toàn năng toàn thiện’ nhưng phải trừng phạt những người xem là
tội lỗi, khi những người này đã hành động theo ý họ nhưng trái với ý Gót, và khen
thưởng những ‘thánh chiên’ vì những lựa chọn của họ thì ‘thánh thiện’ vì đẹp ý
Gót. Nếu sự lựa chọn của chúng ta không được thực hiện một cách tự do, tại sao Gót
lại phải phạt hay thưởng chúng ta? Theo những nhà gót học, thật là hợp lý để Gót
làm như vậy, vì những lựa chọn của chúng ta phản ảnh ‘ý chí tự do’ của hồn người
cho là vĩnh cửu của chúng ta, vốn nó độc lập với tất cả mọi giới hạn đến từ những
ràng buộc về vật lý và sinh lý.
Huyền thoại này không dính líu gì nhiều
với những gì khoa học hiện nay dạy chúng ta về Homo sapiens và những loài vật khác. Con người chắc chắn có ý chí –
nhưng nó thì không tự do. Bạn không
thể quyết định chọn lựa chọn xem bạn nên, phải, hay đừng có những mong muốn nào.
Bạn không quyết định để có khuynh hướng tâm lý hướng nội hay hướng ngoại, không
câu nệ dễ dãi hoặc khó khăn luôn lo lắng, đồng tính hay không đồng tính luyến
ái. Con người làm những lựa chọn – nhưng chúng không bao giờ là những lựa chọn
độc lập. Mọi sự lựa chọn đều tùy thuộc vào rất nhiều những điều kiện sinh lý,
xã hội và cá nhân vốn bạn không thể tự ấn định được. Tôi có thể chọn để ăn những
gì, kết hôn với ai, và bỏ phiếu cho ứng viên nào, nhưng những lựa chọn này được
xác định một phần bởi những gene của tôi, cấu trúc sinh hóa của tôi, phái tính
của tôi, hoàn cảnh gia đình của tôi, văn hóa dân tộc của tôi, v v ... – và tôi
đã không chọn lựa để có những gene nào, hay sinh ra trong gia đình nào.[4]
Đây không phải là lý thuyết trừu tượng.
Bạn có thể chứng kiến điều này một cách dễ dàng. Chỉ cần quán sát ý nghĩ kế
tiếp sắp sửa nổi lên trong đầu bạn. Nó từ đâu đến? Bạn có tự do chọn lựa để nghĩ nó không? Rõ ràng là không. Nếu bạn
quan sát cẩn thận não thức của mình, bạn đi đến nhìn nhận rằng bạn có ít kiểm
soát những gì đang xảy ra ở đó, và bạn không tự do lựa chọn để nghĩ gì, cảm
giác gì, và muốn gì.
Mặc dù “ý chí tự do” đã luôn luôn
là một huyền thoại, trong nhiều thế kỷ trước nó đã là một điều có ích. Nó cho
người ta tin tưởng và can đảm để chiến đấu chống lại những tòa án khủng bố tôn
giáo của đạo Catô, những quyền cho là thiêng liêng của vua chúa, những tổ chức
như mật thám KGB, hay khủng bố người da đen KKK. Huyền thoại cũng mang theo ít nguy
hại. Vào những năm 1776 hoặc 1945, tương đối có khá ít nguy hại khi tin rằng những
tình cảm và lựa chọn của bạn là sản phẩm của một vài “ý chí tự do” nào đó, chứ
không phải là kết quả từ sinh hóa học và thần kinh học.
Nhưng bây giờ tin tưởng vào “ý chí tự
do” đột nhiên trở thành nguy hại. Nếu những chính phủ và những công ty thành
công trong việc hacking con người, những
người dễ dàng để bị thao túng nhất sẽ là những người tin vào ý chí tự do.
Để thành công trong hacking [5]–
nghĩa là dùng kỹ thuật đột nhập bí mật – vào
con người, bạn cần hai điều: một sự hiểu biết tốt về sinh học và rất nhiều
khả năng tính toán. Tòa án khủng bố tôn giáo của Kitô trung cổ và công an chìm KGB
của Sôviết trước đây đều thiếu loại kiến thức và khả năng này. Nhưng chẳng mấy
chốc, những tập đoàn thương mãi kinh tế và chính phủ đều có thể có cả hai, và một
khi họ có thể có kỹ thuật đột nhập bí mật vào bên trong con người bạn, họ không
chỉ có thể dự đoán những lựa chọn của bạn, mà còn có thể cấu trúc lại những
tình cảm của bạn (làm bạn tự nhiên cảm
thấy yêu món hàng này, hay quay ra ghét ý kiến kia). Để làm như vậy, những tập
đoàn và chính phủ sẽ không cần phải biết bạn một cách toàn hảo. Đó là điều
không thể. Họ sẽ chỉ phải biết bạn tốt hơn một chút so với bản thân bạn. Và điều
đó không phải là không thể làm được, vì hầu hết mọi người đều thường không biếtvề
chính bản thân họ được gì nhiều cho lắm.
