Ngôn ngữ và Não Thức
(Language
and Mind)
Noam
Chomsky
6
Ngữ học và Triết học
Những phương pháp và quan tâm của những nhà ngữ học và triết gia có
nhiều tương đồng đến mức tôi tin rằng sẽ là thiếu khôn ngoan nếu đòi nhấn mạnh
trên sự tách biệt rạch ròi giữa những ngành học này, hoặc để một trong hai giữ
thái độ coi thường hẹp hòi đối với những hiểu biết đã đạt được ở ngành kia. Có
thể trích dẫn một số thí dụ để minh họa khả năng của trao đổi thành quả giữa
hai ngành. Zeno Vendler, trong quyển sách gần đây Linguistics and Philosophy
/ Ngữ học và Triết học, còn đi xa hơn khi chủ trương rằng “khoa học của
ngôn ngữ học cấu trúc” [1]
đem cho “một kỹ thuật mới” cho triết học phân tích, một kỹ thuật “không gì khác
hơn là sự tiếp tục tự nhiên của dòng phát triển vốn đi qua những triết gia của
ngôn ngữ thông thường đến J. L. Austin”. Vì những lý do tôi sẽ quay lại sau, tôi
có một chút hoài nghi về sự đóng góp vốn ngữ học có thể đem cho triết học theo
những đường lối vốn ông phác họa, nhưng tôi nghĩ ông đã cho thấy rằng một số
những khái niệm nhất định của ngữ học có thể được dùng một cách hiệu quả trong
nghiên cứu những vấn đề vốn đã nổi lên trong triết học phân tích.
Ngược lại, khi sự chú ý của những nhà ngữ học bắt đầu quay sang những
vấn đề về ý nghĩa và cách dùng, chắc chắn họ có thể học được nhiều từ truyền
thống lâu đời của nghiên cứu triết học về những vấn đề như vậy, mặc dù ở đây,
tôi tin rằng điều quan trọng là phải thận trọng, vẫn giữ một mức độ hoài nghi.
Để thuận tiện cho thảo luận đề tài này và những đề tài khác, hãy để tôi
trình bày một minh họa nhỏ về một vấn đề vốn ở vị trí tiên phong của nghiên cứu
ngày nay. Trong nghiên cứu mô tả của bất kỳ ngôn ngữ nào, một vấn đề trung tâm
là hình thành một tập hợp gồm những quy luật tạo ra những gì vốn chúng ta có
thể gọi là “cấu trúc ngoài mặt” của những lời nói ra. Dùng từ ngữ “cấu trúc
ngoài mặt”, tôi muốn nói đến việc phân tích một lời nói ra vào thành một hệ
thống phân cấp của những cụm từ, mỗi cụm thuộc về một phân loại cụ thể. Hệ
thống phân cấp này có thể được trình bày như một dấu ngoặc vuông có gán nhãn
của những lời nói ra, trong một nghĩa hiển nhiên. Thí dụ, hãy xét hai câu sau:
1 John is certain that Bill will leave / John thì chắc chắn
rằng Bill sẽ rời đi.
2 John is certain to leave / John thì chắc chắn rời đi.
Những cấu trúc ngoài mặt của những lời nói này có thể được biểu diễn,
một cách tự nhiên, bằng dấu ngoặc vuông đơn có nhãn sau: [2]
1’ [S
[NP John ] [VP is [AP certain
[S that [ NP Bill
] VP will leave ]]]]]
2’ [S
[NP John ] [VP is [AP certain ] [VP to
leave ]]]
Cặp dấu ngoặc vuông bao quanh những cụm từ; nhãn được gán cho một cặp
dấu ngoặc vuông chỉ định phân loại của cụm từ được bao quanh. Như vậy ở câu 1
“certain that Bill will leave/chắc chắn Bill sẽ ra đi” là một cụm từ của phân
loại cụm Tính từ; ở cả câu 1 và câu 2, “John” là một cụm từ thuộc phân loại Cụm
danh từ; “will leave” là Cụm động từ ở số 1; và cả 1 và 2 đều là cụm từ thuộc
phân loại Câu.
