Buổi Chạng
vạng của những Tượng thần
Friedrich
Nietzsche
(Twilight of
the Idols)
Götzen-Dämmerung, oder, Wie man mit dem Hammer philosophirt (1888)
“LÝ TRÍ” TRONG TRIẾT
HỌC
1
Bạn hỏi tôi, trong những triết gia những nét
nào của họ, thực sự là đặc tính khí chất nhất? Lấy thí dụ, sự thiếu vắng về ý
hướng lịch sử của họ, sự oán ghét của họ về chính ý tưởng của sự
đương-trở-thành, chủ nghĩa ướp xác kiểu Aicập [1] của họ. Họ nghĩ rằng họ biểu hiện sự tôn trọng
của họ đối với một đối tượng khi họ hủy-sử -tính của nó, nhìn từ quan
điểm vĩnh cửu [2] – khi họ chuyển nó vào trong một xác
ướp. Tất cả những triết gia đó nghiên cứu đã hàng ngàn năm là những
xác-ướp-khái niệm, không có gì có-thực đã thoát khỏi nắm bắt của họ mà còn
sống. Khi những ông chúa chuyên sùng bái những khái niệm này đi đến tôn thờ một
gì đó, họ giết nó và nhồi xác nó, họ đe dọa sự sống của tất cả mọi thứ họ thờ
phượng. Cái chết, thay đổi, tuổi già, cũng như sinh sản và tăng trưởng, là
những phản đối của não thức của họ, thậm chí những phủ nhận, bác bỏ. Bất cứ gì
đã là hữu thể không trở-thành, bất cứ gì trở-thành không là hữu thể. Bây giờ tất
cả họ đều tin, ngay cả một cách tuyệt vọng, vào những gì là hữu thể. Nhưng bởi
vì họ không bao giờ nắm bắt được nó, họ tìm kiếm lý do tại sao nó bị giữ ở
ngoài, khỏi họ. “Phải có chỉ đơn thuần là những xuất hiện dạng ngoài, phải có
một vài lừa dối ngăn cản chúng ta không nhận thức được gì là hữu thể, (vậy) kẻ
lừa dối (trốn) ở chỗ nào?”.
“Chúng ta đã kiếm thấy
hắn”, họ kêu lớn ngất ngây; “đó là những giác quan! Những giác quan này,
chúng là quá chừng quá đỗi vô đạo đức trong những cách khác nữa, lừa dối chúng
ta về hướng thế giớithực. Đạo đức: hãy để chúng ta giải phóng mình khỏi
sự lừa dối của những giác quan, của sự-đương-trở-thành, của lịch sử, của những
gian dối, lịch sử thì không là gì, nhưng chỉ là niềm tin vào những giác quan,
niềm tin vào những gian dối. Đạo đức: hãy để chúng ta nói Không với tất cả
những ai là người có lòng tin vào những giác quan, nói với tất cả
phần còn lại của loài người, chúng tất cả là “đám hỗn tạp”. Chúng ta hãy là
những triết gia! Chúng ta hãy là những xác ướp. Chúng ta hãy đại diện thuyết
độc thần đơn điệu [3] bằng cách chấp nhận sự biểu hiện của một người đào mộ! Và trên tất
cả, bỏ quách thân xác đi, cái ý tưởng chết khô khốn khổ này về
những giác quan, bị tất cả những ngụy biện của lôgích làm méo hình mất dạng
không còn hình thù, bị bác bỏ, thậm chí không thể được, mặc dù là điều đủ trâng
tráo để hành xử như thể nó đã là thực!”.