Nếu bạn tin vào câu chuyện tự do theo
vẫn kể truyền thống, bạn sẽ bị cám dỗ là đơn giản chỉ gạt bỏ thử thách này. “Không,
nó sẽ không bao giờ xảy ra. Không ai sẽ bao giờ thành công trong việc hack tinh thần con người, vì ở đó có một
gì đó vượt trên những gene, những nơron và những algorithm. Không ai có thể thành công trong việc
đoán trước và thao túng được những lựa chọn của tôi, vì lựa chọn của tôi phản ảnh
‘ý chí tự do’ của tôi.” Thật không may, gạt bỏ thử thách sẽ không làm cho nó đi
mất. Nó sẽ khiến bạn càng dễ bị tổn thương hơn.
Nó bắt đầu với những sự việc đơn giản.
Khi bạn lướt vội trang internet, một tít báo chạy chữ đậm lớn bắt mắt bạn: “Băng
đảng dân nhập cư cưỡng hiếp những phụ nữ địa phương”. Bạn bấm vào nó. Vào đúng cũng
thời điểm đó, cô hàng xóm của bạn cũng đang trong Internet, và một hàng chữ chạy
tít lớn khác lướt qua, cũng bắt mắt cô: “Trump sẵn sàng dùng võ khí nguyên tử để
tấn công Iran”. Cô ấy nhấp mouse vào
nó. Cả hai tít báo là những câu chuyện kể những ‘tin giả’, được những kẻ
tung tin vịt nào đó ở Russia tạo ra, hoặc do một trang web chú tâm vào việc
tăng số lượng người thăm nhằm tăng tiền thu quảng cáo của nó. Cả bạn
và cô hàng xóm của bạn đều cảm thấy rằng các bạn đã ‘nhấp’ vào những tít lớn này
từ ý chí tự do của các bạn. Nhưng thật ra các bạn đã bị hack.
Nếu
những chính phủ thành công để hack được vào trong con người, những người dễ
dàng bị thao túng nhất sẽ là những người tin rằng họ có ‘ý chí tự do’
Tuyên truyền và thao túng dư luận
công chúng thì không có gì mới, dĩ nhiên. Nhưng trong khi trước đây chúng làm
việc như thả bom rải thảm, bây giờ chúng đang trở thành những đạn dược có hướng
dẫn chính xác. Khi Hitler phát biểu trên đài phát thanh, ông nhắm vào mẫu số
chung nhỏ nhất của khối quần chúng, vì ông không thể điều chỉnh thông điệp của
mình đến những điểm yếu cá nhân độc đáo của từng bộ não. Bây giờ đã trở nên có
thể làm chính xác viêc đó. Một algorithm có
thể biết bạn có một thiên kiến chống lại những dân nhập cư, trong khi cô hàng
xóm bạn không thích tổng thống Trump, đó là lý do tại sao bạn thấy một tít lớn
này trong khi hàng xóm bạn thấy một một tít lớn hoàn toàn khác. Trong những năm
gần đây, một số người thông minh nhất trên thế giới đã làm việc để hacking bộ não con người, để làm cho bạn
click vào những quảng cáo và bán cho
bạn những món hàng lỉnh kỉnh. Bây giờ những phương pháp này đang được dùng để
bán cho bạn những người hoạt động chính trị và cũng cả những hệ ý thức.
Và đây chỉ là khởi đầu. Hiện tại, những
hắckơ [6] dựa
vào việc phân tích những tín hiệu và những hành động ở thế giới bên ngoài: những
sản phẩm bạn mua, những nơi bạn ghé thăm, những từ bạn tìm kiếm online. Tuy
nhiên, trong vòng vài năm, những máy dò đáp những thay đổi rất nhỏ của cơ thể con
người [7] có
thể cho phép hắckơ trực tiếp xâm nhập
thẳng vào thế giới bên trong bạn, và họ có thể quan sát những gì đang diễn ra trong
quả tim của bạn. Không phải là ‘trái tim’ như một ẩn dụ được những tưởng tượng của
lý tưởng tự do yêu thích, nhưng bắp thịt làm cái máy bơm điều chỉnh áp lực
trong mạch máu của bạn, và phần lớn những hoạt động trong bộ óc của bạn. Những hắccơ sau đó có thể tương liên nhịp tim
của bạn với những con số của thẻ tín dụng của bạn, và huyết áp của bạn với lịch
sử tìm kiếm của bạn. Những tòa án đàn áp tôn giáo [8]
và công an mật loại KGB rồi sẽ làm gì với những vòng đeo tay là dụng cụ dò tìm
và đáp ứng với những đo lường và tính toán trên cơ thể con người, liên tục theo
dõi tâm trạng và tình cảm của bạn? Hãy chờ xem.
Chủ nghĩa tự do đã phát triển một kho
vũ khí đầy ấn tượng ngoạn mục gồm những lập luận và thể chế để bảo vệ những quyền
tự do cá nhân chống lại những tấn công từ những chính phủ áp bức và những tôn
giáo mù quáng, nhưng không chuẩn bị cho một hoàn cảnh khi tự do cá nhân bị lật
đổ từ bên trong, và khi những khái niệm “cá nhân” và “ tự do “không còn ý nghĩa
nhiều nữa. Để tồn tại và thịnh vượng trong thế kỷ 21, chúng ta cần phải bỏ lại sau
lưng cái nhìn ngây thơ về con người như những cá nhân tự do – một cái nhìn đã
thừa hưởng từ gót học Kitô, cũng nhiều như từ phong trào Khai sáng – và bắt đầu
nhận và hiểu những gì con người thực sự là: những động vật có thể hack được. Chúng ta cần biết chính chúng
ta tốt hơn.