Người ta có thể đặt câu hỏi về chi tiết của những phân tích cụ thể này,
nhưng không có nhiều nghi ngờ rằng ở một mức độ mô tả nào đó, những điều này,
hoặc những biểu diễn rất giống chúng, tạo nên một phương diện quan trọng của
cấu trúc của những câu 1 và 2, và nói tổng quát hơn, rằng mọi câu của ngôn ngữ
đều có một cấu trúc ngoài mặt gần giống như vậy. Thí dụ, có bằng chứng mạnh mẽ
rằng hình thức ngữ âm được nhận thức của lời nói được xác định, bởi những quy
tắc ngữ âm có tính tổng quát đáng kể, từ những biểu diễn về cơ bản thuộc loại
này.
Với điều này, nhà ngữ học nghiên cứu tiếng Anh sẽ cố gắng để hình thành
một tập hợp gồm những quy luật vốn phát sinh một số vô hạn của những cấu trúc
ngoài mặt, một cấu trúc cho mỗi câu tiếng Anh. Tương ứng, lý thuyết ngôn ngữ sẽ
quan tâm đến vấn đề làm thế nào những cấu trúc như vậy được tạo ra trong bất kỳ
ngôn ngữ nào của con người và sẽ cố gắng hình thành những nguyên tắc tổng quát
chi phối những hệ thống quy luật thể hiện những sự thật của ngôn ngữ này hay
ngôn ngữ khác.
Với những bằng chứng sẵn có cho chúng ta ngày nay, với tôi, có vẻ hợp lý
khi nêu lên rằng trong mọi cấu trúc ngoài mặt của ngôn ngữ con người đều được
tạo ra từ những cấu trúc thuộc loại trừu tượng hơn, vốn tôi sẽ gọi là “cấu trúc
sâu”, bởi một số hoạt động dạng thức nhất định có tính chất rất cao. loại đặc
biệt thường được gọi là “biến đổi ngữ pháp”. Mỗi phép biến đổi là một ánh xạ
của những dấu ngoặc vuông có nhãn phân loại ngữ pháp lên những dấu ngoặc vuông
có nhãn phân loại ngữ pháp. Bản thân những cấu trúc sâu được dán nhãn trong dấu
ngoặc vuông đơn. Lớp cấu trúc sâu vô hạn được chỉ định bởi một bộ “quy luật cơ
bản”. Những phép biến đổi được áp dụng tuần tự vào những cấu trúc sâu theo
những quy ước và nguyên tắc cố định nhất định sẽ tạo ra những cấu trúc ngoài
mặt của câu ngôn ngữ. Do đó, một tập hợp những quy luật cơ bản xác định một lớp
vô hạn gồm những cấu trúc sâu và một tập hợp những phép biến đổi ngữ pháp có
thể dùng để tạo ra những cấu trúc ngoài mặt. [3]
Để minh họa, hãy xem xét lại câu 1 và 2. Những cấu trúc sâu bên dưới có
thể được biểu diễn đại khái ở dạng 1, 2:
1’’ giống
như 1’
2’’ [S
[NP [ S [NP John ] [VP to leave ]]] [ VP is [AP
certain ]]]
Chúng ta có thể nghĩ về những cấu trúc sâu này như thể hiện sự kiện rằng
trong câu 1, chúng ta khẳng định về John rằng ông/người này thì chắc chắn rằng
Bill sẽ rời đi, trong khi ở câu 2, khá giống với 1 về cấu trúc ngoài mặt, chúng
ta khẳng định mệnh đề rằng John rời đi , rằng đó là chắc chắn, theo một nghĩa
rất khác của “chắc chắn”. Không có khó khăn gì trong việc xác định những khái
niệm Chủ ngữ và Vị ngữ, về mặt cấu hình trong những cấu trúc sâu để chúng thể
hiện được ý nghĩa dự kiến. Những phép biến đổi cú pháp dẫn xuất 2 từ 2 gồm phép
biến đổi cú pháp “suy rộng”, từ một cấu trúc rất giống 2 sẽ tạo ra cấu trúc 3,
và phép biến đổi cú pháp “thay thế nó” dẫn xuất 2 từ một cấu trúc gần giống hệt
3, nhưng có “đến” thay cho “will” và “that” đã bị xóa:
3 [S
[NP it ] [ VP is [AP certain ]
[S that [ NP John
] [ VP will leave ]]]]
Bỏ qua những chi tiết, lý thuyết về “ngữ pháp chuyển đổi-phát sinh”
khẳng định rằng tất cả những cấu trúc ngoài mặt được hình thành bằng áp dụng
những phép biến đổi như vậy – mỗi biến đổi ánh xạ những dấu ngoặc vuông được
gắn nhãn lên những dấu ngoặc vuông được gắn nhãn – từ những cấu trúc sâu thường
khá trừu tượng. Câu 1 và 2 giống nhau về cấu trúc ngoài mặt nhưng rất khác nhau
về cấu trúc sâu xa; câu 2 và 3 rất giống nhau về cấu trúc sâu nhưng lại khá
khác nhau về cấu trúc ngoài mặt. Những cấu trúc sâu của ngôn ngữ khá giới hạn
về tính đa dạng và dường như có những điều kiện phổ quát giới hạn mạnh mẽ loại
quy luật có thể có được.
