Tuesday, October 29, 2024

Chomsky – Ngôn ngữ và Não thức (09)

Ngôn ngữ và Não Thức

(Language and Mind)

( ← ... tiếp theo )

Noam Chomsky

 

 





Chương 7

 Sinh-Ngôn ngữ học Và Khả Năng Con Người

 

Tôi muốn nói vài lời về những gì đã đi đến được gọi là “quan điểm sinh-ngôn ngữ học, vốn đã bắt đầu hình thành nửa thế kỷ trước đây, trong những thảo luận giữa một ít sinh viên ban tiến sĩ, những người đã nhận nhiều ảnh hưởng của những phát triển trong sinh học và toán học trong những năm đầu sau chiến tranh, gồm nghiên cứu trong hành vi động vật học mới được biết đến ở nước Mỹ [1]. Một trong số họ là Eric Lenneberg, người có nghiên cứu nền tảng Biological Foundations of Language, năm 1967, vẫn là một tài liệu cơ bản của lĩnh vực. Vào thời điểm đó, những trao đổi đáng kể đã được tiến hành, gồm những hội thảo liên ngành và hội nghị quốc tế. Môn học có ảnh hưởng sâu rộng nhất, vào năm 1974, lần đầu tiên được gọi là “sinh-ngôn ngữ học”. Nhiều câu hỏi hàng đầu được thảo luận ở đó vẫn còn rất sống động cho đến ngày nay.

 

Một trong những câu hỏi này, được nêu lên nhiều lần như “một trong những câu hỏi cơ bản được đặt ra từ quan điểm sinh học”, là đến mức độ nào vốn những nguyên tắc rõ ràng của ngôn ngữ, gồm cả một số nguyên tắc chỉ mới được đưa ra ánh sáng gần đây, là duy nhất cho hệ thống nhận thức này. Một câu hỏi ngay cả còn cơ bản hơn từ quan điểm sinh học là có bao nhiêu phần của ngôn ngữ có thể được đem cho một giải thích theo nguyên tắc? Cho dù có hay không những yếu tố tương đồng có thể được tìm thấy trong những lĩnh vực hay sinh vật khác. Cố gắng để làm rõ ràng hơn, cụ thể hơn những câu hỏi này và để khảo sát chúng cho ngôn ngữ đã đi đến được gọi là “Chương Trình Tối Giản” trong những năm gần đây, nhưng những câu hỏi nảy sinh cho bất kỳ hệ thống sinh học nào, và độc lập với sự thuyết phục về lý thuyết, trong ngữ học và những lĩnh vực khác. Trả lời cho những câu hỏi này không chỉ là nền tảng cho sự hiểu biết bản chất và chức năng hoạt động của những sinh vật và những hệ thống phụ của chúng nhưng còn để khảo sát sự tăng trưởng và tiến hóa của chúng. [2]

 

Quan điểm sinh-ngôn ngữ học nhìn ngôn ngữ của một người trong tất cả những phương diện của nó – âm thanh, ý nghĩa, cấu trúc – như một trạng thái của một số thành phần của não thức, hiểu “não thức” trong ý hướng của những nhà khoa học thế kỷ 18 đã nhìn nhận rằng sau khi Newton phá hủy “triết học cơ học”, dựa trên khái niệm trực giác của một thế giới vật chất, không còn vấn đề não thức-cơ thể nhất quán nào nữa, và chúng ta chỉ có thể nhìn những phương diện của thế giới “gọi là tâm lý” như kết quả của “một cấu trúc hữu cơ loại như cấu trúc của bộ óc, “như nhà hóa học-triết gia Joseph Priestley đã nhận xét. David Hume đã nhận xét: Suy nghĩ là một “sự kích động nhỏ của bộ óc”; và, như Darwin đã nhận xét một thế kỷ sau, không có lý do gì “suy nghĩ, như là một chất tiết ra của não” lại được coi như “tuyệt diệu hơn trọng lực, một thuộc tính của vật chất”. Đến thời đó, quan điểm ôn hòa hơn về những mục đích của khoa học vốn Newton đưa ra đã trở thành kiến thức thực tiễn thông thường về khoa học: Kết luận ngại ngần của Newton rằng chúng ta phải hài lòng với sự kiện rằng lực hấp dẫn phổ quát hiện hữu, ngay cả khi chúng ta không thể giải thích nó bằng những thuật ngữ của “triết học cơ học” tự-hiển nhiên. Như nhiều nhà bình luận đã nhận xét, vận động trí thức này “nói rõ một quan điểm mới về khoa học”, trong đó mục đích là “không là tìm kiếm những giải thích sau cùng” nhưng để tìm giải thích lý thuyết tốt nhất chúng ta có thể có của những hiện tượng của kinh nghiệm và thử nghiệm (I. Bernard Cohen).

