Lý thuyết về Tri Thức
Bertrand Russell (1926)
Theory of Knowledge
(trong The Encyclopaedia Britannica)
1.
Trong Những Vấn đề của
Triết học (1912); Russell trình bày quan điểm của ông đứng
trong lập trường của phái triết học Duy thực (Realism), qua đó không chỉ những đối
tượng nhận thức, nhưng những phổ quát trong nhận thức, là “thực”,
hiểu như chúng tồn tại độc lập với ý thức. Đối với Russell, luận điểm này là giải
thích duy nhất cho một kiến thức tiên nghiệm: những phổ quát này (“một phổ
quát sẽ là bất cứ gì mà có thể được chia xẻ bởi những cá biệt, ... ” [1]),
và não thức có khả năng nhận thức được chúng qua lý trí. Tuy nhiên về sau,
trong Triết học Atômích Lôgích (The Philosophy of Logical Atomism (1918),
Russell đổi lập trường, chủ trương rằng chỉ có những ‘atôm lôgích’ – hiểu là những
quan hệ, những thuộc tính, vv ... là những gì tồn tại khách quan.
Trong bài có tính cách dẫn nhập và giới thiệu đại cương sau đây, Russell khéo léo dẫn chúng ta qua những định nghĩa cần thiết và trình bày một giải thích hệ thống về gần như tất cả những vấn đề chính của Lý thuyết về Tri Thức. Đây là một trong nhiều những bài viết phổ biến kiến thức phổ thông có giá trị lâu dài ông đã cống hiến cho những người học triết học.
2.
Một đứa trẻ, đôi khi có được một bao diêm đẹp, hay hộp bánh Tây vẽ nhiều màu, nó giữ mãi trên tay, lúc ngủ cũng không rời. Người mẹ thương con, bảo đưa mẹ cất cho. Đến khi bắt được một con dế, hay con ve, nó cuống quít đòi mẹ bao diêm, hộp bánh. Lúc ấy, bà mẹ đã quên, và cả hai mẹ con cùng đi tìm – người mẹ thường bảo “Mẹ tin mẹ biết bao diêm ở trên đầu chạn bếp”. Nhưng bao diêm không ở đó. Đến sau mới biết nó ở một chỗ khác. Cho đến khi tìm được bao diêm – ý tưởng bao diêm ở đầu chạn nhà bếp – chỉ là một tin tưởng, và khi nói “bao diêm ở trên đầu chạn bếp” cũng không làm cho nó là sự thực. Chi có sự thực khi tìm được bao diêm ở đầu tủ gỗ đựng thức ăn trong bếp. Phân biệt đó của người mẹ, Russell gọi là ý thức thông thường (common sense), hiểu là khôn ngoan tự nhiên đến từ đời sống, ít nhiều tùy người, sai lệch tùy cộng đồng văn hóa.
Lớn lên, tôi rất ít nghe ai nói theo lối – “Mẹ tin mẹ biết”. Quanh chúng ta những lầm lẫn gây hại cho mình và thiệt cho người, đến những quả quyết gây thảm họa đau thương cho dân tộc, hay nhân loại là có lẽ phần lớn có thể tìm được nguyên nhân trong đơn giản tương tự như thế – con người nhầm lẫn, hay muốn người khác lẫn lộn biết và tin, và bỏ qua sự kiện rằng dẫu có nói ra những gì tin tưởng, dù dài, dù khéo, rồi đặt lên cao đến đâu, dù là logos; cũng không vì lời mà làm thành đúng, thật; và đã hành động theo đó; trước khi tự hỏi – mình đã biết chưa hay chỉ tin mà thôi?
Đó là sự quan trọng của Lý thuyết về Tri Thức.
Người dịch
Lê DọnBàn
Trong bài có tính cách dẫn nhập và giới thiệu đại cương sau đây, Russell khéo léo dẫn chúng ta qua những định nghĩa cần thiết và trình bày một giải thích hệ thống về gần như tất cả những vấn đề chính của Lý thuyết về Tri Thức. Đây là một trong nhiều những bài viết phổ biến kiến thức phổ thông có giá trị lâu dài ông đã cống hiến cho những người học triết học.
2.
Một đứa trẻ, đôi khi có được một bao diêm đẹp, hay hộp bánh Tây vẽ nhiều màu, nó giữ mãi trên tay, lúc ngủ cũng không rời. Người mẹ thương con, bảo đưa mẹ cất cho. Đến khi bắt được một con dế, hay con ve, nó cuống quít đòi mẹ bao diêm, hộp bánh. Lúc ấy, bà mẹ đã quên, và cả hai mẹ con cùng đi tìm – người mẹ thường bảo “Mẹ tin mẹ biết bao diêm ở trên đầu chạn bếp”. Nhưng bao diêm không ở đó. Đến sau mới biết nó ở một chỗ khác. Cho đến khi tìm được bao diêm – ý tưởng bao diêm ở đầu chạn nhà bếp – chỉ là một tin tưởng, và khi nói “bao diêm ở trên đầu chạn bếp” cũng không làm cho nó là sự thực. Chi có sự thực khi tìm được bao diêm ở đầu tủ gỗ đựng thức ăn trong bếp. Phân biệt đó của người mẹ, Russell gọi là ý thức thông thường (common sense), hiểu là khôn ngoan tự nhiên đến từ đời sống, ít nhiều tùy người, sai lệch tùy cộng đồng văn hóa.
Lớn lên, tôi rất ít nghe ai nói theo lối – “Mẹ tin mẹ biết”. Quanh chúng ta những lầm lẫn gây hại cho mình và thiệt cho người, đến những quả quyết gây thảm họa đau thương cho dân tộc, hay nhân loại là có lẽ phần lớn có thể tìm được nguyên nhân trong đơn giản tương tự như thế – con người nhầm lẫn, hay muốn người khác lẫn lộn biết và tin, và bỏ qua sự kiện rằng dẫu có nói ra những gì tin tưởng, dù dài, dù khéo, rồi đặt lên cao đến đâu, dù là logos; cũng không vì lời mà làm thành đúng, thật; và đã hành động theo đó; trước khi tự hỏi – mình đã biết chưa hay chỉ tin mà thôi?