Bây giờ hãy xem xét vấn đề giải thích ngữ nghĩa. Rõ ràng từ những thí dụ
khá điển hình này là những cấu trúc ngoài mặt đưa ra rất ít dấu hiệu về việc
diễn giải ngữ nghĩa, trong khi những cấu trúc sâu lại khá bộc lộ về mặt này.
Theo đuổi dòng lý luận này, người ta có thể nêu lên một cách trình bày chi tiết
hơn về lý thuyết vừa được nêu ra, theo những từ ngữ sau. chúng ta hãy Giả định
rằng có một hệ thống “ngữ nghĩa phổ quát” chỉ định lớp biểu diễn ngữ nghĩa có
thể có cho một ngôn ngữ tự nhiên giống như cách vốn ngữ âm học phổ quát chỉ
định lớp biểu diễn ngữ âm có thể có, bằng chỉ định một lớp những tính năng đặc
biệt và những điều kiện nhất định về sự kết hợp của họ. Hãy nhận thấy rằng sẽ
hoàn toàn hợp lý khi nghiên cứu ngữ nghĩa phổ quát ngay cả khi không có bất kỳ
ý tưởng rõ ràng nào về những yếu tố cấu thành của nó, giống như người ta có thể
lấy ra những kết luận khá thuyết phục về ngữ âm phổ quát từ việc xem xét sự
tăng trưởng chậm rãi của số lượng những câu cụ thể với tốc độ tăng dần. độ dài,
hiện tượng vần và đồng âm, thiếu sự trôi chậm trong “không gian” của câu dưới
chuỗi lập lại, v.v., ngay cả không có bất kỳ khái niệm nào về những đặc điểm
khác biệt của hệ thống này có thể là gì. Trong mọi trường hợp, vẫn cho rằng đây
là một phương pháp nghiên cứu giải quyết hợp lý, người ta có thể nêu lên rằng
một ngôn ngữ chứa những quy luật liên kết những cấu trúc sâu với những biểu
diễn lấy ra từ ngữ nghĩa phổ quát, vì nó chứa những quy luật âm vị học liên
quan với những cấu trúc ngoài mặt với những biểu diễn lấy ra từ ngữ âm phổ
quát.
Tại thời điểm này trong tiến trình phát triển một lý thuyết như vậy, tốt
nhất nhà ngữ học nên chuyển sang nghiên cứu triết học phân tích, đặc biệt là
nghiên cứu nhiều nghiên cứu về độ mờ viện dẫn. Một giả định thực nghiệm thiết
yếu trong phần trình bày trước đó là cấu trúc ngoài mặt không thể đóng góp vào
ý nghĩa; bất kể sự đóng góp nào của biểu thức P với ý nghĩa của câu XPY đều
phải được xác định bởi cấu trúc sâu bên dưới P. Việc khảo sát về độ mờ viện dẫn
đã đưa ra một số lượng lớn những thí dụ minh họa việc thay thế một biểu thức
bằng một biểu thức khác làm thay đổi ý nghĩa như thế nào, ngay cả khi biểu thức
P đóng góp vào ý nghĩa của câu. liên hệ ngữ nghĩa giữa hai điều này rất chặt
chẽ. Phương pháp nghiên cứu giải quyết vừa được phác thảo sẽ phải bảo đảm rằng
trong mỗi trường hợp như vậy có một sự khác biệt tương ứng trong cấu trúc sâu
vốn sự khác biệt về ý nghĩa có thể được quy cho sự khác biệt đó. Không theo
đuổi vấn đề, tôi chỉ ghi nhận rằng bản chất của những thí dụ này khiến cho
phương pháp nghiên cứu giải quyết như vậy khó có thể thành công; nhưng, trong
mọi trường hợp, việc nghiên cứu phương
diện này của lý thuyết ngôn ngữ chắc chắn phải tính đến khối lượng bằng
chứng đã được tích lũy trong tiến trình nghiên cứu triết học.