 

Những vấn đề trung tâm trong lĩnh vực nghiên cứu về não thức vẫn nảy sinh, dưới hình thức tương tự. Chúng được nêu ra một cách nổi bật vào cuối tập sách “Thập kỷ của Não bộ”, đánh dấu sự kết thúc của thiên niên kỷ trước. Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật Hoa Kỳ đã xuất bản một tập sách để đánh dấu sự kiện này, tóm tắt tình trạng hiện tại của khoa học nghệ thuật. Chủ đề chỉ đạo được nhà khoa học thần kinh Vernon Mountcastle đưa ra trong giới thiệu của ông cho tập sách: đó là luận đề rằng “Những thứ thuộc về tinh thần, thực ra là não thức, đều là những thuộc tính nổi lên của não bộ, [mặc dù] những nổi lên này không được coi là không thể giản lược nhưng được tạo ra bởi những nguyên tắc... chúng ta vẫn còn chưa hiểu”. Cùng luận đề này, gần giống với lời của Priestley, đã được đưa ra trong những năm gần đây như một “giả thuyết đáng kinh ngạc” của ngành sinh học mới, một “ý tưởng hoàn toàn mới” trong triết học của não thức, “lời khẳng định táo bạo rằng những hiện tượng tinh thần đều hoàn toàn là tự nhiên và do những hoạt động thần kinh sinh lý của não bộ gây ra”, v.v. Nhưng đây là một hiểu lầm. Luận đề này xuất phát từ sự sụp đổ của bất kỳ khái niệm mạch lạc nào về “cơ thể” hay “vật chất” trong thế kỷ XVII, như đã sớm được nhìn nhận. Đặt những thuật ngữ qua bên, luận đề nền tảng vẫn là những gì được gọi là “đề nghị của Locke”: rằng Gót có thể đã chọn để “chất chồng thêm cho vật chất một khả năng của suy nghĩ”, vốn chúng ta không cách nào có thể mường tượng rằng chuyển động lại có thể tạo ra được”.

 

Việc Mountcastle nhắc đến những nguyên tắc giản lược vốn chúng ta “chưa hiểu” cũng đặt ra một số câu hỏi đáng chú ý, như một cái nhìn về lịch sử khoa học minh họa, ngay cả khoa học khá gần đây. Nó gợi nhắc đến nhận xét của Bertrand Russell năm 1929, cũng phản ảnh những tin tưởng phổ thông, rằng “những định luật hóa học hiện nay không thể giản lược về những định luật vật lý”. Cụm từ “hiện nay” giống như từ “chưa” của Mountcastle diễn tả kỳ vọng rằng sự giản lược sẽ diễn ra, có lẽ không lâu, theo tiến trình khoa học thông thường của những tiến bộ khoa học, Trong trường hợp của vật lý và hóa học, điều đó không bao giờ xảy ra: những gì đã xảy ra đã là sự thống nhất của một hóa học hầu như không thay đổi với một vật lý được sửa đổi hoàn toàn. Hầu như không cần để phải nói thêm rằng tình trạng của sự hiểu biết và thành tựu trong những lĩnh vực đó, 80 năm trước, đã vượt xa bất cứ những gì có thể khẳng định cho bộ óc và khoa học nhận thức ngày nay. Do đó, tự tin vào 'giản lược' những phức tạp về một ít ỏi có thể hiểu được không phải lúc nào cũng hợp lý hay phù hợp.