2
Với sự tôn kính cao nhất, tôi chừa ra tên của Heraclitus
. Khi đám còn lại của dân triết học bác bỏ lời khai của những giác quan,
vì chúng cho thấy sự đa dạng và sự thay đổi, ông bác bỏ lời khai của chúng vì
chúng đã cho thấy những sự-vật, như chúng có sự thường hằng và thống
nhất. Heraclitus cũng đã bất công với những giác quan. Chúng
không nói dối trong cách những triết gia Eleatics [4]
đã tin, cũng không như cách Heraclitus đã tin [5] –
chúng không nói dối gì hết tất cả. Những gì chúng ta làm nên từ
lời khai của chúng, chỉ mình điều đó đưa vào giới thiệu những nói dối, lấy thí
dụ, nói dối về sự thống nhất, nói dối về sự đối tượng hóa, chức năng sự vật [6],
về thực thể, về sự thường hằng. “Lý trí” là nguyên nhân của sự xuyên tạc, bóp
méo của chúng ta về lời khai của những giác quan. Trong phạm vi những giác quan
cho thấy đương-trở-thành, qua-mất-đi, và thay đổi, chúng không nói dối. Nhưng
Heraclitus sẽ vẫn vĩnh viễn là đúng với khẳng định của ông rằng thực thể là một
hư cấu trống rỗng. Thế giới “hiển hiện” là thế giới độc nhất: thế giới “chân
thực” thì đơn thuần chỉ là đã cộng vào thêm một nói dối.
3
Và tuyệt vời xiết bao những dụng cụ của sự
quan sát chúng ta có trong những giác quan của chúng ta! Cái mũi này, lấy thí
dụ, với nó không có một triết gia nào đã từng nói đến với tôn kính và biết ơn,
thực sự là dụng cụ tinh tế nhất cho đến nay có trong quyền sử dụng của chúng
ta, nó có khả năng nhận biết những khác biệt tối thiểu của chuyển động mà thậm
chí một kính spectroscope không thể nhận biết. Ngày nay chúng
ta có khoa học đúng y đến mức độ mà chúng ta đã quyết định chấp nhận lời
khai của những giác quan – đến mức độ mà chúng ta mài dũa cho sắc nhọn hơn
nữa, trang bị chúng, và đã học được để suy nghĩ thông qua chúng. Những gì còn
lại là sẩy thai và chưa-là-khoa học. Nói cách khác – siêu hình học, thần
học, tâm lý học, tri thức học – hoặc khoa học hình thức, một
học thuyết của những dấu hiệu, như lôgích và lôgích ứng dụng được gọi là toán
học. Chúng, không có dính líu gì với thực tại tất cả, thậm chí còn không là một
vấn đề – chúng là cũng hoàn toàn xa vời với câu hỏi không biết liệu
một quy ước về những dấu hiệu giống như lôgích có bất kỳ giá trị nào hay không.
4
Đặc tính khí chất kia của những triết
gia khác thì cũng nguy hiểm không kém, nó gồm trong sự lẫn lộn cuối cùng với
đầu tiên. Họ đặt những gì đi đến sau cùng, – thật bất
hạnh! Bởi vì nó không nên xảy ra chút nào tất cả, cụ thể là, là
“những khái niệm tối cao”, có nghĩa là những khái niệm tổng quát nhất, trống
rỗng nhất, chút khói cuối cùng của thực tại bốc hơi, như sự
khởi đầu, là sự khởi đầu. Điều này, một lần nữa, là không gì
khác ngoài, nhưng là cách thể hiện sự tôn kính của họ: cái cao hơn có thể không
phát triển từ cái thấp hơn, có thể đã không phát triển gì hết tất cả. Đạo đức:
bất cứ điều gì ở thứ hạng đầu tiên phải là causa sui [7]. Có xuất xứ ra từ một gì khác thì bị xem như một phản
đối, một câu hỏi nghi ngờ về giá trị. Tất cả những giá trị cao nhất là đứng
hàng nhất, tất cả những khái niệm cao nhất, chúng thành cái Vô điều kiện, cái
Tốt, cái Thực, cái Toàn hảo – tất cả những điều này không thể
đã-trở-thành và do đó phải có nguyên nhân tự thân. Tất cả những
điều này, thêm nữa, không thể là không giống nhau hay mâu thuẫn với nhau. Như
thế, họ đi đến khái niệm kỳ diệu của họ, “Gót”. Như thế cái cuối cùng nhất,
mỏng nhất, và trống rỗng nhất được đặt lên trước tiên, như là cái nguyên
nhân, như là hữu thể chân thực nhất [8]. Tại sao loài người đã phải coi trọng những thần trí bệnh tật của
những kẻ dệt-lưới-nhện ốm đau? Họ đã phải trả giá thật đắt cho điều đó!
