(Language
and Mind)
Noam
Chomsky
5
Bản chất cấu trúc và qui luật của ngôn ngữ
Những tính chất tổng quát của ngôn ngữ
Dù đã có nhiều thế hệ nghiên
cứu học thuật thành quả, những câu hỏi bài viết này nói đến có thể nhận được chỉ
những trả lời khá dọ dẫm, không chắc chắn. Chỉ một số ít ngôn ngữ được nghiên
cứu và mô tả chi tiết, với phân tích toàn diện về cấu trúc, ngữ pháp và cách dùng,
và chỉ có những phương diện đã chọn
lọc của ngôn ngữ đã từng được nghiên cứu với đủ thận trọng và thành công để đem
bằng chứng hỗ trợ cho những kết luận của một bản chất tổng quát. Tuy nhiên, với
một mức độ tự tin nào đó, vẫn là có thể nói đại cương về những thuộc tính và những
điều kiện nhất định vốn phân biệt những ngôn ngữ con người giữa những hệ thống tùy
tiện của vận dụng về dấu hiệu, truyền thông giao tiếp và tự biểu hiện.
Năng lực và hiệu năng ngôn ngữ trong cụ thể,
Ở mức độ mô tả thô sơ nhất, chúng ta có thể
nói rằng một ngôn ngữ liên kết âm thanh và ý nghĩa trong một đường lối đặc thù.
Trên nguyên tắc, thành thạo một ngôn ngữ là có khả năng để hiểu những gì được nói
và để tạo ra một dấu hiệu với một diễn dịch về ngữ nghĩa có chủ định. Nhưng bên
cạnh nhiều không-rõ ràng, cũng còn có một sự mơ hồ nghiêm trọng trong mô tả đặc
điểm thô sơ này của khả năng thành thạo, làm chủ ngôn ngữ. Rõ ràng là những câu
có ý nghĩa nội tại được những quy luật ngôn ngữ xác định và một người với khả
năng thành thạo, làm chủ ngôn ngữ, trong một cách nào đó, đã nhập tâm hệ thống của
những quy luật vốn xác định, cả hình dạng ngữ âm của câu nói và nội dung ngữ
nghĩa nội tại của nó – rằng người này có đã phát triển những gì vốn chúng ta sẽ
nói đến như một năng lực ngôn ngữ cụ thể. Tuy nhiên, cũng rõ ràng như thế, rằng
việc thực sự dùng ngôn ngữ được quan sát này – hiệu năng thực sự trong việc dùng
ngôn ngữ cụ thể, [1]
– không chỉ đơn giản phản ảnh những kết nối âm thanh-ý nghĩa nội tại được hệ
thống những quy luật ngôn ngữ thiết lập. Hiệu năng cũng liên quan với nhiều yếu
tố khác. Chúng ta không giải thích những gì được nói khi có mặt chúng ta chỉ
bằng việc áp dụng những nguyên tắc ngôn ngữ xác định những thuộc tính ngữ âm và
ngữ nghĩa của một nói ra. Những tin tưởng ngoài-ngôn ngữ liên quan với người
nói và hoàn cảnh đóng một vai trò nền tảng trong việc xác định lời nói được tạo
ra, được xác định và được hiểu như thế nào. Hơn nữa, hiệu năng ngôn ngữ còn được
những nguyên tắc của cấu trúc về nhận thức chi phối (thí dụ, bởi những giới hạn
về ký ức) vốn nói cho đúng, không là những phương diện trực tiếp của ngôn ngữ.