Đó là sự quan trọng của Lý thuyết về Tri Thức.
Người dịch
Lê DọnBàn
Lý thuyết về Tri Thức
Lý thuyết về Tri thức [2]
một sản phẩm của hoài nghi. Khi chúng ta nghiêm trang tự hỏi, liệu chúng ta có
thực sự biết bất cứ điều gì tất cả hay không, chúng ta tự nhiên dẫn đến một
khảo sát về sự hiểu biết, trong hy vọng có được khả năng để phân biệt những tin
tưởng đáng tin cậy từ những giống
như không đáng tin cậy. Thế nên Kant, người sáng lập của tri thức luận hiện
đại, đại diện cho một phản ứng tự nhiên chống lại chủ thuyết hoài nghi của
Hume. Ít triết gia vài ngày nay sẽ chỉ định cho chủ đề này một tầm quan trọng
cơ bản như nó đã có trong hệ thống “phê phán” của Kant; tuy nhiên nó vẫn còn là
một phần thiết yếu của triết học. Có lẽ không khôn ngoan nếu bắt đầu với một
định nghĩa của môn học, vì như ở nơi nào khác trong những thảo luận triết học,
những định nghĩa là gây tranh luận, và nhất định sẽ khác nhau với những trường
phái khác nhau, nhưng ít nhất chúng ta có thể nói rằng môn học thì quan tâm với
những điều kiện tổng quát của kiến thức, cho đến mức
chúng chiếu sáng trên sự thật và sự sai lầm.
Cho thuận tiện, sẽ chia thảo luận của chúng ta thành ba
chặng, liên quan tương ứng đến (1) định nghĩa của kiến thức, (2) dữ
liệu, (3) phương pháp suy luận. Có điều nên nói, tuy nhiên, rằng khi phân biệt
giữa dữ liệu và suy luận, chúng ta đã đứng về phe phái rồi trong một vấn đề có
thể tranh cãi, bởi một số triết gia chủ trương sự phân biệt này là ảo tưởng,
tất cả kiến thức (theo họ) là có phần
trực tiếp và có phần phát sinh.
I. Định nghĩa của Kiến Thức
Câu hỏi kiến thức nên được
định nghĩa thế nào có lẽ là quan trọng và khó khăn nhất trong ba điều kể trên
mà chúng ta sẽ phải giải quyết. Điều này có thể xem ngạc nhiên: từ cái nhìn đầu
tiên, có thể nghĩ rằng kiến thức có thể được
định nghĩa như tin tưởng vốn nó thì phù hợp với những sự kiện. Điều rắc rối là
không ai biết một tin tưởng là gì, không ai biết một sự kiện là gì, và không ai
biết sắp xếp thuộc loại nào thì phù hợp giữa chúng sẽ làm một tin tưởng là đúng
thực. Chúng ta hãy cùng bắt đầu với tin tưởng.
Tin tưởng
Theo truyền thống, một “tin tưởng” là một trạng thái của não
thức thuộc một loại nhất định nào đó. Nhưng những người theo thuyết hành vi [3]
phủ nhận rằng có những trạng thái của não thức, hay ít nhất rằng chúng không
thể biết được, do đó họ tránh từ “tin tưởng”, và nếu họ sử dụng nó, sẽ có nghĩa
là một đặc tính của hành vi cơ thể. Có những trường hợp trong đó cách sử dụng
này sẽ đúng là phù hợp theo như ý thức thông thường. Giả sử bạn sửa soạn đi
thăm một người bạn mà bạn vẫn thường đến thăm trước đây, nhưng khi đến nơi, bạn
thấy rằng ông ấy đã dời nhà, bạn sẽ nói “Tôi nghĩ rằng ông ấy vẫn còn ở ngôi
nhà cũ của ông.” Tuy nhiên, có nhiều xác xuất là bạn không nghĩ gì về điều đó
hết cả, mà chỉ đơn thuần là đã cứ theo đuổi con đường thường lệ của thói quen.
Một “tư tưởng” hay “tin tưởng”, do đó, trong quan điểm của ý thức thông thường,
có thể được cho thấy bằng hành vi, mà không có bất kỳ một xuất hiện thuộc “não
thức” tương ứng nào. Và ngay cả nếu bạn sử dụng một hình thức của những lời nói
như giả định để bày tỏ tin tưởng, bạn vẫn phải dấn mình vào những hành vi của
cơ thể, nếu như bạn phát âm lớn tiếng những lời nói, hay với chính mình. Trong
những trường hợp loại giống thế, chúng ta sẽ nói rằng bạn có một tin tưởng hay
không? hay có phải một gì đó thì cần thêm nữa?