5
Đến cuối cùng sau quá dài, chúng ta hãy đặt
tương phản những cách thức rất khác biệt trong đó chúng ta nhận thức được vấn
đề của sai lầm và xuất hiện dạng ngoài. (Tôi nói “chúng ta” chỉ vì lịch sự).
Trước đây, sửa đổi, thay đổi, bất kỳ đương-trở-thành nào tất cả, đã được nhận
như bằng chứng của sự đơn thuần xuất hiện dạng ngoài, như một dấu hiệu chỉ định
rằng phải có một gì đó nó dẫn chúng ta lạc lối. Ngày nay, đảo ngược lại, đích
xác phạm vi như định kiến của lý trí buộc chúng ta thừa
nhận sự thống nhất, bản sắc, vĩnh cửu, thực thể, nguyên nhân, chức năng sự vật,
hữu thể, chúng ta nhìn thấy chính mình bằng cách nào đó bị vướng mắc vào sai lầm,
bị buộc phải sai lầm. Vì vậy, trên cơ sở của sự khảo sát nghiêm ngặt, chúng ta
quá chắc chắn rằng đây là chỗ có sai lầm nằm ở trong.
Trong trường hợp này, đó là không gì khác
biệt hơn như với sự chuyển động biểu kiến của mặt trời: ở đó mắt chúng ta là
người bào chữa mãi mãi không đổi cho sự sai lầm; ở đây nó là ngôn ngữ của chúng
ta. Trong nguồn gốc của nó, ngôn ngữ thuộc về thời đại của những hình thức của
tâm lý học thô thiển nhất. Chúng ta bước vào một vương quốc của chiều hướng
hành động gắn bó quá đáng đến vô lý với đối tượng [9] , khi chúng ta gọi đến trước ý thức, những những giả định
có-từ-trước, cơ bản của siêu hình học về ngôn ngữ, nói bằng lời đơn giản,
những đoán chừng sẵn-trước cơ bản của lý trí. Ở khắp nơi, nó nhìn thấy một
kẻ hành động và sự hành động, nó tin tưởng vào ý dục như là nguyên
nhân, nó tin tưởng vào ego, vào ego như là hữu thể, vào ego như là
thực thể, và nó phóng chiếu tin tưởng ego-thực
thể này lên tất cả mọi sự-vật-việc – duy chỉ theo cách đó mà nó quả thực
đầu tiên sáng tạo ra khái niệm về “sự-vật-việc”. Khắp mọi nơi “hữu thể” được ý
nghĩ phóng chiếu, đẩy xuống bên dưới, như là nguyên nhân; khái niệm về hữu thể
theo đến sau, và là một phái sinh, một đạo hàm, của khái niệm về ego.
Ban đầu, có thảm họa lớn đó của một sai lầm mà ý dục là một gì đó có hiệu quả,
rằng ý dục là một năng lực. Ngày nay chúng ta biết rằng nó chỉ là một từ. [10]
Về sau muộn hơn nhiều, trong một thế giới,
lúc ấy đó đã thấu hiểu nhiều hơn trong cả hàng nghìn đường lối, những triết
gia, hết sức ngạc nhiên, đã trở nên ý thức về tính chắc chắn, tính chắc chắn
chủ quan, trong sự luận giải của chúng ta về những hạng-loại của lý trí: họ đã
kết luận rằng những phạm trù này không thể có nguồn gốc từ bất cứ gì thường
nghiệm – bởi vì tất cả những gì thường nghiệm đều rõ ràng mâu thuẫn với chúng.
Thế nên, sau đó, chúng đã đến từ đâu?