Tất nhiên, đây không phải là lời
khuyên mới. Từ thời xa xưa, những nhà hiền triết và thánh nhân đã nhiều lần
khuyên mọi người “hãy biết chính mình”. Tuy nhiên, trong những thời của Socrates,
Phật và Confucius,
bạn không thực sự có cạnh tranh. Nếu bạn lơ đễnh, bỏ qua việc tìm biết chính
mình, bạn vẫn là một ‘hộp đen’ [9] (gói
kín, không thấy được bên trong) đói với phần loài người còn lại. Ngược lại, bây
giờ bạn đã có sự cạnh tranh. Khi bạn đọc những dòng này, những chính phủ và những
tập đoàn đang cố gắng để hack bạn. Nếu
họ biết bạn tốt hơn bạn biết chính bạn, họ có thể bán cho bạn bất cứ thứ gì họ
muốn (không phải bạn muốn!) – có thể là một sản phẩm hay một nhân vật chính trị.
Đặc biệt là điều quan trọng để tìm biết
những điểm yếu của bạn. Chúng là những dụng cụ chính của những người cố gắng dùng
kỹ thuật đột nhập để bí mật lẻn vào bên trong bạn. Cômputơ bị hack qua những dòng program đã viết từ trước
nhưng vướng lỗi, có chỗ hở. Con người bị hack
qua những lo sợ, hận thù, thiên vị và thèm muốn sẵn có trong mình. Hắccơ không
thể tạo ra những sợ hãi hay hận thù. Nhưng khi chúng khám phá những gì mọi người
đã sẵn sợ hãi và thù ghét, rất dễ dàng để bấm nút làm bật dậy những cảm xúc
liên quan và ngay cả nút bấm kích động giận dữ cho thêm lớn hơn.
Nếu mọi người không thể tự biết mình bằng những nỗ lực
của chính họ, có lẽ cùng một kỹ thuật mà những hắccơ sử dụng có thể được quay trở
lại và phục vụ vào việc bảo vệ chúng ta. Cũng giống như cômputơ của bạn có một program
chống vi-rút, có software dò tìm những malware
(hay program độc hại), có lẽ chúng ta cần software chống vi-rút cho bộ não. AI đồng bạn của bạn sẽ học bằng kinh
nghiệm rằng bạn có một điểm yếu đặc biệt – cho dù là với video con mèo khôi
hài, hoặc với những chuyện kể phẫn nộ về tổng thống Trump – và sẽ ngăn chặn
chúng dùm cho bạn.
Nhưng tất cả điều này thực sự chỉ là một vấn đề phụ. Nếu
con người là động vật có thể bị hack
được, và nếu những lựa chọn và những ý kiến của chúng ta không phản ảnh ‘ý
chí tự do’ của chúng ta, thì lý do của chính trị sẽ nên là gì? Trong 300 năm, những
lý tưởng tự do đã truyền cảm kích cho một dự án chính trị nhằm cung cấp cho cá
nhân càng nhiều càng tốt khả năng để theo đuổi những ước mơ của họ và hoàn
thành những mong muốn của họ. Bây giờ chúng ta gần hơn bao giờ hết để thực hiện
mục đích này – nhưng chúng ta cũng gần hơn bao giờ hết để nhận ra rằng điều này
tất cả đều dựa trên một ảo ảnh. Chính cùng những công nghệ mà chúng ta đã phát
minh ra để giúp những cá nhân theo đuổi những ước mơ của họ cũng có thể tái thiết
kế những giấc mơ đó. Vì vậy, làm thế nào tôi có thể tin tưởng được vào một bất
kỳ ước mơ nào của tôi?
Từ một viễn cảnh, khám phá này mang đến cho con người
một loại tự do hoàn toàn mới. Trước đây, chúng ta đã xác định rất mạnh mẽ với
những ham muốn của mình, và tìm kiếm tự do để hiện thực chúng. Bất cứ khi nào
có bất kỳ một suy nghĩ nào xuất hiện trong não thức, chúng ta vội vã chạy đến
đòi hỏi của nó. Chúng ta đã trải qua những ngày loanh quanh bận rộn như điên, cuốn
đi như bởi một vòng quay, hay đường lượn chạy rất nhanh, hăng máu chóng mặt của
những suy nghĩ, cảm xúc và mong muốn, mà chúng ta nhầm tưởng tượng đã đại diện
cho ý chí tự do của chúng ta. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta ngừng xác định mình
với cái vòng quay, hay con đường uốn lượn chạy rất nhanh đến chóng mặt này? Điều
gì xảy ra khi chúng ta cẩn thận quán sát ý nghĩ kế tiếp nổi lên trong não thức
của chúng ta và hỏi: “Nó từ đâu đến?”