Phải thừa nhận rằng hành vi thì thực tiễn là như nhau, dù bạn
có hay không có một tin tưởng hiện ra rõ ràng. Những người đang ở ngoài trời
khi một cơn mưa rào đổ xuống, dương dù của họ lên, nếu họ có dù, một số nói với
chính họ “trời đã bắt đầu mưa”, những người khác hành động mà suy nghĩ rõ ràng
không hiện ra, nhưng kết quả là hệt như nhau trong cả hai trường hợp. Trong
tiết trời rất nóng, cả con người và loài vật tránh nắng mặt trời, tìm vào bóng
râm, nếu có thể, con người có thể có một “tin tưởng” rõ ràng rằng bóng râm thì
dễ chịu hơn, nhưng loài vật cũng tìm bóng râm như thế. Điều đó vẻ như, do đó,
rằng tin tưởng, nếu nó không phải chỉ đơn thuần là một đặc tính của hành vi,
thì không quan trọng về nguyên nhân. Và sự phân biệt giữa đúng và sai hiện hữu
ở chỗ có hành vi mà tin tưởng không hiện ra rõ ràng, cũng đúng nhiều như chỗ có
tin tưởng hiện diện rõ ràng, điều này được cho thấy bằng minh họa của việc đi
đến nơi mà người bạn đã ở trước đây. Vì vậy, nếu lý thuyết về tri thức là quan tâm
với sự phân biệt đúng thực với sai lầm, chúng ta sẽ phải gồm cả những trường
hợp trong đó có tin tưởng không hiện rõ ràng, và nói rằng một tin tưởng có thể
là chỉ đơn thuần tiềm ẩn trong hành vi. Khi bà Mẹ già Hubbard đi tới tủ thức ăn
nhiều ngăn, bà đã “tin” rằng có một miếng xương cho chó trong đó, ngay cả nếu
như bà đã không có trạng thái của não thức có thể được gọi là có nhận thức
trong ý nghĩa của tâm lý học tự quán nội tâm. [4]
Lời nói.
Ngõ hầu mang quan điểm này vào trong hài hòa với những sự
kiện về hành vi con người, dĩ nhiên là cần thiết để ghi nhận ảnh hưởng của
những lời nói. Con thú muốn bóng mát trong một ngày nóng thì bị cảnh tượng của
bóng tối thu hút, con người có thể phát âm từ ngữ “bóng râm”, và hỏi tìm nó
được chỗ nào. Theo những người trong thuyết hành vi, đó là việc sử dụng những
lời nói và hiệu quả của chúng trong sự tạo ra những đáp ứng có điều kiện vốn
cấu thành sự “suy nghĩ”. Với những mục đích của chúng ta để dò hỏi xem quan
điểm này có đem cho toàn bộ sự thật về vấn đề này hay không là không cần thiết.
Những gì quan trọng là nhận thức rằng hành vi (có đi kèm) lời nói có những đặc
điểm dẫn chúng ta đến nhìn nó như một dấu hiệu của “tin tưởng” đã nổi bật lên
trước, ngay cả khi những lời nói được lập lại chỉ đơn thuần như thói quen cơ
thể. Cũng giống đúng như thói quen đi đến một ngôi nhà nào đó khi bạn muốn thăm
người bạn có thể nói để cho thấy rằng bạn “tin tưởng” ông ta sống trong ngôi
nhà đó, vì vậy thói quen nói “hai cộng hai là bốn”, ngay cả khi chỉ đơn thuần
là lời nói, phải được chủ trương là cấu thành “tin tưởng” trong mệnh đề số học
này. Thói quen bằng lời nói, tất nhiên, không phải là những bằng chứng không
thể sai lầm của tin tưởng. Chúng ta có thể nói mỗi Chủ Nhật rằng chúng ta là
những kẻ “có tội” khốn khổ, trong khi nghĩ rất tốt về bản thân mình. Tuy nhiên,
nói một cách rộng rãi, thói quen lời nói kết tinh rõ ràng tin tưởng của chúng
ta, và có khả năng tiện lợi nhất làm cho chúng phơi mở rõ ràng. Nói nhiều thêm
hơn cho những lời nói thì rơi vào trong sự tôn kính duy ý mê tín với chúng, vốn
đã từng là nguyên nhân suy sụp của triết học trong suốt lịch sử của nó.
Tin tưởng và hành vi
Như thế, chúng ta được lái đến quan điểm rằng, nếu một tin
tưởng là là một gì đó quan trọng về nguyên nhân, nó phải được định nghĩa như
một đặc tính của hành vi. Quan điểm này cũng bị đẩy tới chúng ta bởi sự xem xét
của sự thật và sự dối trá, bởi hành vi có thể bị nhầm lẫn đúng như trong cách
thức gán được cho một tin tưởng sai lầm, ngay cả khi không có tin tưởng rõ ràng
nào hiện diện, lấy thí dụ, khi một người tiếp tục dương dù mình để che mưa, sau
khi mưa đã ngừng mà không chắc có nuôi dưỡng ý kiến rằng trời vẫn còn
đang mưa. Tin tưởng trong chiều hướng rộng rãi hơn này có thể được gán cho
những động vật – lấy thí dụ, cho một con chó chạy đến phòng ăn khi nó nghe
tiếng chiêng. Và khi một con vật ứng xử với một ảnh phản chiếu trong một gương
soi như thể nó là “thực”, chúng ta sẽ tự nhiên nói rằng nó “tin tưởng” có một
con vật khác ở đó, hình thức này của lời nói thì được cho phép bởi định nghĩa của chúng ta.
Nó vẫn còn, tuy nhiên, để nói rằng những đặc điểm gì của hành
vi có thể được mô tả như những tin tưởng. Cả hai, người và vật, hoạt động ngõ
hầu đạt được những kết quả nhất định, thí dụ, lấy được thức ăn. Đôi khi họ
thành công, đôi khi họ thất bại –
khi họ thành công, những tin tưởng có
liên quan của họ là “đúng”, nhưng khi họ thất bại, ít nhất có một là sai. Thường sẽ có một số những
tin tưởng tham dự vào một mảnh đã qui định của hành vi, và nhiều loại khác biệt
của môi trường sẽ là cần thiết để gỡ ra phân biệt được những đặc tính quan hệ
nhân quả, vốn tạo dựng những tin tưởng khác nhau. Phân tích này thì bị tác động
bởi ngôn ngữ, nhưng sẽ rất khó khăn nếu áp dụng cho loài vật câm. Một câu nói
có thể được nhận như là một quy luật của hành vi trong bất kỳ môi trường nào có
chứa một số đặc tính, nó sẽ là “đúng” nếu hành vi dẫn đến kết quả thỏa đáng cho
người có liên quan, và nếu không nó sẽ “sai”. Như vậy, ít nhất, là định nghĩa
của người theo chủ nghĩa thực dụng về sự thật và sự dối trá.