Và ở Ấnđộ, cũng như ở Hylạp, đã thực hiện
cùng một sai lầm: “Chúng ta một lần đã phải có nhà ở trong một thế giới cao hơn
(thay vì ở một thế giới thấp, thấp hơn
rất nhiều, vốn thế có chăng mới là sự thật), chúng ta phải đã từng là siêu
phàm, vì chúng ta có lý trí!”. Quả thực, không gì đã từng có một sức mạnh ngây
thơ chất phác hơn nữa của sự thuyết phục so với sai lầm liên quan hữu thể, như
nó đã được, lấy thí dụ, những triết gia Eleatics đưa vào một công thức. Sau rốt
tất cả, mỗi chữ và mỗi câu chúng ta nói ra, nói lên đều đứng trong ủng hộ cho
nó. Ngay cả những đối thủ của phái Eleatics vẫn ngã gục trước sự quyến rũ của
khái niệm của hữu thể của họ: hãy kể Democritus, trong số những người khác, khi
ông phát minh ra (khía niệm) atom của
ông. “Lý trí” trong ngôn ngữ – Ôi, nó thật là một bà già giả trá biết chừng
nào! Tôi sợ rằng chúng ta không loại bỏ được Gót, vì chúng ta vẫn có vững tin
vào luật lệ ngôn ngữ.
6
Bạn sẽ hài lòng biết rằng tôi đang nén chặt lại một cái nhìn
sâu sắc mới lạ và chủ yếu vào thành bốn luận đề. Cách đó, tôi làm dễ dàng để
giúp mọi người hiểu nó và cách đó tôi thách thức một ai có thể chống nó.
Mệnh đề thứ nhất: những lý do mà
từ chúng, thế giới “này” đã được mô tả như là “biểu kiến” là chính những lý do
mà trong đó chỉ ra thực tại của nó; bất kỳ loại thực tại nào khác là tuyệt đối
không thể chứng minh được.
Mệnh đề thứ nhì: Những tiêu chuẩn
đã được ban cho “hữu thể thực” của sự vật là những tiêu chuẩn của phi-hữu thể,
của không-gì, “thế giới thực” đã được
xây dựng ra từ mâu thuẫn với thế giới thực: quả thực là một thế giới biểu kiến
bên ngoài, cho đến mức như nó chỉ đơn thuần là một ảo ảnh của quang học-đạo đức.
Mệnh đề thứ ba: Để phát minh ra
những ngụ ngôn về một thế giới “khác” hơn thế giới này là không có ý nghĩa gì
hết tất cả, trừ khi một bản năng của vu khống, gièm pha, và nghi ngờ chống lại đời
sống đã đạt được thế nắm tay trên trong chúng ta: trong trường hợp đó, chúng ta
trả thù chính chúng ta, chống lại đời sống với một ảo cảnh về một đời sống
“khác”, một đời sống “tốt hơn”.
Mệnh đề thứ tư: Bất kỳ phân biệt
nào giữa một thế giới “thực” và một thế giới “biểu kiến”, ngoại hiện – cho dù
là trong cách thức đạo Kitô hoặc theo cách thức của Kant (đến sau cùng, Kant là
một tên Kitô lén lút ám muội) – chỉ là một gợi ý của sự suy đồi, một triệu
chứng của sự sa sút của cuộc sống. Sự
kiện rằng những nghệ sĩ có biệt nhãn với dạng ngoài, biểu kiến hơn với thực
tại, thì không chống đối lại mện đề này.
Vì “dạng ngoài” trong trường hợp này, có nghĩa là thực tại lại một lần
nữa, chỉ bằng cách lựa chọn, củng cố, và sửa chữa. Những nghệ sĩ của bi kịch
thì không phải là kẻ bi quan: chàng chính là một trong những người nói-Có với
tất cả mọi thứ dù có câu hỏi nghi ngờ, thậm chí cả với sự khủng khiếp, chàng là
môt tín đồ của Dionysus, là một Dionysian.
[11]
Lịch sử của một Sai Lầm
1. Thế giới thực – có thể đạt được với người khôn ngoan,
ngoan đạo, đức hạnh, – ông sống trong đó, ông
ta là nó.