Đối với người mới bắt đầu, sau khi nhận ra rằng những
suy nghĩ và mong muốn của chúng ta không phản ảnh ý chí tự do của chúng ta, có
thể giúp chúng ta ít bị chúng ám ảnh hơn. Nếu tôi nhìn bản thân mình như một
tác nhân hoàn toàn tự do, chọn lựa những ham muốn của tôi hoàn toàn độc lập với
thế giới, nó tạo ra một rào cản giữa tôi và tất cả những thực thể khác. Tôi
không thực sự cần bất kỳ thực thể nào khác – tôi độc lập. Nó đồng thời ban cho mọi ý thích ngẫu hứng bất chợt của
tôi một tầm quan trọng to lớn – sau tất cả, tôi đã chọn ra mong muốn đặc biệt
này khỏi tất cả những ham muốn có thể có trong vũ trụ. Một khi chúng ta đưa ra
rất nhiều quan trọng với ham muốn của mình, chúng ta tự nhiên cố gắng kiểm soát
và định hình cả thế giới theo chúng. Chúng ta gây chiến tranh, chặt cây phá rừng
và làm mất cân bằng toàn bộ hệ sinh thái trong việc theo đuổi những ngẫu hứng bất
chợt của chúng ta. Nhưng nếu chúng ta hiểu rằng mong muốn của chúng ta không phải
là kết quả của sự lựa chọn tự do, chúng ta hy vọng sẽ ít bận tâm với chúng hơn,
và cũng sẽ cảm thấy kết nối với phần còn lại của thế giới.
Nếu
chúng ta hiểu rằng những mong muốn của chúng ta không phải là kết quả của sự lựa
chọn tự do, chúng ta hy vọng sẽ ít bận tâm với chúng hơn
Đôi khi người ta tưởng tượng rằng nếu chúng ta từ bỏ lòng
tin của mình vào “ý chí tự do”, chúng ta sẽ trở thành hoàn toàn thờ ơ, và chỉ
cuộn tròn ở một góc nào đó và nhịn đói đến chết. Trong thực tế, từ bỏ ảo tưởng
này có thể có hai hiệu ứng đối nghịch: đầu tiên, nó có thể tạo ra một liên kết
mạnh mẽ hơn với phần còn lại của thế giới, và làm cho bạn chú ý hơn đến môi trường
của bạn và những nhu cầu và mong muốn của những người khác. Nó giống như khi bạn
trò chuyện với một ai đó. Nếu bạn tập trung vào những gì bạn muốn nói, bạn hầu
như không thực sự lắng nghe. Bạn chỉ chờ dịp để cho người khác nghe một mảnh của
não thức của bạn. Nhưng khi bạn đặt suy nghĩ của mình qua bên, bạn có thể đột nhiên
nghe được người khác.
Thứ hai, từ bỏ những huyền thoại về tự do sẽ có thể nhuốm
lửa thắp lên một sự tò mò sâu xa. Nếu bạn mạnh mẽ xác định với những suy nghĩ
và mong muốn nổi lên trong não thức của bạn, bạn không cần phải gắng sức nhiều
để có được biết chính mình. Bạn nghĩ rằng bạn đã biết chính xác bạn là ai.
Nhưng một khi bạn nhận ra “À, đây không phải là tôi. Đây chỉ là một số hiện tượng
sinh hóa thay đổi!’ Sau đó bạn cũng nhận ra bạn không có ý tưởng là ai – hoặc là
gì – bạn thực sự là. Đây có thể là khởi đầu của hành trình khám phá thú vị nhất
mà bất kỳ con người nào cũng có thể thực hiện.
Ở đây, không có gì là mới về sự nghi ngờ ý chí tự do, hoặc
về sự thăm dò bản chất đích thực của loài người. Con người chúng ta đã có thảo
luận này hàng nghìn lần trước đây. Nhưng trước đây chúng ta chưa bao giờ có kỹ
thuật ứng dụng. Và kỹ thuật ứng dụng thay đổi mọi sự vật việc. Những vấn đề cổ
xưa của triết học bây giờ đang trở thành những vấn đề thực tiễn của kỹ thuật và
chính trị. Và trong khi những nhà triết học là những người rất kiên nhẫn – họ
có thể tranh luận về một gì đó không kết luận ngã ngũ trong 3.000 năm – những kỹ
sư ít kiên nhẫn hơn nhiều. Những người hoạt động chính trị những người ít kiên
nhẫn nhất.
Làm thế nào để dân chủ tự do hoạt động trong một thời
đại khi những chính phủ và những tập đoàn có thể hack con người? Những gì còn lại
của những tin tưởng rằng “cử tri biết rõ nhất” và “khách hàng luôn luôn đúng”?
Làm thế nào để bạn sống khi bạn nhận ra rằng bạn là một động vật có thể bị hack,
rằng trái tim của bạn có thể là một ‘tác nhân’ của chính phủ, rằng amygdala [10] của óc của bạn có thể làm
việc cho tổng thống Putin, và ý nghĩ tiếp theo xuất hiện trong não thức bạn
cũng có thể là kết quả của một số algorithm biết
bạn tốt hơn bạn biết chính mình? Đây là những câu hỏi thú vị nhất mà con người
hiện đang phải đối mặt.