Sự Thực trong Lôgích.
Ngoài ra cũng có, tuy nhiên, một phương pháp thảo luận câu
hỏi này lôgích hơn. Trong lôgích, chúng ta mặc nhiên nhận như đã sẵn rằng một
từ có một “nghĩa”, những gì chúng ta biểu thị từ điều này, tôi nghĩ, chỉ có thể
giải thích được trong những định hạn của hành vi, nhưng một khi chúng ta đã có
được một từ vựng của những lời nói vốn chúng có “nghĩa”, chúng ta có thể tiến
hành một cách đúng lề thói mà không cần phải nhớ “nghĩa” là gì. Từ những luật
cú pháp trong ngôn ngữ chúng ta đang sử dụng, chúng ta có thể xây dựng những
mệnh đề bằng cách ghép những từ của ngôn ngữ vào nhau, và những mệnh đề này có
những nghĩa là kết quả của những nghĩa của những từ riêng biệt và chúng thội
không còn (có nghĩa) tùy tiện nữa. Nếu chúng ta biết rằng một số những mệnh đề
này là đúng, chúng ta có thể suy ra rằng một số những mệnh đề khác là đúng, và
rằng một số những mệnh đề khác là sai; đôi khi điều này có thể được suy diễn
với chắc chắn, đôi khi với xác suất (đúng sai) cao hoặc thấp hơn. Trong tất cả
những vân dụng lôgích này, không cần thiết phải nhớ những gì tạo nên ý nghĩa và
những gì cấu thành sự đúng thật hay sai lầm. Đó là trong khu vực chính thức này
mà hầu hết triết học đã sống, – và trong khu vực này rất nhiều điều có thể nói
là đúng thật và quan trọng, mà không có sự cần thiết của bất kỳ học thuyết cơ
bản nào về ý nghĩa. Nó thậm chí có vẻ như có thể để xác định “đúng thực” trong
điều kiện của “ý nghĩa” và “sự kiện”, như ngược lại với định nghĩa thực tiễn mà
chúng ta đã đưa ra một chút trước đây. Nếu vậy, có hai định nghĩa giá trị về
“sự thật”, mặc dù cả hai tất nhiên sẽ áp dụng đối cùng những mệnh đề.
Định nghĩa thuần túy chính thức của “sự thật” có thể được
minh họa bằng một trường hợp đơn giản. Từ “Plato” có nghĩa là một người nào đó,
từ “Socrates” có nghĩa là một người nào đó khác, từ “tình yêu” có nghĩa là một
mối quan hệ nào đó nhất định. Nhận như vậy, ý nghĩa của ký hiệu phức tạp “Plato
yêu Socrates” là cố định, chúng ta nói rằng ký hiệu phức tạp này là “đúng” nếu
như có một sự kiện nhất định trên thế giới, cụ thể là sự kiện Plato yêu
Socrates, và trong trường hợp ngược lại ký hiệu phức tạp là sai. Tôi không nghĩ
giải thích này là sai, nhưng, giống như tất cả mọi thứ thuần túy chính thức, nó
không thăm dò rất sâu cho lắm.
Không chắc chắn và không rõ
ràng.
Trong xác định kiến thức, có thêm hai
vấn đề nữa được đem vào cân nhắc xem xét, cụ thể là mức độ chắc chắn và mức độ
chính xác. Tất cả mọi kiến thức thì không chắc chắn ít hay nhiều hơn, và mơ hồ
ít hay nhiều hơn. Những điều này, trong một ý hướng, là những tính chất đối
lập: kiến thức mơ hồ có nhiều khả năng
đúng thực hơn là kiến thức chính xác, nhưng hữu
ích ít hơn. Một trong những mục tiêu của khoa học là tăng mức chính xác mà
không giảm tính chắc chắn. Nhưng chúng ta không thể hạn định từ “kiến thức” với
những gì có mức độ cao nhất của cả hai phẩm tính này, chúng ta phải bao gồm cả
một số mệnh đề mà chúng là khá mơ hồ và một số chỉ có thể là có cơ xảy ra. Tuy
nhiên , điều quan trọng là chỉ rõ
sự mơ hồ và không chắc chắn chỗ nào nếu chúng có mặt, và nếu có thể, ước
tính mức độ của chúng. Chỗ nào điều này có thể được thực hiện chính xác, nó sẽ
trở thành “sai lầm có thể có” và “xác suất có thể có”. Tuy nhiên, trong hầu hết
những trường hợp, độ chính xác trong phương diện này là không thể có được.
II. Dữ liệu
Trong kiến thức khoa học cao
cấp, sự phân biệt giữa những gì là một dữ liệu và những gì được suy ra là rõ
ràng trong thực hành, mặc dù đôi khi khó khăn trong lý thuyết. Trong thiên văn
học, lấy thí dụ, những dữ liệu chủ yếu là những mô hình đen và trắng nào đó
trên những phóng ảnh phẳng. Chúng được gọi là những ảnh chụp phần này hay phần
kia của bầu trời, nhưng tất nhiên bao gồm nhiều suy luận khi xử dụng chúng để
cung cấp kiến thức về những chòm sao hay
những hành tinh. Nói rộng rãi, đòi hỏi những phương pháp khá khác nhau và một
loại chuyên môn hoàn toàn khác nhau cho những quan sát vốn chúng cung cấp dữ
liệu trong khoa học định lượng, và cho những diễn dịch từ những dữ liệu được
trình bày để hỗ trợ cho lý thuyết này hay kia. Sẽ không có lý do gì để mong đợi
Einstein là giỏi giang đặc biệt trong việc chụp ảnh những ngôi sao gần mặt trời
trong thời gian một nhật thực. Nhưng mặc dù sự phân biệt là thực tế rõ ràng
trong những trường hợp như vậy. Điều là kém hơn thế nhiều khi chúng ta đến với
kiến thức kém chính xác. Có thể
nói được rằng sự phân tách thành dữ liệu và suy luận thuộc về một chặng đã tiến
triển của kiến thức, và vắng mặt trong khởi
đầu của nó.