 

Từ một loạt những hiện tượng vốn người ta có thể coi là có liên quan dù không chặt chẽ với ngôn ngữ, phương pháp nghiên cứu giải quyết sinh-ngôn ngữ học tập trung chú ý trên một thành phần của sinh lý con người vốn đi vào trong việc dùng và tiếp thu của ngôn ngữ, bất kể người ta giải thích từ ngữ “ngôn ngữ” như thế nào. Gọi nó là “khả năng của ngôn ngữ”, sau khi điều chỉnh một từ ngữ truyền thống cho một cách dùng mới. Thành phần này ít nhiều ngang bằng với hệ thống thị giác của loài động vật có vú, hệ thống điều hướng của côn trùng hay những hệ thống khác. Trong nhiều trường hợp, những lý thuyết giải thích tốt nhất hiện có đều gán cho những hệ thống tính toán của sinh vật và những gì gọi là “tuân theo quy luật” trong cách dùng không chính thức – thí dụ, khi một bản văn gần đây về thị giác, trình bày những gì gọi là “nguyên tắc khô cứng” như nó đã được đưa ra cách đây 50 năm: “nếu có thể, và những quy luật khác cho phép, giải thích những hình ảnh chuyển động dưới như những hình chiếu của những chuyển động khô cứng trong ba chiều”. Trong trường hợp này, những công trình sau này đã đem cho hiểu biết sâu xa đáng kể về những tính toán tâm lý dường như có liên quan khi hệ thống thị giác tuân theo những quy luật này, nhưng ngay cả với những sinh vật rất đơn giản, việc đó thường không là một công việc dễ dàng, và liên hệ những tính toán tâm lý với phân tích ở mức độ tế bào thì thường là một mục tiêu xa vời. Một số triết gia đã phản đối khái niệm “tuân theo quy luật” – với ngôn ngữ, hiếm khi với thị giác. Nhưng tôi nghĩ đó là một sự hiểu lầm khác, một trong nhiều hiểu lầm theo ý kiến ​​của tôi. Điều đáng quan tâm là so sánh những lo lắng ngày nay về những lý thuyết của ngôn ngữ và những phương diện của thế giới “đã gọi là tâm lý”, tổng quát hơn với những tranh luận giữa những nhà khoa học hàng đầu từ tận những năm 1920, về việc không biết hóa học có phải chỉ đơn thuần là một phương sách tính toán để dự đoán những kết quả của những thí nghiệm hay không, hay liệu nó có xứng đáng với địa vị danh dự của một giải thích về “thực tại vật chất” hay không, những tranh luận về sau này đã được hiểu như là hoàn toàn lạc lõng vô nghĩa. Những tương đồng, tôi đã thảo luận ở nơi khác, đều nổi bật và tôi nghĩ là có tính hướng dẫn.

 

Đặt những đề tài liên quan thách thức này sang một bên, nếu chúng ta áp dụng quan điểm ngôn ngữ sinh học, thì ngôn ngữ là một trạng thái của khả năng ngôn ngữ – một ngôn ngữ-I, theo cách dùng kỹ thuật, chuyên môn, trong đó “I” nhấn mạnh sự kiện rằng khái niệm này là nội tại, cá nhân và có chủ đích (với chữ “s”, không phải chữ “t”) [3] – tức là, sự hình thành thực sự của những nguyên tắc tạo sinh, chứ không phải tập hợp mà nó liệt kê; điều sau chúng ta có thể coi như một thuộc tính trừu tượng hơn của ngôn ngữ-I, giống như chúng ta có thể coi tập hợp cua những quỹ đạo có thể có của một sao chổi chạy qua hệ mặt trời nhuw một thuộc tính trừu tượng của hệ thống đó.

 

Quyết định để nghiên cứu ngôn ngữ như phần của thế giới theo nghĩa này đã gây ra nhiều tranh luận từ nhiều nhà ngữ học vào thời đó và cho đến nay vẫn vậy. Với tôi, có vẻ như những luận chứng phản lại tính hợp lệ, có thể chấp nhận của phương pháp nghiên cứu giải quyết này có rất ít sức thuyết phục – một luận điểm yếu; và rằng những giả định cơ bản của nó được ngầm chấp nhận ngay cả bởi những người kiên quyết bác bỏ chúng – một luận điểm mạnh mẽ hơn nhiều.. Tôi sẽ không đi sâu chương này vào lịch sử trí thức thời nay ở đây, nhưng đơn giản giả định rằng những phương diện quan trọng của ngôn ngữ có thể được nghiên cứu như một phần của thế giới tự nhiên trong nghĩa của phương pháp nghiên cứu giải quyết về sinh-ngôn ngữ học đã hình thành cách đây nửa thế kỷ và từ đó đã được theo đuổi mạnh mẽ, theo nhiều con đường khác nhau.