(Aug/2024)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Structural Linguistics: Ngữ Học Cấu Trúc: một
lĩnh vực ngôn ngữ học vốn phân tích ngôn ngữ như một hệ thống của những yếu tố có liên kết với nhau, với tập trung vào nghiên cứu cấu trúc
của nó hơn là ý nghĩa của nó. Phát triển vào đầu thế kỷ 20 bởi những người tiên
phong như Ferdinand de Saussure, phương pháp này xem xét cách những phần khác nhau
của ngôn ngữ – chẳng hạn như âm thanh, từ và cấu trúc câu – tác động hỗ tương
và hình thành những mẫu thức dựa trên tương quan của chúng.
Những đặc điểm chính của ngữ học cấu trúc:
-
Ngôn ngữ như một hệ thống: Xem ngôn ngữ như một mạng lưới có cấu trúc, trong đó những thành phần
(chẳng hạn như âm thanh hoặc qui luật ngữ pháp) được xác định bởi tương quan
của chúng với nhau.
-
Tập trung vào dạng thức: Thay vì tập trung vào ý nghĩa (ngữ nghĩa), ngữ học cấu trúc nhấn mạnh
vào dạng thức và tổ chức của ngôn ngữ – cách những đơn vị phù hợp với nhau.
-
Ngữ âm và cú pháp: Những lĩnh vực nghiên cứu chính gồm hệ thống âm thanh (ngữ âm) và cấu
trúc của câu (cú pháp).
Trong khi Saussure thường được ghi nhận là người
sáng lập ngữ học cấu trúc, nhiều người khác đã xây dựng dựa trên ý tưởng của
ông và mở rộng lĩnh vực này.
Những nhân vật nổi bật gồm:
(a) Roman Jakobson: Một nhân vật chính yếu trong Trường phái Praha, Jakobson đã áp dụng
những nguyên tắc cấu trúc học vào ngữ âm học, hình thái học và truyền thông.
Ông được biết đến với công trình nghiên cứu về những đặc điểm riêng biệt trong
ngữ âm học và mô hình truyền thông của ông (người gửi, thông điệp, người
nhận). (b) Nikolai Trubetzkoy: Một nhà ngôn ngữ học khác của Trường phái Praha, Trubetzkoy đã đóng vai
trò quan trọng trong việc phát triển khái niệm về âm vị, những đơn vị âm thanh
riêng biệt nhỏ nhất. Quyển Principles of Phonology của ông vẫn là một cột mốc trong
lĩnh vực này.(c) Louis Hjelmslev: Người sáng lập Trường phái Copenhagen, Hjelmslev đã mở rộng những ý tưởng
của Saussure và tạo ra glossematics, (ngữ vị học) một
phiên bản chính thức của ngữ học cấu trúc nhằm tạo ra một nghiên cứu khoa học
hơn về cấu trúc ngôn ngữ. (d) Claude Lévi-Strauss: Mặc dù là một nhà nhân chủng học, Lévi-Strauss đã áp dụng những ý tưởng
cấu trúc học vào lĩnh vực của ông. Ông coi những nền văn hóa của con người là
hệ thống những ký hiệu và lập luận rằng những huyền thoại và hệ thống tương
quan họ hàng có thể được hiểu qua cách nghiên cứu giải quyết cấu trúc học. (e) Roland
Barthes: Là
một nhà lý thuyết văn học và ký hiệu học người Pháp, Barthes đã dùng những ý
tưởng của chủ nghĩa cấu trúc trong phê bình văn học và nghiên cứu về những dấu
hiệu văn hóa, kết nối ngôn ngữ học và ký hiệu học (nghiên cứu về những dấu hiệu
và biểu tượng).