Suy luận của loài vật
Nhưng cũng đúng như chúng ta đã thấy là cần thiết để chấp
nhận rằng kiến thức có thể chỉ là một đặc
tính của hành vi, vì vậy chúng ta sẽ phải nói về sự suy luận. Những gì một nhà
lôgích nhìn nhận như suy luận là một hoạt động đã lọc tinh vi, thuộc một trình
độ cao của sự phát triển trí tuệ, nhưng có một loại suy luận khác vốn ngay cả
loài vật cũng thực hành. Chúng ta phải lưu ý đến hình thức thô sơ này của suy
luận trước khi chúng ta có thể trở nên rõ ràng về phần những gì chúng ta nói có
nghĩa là “dữ liệu”.
Khi một con chó nghe cồng và lập tức đi vào phòng ăn, con chó
rõ ràng là, trong một ý hướng, đương thực hành sự suy luận. Đó là nói rằng,
phản ứng của nó thì phù hợp, không với tiếng ồn của chính cái cồng, nhưng với
gì mà tiếng ồn là một dấu hiệu của nó: phản ứng của nó về yếu tính là tương tự
như những phản ứng của chúng ta với những lời nói. Một con vật có đặc tính, khi
hai tác nhân kích thích được thí nghiệm cùng nhau, một cái có xu hướng gọi ra
phản ứng vốn chỉ cái kia trước đây có thể gọi ra. Nếu tác nhân kích thích (hoặc
một trong số chúng) là xúc cảm mạnh mẽ, một thí nghiệm kết nối có thể là đủ,
nếu không, có thể phải đòi hỏi nhiều thí nghiệm kết nối. Đặc điểm này thì hoàn
toàn vắng mặt trong những bộ máy. Giả sử, lấy thí dụ, rằng trong một năm, mỗi
ngày bạn đều đi đến một máy (bán bánh kẹo) tự động nhất định nào đó, và quẹt
một que diêm ở đằng trước nó, khi cùng lúc bạn gài vào (khe nhận tiền) một đồng
tiền xu -, nó sẽ không, cuối cùng, có bất kỳ một xu hướng nào để thả ra thỏi
sô-cô-la của nó khi chỉ đơn thuần có cảnh tượng một que diêm bật cháy. Đó là để
nói, máy móc không biểu lộ suy luận ngay cả trong hình thức trong đó nó chỉ đơn
thuần là một đặc tính của hành vi. Suy luận phơi bày rõ ràng, giống như của con
người thực hành, là một hợp lý hoá của hành vi mà chúng ta chia sẻ với những
động vật. Sau khi có kinh nghiệm A và B cùng với nhau thường xuyên, bây giờ
chúng ta phản ứng với A như chúng ta ban đầu đã phản ứng với B. Để làm điều này
có vẻ hợp lý, chúng ta nói rằng A là một “dấu hiệu” của B, và rằng B đã phải
thực sự có mặt mặc dù (không thấy vì) ra khỏi tầm nhìn. Đây là nguyên lý của
qui nạp, hầu như tất cả khoa học đặt nền trên nó. Và một khối lượng lớn của
triết học là một nỗ lực để làm nguyên lý được xem là hợp lý.
Bất cứ khi nào, do thừa hưởng kinh nghiệm trong quá khứ,
chúng ta phản ứng với A theo cách thức mà trong đó chúng ta nguyên thủy đã phản
ứng với B, chúng ta có thể nói rằng A là một “dữ liệu” và B thì được “suy ra”.
Trong ý hướng này, loài vật thực hành suy luận. Rõ ràng, cũng vậy, rằng nhiều
suy luận thuộc loại này là ngụy lý, ảo tưởng: sự kết hợp của A và B trong kinh
nghiệm quá khứ có thể là tình cờ. Những gì còn thiếu rõ ràng là có bất kỳ cách
nào để tinh luyện loại này của suy luận mà sẽ làm cho nó hợp lệ. Đó, tuy nhiên,
là một câu hỏi chúng ta sẽ xem xét sau. Những gì tôi muốn xem xét bây giờ là
bản chất của những yếu tố đó trong kinh nghiệm của chúng ta, với một hồi tưởng
phân tích, chúng xuất hiện như “dữ liệu” trong ý nghĩa được xác định trên.
Dữ liệu não thức và vật
chất.
Theo truyền thống, có hai loại dữ liệu, một vật chất, có nguồn
gốc từ những giác quan, một kia não thức, xuất phát từ tự xem xét ý tưởng và
cảm xúc bên trong. Điều có vẻ như rất đáng đặt câu hỏi liệu sự phân biệt này có
thể được thực hiện một cách hợp lệ trong số những dữ liệu, có vẻ như là thuộc
về những gì được suy ra từ chúng. Giả sử, vì mục đích xác định, rằng bạn đang
nhìn một hình tam giác màu trắng vẽ trên một bảng đen. Bạn có thể làm cả hai
phán đoán: “có một tam giác ở đó”, và “tôi thấy một tam giác”. Đây là những
mệnh đề khác nhau, nhưng cả hai diễn tả một dữ liệu xuông, dữ liệu xuông có vẻ
là như nhau trong cả hai mệnh đề. Để minh họa sự khác biệt của những mệnh đề: bạn có thể nói “có một tam
giác ở đó”, nếu như bạn đã thấy nó một khoảnh khắc trước đây, nhưng bây giờ mắt
bạn đã nhắm, và trong trường hợp này, bạn sẽ không nói “tôi thấy một tam giác”;
Mặt khác, bạn có thể thấy một chấm đen mà bạn biết là do ăn uống khó tiêu hoặc
mệt mỏi, và trong trường hợp này, bạn sẽ không nói “có một chấm đen ở đó.”