 

Khả năng ngôn ngữ là một thành phần của những gì vốn người cùng sáng lập thuyết tiến hóa, Alfred Russel Wallace, gọi là “bản chất trí tuệ và đạo đức của con người”: những khả năng con người cho trí tưởng tượng sáng tạo, ngôn ngữ và những phương thức khác của biểu tượng, toán học, diễn giải và ghi chép qua ngôn ngữ của những hiện tượng tự nhiên, những tập quán xã hội phức tạp và những sự vật việc tương tự, một phức hợp của những khả năng dường như đã được kết tinh khá gần đây, có lẽ cách đây hơn 50.000 năm, giữa một nhóm sinh sản nhỏ của những gì vốn tất cả chúng ta đều là những hậu duệ – một phức hợp khiến đặt con người trở nên khác biệt khá rõ ràng với những loài động vật khác, gồm cả những loài vượn nhân hình khác, dựa trên hồ sơ của khảo cổ học. Bản chất của “khả năng con người”, như một số nhà nghiên cứu ngày nay gọi nó, vẫn còn là một bí ẩn đáng kể. Nó đã là là một yếu tố của một sự bất đồng nổi tiếng giữa hai người sáng lập thuyết tiến hóa, với việc Wallace, trái ngược với Darwin, cho rằng sự tiến hóa của những khả năng này không thể được giải thích chỉ dựa vào sự biến đổi và chọn lọc tự nhiên, nhưng đòi hỏi “một số ảnh hưởng, định luật hay tác nhân khác”, một số nguyên lý nào đó của tự nhiên cùng với lực hấp dẫn, sự gắn kết và những lực khác vốn nếu không có chúng thì vũ trụ vật chất không thể hiện hữu. Mặc dù những vấn đề được định hình khác đi ngày nay nhưng chúng vẫn chưa biến mất.

 

Thường đã giả định rằng năng lực trí tuệ con người dù là gì đi nữa, thì khả năng của ngôn ngữ là thiết yếu của nó [4]. Nhiều nhà khoa học đồng ý với nhà cổ nhân loại học Ian Tattersall, người viết rằng ông “gần như chắc chắn rằng chính sự phát minh của ngôn ngữ” vốn đã là biến cố “đột ngột và nổi lên” khiến đã là “sự kích thích giải phóng” cho sự xuất hiện của khả năng của con người trong hồ sơ của tiến trình tiến hóa – “bước nhảy vọt vĩ đại” như Jared Diamond đã gọi nó, kết quả của một biến cố di truyền nào đó vốn đã “cài đặt, mắc nối” lại bộ óc [5], cho phép tạo ra khởi nguyên của ngôn ngữ loài người với cú pháp phong phú, đem cho vô số những phương thức của diễn đạt suy nghĩ, một điều kiện tiên quyết cho sự phát triển xã hội và những thay đổi mạnh mẽ trong hành vi ứng xử, vốn đã được vén mở cho thấy trong hồ sơ khảo cổ học, cũng thường được giả định là nguyên nhân dẫn đến hành trình di cư nhanh chóng từ Châu Phi, nơi con người hiện đại dường như đã từng hiện diện trong hàng trăm nghìn năm. Quan điểm này thì tương tự như của phái Descartes, nhưng mạnh mẽ hơn: họ nhìn việc thông thường dùng của ngôn ngữ như bằng chứng duy nghiệm rõ ràng nhất cho thấy rằng một sinh vật khác có một não thức giống như của chúng ta, nhưng họ không tin rằng khả năng đem dùng ngôn ngữ này là bằng chứng xác định về sự hiện hữu của não thức, hay nguồn gốc của năng lực tinh thần con người. Bức tranh tổng quát này – ít nhất là đúng một phần, hay hợp lý dựa trên bằng chứng và hiểu biết hiện tại – nếu có một giá trị nào đó, thì tiến trình tiến hóa của ngôn ngữ có thể là một sự việc xảy ra nhanh chóng, dù nó là kết quả rất gần đây của tiến trình tiến hóa. Dĩ nhiên, đã có vô số những thế hệ trước chúng ta, và chắc chắn họ đã có một lịch sử tiến hóa lâu dài. Thí dụ, xương tai giữa là một hệ thống khuếch đại âm thanh kỳ diệu, được thiết kế tuyệt diệu để diễn giải lời nói, nhưng chúng dường như đã di chuyển từ hàm của loài bò sát như một hiệu ứng cơ học của sự phát triển của vỏ não mới ở loài vật có vú, bắt đầu từ 160 triệu năm trước, theo như báo cáo. Chúng ta biết quá ít về những hệ thống khái niệm để có thể nói nhiều, nhưng hợp lý khi cho rằng chúng cũng có một lịch sử lâu dài sau khi loài vượn nhân hình tách ra, mang lại những kết quả không có tương đồng gần gũi ở nơi nào khác. Nhưng câu hỏi về sự tiến hóa của bản thân ngôn ngữ có liên quan với việc làm thế nào những gì có trước khác nhau này đã được tổ chức vào thành khả năng của ngôn ngữ, có lẽ qua một số kết quả di truyền nhỏ đã mang lại một sự đổi mới quan trọng. Nếu ngôn ngữ tiến hóa nhanh chóng do một thay đổi nhỏ về phương diện di truyền, những ý tưởng phỏng đoán này có thể hướng dẫn những nhà nghiên cứu tập trung vào những lĩnh vực tìm hiểu mà họ có nhiều khả năng tìm thấy những hiểu biết có ý nghĩa.