Khi đó, để nghiên cứu một ngôn ngữ, chúng ta phải cố gắng tách rời một
mớ những yếu tố tác động hỗ tương với năng lực cơ bản để xác
định hiệu năng thực sự; từ ngữ chuyên môn “năng lực” để chỉ khả năng của người nói-nghe lý tưởng để liên
kết âm thanh và ý nghĩa chặt chẽ đúng theo những quy luật của ngôn ngữ của người
này. Ngữ pháp của một ngôn ngữ, như một mô hình cho năng lực lý tưởng, [2]
thiết lập một liên hệ nhất định giữa âm thanh và ý nghĩa – giữa những biểu diễn
ngữ âm và ngữ nghĩa. chúng ta có thể nói rằng ngữ pháp của ngôn ngữ L phát sinh
(tạo ra) một tập hợp của những cặp (s, I), trong đó, s là biểu diễn ngữ âm của
một tín hiệu nhất định, [3] và
I là diễn giải ngữ nghĩa được gán cho tín hiệu này bởi những quy luật của ngôn
ngữ. Khám phá ngữ pháp này là Mục đích chính của việc nghiên cứu ngôn ngữ của
một ngôn ngữ cụ thể. [4]
Lý thuyết tổng quát của cấu trúc ngôn ngữ liên quan với việc tìm ra
những điều kiện vốn bất kỳ ngữ pháp nào loại như vậy phải đáp ứng. Lý thuyết
tổng quát này sẽ quan tâm với những điều kiện thuộc ba loại: điều kiện về lớp của
những biểu diễn ngữ âm được chấp nhận, lớp của những biểu đạt ngữ nghĩa được
chấp nhận và hệ thống của những quy luật vốn phát sinh những biểu diễn ngữ âm
và ngữ nghĩa đã ghép thành cặp. Trong cả ba phương diện, những ngôn ngữ con người đều phải tuân theo những
điều kiện giới hạn nghiêm ngặt. Không có khó khăn gì trong việc xây dựng những
hệ thống không đáp ứng những điều kiện này và do đó không đủ tiêu chuẩn để trở
thành những ngôn ngữ trong tiềm năng của con người, mặc dù sự kiện là chúng
liên kết âm thanh và ý nghĩa trong một cách nhất định nào đó. Những ngôn ngữ
con người đều là những hệ thống thuộc một loại rất đặc thù. Không có sự cần
thiết tiên nghiệm nào cho một hệ thống liên hệ âm thanh và ý nghĩa để là thuộc
loại này. Khi bài viết này tiếp tục, chúng ta sẽ nhắc đến một số điều kiện giới
hạn cao xem có vẻ là những thuộc tính thiết yếu của ngôn ngữ con người.
Một ngữ pháp phát sinh một tập hợp của những cặp (s, I) nhất định, trong
đó s là biểu diễn ngữ âm, và I là cách diễn giải ngữ nghĩa liên quan của nó.
Tương tự như vậy, chúng ta có thể coi một mô hình hiệu năng như liên hệ
giữa âm thanh và ý nghĩa trong một cách cụ thể. Thí dụ: một mô hình nhận
thức, PM, có thể được mô tả, như trong phần 1, như một cơ chế chấp nhận tín
hiệu làm input (cùng với nhiều tín
hiệu khác) và gán những cách biểu diễn ngữ pháp khác nhau làm “output”. [5]
1
Một vấn đề trung tâm cho tâm lý học là khám phá những đặc điểm của một
hệ thống PM thuộc loại này. Rõ ràng, khi hiểu một tín hiệu, người nghe sẽ hiểu
được thông tin về cấu trúc ngôn ngữ của người này. Nói cách khác, mô hình PM
kết hợp ngữ pháp G của một ngôn ngữ. Việc nghiên cứu cách hiểu những câu – vấn
đề tổng quát của nhận thức lời nói – rõ ràng phải nằm trong những giới hạn hẹp,
trừ khi nó dùng thuộc tính cơ bản này của mô hình nhận thức. Nhưng điều quan
trọng là phải phân biệt rõ ràng giữa chức năng và thuộc tính của mô hình nhận
thức PM và mô hình hiệu năng G vốn nó kết hợp. Cả G và PM đều liên quan với âm
thanh và ý nghĩa; nhưng PM dùng nhiều thông tin nằm ngoài liên hệ âm thanh-ý
nghĩa nội tại được xác định bởi ngữ pháp G và nó hoạt động dưới những ràng buộc
về ký ức, thời gian và việc tổ chức những chiến lược nhận thức không liên quan
với ngữ pháp. Tương ứng, mặc dù chúng ta có thể mô tả ngữ pháp G như một hệ