Trong trường hợp đầu tiên của những trường hợp này, bạn có một trường hợp rõ
ràng của suy luận, không của một dữ liệu.
Trong trường hợp thứ hai, bạn từ chối để suy ra một đối tượng
công cộng, mở ra cho quan sát của những người khác. Điều này cho thấy rằng:
“tôi thấy một tam giác” đi đến gần hơn để là một dữ liệu, hơn là “có một tam
giác ở đó”. Nhưng nhữ lời nói “tôi” và “nhìn thấy” cả hai đều liên quan đến
những suy luận, và không thể được bao gồm trong bất kỳ hình thức nào của lời
nói có mục đích để diễn tả một dữ liệu xuông. Từ “tôi” rút ra ý nghĩa của nó, một
phần, từ ký ức và kỳ vọng, vì tôi không hiện hữu chỉ tại một thời điểm. Và
“nhìn thấy” là một lời nói theo quan hệ nhân quả, gợi ý cho thấy sự phụ thuộc
vào mắt, điều này liên quan đến kinh nghiệm, bởi vì một em bé sơ sinh không
biết rằng những gì nó thấy tùy thuộc vào mắt của nó. Tuy nhiên, chúng ta có thể
loại bỏ sự phụ thuộc này trên kinh nghiệm, vì rõ ràng là tất cả những đối tượng
nhìn thấy có một phẩm tính chung, không thuộc thính giác hoặc xúc giác hoặc bất
kỳ những đối tượng khác. Chúng ta hãy gọi phẩm tính này là “thị giác”. Sau đó,
chúng ta có thể nói: “có một tam giác thị giác”. Điều này thì gần khoảng đến
mức như chúng ta có thể nhận được từ lời nói với dữ liệu cho cả hai mệnh đề: “có một tam giác ở đó”, và
“tôi thấy một tam giác”. Sự khác biệt giữa những mệnh đề là kết quả từ những suy luận khác nhau: trong lần
thứ nhất, đối với thế giới công cộng của vật lý, liên quan đến nhận thức của
những người khác, trong lần thứ hai, đối với toàn bộ kinh nghiệm của tôi, trong
đó tam giác thị giác là một yếu tố. Sự khác biệt giữa tính vật chất và tính não
thức, do đó, sẽ có vẻ như thuộc về những suy luận và những xây dựng, không với
những dữ liệu.
Như vậy, điều có vẻ rằng dữ liệu, trong ý nghĩa mà chúng ta
đang sử dụng từ ngữ, bao gồm những biến cố ngắn gọn, làm nổi lên trong chúng ta những phản ứng khác
nhau, một số trong chúng có thể được gọi là “suy luận”, hoặc ít nhất là có thể
nói cho thấy sự hiện diện của suy luận. Việc tổ chức hai hai lớp của những biến
cố này, một mặt là thành phần của thế giới công cộng vật lý, mặt khác như những
bộ phận của một kinh nghiệm cá nhân, thuộc về những gì là suy ra, không phải
những gì được đưa ra. Đối với lý thuyết về kiến thức, những câu
hỏi về tính hợp lệ của suy luận là rất quan trọng. Thật không may, không gì là
rất thỏa đáng có thể nói được về nó, và những thảo luận cẩn thận nhất đã từng
là hoài nghi nhất. Tuy nhiên, chúng ta hãy xem xét vấn đề với không định kiến.
III. Những phương pháp suy
luận
Là theo tập quán để phân biệt hai loại suy luận, Diễn dịch và
Qui nạp. Diễn dịch rõ ràng là có tầm quan trọng thực tiễn rất lớn, vì nó ôm trọn toàn bộ ngành toán học. Nhưng nó
có thể bị nghi vấn, trong bất kỳ ý hướng chặt chẽ nào, liệu nó tất cả có là một
hình thức của suy luận hay không. Một diễn dịch thuần khiết gồm chỉ đơn thuần
là nói cùng một điều theo một cách khác [5]
. Áp dụng với một trường hợp cụ thể có thể có tầm quan trọng, bởi vì chúng ta
mang vào kinh nghiệm rằng có một trường hợp loại như thế – lấy thí dụ, khi
chúng ta suy luận rằng Socrates thì cũng chết bởi vì tất cả mọi người ai cũng
chết. Nhưng trong trường hợp này, chúng ta đã mang vào một mảnh kinh nghiệm
mới, không bao gồm trong trong lược đồ suy luận trừu tượng. Trong diễn dịch
thuần khiết, chúng ta đối phó với x
và y, không phải với những đối tượng kinh
nghiệm như Socrates và Plato. Tuy nhiên dù điều này có thể là gì, diễn dịch
thuần khiết không nêu lên những vấn đề vốn thuộc mức quan trọng nhất cho lý
thuyết về kiến thức, và do đó chúng ta có
thể bỏ qua nó.
Qui Nạp.
Những hình thức quan trọng của suy luận cho lý thuyết về kiến
thức là những hình thức
trong đó chúng ta suy ra sự hiện hữu của một gì đó có những đặc điểm nhất định
nào đó từ sự hiện hữu của một gì đó có những đặc điểm khác nhất định nào đó.
Lấy thí dụ: bạn đọc tin trong báo rằng một người nổi tiếng nào đó thì chết, và
bạn suy luận rằng ông đã chết. Đôi khi, tất nhiên, sự suy luận thì sai lầm. Tôi
đã đọc những tin nói về cái chết của tôi trên báo, nhưng tôi tránh để không suy
luận rằng tôi đã là một hồn ma [6].