 

Tattersall coi ngôn ngữ là “gần như đồng nghĩa với suy nghĩ tượng trưng”. Giải thích thêm, một trong những người khởi xướng hội nghị chuyên môn năm 1974, người đoạt giải Nobel, François Jacob, đã nhận xét rằng “vai trò của ngôn ngữ như một hệ thống truyền thông giao tiếp giữa những cá nhân đã chỉ xảy ra thứ yếu”, có lẽ nhắc đến những thảo luận tại hội nghị năm 1974, nơi người đồng đoạt giải Nobel của ông, Salvador Luria đã là một trong những người ủng hộ mạnh mẽ hơn cho quan điểm rằng những nhu cầu về truyền thông giao tiếp đã không đem cho “bất kỳ áp lực chọn lọc lớn nào để tạo ra một hệ thống loại như ngôn ngữ”, với quan hệ định đoạt chủ yếu của nó để “sự phát triển suy nghĩ trừu tượng hay suy nghĩ sáng tạo”. Jacob tiếp tục, “tính chất của ngôn ngữ khiến nó trở nên độc đáo dường như không nhiều trong vai trò của nó trong việc truyền đạt những chỉ thị hành động” hay những đặc điểm chung khác trong truyền thông giao tiếp của loài vật, nhưng đúng hơn là “vai trò của nó trong việc biểu tượng hóa, trong gợi lên những hình ảnh nhận thức”. Trong “nhào nặn” khái niệm về thực tại của chúng ta và mang lại khả năng cho suy nghĩ và lập kế hoạch của chúng ta, qua thuộc tính độc đáo của nó là cho phép “những kết hợp vô hạn của những biểu tượng” và do đó “sự sáng tạo về phương diện tinh thầcủa những thế giới có thể có được”, những ý tưởng bắt nguồn từ cách mạng nhận thức thế kỷ 17.

 

Jacob cũng nhấn mạnh hiểu biết tổng quát vốn trả lời cho những câu hỏi về tiến hóa “trong hầu hết những trường hợp. . . khó có thể có được hơn là những phỏng đoán ít nhiều tin cậy được Và trong hầu hết những trường hợp, , hầu như ngay cả không có được như vậy. Một thí dụ có lẽ được quan tâm ở đây là nghiên cứu về sự tiến hóa của hệ thống thông tin liên lạc của loài ong, bất thường ở chỗ trên nguyên tắc, nó cho phép sự truyền tải của thông tin trên một phạm vi (liên tục) vô hạn. Có hàng trăm loài ong mật và ong đốt, một số có những biến thể của hệ thống liên lạc, một số thì không, mặc dù tất cả chúng đều có vẻ có thể sống và sinh sản thành công, như không ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng sống còn của chúng.Vì vậy, có rất nhiều cơ hội cho so sánh nghiên cứu. Ong thì dễ nghiên cứu hơn người rất nhiều, về mọi phương diện. Nhưng ít được hiểu. Ngay cả tài liệu cũng thưa thớt. Nghiên cứu có sẵn về chủ đề này khá hạn chế. Nhà côn trùng học Fred Dyer, trong một trong những bài đánh giá toàn diện nhất mà tôi từng đọc, chỉ ra rằng ngay cả những thách thức cơ bản – chẳng hạn như cách ong chuyển đổi thông tin về vị trí của thức ăn (thông tin không gian) thành những chuyển động cụ thể như điệu nhảy lắc lư của chúng, và cách những con ong khác diễn giải những chuyển động đó để hiểu vị trí – vẫn chưa được hiểu rõ và vẫn còn rất khó hiểu. Hơn nữa, chúng ta không hiểu rõ về những tiến trình thần kinh đã khiến diễn giải này trở nên có thể được. Về phần những nguồn gốc tiến hóa của những hành vi này, chúng hầu như hoàn toàn mang tính suy đoán. Sự thiếu hiểu biết này hoàn toàn trái ngược với khối lượng lớn của những tài liệu và những tuyên bố chắc chắn về sự tiến hóa của ngôn ngữ loài người – một điều mà tự thân nó, người ta cũng có thể thấy khá “khó hiểu”.