Thật không may, đây không phải là câu hỏi mà hầu hết mọi
người hỏi. Thay vì khám phá những gì đang chờ đợi chúng ta vượt qua ảo ảnh về “ý
chí tự do”, mọi người trên khắp thế giới đang rút lui để tìm chỗ trú ẩn với những
ảo ảnh còn cũ hơn. Thay vì đối đầu với thách thức của AI và công nghệ sinh học,
nhiều người đang chuyển sang những ảo tưởng tôn giáo và dân tộc, thậm chí còn
ít liên hệ hơn với những thực tế khoa học trong thời chúng ta hơn là chủ nghĩa
tự do. Thay vì những mô hình chính trị mới mẻ, những gì được cung cấp là thức
ăn thừa được đóng gói lại từ thế kỷ 20 hoặc thậm chí thời trung cổ.
Khi bạn cố gắng tham gia với những tưởng tượng mang
tính hướng về quá khứ này, bạn thấy mình đang tranh luận về những điều như sự
xác thực của Kinh Thánh và sự thánh thiện của dân tộc (đặc biệt nếu xảy ra, như
tôi, là bạn sống ở một nơi như Israel). Là một học giả, đây là một sự thất vọng.
Tranh cãi về Kinh Thánh là những chuyện nóng bỏng trong thời của Voltaire, và
tranh luận về giá trị của chủ nghĩa dân tộc là triết học tiên tiến của một thế
kỷ trước – nhưng vào năm 2018, nó dường như là một hết sức phí phạm thời giờ. AI
và công nghệ sinh học sắp thay đổi tiến trình của bản thân sự tiến hóa, và
chúng ta chỉ có vài chục năm để nghĩ ra làm những gì với chúng. Tôi không biết những
trả lời sẽ đến từ đâu, nhưng chắc chắn chúng không đến từ một sưu tập những câu
chuyện được viết cách đây hàng ngàn năm.
Vậy phải làm gì? Chúng ta cần phải chiến đấu trên hai
mặt trận cùng một lúc. Chúng ta nên bảo vệ dân chủ tự do, không chỉ vì nó đã được
chứng minh là một hình thức chính trị hiền lành hơn bất kỳ những lựa chọn thay
thế nào của nó, mà còn vì nó đặt những giới hạn ít nhất trong tranh luận về
tương lai của loài người. Đồng thời, chúng ta cần đặt câu hỏi những giả định
truyền thống về chủ nghĩa tự do, và khai triển một dự án chính trị mới tốt hơn,
phù hợp với những thực tế khoa học và những quyền lực công nghệ của thế kỷ 21.
Thần thoại Hellas kể rằng Zeus và Poseidon, hai trong
những vị thần lớn nhất, đã tranh đấu để dành bàn tay của nữ thần Thetis. Nhưng
khi họ nghe lời tiên tri rằng Thetis sẽ có một đứa con trai quyền năng hơn người
cha của nó, cả hai đều lo sợ rút lui. Vì những vị thần đều toan tính làm thần và
sống mãi mãi, họ không muốn những đứa con quyền năng hơn để cạnh tranh với họ. Thế
nên Thetis đã lấy một người thường làm chồng, vua Peleus, và đã sinh ra
Achilles. Những con người có sống chết đều thích có con cái họ sáng lạn hơn họ.
Huyền thoại này có thể dạy chúng ta một gì đó quan trọng. Những nhà cai trị nắm
quyền tuyệt đối có kế hoạch cai trị vĩnh cửu không muốn khuyến khích sự ra đời
của những ý tưởng có thể làm mất chỗ của họ. Nhưng những chế độ dân chủ tự do gây
hứng khởi cho sự sáng tạo những viễn kiến mới, ngay cả với giá tổn thất của việc
đặt câu hỏi về những nền tảng của riêng chúng
Yuval
Noah Harari
(https://www.theguardian.com/books/2018/sep/14/yuval-noah-harari-the-new-threat-to-liberal-democracy)
Lê Dọn Bàn tạm dịch
– bản nháp thứ nhất
(Oct/2018)
[1]
Tạm dịch và phổ biến trước như một chú thích cho bản dịch 21
Bài Học Cho Thế Kỷ 21 – Chương 3. Tự Do – bài báo The Myth of Freedom của tác giả trên Guardian)
[2] Liberalism – chủ nghĩa tự do
(không phải chủ nghĩa ‘tự do dân chủ’ như vẫn lầm lẫn gọi chung): Chủ nghĩa Tự do là một học thuyết chính
trị và kinh tế nhấn mạnh vào quyền tự chủ, bình đẳng về cơ hội của cá nhân, và
sự bảo vệ những quyền cá nhân (chủ yếu là quyền sống, được tự do và có tài sản
riêng); ban đầu chống lại nhà nước và về sau chống lại cả nhà nước lẫn những
tác nhân kinh tế tư nhân, gồm công thương nghiệp.