Trong tổng quát, tuy nhiên, những suy luận như vậy là thiết yếu cho sự tiến
hành của đời sống. Hãy tưởng tượng đời sống của một người hoài nghi là người
nghi ngờ sự chính xác của danh bạ điện thoại, hoặc, hay khi ông nhận được một
lá thư, cân nhắc nghiêm trang rằng có thể xảy ra trường hợp là những dấu mực
đen có thể đã do một con ruồi dính mực bò qua mặt giấy vô tình làm nên. Chúng
ta phải chấp nhận kiến thức đơn thuần chỉ có thể xảy
ra được trong cuộc sống hàng ngày, và lý thuyết về kiến thức phải giúp
chúng ta quyết định khi nào nó thực sự là có thể xảy ra, và không phải chỉ đơn
thuần là định kiến của loài vật.
Xác suất.
Đến nay khảo luận đầy đủ nhất về loại suy luận chúng ta đang
xem xét được lấy từ Luận thuyết về Xác
xuất (1921) của J. M. Keynes [7].
Công trình của ông so với của những người đi trước thì quá siêu việt, khiến nó
làm việc xem xét chúng thành không cần thiết. Ông Keynes xem xét cho rằng phép
qui nạp và phép loại suy là tương tự nhau, và xem như phép sau là cơ sở của
phép trước. Bản chất bóc trần của một suy luận bằng loại suy thì như sau: Chúng
ta đã tìm thấy một số những trường hợp cá biệt trong đó có hai đặc điểm được
kết hợp, và không có những trường hợp cá biệt nào, trong đó chúng không kết
hợp; chúng ta tìm thấy một trường hợp cá biệt mới, trong đó chúng ta biết rằng
một của những đặc điểm thì có mặt, nhưng không biết liệu đặc điểm kia thì có
mặt hay không, chúng ta biện luận bằng loại suy, xác xuất rằng đặc điểm kia thì cũng có mặt. Mức độ xác suất mà
chúng ta suy ra sẽ thay đổi tùy theo những hoàn cảnh khác nhau. Là điều không
thể phủ nhận rằng chúng ta làm những suy luận như vậy, và cả khoa học cũng như
cuộc sống hàng ngày sẽ không thể nào thành có thể với không có chúng. Câu hỏi
cho nhà lôgích là về phần tính hợp lệ của chúng. Có phải chúng luôn luôn là hợp
lệ, không bao giờ, hoặc đôi khi? Và trong trường hợp cuối cùng, khi nào chúng
ta có thể quyết định chúng có giá trị?
Giới hạn của tính bất đồng.
Ông Keynes cho rằng chỉ đơn thuần gia tăng số lượng những
trường hợp cá biệt, trong đó hai tính chất cùng được tìm thấy với nhau, thì không
làm gì nhiều để tăng cường khả năng chúng cùng được tìm thấy với nhau trong những
trường hợp cá biệt khác. Điểm quan trọng, theo ông, là trong những trường hợp
được biết, những trường hợp cá biệt nên có ít những phẩm tính khác chung với
nhau đến mức có thể được. Nhưng thậm chí sau đó một giả định nữa là cần thiết, nó
được gọi là nguyên lý về giới hạn của tính chất bất đồng. Giả định này được phát
biểu như sau: “Rằng những đối tượng trong phạm vi này, trên đó những khái quát hóa
của chúng ta mở rộng, không có một số lượng vô hạn của những phẩm tính độc lập;
đó là, nói cách khác, những đặc điểm của chúng, cho dù rất nhiều, kết hợp lại,
dính liền nhau với nhau trong những nhóm kết nối không thay đổi, vốn là hữu hạn
trong số lượng”. Điều không phải là cần thiết để xem giả định này như chắc chắn, điều là đủ nếu có một vài xác
xuất hữu hạn trong thuận lợi cho nó.
Là điều không dễ để tìm được bất kỳ luận chứng nào thuận hay
chống lại một xác suất hữu hạn tiên nghiệm trong thuận lợi ủng hộ cho giới
hạn của tính bất đồng. Tuy nhiên, điều nên được quan sát, rằng một xác suất “hữu
hạn”, trong thuật ngữ của Keynes, có nghĩa là một xác suất lớn hơn so với một vài
xác suất đo lường được số lượng, thí dụ như xác suất của một đồng xu hiện ra “ngửa”
trong một triệu lần tung. Khi điều này được thực hiện, giả định chắc chắn có vẻ
hợp lý. Luận chứng mạnh nhất ở phía thái độ hoài nghi là rằng cả hai, người và
vật, đều bị liên tục dẫn đến những tin tưởng (trong nghĩa hành vi), được gây ra
bởi những gì có thể được gọi là những qui nạp không hợp lệ, điều này xảy ra bất
cứ khi nào một vài sắp xếp thứ tự ngẫu nhiên đã tạo ra một liên kết không trong
phù hợp với bất kỳ một luật nào khách quan. Tiến sĩ Watson [8]
làm một trẻ sơ sinh bị sợ hãi những con chuột trắng bằng cách đánh một cái chiêng
ở phía sau đầu của nó tại thời điểm đưa ra cho nó thấy một con chuột trắng (thuyết hành
vi). Nhìn chung toàn bộ, tuy nhiên, những sắp xếp thứ tự ngẫu nhiên thường
sẽ có khuynh hướng là khác biệt với những người khác nhau, và do đó những qui
nạp trong đó người ta đồng ý có một cơ may lớn là có tư cách hợp lệ. Qui nạp khoa
học hay những suy luận loại suy, trong những trường hợp tốt nhất, có thể được giả định là có một mức độ
cao của xác suất, nếu nguyên tắc trên về giới hạn của tính bất đồng là đúng,
hay có thể hữu hạn. Kết quả này không là quá xác định như chúng ta có thể mong muốn,
nhưng nó là ít nhất là đáng ưa thích so với chủ nghĩa hoài nghi hoàn toàn của Hume.
Và nó không thu nhận được, như trả lời của Kant với Hume, bằng một triết lý sắp đặt đặc biệt, nó tiến hành trên những
đường bình thường của phương pháp khoa học.
Những mức độ của chắc chắn.
Bertrand Russell
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Apr/2013)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Apr/2013)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Xem Bertrand Russell, Những Vấn đề của Triết học (The Problems of Philosophy) bản dịch LDB.