(Hình thức lâu đời nhất của ý tưởng, tương đối mạch lạc hợp
lý, đơn giản, và thuyết phục. Diễn giải lê thê dài dòng của mệnh đề “Ta, Plato,
là sự thật.”)
2. Thế giới thực – không thể đạt được lúc này, bây giờ; nhưng
được hứa hẹn với người khôn ngoan, ngoan đạo, đức hạnh (“với kẻ có tội người
biết ăn năn”).
(Tiến độ từ ý tưởng: nó trở nên mánh khóe hơn, tinh vi tế nhị
hơn, bớt phần có thể hiểu được hơn, – nó trở thành phụ nữ, nó trở
thành người Kitô.)
3. Thế giới thực – không thể đạt được, không thể chứng minh
được, không hứa hẹn được, nhưng chính suy tưởng về nó là một an ủi, một bổn
phận, một mệnh lệnh.
(Ở nền tảng là mặt trời cũ, nhưng nhìn qua sương mù và thuyết
hoài nghi. Ý tưởng đã trở nên khó nắm bắt, nhợt nhạt, có tính Bắc Âu, có tính người
Konigsberg [12].)
4. Thế giới thực – không thể đạt được? Dù với bất cứ mức nào,
không thể đạt được. Và vì không thể đạt được, cũng không-biết. Hệ quả là không an ủi, không cứu chuộc, cũng chẳng bắt
buộc; sao chúng ta có thể có bổn phận với một gì đó không rõ?
(Buổi sáng xám xịt. Ngáp dài đầu tiên của lý trí. Canh gà gáy sáng của chủ nghĩa thực
chứng [13])
5. Thế giới “thực” – một
ý tưởng mà nó là thôi không còn dùng vào việc gì nữa, ngay cả cũng không là một bổn phận, – bây giờ là
một ý tưởng đã thành vô dụng, thừa thãi không cần thiết; do đó, một ý tưởng bị bác bỏ: chúng ta
hãy xóa sạch nó đi!
(Ngày sáng; ăn sáng, trở lại với cảm thức tốt lành [14]
và sự vui tươi; Plato đỏ mặt trong bối rối xấu hổ; Cảnh nhốn nháo hỗn loạn [15]
của của tất cả những tinh thần tự do)
6. Thế giới thực thì đã qua mất rồi – Thế giới nào còn lại
đây? Một thế giới ảo tưởng, có lẽ chăng? … Nhưng thôi rồi! Không! Chúng
ta đã xóa bỏ thế giới ảo tưởng cùng với thế giới thực!
(Giữ Trưa, khoảnh khắc của bóng ngắn nhất; kết thúc của những
sai lầm dài nhất, cao điểm của loài người; BẮT ĐẦU Zarathustra [16].)
ĐẠO ĐỨC NHƯ
SỰ PHẢN-TỰ NHIÊN
1
Tất cả những đam mê có một
giai đoạn khi chúng chỉ đơn thuần là tai họa, khi chúng kéo nạn nhân của chúng
xuống với sức nặng của ngu xuẩn –
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
[1] Egypticism
[2] sub specie aeterni
[3] Từ ghép của
Nietzsche: monotono-theism
– khái niệm độc thần đơn điệu buồn nản, tẻ nhạt (đạo Juada, Kitô) – không giàu
có sinh động như đa thần (thí dụ Hylạp, Ấn giáo) – khái niệm này là khái niệm
lạc hậu, không phải tiến bộ như vẫn tưởng – và theo Freud, người ta đem Gót ra
“hoạn” để Gót thôi không còn có sinh dục, không sinh sản như mảnh đất cằn cỗi,
không trồng trọt gì được nữa.