 

Chúng ta có thể bổ sung thêm một hiểu biết sâu xa khác của triết học thế kỷ 17 và 18, có nguồn gốc từ phân tích của Aristotle về những gì sau này được hiểu là những thực thể tâm lý: rằng ngay cả những khái niệm cơ bản nhất của ngôn ngữ con người cũng không liên quan với những đối tượng độc lập với não thức, qua những phương tiện của một số liên hệ giống-như-tham chiếu giữa những biểu tượng và những đặc điểm vật lý có thể nhận dạng được của thế giới bên ngoài, như có vẻ là phổ quát trong những hệ thống giao tiếp của loài vật. Đúng hơn, chúng là những sáng tạo của “những năng lực về nhận thức” vốn đem cho chúng ta những phương tiện phong phú để tham chiếu về thế giới bên ngoài từ những góc nhìn nhất định, nhưng được phân chia thành những hoạt động tâm lý vốn không thể thu giảm về một “bản chất đặc biệt thuộc về” sự vật chúng ta đang nói đến, như Hume đã tóm tắt một thế kỷ nghiên cứu. “Lý thuyết khởi đầu của ngữ nghĩa học” của Julius Moravcsik là sự phát triển gần đây của một số ý tưởng này, từ nguồn gốc Aristotle của chúng và có ý nghĩa phong phú với ngữ nghĩa ngôn ngữ tự nhiên.

 

Đây là những nhận xét quan trọng về ngữ nghĩa cơ bản của ngôn ngữ tự nhiên, cho thấy rằng những yếu tố nguyên thủy nhất của nó có liên quan với thế giới độc lập với não thức giống như những yếu tố bên trong của âm vị học, không phải bởi quan hệ giống như quy chiếu nhưng là phần của một loại ngôn ngữ phức tạp hơn đáng kể. quan niệm và hành động. Tôi không thể cố gắng giải thích ở đây, nhưng tôi nghĩ những cân nhắc như vậy, nếu được theo đuổi một cách nghiêm chỉnh, sẽ vén mở lên cho thấy rằng việc cố gắng đặt cơ bản ngữ nghĩa của ngôn ngữ tự nhiên dựa trên bất kỳ loại quan hệ “từ-đối tượng” nào, cho dù khái niệm được xây dựng về “đối tượng” có phức tạp đến đâu cũng là điều vô ích, cũng giống như sẽ là vô ích nếu đặt cơ bản ngữ âm của ngôn ngữ tự nhiên dựa trên quan hệ “ký hiệu-âm thanh”, trong đó âm thanh được coi như cấu trúc của những sự kiện vật lý – có lẽ là cấu trúc bốn chiều không thể diễn tả được dựa trên chuyển động của những phân tử, cùng với những câu hỏi tiếp theo được gửi đi tới khoa vật lý, hay nếu ai đó muốn làm cho vấn đề càng trở nên vô vọng hơn, thì tới cả khoa xã hội học. Mọi người đều đồng ý rằng những động thái này là sai lầm khi nghiên cứu phương diện âm thanh của ngôn ngữ và tôi nghĩ những kết luận cũng hợp lý về phương diện ý nghĩa. Với mỗi lời nói-viết , có một sự kiện vật chất, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta phải tìm kiếm quan hệ thần thoại nào đó giữa một đối tượng bên trong như âm tiết [ta] và một sự kiện độc lập với não thức có thể nhận dạng được; và với mỗi hành động quy chiếu, có một phương diện phức tạp nào đó của thế giới được kinh nghiệm hay tưởng tượng vốn hành động đó tập trung chú ý vào, nhưng điều đó không có nghĩa là ngôn ngữ tự nhiên hiện hữu một quan hệ quy chiếu. Tôi nghĩ là không, ngay cả ở mức độ nguyên thủy nhất.

