Ngôn ngữ và Não Thức
(Language and Mind)
Noam Chomsky
5
Bản chất cấu trúc và qui luật
của ngôn ngữ
(tiếp theo)
Cấu Trúc Của Thành Phần Cú
Pháp
Thành phần cú pháp của một ngữ
pháp phải phát sinh (xem chú thích 12) những cặp (D, S), trong đó D là một cấu trúc sâu và S là cấu trúc ngoài mặt liên kết.
Cấu trúc ngoài mặt S là một dấu ngoặc vuông có dán nhãn của một chuỗi của những
dạng thức và những mối nối liên kết. Cấu trúc sâu D là một dấu ngoặc vuông có
dán nhãn phân loại ngữ pháp xác định một mạng lưới chức năng ngữ pháp nhất định
và những quan hệ ngữ pháp giữa những phần tử và nhóm phần tử vốn nó cấu thành.
Rõ ràng, thành phần cú pháp phải có một số hữu hạn của những quy
luật (hay lược đồ quy luật), nhưng chúng phải được tổ chức sao cho có thể phát
sinh một số vô hạn của những cặp (D, S) của những cấu trúc ngoài mặt và cấu
trúc sâu, mỗi cặp tương ứng với mỗi câu được diễn giải. (nghĩa là được giải
thích về phương diện ngữ âm và ngữ nghĩa) của ngôn ngữ. [1]
Trên nguyên tắc, có nhiều cách khác nhau để tổ chức một hệ thống như vậy. Thí
dụ, nó có thể gồm những quy luật độc lập tạo ra những cấu trúc ngoài mặt và sâu
và những điều kiện tương hợp nhất định liên quan với chúng hay những quy luật
tạo ra những cấu trúc ngoài mặt kết hợp với những quy luật ánh xạ chúng vào cấu
trúc sâu liên quan hay những quy luật tạo ra những cấu trúc sâu kết hợp với ánh
xạ quy luật chúng thành những cấu trúc ngoài mặt.[2]
Sự lựa chọn đúng trong số những phương án thay thế này tùy thuộc vào bằng chứng
khách quan và những thuộc tính thực sự của ngôn ngữ, không vào sở thích cá nhân
hay những quyết định tùy tiện. Chúng ta phải hỏi lựa chọn thay thế nào có thể
thực hiện được những khái quát hóa sâu xa nhất và giải thích sâu rộng nhất của những
loại hiện tượng ngôn ngữ thuộc nhiều loại khác nhau. Giống như những phương diện khác của ngữ pháp phổ
quát, ở đây chúng ta đang giải quyết một tập hợp những câu hỏi thực nghiệm; Có
thể khó thu được bằng chứng quan trọng, nhưng từ đó chúng ta không thể kết luận
rằng, trên nguyên tắc, không có đúng sai trong vấn đề này.
Trong số nhiều lựa chọn thay
thế có thể được đưa lên, bằng chứng ngôn ngữ hiện có dường như chỉ ra một cách
nhất quán kết luận rằng thành phần cú pháp bao gồm những quy luật tạo ra những cấu
trúc sâu kết hợp với những quy tắc ánh xạ chúng vào những cấu trúc ngoài mặt
liên kết. Chúng ta hãy gọi hai hệ thống của những quy luật này lần lượt là
thành phần cơ bản và thành phần chuyển đổi của của cú pháp. Hệ thống cơ bản
được chia thành hai phần: hệ thống phân loại và từ vựng. Mỗi một của ba phần
con này của cú pháp này đều có một chức năng cụ thể để thực hiện và dường như
có những ràng buộc phổ quát nghiêm ngặt xác định dạng thức và tương quan của
chúng. Khi đó, cấu trúc tổng quát của một ngữ pháp sẽ được mô tả như trong lược
đồ 13:
13
Việc ánh xạ S được thực hiện
bởi thành phần ngữ nghĩa; T bởi thành phần biến đổi; và P bởi thành phần âm vị.
Việc tạo ra những cấu trúc sâu bằng hệ thống cơ bản (bằng phép biến đổi cú pháp
B) được xác định bởi hệ thống phân loại và từ vựng.
Từ vựng là một tập hợp gồm những
đơn vị thông tin từ vựng [3];
lần lượt, mỗi đơn vị thông tin từ vựng có thể được xem như một tập hợp của những
đặc điểm thuộc nhiều loại khác nhau. Trong số này có những đặc điểm về âm vị và
những đặc điểm về ngữ nghĩa vốn chúng ta đã nhắc đến vắn tắt. Những đặc điểm về
âm vị có thể được nghĩ như được
lập chỉ mục theo vị trí (nghĩa là thứ nhất, thứ hai, v.v.); ngoài điều này ra,
mỗi đặc điểm về âm vị chỉ đơn giản là một dấu hiệu đánh dấu với một trong những
đặc điểm phân biệt phổ quát (được xem xét ở đây trong chức năng phân loại của
chúng) hay với một số đặc điểm phụ (xem trang 114), trong trường hợp bất thường.
Thế nên, những đặc điểm âm vị được lập chỉ mục theo vị trí tạo thành một ma
trận đặc điểm phân biệt với những đơn vị thông tin đem cho dưới dạng những giá
trị + hay –, như đã mô tả ở trước. Những đặc điểm ngữ nghĩa dựng thành một “định
nghĩa về từ điển” [4].
Như đã lưu ý trước đây, một số chúng ít nhất phải khá trừu tượng; hơn nữa, có
thể có nhiều loại kết nối nội tại khác nhau giữa chúng vốn đôi khi được gọi là “cấu
trúc trường” [5].
Ngoài ra, đơn vị thông tin từ vựng chứa những đặc điểm cú pháp xác định vị trí trong
đó đơn vị thông tin nhắc đến có thể xuất hiện, và những quy luật có thể áp dụng
cho những cấu trúc chứa nó khi chúng được chuyển đổi thành những cấu trúc ngoài
mặt. Trong tổng quát, đơn vị thông tin từ vựng chứa tất cả thông tin về đơn vị
được nhắc đến vốn không thể giải thích được theo quy luật tổng quát.
(Aug/2024)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] [Trong thực
tế, chúng ta có thể coi một ngữ pháp như như gán một diễn giải ngữ nghĩa cho
tất cả những câu có thể có (đây là một khái niệm rõ ràng, đưa ra những lý thuyết
về ngữ âm và ngữ nghĩa phổ quát), gồm cả những câu đi chệch khỏi những quy luật
của ngôn ngữ. Nhưng đây là vấn đề chúng ta sẽ không đi sâu thêm vào ở đây.]
[2] [Không nên
nhầm lẫn câu hỏi về cách thức tổ chức thành phần cú pháp với vấn đề phát triển
một mô hình hoạt động (sản xuất hay nhận thức). Trong thực tế, bất kỳ loại tổ
chức nào vừa được mô tả (và những loại khác) đều có thể được dùng như cơ bản
cho một lý thuyết của hiệu năng của cả hai loại.]
[3] lexical entries
[4] dictionary definition
[5] field structure.