[4] Trường phái
của Parnemides, người phủ nhận hiện thực của thực tại thay đổi
[5] Heraclitus –
Heraclitus of Ephesus (Ἡράκλειτος ὁ Ἐφέσιος — Hērákleitos ho
Ephésios; c. 535–c. 475 TCN ) triết gia HyLạp, thời trước-Socrate, sinh quán
thành Ephesus, xứ Ionia, vùng HyLạp trên bờ biển Tiểu Á (nay gần thành phố
Kusadasi, Turkey)
Heraclitus đã đưa ra một lý thuyết đặc
thù, ông phát biểu bằng ngôn ngữ sấm truyền. Ông nổi tiếng về các lý thuyết:
Tất cả luôn luôn thay đổi (universal flux), sự Hợp nhất những đối lập (unity of
opposites), và Lửa là vật chất cơ bản, xem như yếu tố nguyên thuỷ của thế giới
.
Xem thêm Bertrand Russell – Lịch
sử Triết học phương Tây, bản tạm
dịch của tôi.
[6] thinghood
[7] Latin trong nguyên văn “causa sui”: Tự-làm-nguyên
nhân cho chính mình. Nguyên nhân tự tại. Một gì đó là nguyên nhân cho chính nó
– thí dụ khái niệm Gót. Gót là nguyên nhân của Gót! Nietzsche mỉa
mai điều vô lý và mâu thuẫn này là sản phẩm của những đầu óc bệnh hoạn và những
kẻ sống trong bóng tối, yếu đuối, đau ốm.
[8] Latin trong
nguyên văn “ens realissimum”
[9] fetishism: ở đây chỉ có nghĩa là một chiều hướng hành động theo đó
con người còn kém hiểu biết và tự chủ đã có một sự gắn bó quá đáng đến vô lý với đối tượng quanh mình.
[10] Đọc thêm Nietzsche – Về Thực và Dối (Über
Wahrheit und Lüge im außermoralischen Sinne) bản
tôi tạm dịch trên blog này.
“Vậy thì, sự thật là gì? Một đạo quân di
động của những ẩn dụ, những hoán dụ và những nhân cách hóa: vắn tắt, một tổng
số của những quan hệ con người vốn đã từng được làm thêm sâu đậm, chuyển đổi và
tô điểm thêm đẹp, một cách thơ ca và tu từ hoa mỹ, và sau lâu dài sử dụng,
chúng xem dường với một dân tộc là đã cố định, tiêu chuẩn và ràng buộc. Những
sự thật là những ảo tưởng mà chúng ta đã quên là những ảo tưởng – chúng là những ẩn dụ vốn đã trở thành
mòn nhẵn không dùng được nữa và bị vắt ép kiệt hết sức gợi dục cảm, những đồng
tiền đã mất hình đắp nổi của chúng, và bây giờ được xem như miếng kim loại, và
thôi không như những đồng tiền.”
Nếu tôi không giữ từ ego, và cho ego = tự ngã, và cho ý dục (will) = ái dục; chúng ta có một lý thuyết rất Phật học. Ái dục đã tạo nên tự ngã và tự ngã đã nhìn
hiện tượng thành những thực thể, đưa đến nhận thức sai lầm về nhân quả. Nguyên
văn – đoạn có lẽ quan trọng nhất trong tập sách này:
[Die Sprache gehört ihrer Entstehung nach
in die Zeit der rudimentärsten Form von Psychologie: wir kommen in ein grobes
Fetischwesen hinein, wenn wir uns die Grundvoraussetzungen der
Sprach-Metaphysik, auf deutsch: der Vernunft, zum Bewusstsein bringen. Das
sieht überall Thäter und Thun: das glaubt an Willen als Ursache überhaupt; das
glaubt an’s „Ich“, an’s Ich als Sein, an’s Ich als Substanz und projicirt den
Glauben an die Ich-Substanz auf alle Dinge — es schafft erst damit den Begriff
„Ding“… Das Sein wird überall als Ursache hineingedacht, untergeschoben; aus
der Conception „Ich“ folgt erst, als abgeleitet, der Begriff „Sein”… ]
Tạm dịch – đơn giản bằng tiếng Việt:
[Ngôn ngữ có phần của sự phát triển của nó theo
thời gian thuộc hình thức thô sơ nhất của tâm lý học: chúng ta đi vào một bản
chất tôn sùng đối-vật thô sơ, nếu chúng ta nhìn vào những yêu cầu cơ bản của
siêu hình học về ngôn ngữ, nói đơn giản bằng tiếng Đức, mang đến cho lý trí (Vernunft),
cho ý thức. Điều này nhìn thấy khắp mọi nơi có tác nhân và tác
động. Thế nên trong tổng quát tin vào ý dục (Willen) như nguyên
nhân, tin vào một “cái ta” (Ich) của một người, tin
vào “cái ta” như hữu thể (Ich als Sein), tin vào tự ngã
như thực thể (Ich als Substanz), và phóng chiếu niềm tin tự ngã-thực thể
(Ich-Substanz) đó trên mọi sự-vật-việc – nó sáng tạo ra khái niệm “sự-vật-việc” (Dinge) ...