 

Nếu điều này tổng quát là đúng hướng thì ít nhất có hai vấn đề cơ bản nảy sinh khi chúng ta xem xét nguồn gốc của khả năng ngôn ngữ và vai trò của nó trong sự xuất hiện đột ngột của khả năng trí thức con người: thứ nhất, ngữ nghĩa cốt lõi của ý nghĩa tối thiểu – những yếu tố mang, gồm cả những yếu tố đơn giản nhất trong số chúng; và thứ hai, những nguyên tắc cho phép kết hợp không giới hạn những ký hiệu, được tổ chức theo thứ bậc, đem cho phương tiện dùng ngôn ngữ ở nhiều phương diện. Tương tự như vậy, lý thuyết cốt lõi của ngôn ngữ – ngữ pháp phổ quát, UG – trước tiên phải đem cho một kho có cấu trúc những thông tin về đơn vị từ vựng có thể có liên quan với, hay có lẽ giống hệt với những khái niệm là thành phần của “khả năng nhận thức” và thứ hai, có nghĩa là xây dựng từ những đơn vị từ vựng này vô số cấu trúc bên trong đi vào suy nghĩ, diễn giải, lập kế hoạch và những hành vi tâm lý khác của con người, và đôi khi được thể hiện ra bên ngoài, một tiến trình thứ cấp nếu những giả thuyết vừa được xem xét hóa ra là đúng. Về vấn đề đầu tiên, bộ máy từ vựng-khái niệm rõ ràng là dành riêng cho con người, có một nghiên cứu sâu xa về những khái niệm quan hệ được liên kết với cấu trúc cú pháp và về những đối tượng bên trong não thức một phần dường như đóng một vai trò quan trọng (sự kiện, mệnh đề, v.v.). Nhưng có rất ít những nhận xét mang tính mô tả về bộ máy viện dẫn cốt lõi được dùng để nói về thế giới. Vấn đề thứ hai đã trở thành trọng tâm của nghiên cứu ngôn ngữ trong nửa thế kỷ qua, với một lịch sử lâu dài trước đó trong những những lý thuyết, phương pháp hoặc thuật ngữ khác nhau so với hiện nay.

 

Phương pháp nghiên cứu giải quyết sinh-ngôn ngữ học ngay từ đầu đã áp dụng quan điểm vốn nhà thần kinh học nhận thức R. G. Gallistel ngày nay gọi là “chuẩn mực trong khoa học thần kinh”, “quan điểm học tập theo mô-đun”: kết luận rằng trong tất cả những loài động vật, việc học tập đều dựa trên những hệ thống phân tích và lựa chọn chuyên biệt, “bản năng để học” theo những cách cụ thể. Ông đề nghị rằng chúng ta nên coi những hệ thống phân tích và lựa chọn này như “những cơ quan bên trong não”, đạt được những trạng thái trong đó chúng thực hiện những loại đặc biệt của tính toán. Ngoài “môi trường cực kỳ thù địch”, chúng còn thay đổi trạng thái dưới tác đông của kích động và định hình của những yếu tố bên ngoài, ít nhiều mang tính phản xạ và phù hợp với thiết kế bên trong. Đó là “tiến trình học tập”, mặc dù “tăng trưởng” có thể là một từ ngữ thích hợp hơn, tránh những ý nghĩa sai lệch về từ ngữ “học tập”. Người ta có thể liên hệ những ý tưởng này với công trình bách khoa toàn thư của Gallistel về tổ chức của chuyển động, dựa trên “những ràng buộc về cấu trúc” đặt ra “những giới hạn với những loại giải pháp vốn loài vật sẽ đưa ra trong một hoàn cảnh học tập”.