thống những tiến trình và quy luật áp dụng theo một thứ tự nhất định để liên hệ
âm thanh và ý nghĩa, nhưng chúng ta không có quyền coi đây là mô tả về những
hành động liên tiếp của một mô hình biểu diễn như PM – trong thực tế, sẽ là
hoàn toàn phi lý nếu làm như vậy. Những gì chúng ta đã nói về những mô hình
nhận thức đều có thể áp dụng tương tự cho những mô hình sản xuất. [6] Những
quy luật ngữ pháp tạo ra những biểu diễn ngữ âm của tín hiệu cùng với những
diễn giải ngữ nghĩa của chúng không tạo thành một mô hình để tạo ra những câu,
mặc dù bất kỳ mô hình nào như vậy đều phải kết hợp với hệ thống những quy luật
ngữ pháp. Nếu những khác biệt đơn giản này bị bỏ qua, chắc chắn sẽ xảy ra sự
nhầm lẫn lớn. [7]
Trong bài viết này, chú ý thì tập trung trên năng lực và những ngữ pháp
biểu thị đặc điểm cho nó; khi nói đến việc giải thích ngữ nghĩa và ngữ âm của những
câu, chúng ta chỉ nhắc đến những biểu đạt lý tưởng được xác định bởi hệ thống
cơ bản này. Hiệu năng đem cho dữ liệu cho việc nghiên cứu khả năng ngôn ngữ . Năng
lực, theo nghĩa vừa mô tả, là một trong nhiều yếu tố tác động hỗ tương để xác
định hiệu năng. Trong tổng quát, chúng ta mong đợi rằng khi nghiên cứu về hành
vi của một sinh vật phức tạp, cần phải tách biệt những hệ thống cơ bản độc lập
về cơ bản như hệ thống năng lực ngôn ngữ , mỗi hệ thống có cấu trúc nội tại của
nó, để chú ý riêng biệt.
Những bước đầu hướng tới một nghiên cứu về hiệu năng
Quay sang nghiên cứu về hiệu năng tiềm ẩn, trước tiên chúng ta hãy ghi nhận đến một it của những thuộc tính hiển nhiên về ngữ pháp của một ngôn ngữ con người. Trước hết, hoàn toàn rõ ràng rằng tập hợp của những những biểu diễn ngữ âm và ngữ nghĩa được ghép thành cặp do ngữ pháp phát sinh sẽ là vô hạn. Không có ngôn ngữ nào của con người mà trong thực tế hay trên nguyên tắc, có thể chỉ định một câu nhất định là câu dài nhất có nghĩa trong ngôn ngữ này. Ngữ pháp của bất kỳ ngôn ngữ nào đều chứa những cơ chế khiến nó có thể hình thành những câu có mức độ phức tạp tùy tiện, với mỗi câu có cách diễn giải ngữ nghĩa nội tại của nó. Điều quan trọng là phải nhận ra rằng đây không chỉ là sự tinh tế về logich.
(Aug/2024)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Performance: hiệu năng: việc thực sự dùng ngôn ngữ
trong những hoàn cảnh tình thực tại, trong khi “competence / năng lực” nói về
sự hiểu biết lý thuyết và khả năng biểu đạt tâm lý về những quy luật và cấu
trúc ngôn ngữ vốn một người nói lý tưởng có được cho chính mình.
[2] [Từ ngữ “ngữ pháp”thường được dùng một cách mơ hồ để
chỉ cả hệ thống quy luật đã được hấp thụ vô thức và mô tả của nhà ngôn ngữ học
về nó.]
[3] [Nói chính xác hơn, một loại tín hiệu nhất định là
sự lập lại lẫn nhau, theo nghĩa mà chúng ta sẽ quay trở lại sau đó.]
[4] competence: năng lực, performance: hiệu năng
[5] performance model: mô hình hiệu năng: Cách ngôn ngữ được tạo ra và hiểu trong hành động. liên quan đến cách một người tạo ra và diễn giải câu trong những hoàn cảnh
thực, liên hệ âm thanh và ý nghĩa trong tiến trình dùng ngôn ngữ thực tế. perceptual model mô hình nhận thức: Cách những tín hiệu
đưa vào ngôn ngữ được
tiếp nhận và tiến hành giải quyết. tập
trung cụ thể vào cách chúng ta nhận thức ngôn ngữ—cách chúng ta tiếp nhận và giải
quyết input của ngôn ngữ, như âm thanh, và cách chúng ta gán những cấu trúc ngữ
pháp và ý nghĩa cho input đó. Nó mô tả những cơ chế vốn chúng ta nhận ra và diễn
giải âm thanh hoặc tín hiệu của ngôn ngữ.