[2] Epistemology: Tri
Thức học, ngành học về bản chất, nguồn gốc và những giới hạn của kiến
thức con người (nature, sources and limits of knowledge). Trả lời những câu hỏi
sau: “Chúng ta có thể biết được những gì? – Chúng ta có thể chắc chắn được
những gì? – Như thế nào chúng ta có thể vượt quá những gì chỉ đơn thuần là ý
kiến để đi đến được hiểu biết – để thật sự có kiến thức?”
Thuật ngữ có gốc Greek: epistēmē
(“tri thức”) và logos (“lý trí”), và theo đó tôi nghĩ nên gọi là Lý
thuyết về Tri Thức (the theory of knowledge), như Russell dùng trên
đây – và như thế dễ hiểu và sát với nội dung hơn từ “tri thức luận”, hay “nhận
thức luận” vẫn thường dùng trước đây. Lý thuyết về Tri Thức có một lịch
sử dài, ở phương Tây, đã bắt đầu trong triết học cổ Hylạp và tiếp tục phát
triển tới ngày nay, là một trong bốn ngành chính của triết học (cùng với Siêu
hình, Lôgích và Đạo đức), và hầu như tất cả những triết gia lớn đều có đóng góp
vảo ngành học này, có hai trường phái chính là: Duy nghiệm (Empiricism) và Duy
Lý (Rationalism); như tên gọi – đai diện cho hai lập trường chính về nguồn gốc
của tri thức con người: kinh nghiệm giác quan hay suy luận lý trí – mỗi trường
phái nhấn mạnh vào sự quan trọng của một trong hai nguồn này (kiến thức đến từ
đâu? nguồn nào đáng tin hơn và đóng vai quyết định?)
[3] behaviourism: trường phái
Tâm lý học, chủ trương rằng hành vi của con người và động vật có thể giải thích
chỉ bằng điều kiện tác động (phản ừng điều kiện) mà không phải dùng đến tư
tưởng hay cảm xúc như những nguyên nhân giải thích; đưa đến chủ trương những
rối loạn tâm sinh lý (một chức năng của cơ thể) thì tốt nhất là chữa trị bằng
cách thay đổi những mô thức hành vi ứng xử (behavior patterns).
[4] "Old Mother Hubbard" tên một bài đồng dao (nursery rhyme)
tiếng Anh rất phổ thông, bốn câu đầu như sau: “Mẹ già Hubbard đi vào tủ bếp,
định cho con chó miếng xương, lúc bà đến đó, ngăn tủ trống trơn, và con chó
đáng thương không có miếng xương”
[5] tautology
[6] Một lần, đi thăm và khi đương ở nước Tàu, Russell bị bệnh nặng; một
tờ báo Mỹ (Evening Bulletin,
Philadelphia) vội vàng đã nhầm lẫn loan tin ông chết, tháng Mar/1921.
[7] John Maynard Keynes (1883 - 1946): người Anh, kinh tế gia lỗi lạc,
lý thuyết của ông có ảnh hưởng lớn rộng nhất trong thể kỷ 20, một rường phái
kinh tế mang tên ông.
[8] John B. Watson
(1878-1925), nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ; đã thực hiện một thí nghiệm có
ảnh hưởng quan trọng và quyết định nhất trong nghiên cứu tâm lý vào năm 1920. Các nhà tâm lý học và sinh viên
ngành tâm lý học đều biết nghiên cứu này mang tên em “bé Albert”. Nó nổi tiếng
vì là một nghiên cứu đánh dấu mốc, mở ra một bước rẽ quan trọng: Watson đã có
thể cho thấy rằng những phản ứng chúng ta gọi là “tình cảm” là những hành vi
được điều kiện hóa, hoặc được học tập.
Trước đó, nhà sinh lý học
người Nga Ivan Pavlov đã tiến hành thí nghiệm chứng minh tiến trình phản ứng có
điều kiện ở loài chó. Watson đã quan tâm vào việc đưa nghiên cứu của Pavlov xa
hơn nữa để cho thấy rằng phản ứng trong cảm xúc con người cũng có thể được xem
là phản ứng có điều kiện cổ điển của Pavlov. Người tham gia trong thử nghiệm
này là một đứa trẻ ngày nay được biết là đưa bé, tuổi chưa đầy năm, mới chín
tháng, tên là “bé Albert”. Watson và người trợ tá, bà Rayner, cho em bé tiếp
xúc với một loạt các kích thích, gồm một con chuột trắng, một con thỏ, một con
khỉ, những mặt nạ và giấy báo đốt cháy, và quan sát phản ứng của em. Em bé ban
đầu cho thấy không có sự sợ hãi nào với bất kỳ các đối tượng đã kể. Thời gian
kế tiếp, Albert được cho tiếp xúc với một con chuột, Watson đã gây một tiếng
động lớn bằng cách lấy một cái búa gõ vào một ống kim loại. Đương nhiên, đứa
trẻ bắt đầu khóc sau khi nghe tiếng động lớn. Sau nhiều lần ghép nối chuột màu
trắng với tiếng ồn lớn, Albert bắt đầu sợ khóc khi chỉ đơn giản nhìn thấy con
chuột.
Khám phá này vẫn còn ứng
dụng rộng rãi ngày nay – thí dụ trong nghệ thuật quảng cáo – liên kết món hàng
muốn bán – với một gì đó biết chắc khách hàng đã biết và ưa thích – sẽ đưa đến
tâm lý khách hàng có thể chọn lựa như cũng ưa thích món hàng muốn bán. Liên kết
này chỉ đơn giản bằng cách đặt cả hai cạnh nhau trong một quảng cáo, lập đi lập
lại nhiều lần – thí dụ, một
món ăn, một kiểu xe, một mẫu áo – cạnh một tài tử xinê, hay người chơi thể thao
nổi tiếng, đã biết được nhiều người ưa thích.