Hữu thể (Das Sein) ở khắp nơi thành ra được nghĩ là nguyên
nhân, gán ép vào, chỉ đến sau đó, “hữu thể” đã rút ra từ khái niệm “cái ta” (Ich)]
[11] Tính Apollo (Apollonian) và tính Dionysus (Dionysian) là những thuật ngữ của
Nietzsche sử dụng trong The Birth of
Tragedy để chỉ hai nguyên lý, theo ông là cốt lõi của văn hóa Hylạp. Apollonian, tương ứng với nguyên lý cá nhân hóa (principium individuationis) là cơ sở của
tất cả những phân biệt đến từ phân tích. Tất cả điều gì nếu là phần của cá nhân
độc đáo của con người hay của một sự vật là có tính chất Apollo trong nhân vật,
tất cả các loại hình thức, hoặc cấu trúc là có tính Apollo, vì hình thức dùng
để xác định hoặc cá nhân hóa những gì được nó cấu thành, do đó trong nghệ
thuật, tác phẩm điêu khắc là có tính Apollo nhất, vì nó hoàn toàn dựa trên hình
thức để mang đến mỹ cảm. Suy nghĩ hợp lý trí cũng là Apollonian vì nó được cấu trúc và đem cho phân tích về khác biệt.
Tính Dionysus, có thể xem tương ứng với khái niệm ý dục, trực tiếp đối nghịch với
Apollonian. Say rượu và như-điên-dại
là Dionysian vì nó phá vỡ nhân cách cá nhân của một con người, tất cả
những hình thức của nhiệt tình và mê đắm, ngất ngây, trạng thái xuất thần, thi
tứ dạt dào là Dionysian, vì trong trạng thái như vậy con người từ bỏ cá tính
của mình, phá vỡ những rào cản nội tâm,
và dìm mình chìm vào trong một tổng thể lớn hơn: Âm nhạc là có tính Dionysian nhất trong nghệ thuật, vì nó
kêu gọi trực tiếp đến bản năng, cảm xúc buông thả, xúc cảm hỗn loạn của con người, nhưng không với lý trí,
không với dạng thức lý luận
Nietzsche cho rằng cả hai sức mạnh trên đều hiện diện trong
những bi kịch Hylạp, và bi kịch thực sự chỉ có thể được sáng tạo bằng biểu hiện
sự căng thẳng giữa chúng. Ông dùng Apollonian
và Dionysian để gọi tên hai năng lực
này; vì Apollo, là gót mặt trời, tượng trưng cho ánh sáng, rõ ràng, lý trí và
hình thức, trong khi Dionysus, là gót rượu, đại diện cho đam mê, say đắm, phi
hình thức, phá khuôn khổ, cho ngất ngây, buông thả.
[12] Konigsberg:
thành phố bắc Âu, trên biển Baltic; trước thuộc Đức, nay thuộc Nga, nơi Kant
sống,
[13] Positivism
[14] Tiếng Pháp trong
nguyên văn: “bon sens”
[15] Latin trong
nguyên văn “pandemonium”
[16] Latin trong
nguyên văn “INCIPIT Zarathustra” – INCIPIT chỉ có nghĩa là bắt đầu, nhưng vẫn tính cách kinh điển, nghiêm trọng, linh
thiêng.