Học thuyết chính trị này thừa nhận sự bảo vệ và tăng
cường sự tự do của cá nhân là vấn đề chính trị trung tâm. Những người theo chủ
nghĩa tự do điển hình tin rằng chính phủ là cần thiết để bảo vệ những cá nhân để
không bị những người khác làm hại, nhưng họ cũng nhìn nhận rằng chính phủ tự nó
có thể đe dọa sự tự do. Như Thomas Paine (1737-1809), trong Common Sense (1776), chính phủ nếu tốt
nhất, thì không gì nhưng là ‘một điều ác
cần thiết’. Những pháp luật, quan tòa, và cảnh sát là cần thiết để bảo đảm
đời sống và tự do của cá nhân, nhưng quyền lực cưỡng chế của chúng cũng có thể
quay sang chống lại cá nhân. Vấn đề, sau đó, là tạo ra một hệ thống trong đó
cung cấp cho chính phủ quyền lực cần thiết để bảo vệ quyền tự do cá nhân nhưng
cũng ngăn cản người cai trị không thể chi phối và lạm dụng quyền lực đó
(‘[chính phủ] trong trạng thái tồi tệ nhất, là một trạng thái không thể chấp nhận.- Paine) Những trí thức sáng lập
chủ nghĩa tự do là triết gia John Locke (1632–1704), người đã phát triển một lý
thuyết về quyền lực chính trị dựa trên những quyền cá nhân tự nhiên và sự đồng
ý của người được cai trị, và triết gia Adam Smith (1723–90), người lập luận rằng
xã hội phát triển thịnh vượng khi những cá nhân được tự do theo đuổi lợi ích của
họ trong một hệ thống kinh tế dựa trên quyền sở hữu tư nhân của những phương tiện
sản xuất và những thị trường cạnh tranh, không bị nhà nước hoặc những tập đoàn
độc quyền tư nhân kiểm soát.
Theo lý thuyết của John Locke, sự đồng ý của người được
cai trị được bảo đảm qua một hệ thống của cai trị dựa trên đa số, theo đó chính
phủ sẽ thực hiện ý chí bày tỏ (qua lá phiếu) của đoàn cử tri. Tuy nhiên, nước
England thời của Locke và trong những xã hội dân chủ khác trong nhiều thế kỷ
sau đó, không phải mọi người đều được là thành viên của cử tri, cho đến tân thế
kỷ 20, phổ thông đầu phiếu vẫnchỉ giới hạn trong người da trắng phái nam. Không nhất thiết có liên hệ tất yếu giữa chủ
nghĩa tự do và bất kỳ hình thức cụ thể nào của chính phủ dân chủ, và thực sự
chủ nghĩa tự do của Locke đã đặt trên một chế độ quân chủ lập hiến.
Những người theo chủ nghĩa tự do
cổ điển (nay thường được gọi
là người tự do) coi nhà nước như sự
đe dọa chính đối với tự do của
cá nhân, và ủng hộ sự hạn chế những quyền hạn của chính phủ với những gì cần thiết để
bảo vệ những quyền
cơ bản chống lại sự can thiệp của những
người khác. Những người theo
chủ nghĩa tự do mới ngày nay (neo-liberalism) đã chủ
trương rằng tự do cũng có thể bị đe dọa bởi những tác nhân kinh
tế tư nhân, như những doanh
nghiệp, chúng bóc lột công
nhân hoặc lấn lướt chính
phủ, và họ ủng hộ hành động của nhà nước, bao gồm cả áp đặt luật lệ điều hành chỉnh đốn kinh tế
và cung cấp những dịch
vụ xã hội, để cải thiện những
điều kiện sống
(thí dụ – quá nghèo khó) vốn có thể cản trở việc thực hiện những quyền cơ bản
hoặc làm suy hoại quyền
tự chủ cá nhân. Nhiều người cũng nhìn
nhận những quyền
rộng rãi hơn
như quyền có việc làm
tương xứng, quyền
được chăm sóc y
tế và quyền hưởng giáo dục miễn phí.
[3] Một sai lầm phổ
biến là nhập chung chủ
nghĩa tự do với dân chủ. Hai khái niệm này
không phải là những
từ đồng nghĩa. Đối với hầu hết lịch sử của chúng, chúng thậm
chí không được so sánh
như tương đương. Từ
thời của người Hellas cổ, dân chủ có nghĩa là cai trị bởi dân chúng. Một số người
đã giải thích điều này có nghĩa là sự trực tiếp tham gia chính trị của tất cả những công dân phái nam. Những người
khác đã hiểu nó có
nghĩa là một hệ thống đại biểu dựa
trên phổ thông đầu phiếu của tất
cả các công dân phái nam.
Dù cách nào, tuy nhiên, mãi
đến tận thế kỷ
19, phần lớn những người
theo chủ nghĩa tự do đã ác
cảm với chính ý tưởng
dân chủ, mà họ liên kết với hỗn loạn và sự cai trị của đám
đông hỗn tạp. Thật
khó để tìm được một người theo
chủ nghĩa tự do nhưng
nhiệt tình với tư tưởng dân chủ trong
thời hoàng kim của những
gì thường gọi là chủ nghĩa tự do cổ điển.
Thật vậy, sẽ không sai khi nói rằng chủ
nghĩa tự do ban đầu đã được phát minh là để kềm hãm dân chủ.