(f) Noam Chomsky: Mặc dù Chomsky đã rời xa chủ nghĩa cấu trúc nghiêm ngặt với lý thuyết
ngữ pháp phát sinh của ông, nhưng những tác phẩm đầu tay của ông vẫn chịu ảnh
hưởng của tư tưởng chủ nghĩa cấu trúc. Ông đã phê bình và đề xuất một dường lối mới để hiểu những Cấu trúc sâu
của ngôn ngữ, nhưng ngữ pháp chuyển đổi của ông vẫn tập trung vào cú pháp và
những quy luật. (g) Émile Benveniste: Là một nhà ngôn ngữ học người Pháp đã mở rộng những ý tưởng của
Saussure, Benveniste đã khám phá tương quan giữa ngôn ngữ và tính chủ quan, đặc
biệt là cách ngôn ngữ ảnh hưởng đến ý thức về bản ngã của chúng ta. (h) André
Martinet: Là
một nhân vật chính yếu trong ngôn ngữ học chức năng, Martinet đã nghiên cứu về
ngữ âm và cú pháp. Khái niệm về sự phát âm kép của ông nhấn mạnh cách ngôn ngữ
hoạt động trên hai mức độ: âm thanh riêng lẻ và những đơn vị mang ý nghĩa.
Những học giả này đã khai triển những ý
tưởng của Saussure và áp dụng chúng vào nhiều lĩnh vực khác nhau như ngữ âm, cú
pháp, ký hiệu học và nghiên cứu văn hóa, biến ngữ học cấu trúc thành một phần
cốt lõi của ngôn ngữ học và triết học thế kỷ 20. Theo quan điểm của Zeno Vendler,
ngữ học cấu trúc cung cấp một dụng cụ mới cho triết học phân tích bằng cách
nhấn mạnh cách ngôn ngữ được cấu trúc. Điều này phản ảnh công việc của những
nhà triết học ngôn ngữ thông thường, những người phân tích lời nói hàng ngày để
khám phá những hiểu biết triết học sâu xa hơn.
[2] [S
[NP [Det The] [N cat]] [VP [V sits] [PP
[P on]
[NP [Det the] [N mat]]]]]
Trong
biểu diễn này:
S
là viết tắt của câu.
NP
là viết tắt của cụm danh từ (như “The cat”).
VP
là viết tắt của cụm động từ (như “sits on the mat”).
AP
là viết tắt của cụm tính từ (như “sits on the mat”).
PP
là viết tắt của cụm giới từ (như “on the mat”).
Det
là từ hạn định (như “The”hoặc “the”).
N
là danh từ (như “cat”hoặc “mat”).
V
là động từ (như “sits”).
P
là giới từ (như “on”).
Dấu ngoặc vuông có nhãn chỉ định phạm trù ngữ pháp này cung
cấp sự phân tích có cấu trúc của câu, cho thấy cách những thành phần được sắp
xếp theo ngữ pháp và cú pháp.
[3] Tôi viết lại cho
rõ ý trên – cho những người không quen với cách nói của Chomsky – Nhà ngữ học nghiên cứu tiếng Anh, một khi họ thừa nhận rằng ngôn ngữ này
có một số mô hình qui luật nhất định, sẽ hướng đến việc tạo ra một tập hợp gồm
những quy luật có thể tạo ra vô số cấu trúc ngoài mặt. Những cấu trúc ngoài mặt
này đại diện cho dạng cơ bản của mỗi câu trong tiếng Anh – về cơ bản là cách những câu được xây dựng bằng
những cụm từ như cụm danh từ và cụm động từ. Mục tiêu là có một tập hợp gồm
những quy luật có thể tạo ra bất kỳ câu nào có thể có trong ngôn ngữ đó. Tương tự như vậy, lý thuyết ngữ
học giải quyết một câu hỏi rộng hơn: Những loại cấu trúc câu này được tạo ra
như thế nào trong bất kỳ ngôn ngữ nào của con người? Những nhà ngôn ngữ học hướng
đến việc phát triển những nguyên tắc tổng quát giải thích cách những qui luật
xây dựng câu hoạt động trên những ngôn ngữ khác nhau. Những nguyên tắc này sẽ
hướng dẫn việc tạo ra những hệ thống qui luật cho những ngôn ngữ cụ thể, chỉ ra
cách những ngôn ngữ khác nhau trong việc thể hiện cùng một loại cấu trúc ngữ
pháp cơ bản.
Tóm lại, công việc của nhà ngôn ngữ học là tìm ra
những qui luật cho một ngôn ngữ cụ thể (như tiếng Anh), trong khi lý thuyết
ngôn ngữ học (triết học) cố gắng khám phá ra những qui luật tổng quát áp dụng cho tất cả những
ngôn ngữ của con người.