[6] Production
models: Mô hình
sản xuất: Những hệ thống nhận thức áp dụng những qui luật đó trong thực hành để tạo ra
lời nói hoặc văn bản. Mô hình sản xuất nói về những hệ thống hoặc khuôn khổ
giải thích cách mọi người tạo ra ngôn ngữ, tức là cách họ xây dựng và diễn đạt
những câu trong giao tiếp thời gian thực tại. Những
mô hình này mô tả những tiến trình nhận thức liên quan đến việc tạo ra lời nói,
gồm lựa chọn từ, xây dựng những câu ngữ pháp và chuyển đổi chúng thành âm thanh
lời nói. Không
giống như những mô hình nhận thức, tập trung vào cách chúng ta nhận thức và
hiểu đầu vào ngôn ngữ, những mô hình sản xuất tiến hành giải quyết phía
output—cách một người chuyển đổi suy nghĩ và ý nghĩa thành ngôn ngữ nói hoặc
viết. Tóm lược – ba mô hình ở trên:
1. Mô hình nhận thức: Những mô hình này tập trung vào cách ngôn ngữ được
người nghe nhận thức và hiểu. Chúng giải thích những cơ chế để diễn giải đầu
vào nói hoặc viết.
2. Mô hình hiệu năng: Những mô hình này tập trung vào kiến thức nội
tại về ngữ pháp của ngôn ngữ, gồm những qui luật và cấu trúc. Chúng mô tả hệ
thống trừu tượng chi phối những mối quan hệ âm thanh-ý nghĩa.
3. Mô hình sản xuất: Những mô hình này nhấn mạnh cách ngôn ngữ được tạo
ra theo thời gian thực, cho dù thông qua nói hay viết. Họ giải thích những tiến
trình liên quan đến việc xây dựng và diễn đạt câu bằng ngữ pháp cơ bản.
Tóm lại, những mô hình nhận thức liên quan đến việc hiểu ngôn ngữ, những
mô hình hiệu năng giải quyết kiến thức về ngữ pháp và những mô hình sản xuất
tập trung vào việc tạo ra ngôn ngữ.
[7] “Ngữ pháp
G”đề cập đến tập hợp những quy luật và tiến trình nội tại mà một người vô thức
tuân theo để hiểu và tạo ra ngôn ngữ. Nó xác định cách âm thanh (biểu diễn ngữ
âm) được kết nối với ý nghĩa (diễn giải ngữ nghĩa) và chi phối cấu trúc của
ngôn ngữ. Trong nội dung này, G đại diện cho hệ thống ngữ pháp trừu tượng tổ
chức cách âm thanh và ý nghĩa liên quan, độc lập với những yếu tố bên ngoài như
trí nhớ hoặc hạn chế về thời gian. Nói một
cách đơn giản hơn, ngữ pháp G là khuôn khổ nền tảng xác định cách những câu
được cấu trúc và diễn giải trong một ngôn ngữ cụ thể. Ngữ pháp
G trong nội dung này dành riêng cho một ngôn ngữ cụ thể, nhưng nó liên quan đến
Ngữ pháp phổ quát (UG) trong lý thuyết của Chomsky. Ngữ pháp
phổ quát (UG) đề cập đến tập hợp những nguyên tắc và cấu trúc cơ bản vốn có ở
tất cả con người, tạo thành nền tảng để học bất kỳ ngôn ngữ nào. UG là khuôn
khổ lý thuyết chi phối những đặc tính phổ quát của tất cả những ngôn ngữ, trong
khi Ngữ pháp G là tập hợp những quy luật cụ thể cho một ngôn ngữ cụ thể mà một
cá nhân đã tiếp thu, dựa trên UG.