Chắc chắn, những
người sáng lập chủ nghĩa tự do đã không phải là những người dân chủ. Benjamin
Constant (1767-1830) đã chủ trương những tiêu chuẩn nghiêm ngặt về tài sản cho
cả bầu cử và đắc cử những chức vụ công quyền. Cách mạng France đã chứng minh
cho những người tự do như ông rằng công chúng hoàn toàn không chuẩn bị cho những
quyền chính trị. Quần chúng đã là dốt nát, thiếu lý trí, và dễ nghiêng sang bạo
động. Dưới áp lực của những người tự do như ông, luật pháp đã bị đình chỉ, ‘kẻ
thù của nhân dân’ lên máy chém, những quyền tự do bị chà đạp. Giai đoạn dân chủ
nhất của cách mạng France cũng là giai đoạn đẫm máu nhất.
[4] ý chí tự do: con người có ý chí, hiểu như có những ý muốn tốt lẫn xấu, và toan tính thực hiện ý muốn của mình, nhưng con người không có tự do để chọn lựa chính mình nên/phải/không có ý muốn nào; con người dĩ nhiên có ý chí nhưng điều nhấn mạnh ở đây là chúng ta không có ý chí tự do. Trong một chương của 21 Bài Học Cho Thế Kỷ 21, tác giả đã giải thích tường tận vấn đề này. Một trong những câu hỏi lâu đời nhất trong tâm lý học, và trong những
lĩnh vực khác như triết học, liệu con người có ý chí tự do hay không. Đó là,
chúng ta có thể chọn những gì chúng ta sẽ làm với cuộc sống của mình không? Vấn
đề ý chí tự do sẽ đặc biệt gai góc vì nó trình bày một xung đột giữa hai quan
điểm đối lập, nhưng thoạt nghe, đều có vẻ không kém phần hợp lý. Từ một quan điểm hoàn
toàn tâm lý, nếu chúng ta không có ý chí tự do, tại sao chúng ta lại ở đây? Đời
sống là gì nếu chúng ta không thể tự do chọn một con đường sống riêng mình? Tuy
nhiên, từ một quan điểm thuần túy khoa học, làm thế nào có thể bất cứ gì có thể
xảy ra mà không ít nhất do một gì khác (hay nhiều) gây ra? Nếu chúng ta thực sự
có tự do lựa chọn, thì những lựa chọn
này phải không có nguyên nhân – nhưng một gì đó xảy ra nhưng không nguyên nhân,
là một điều không thể nhận hiểu hay giải thích được, trong mô hình khoa học mà
chúng ta ngày nay đều dựa vào để sinh hoạt và tiến bộ.
Trước
đây, không có đồng thuận, dù trong tâm lý học về câu hỏi – liệu chúng ta thực sự có ‘ý chí tự do’ như đạo
Kitô vẫn nói hay không – nhưng ngày càng
thêm nhiều lĩnh vực nghiên cứu tâm lý dường như đều cho thấy rằng đây là một
khái niệm, giống như tự ngã, linh hồn, chúng ta thực sự đều không có, hiểu như
những thực thể bên trong mỗi chúng ta. Hai nhà tâm lý học lớn, thế kỷ trước và
thế kỷ này – Sigmund Freud và B.F Skinner –
đã có nhiều không đồng ý, nhưng một điều họ đã đồng ý là những hành vi của
con người được xác định bởi những ảnh hưởng bên trong hoặc bên ngoài con người.
Freud nói về những xung đột và mâu thuẫn bên trong, từ phần tâm lý sâu chìm bao
la vốn ý thức không từng, hay chỉ nhận biết lờ mờ, ông nói về tiềm thức và vô
thức, cho chúng ta hiểu đây mới là vùng xuất phát những nguyên nhân xa gần của
những hành vi con người (xem thêm Freud
trên blog này). Sau đến Skinner, nhà tâm
lý học hành vi, nói về những hoàn cảnh, trường hợp, những môi trường bên
ngoài xã hội con người tác động vào những quyết định, ứng xử đã thể hiện qua
hành vi con người. Trước và sau, trong hay ngoài, hai nhà tâm lý học vĩ đại này
đều bảo rằng, về tinh thần, hay tâm lý, chúng ta không là một sinh vật có tự do, ý chí tự do như nói trong đạo đức
Kitô phương Tây vẫn nói và vẫn tiếp tục dai dẳng đề cao cho đến nay, không vì
nó là thực, nhưng chỉ đơn giản vì nó
giải đáp cho vấn nạn Tà ác đặt ra
trong gót học Kitô. Ở phương Tây, cũng đã đem cho tiện ích xa gần nào đó trong xã
hội của những người đã tin theo nó quá lâu đến thành tập quán khó bỏ. Hiện nay,
lĩnh vực như khoa học thần kinh và di truyền học đã đóng lại câu hỏi của tâm lý
về ý chí tự do. Nhưng về đạo đức học, phủ nhân này có khuyến khích mọi người cư
xử như thể họ không chịu trách nhiệm về hành vi của họ? Câu trả lời thực sự khá giản
dị, một khi gạt bỏ yếu tố tôn giáo, đặc biệt của đạo Kitô. Con người vẫn sống đạo
đức – thực ra còn đạo đức hơn đạo đức một chiều dựa trên một tôn giáo – nếu hiểu đạo đức là những gì đến từ sự thực hành nguyên lý: (a) đừng
có hành động khiến sinh vật khác phải đau khổ; và đặc biệt con người nên đối xử với nhau theo nguyên tắc hướng dẫn thực tiễn – (b) đừng làm điều gì mà bạn không muốn người
khác làm cho mình – Từ bi (a) và Quy tắc Vàng (b) đã có ở phương Đông hàng nghìn
năm nay – đã giúp con người sống đạo đức và tổ chức những xã hội có luân lý cao.
Con
người, không có tự do (freedom) như vẫn
nói, khi đi đến quyết định hay chọn lựa, lớn đến nhỏ, trong đời sống của mình.
Tự Do (Liberty) là một câu chuyện, như Harari xếp loại, một hư
cấu, một ảo tưởng. Tôi gọi là nó thuộc một tập hợp gồm những gì không-thực, không là-có. Tất cả giống như ‘chiếc xe’ của tỷ kheo Nāgasena đến gặp
vua Menander.
Trong đời sống chính trị, chúng ta biết ngay cả Tự Do chỉ
là một lý tưởng, một hư cấu, chỉ là-có trong tưởng
tượng chủ quan. Một dân tộc, đã tượng trưng Tự Do (Liberté) qua hình tượng một nữ thần to
lớn và đẹp đẽ, đã đổ rất nhiều máu tranh đấu cho Tự Do này (và Bình đẳng, Bác
ái!) công khai đầu tiên và lớn tiếng nhất Europe. Dân tộc đó, trong thế kỷ qua
đã xâm lăng, cũng chà đạp lên tự do (và cũng tuyệt không bình đẳng lẫn bác ái với
người ngoài, khác tôn giáo) của nhiều những dân tộc thuộc địa, trong đó có
chúng ta. Chúng ta chỉ có thể giải thích rằng những người France này, những thực dân và
‘thừa sai’, tay cầm súng và cổ đeo ‘thánh giá’, đều không là những con người có
‘ý chí tự do’. Chỉ sự thực này mới có thể giải thích được, dù phần nào, ngay
cả chính họ, về những những hành động xâm lăng, truyền đạo với hậu quả diệt chủng,
diệt văn hóa tàn ác của họ, ở ViệtNam cũng như nhiều những thuộc địa khác trên
thế giới – hành động của họ như vậy rõ ràng không vì ý chí tự do không thực (những con người
tôn thờ và đã đổ máu vì Tự Do) nhưng từ động cơ thực, dựng trên tham vọng thực dân, kiêu hãnh
đế quốc tự phong trách nhiệm khai hóa ‘ánh sáng văn minh’, và đặc biệt
là sự cuồng tín sắt máu của thứ tôn giáo tin chỉ
một gót. Tất cả những thiển cận này đã đánh lừa chính họ, không cho họ thấy
sự ích kỷ ác độc trong họ đã dẫn đến những huỷ hoại tàn khốc. Tìm mở thị trường –
lãnh thổ thuộc địa như thị trường kinh tế để duy trì đế quốc chính trị, dân
chúng thuộc địa như thị trường người để rao bán tôn giáo mới. Thêm nữa, cũng khéo
léo đánh lừa được hai ba thế hệ người Việt thuộc địa lầm lạc – từ Petrus Ký đến Phạm Quỳnh, và những người
hiện nay vẫn biệnhộ cho những nhân vật lịch sử này!
[5] Hacking: tạm dịch ở đây, ‘hack’ nay thành một từ rất phổ thông ngoài lĩnh vực cômputơ. Tôi nghĩ nên dùng
nguyên dạng gốc ‘hack’ (như chúng ta
mượn những từ 自由, 民主, vốn viết nguyên chữ Tàu – xưa kia
và nay phiên âm theo cách đọc tiếng Tàu là ‘tự do’, ‘dân chủ’, ….) vậy hack (động từ) và hacking (danh từ) có thể giữ nguyên. Còn muốn rõ cho người đọc chưa quen – tôi tạm dịch là dùng kỹ thuật đột nhập bí mật như trên.
[6] Hacker – ở đây không thể dịch là ‘tin tặc’ nữa – vì không có ‘tin’, và
cũng không là ‘tặc’, thí dụ trường hợp Edward Joseph Snowden, và cũng không là
người – nhưng là một algorithm phức tạp, hay một malware nào đó!
[7] biometric sensors
[8] Inquisition: Thực sự, tổ chức này vẫn được hội Nhà
thờ Catô duy trì và tiếp tục hoạt động đến ngày nay, dưới tên gọi Bộ
Giáo lý Đức tin (trước là Thánh Bộ Tòa án Dị giáo Tối cao của Rôma và Hoàn vũ
(sic) – The
Congregation for the Doctrine of the Faith). Đây là cơ quan lâu đời nhất của triều đình tôn giáo Roma, có trách nhiệm ban
hành và bảo vệ học thuyết Catô.
[9] Black box
[10] Phần não ảnh hưởng đến cách mọi người cảm thấy những cảm xúc, đặc biệt là sợ hãi và vui thích