 

Dĩ nhiên, quan điểm mô-đun của việc học không đòi hỏi rằng những thành phần của mô-đun là duy nhất với nó: ở một mức độ nào đó, mọi người đều cho rằng chúng không phải như vậy – thí dụ như tế bào. Câu hỏi về mức độ tổ chức vốn tại đó những thuộc tính độc nhất xuất hiện vẫn là một câu hỏi cơ bản theo quan điểm sinh học, giống như tại hội nghị năm 1974. Những nhận xét của Gallistel gợi lại khái niệm “kênh hóa” [6] được C. H. Waddington đưa vào sinh học tiến hóa và phát triển cách đây sáu mươi năm, nhắc đến những tiến trình “được điều chỉnh để mang lại một kết quả cuối cùng xác định bất kể những thay đổi nhỏ về điều kiện trong tiến trình phản ứng”. do đó bảo đảm “việc sản xuất loại bình thường, đó là loại tối ưu khi đối mặt với những nguy cơ hiện hữu không thể tránh khỏi”. Đó xem có vẻ là một mô tả hợp lý về sự phát triển ngôn ngữ của mỗi cá nhân. Vấn đề cốt lõi của nghiên cứu của khả năng ngôn ngữ là để khám phá những hệ thống phân tích và lựa chọn vốn giới hạn những kết quả với “loại tối ưu”. [7]

 

Đã được nhình nhận, từ những nguồn gốc của sinh học thời nay, rằng những giới hạn phát triển bên ngoài của sinh vật và những nguyên tắc cấu trúc-kiến trúc không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển của sinh vật nhưng còn ảnh hưởng đến tiến trình tiến hóa của chúng. Trong một bài viết kinh điển đương thời, Maynard Smith và những cộng sự đã truy nguyên phiên bản sau-Darwin ngược về từ Thomas Huxley, người đã bị ấn tượng bởi sự kiện là dường như có “những dòng biến đổi được định sẵn” dẫn đến tiến trình chọn lọc tự nhiên “tạo ra những giống có số lượng và loại hạn chế” cho mọi loài. Họ xem xét nhiều giới hạn như vậy trong thế giới hữu cơ và mô tả “những giới hạn về sự biến đổi kiểu hình” “gây ra bởi cấu trúc, đặc điểm, thành phần hay động lực của hệ thống phát triển”. Họ cũng cho thấy rằng “những giới hạn phát triển như vậy chắc chắn đóng một vai trò quan trọng trong tiến trình tiến hóa” mặc dù vẫn “có rất ít sự đồng ý về sự quan trọng của chúng so với sự lựa chọn, sự trôi dạt và những yếu tố khác trong việc hình thành lịch sử tiến hóa”. Vào khoảng thời gian đó, Jacob đã viết rằng “những quy luật điều khiển sự phát triển phôi thai”, gần như hoàn toàn chưa được biết đến, tác động qua lại với những yếu tố vật lý khác để “giới hạn những thay đổi có thể có về cấu trúc và chức năng” trong tiến trình phát triển tiến hóa, đem cho “ những ràng buộc về kiến trúc” “giới hạn phạm vi thích ứng”. và kênh những mô hình tiến hóa”, trích dẫn một bài viết thẩm định giá trị gần đây. Những nhân vật nổi tiếng nhất đã cống hiến phần lớn công việc của mình cho những đề tài này là D’Arcy Thompson và Alan Turing, những người có quan điểm rất mạnh mẽ về vai trò trung tâm của những yếu tố như vậy trong sinh học. Trong những năm gần đây, những cân nhắc như vậy đã được đưa ra cho một loạt những vấn đề về phát triển và tiến hóa, từ sự phân chia tế bào ở vi khuẩn đến tối ưu hóa cấu trúc và chức năng của mạng lưới vỏ não, ngay cả đưa lên rằng những sinh vật có “bộ não tốt nhất trong tất cả những bộ não có thể có”, như nhà khoa học thần kinh điện toán Chris Cherniak biện luận. Những vấn đề nằm là ranh giới của khảo sát , nhưng ý nghĩa quan trọng của chúng thì không gây tranh luận.

 

Giả định rằng khả năng ngôn ngữ có những thuộc tính tổng quát của những hệ thống sinh học khác, do đó chúng ta nên tìm kiếm ba yếu tố vốn đi vào sự phát triển của ngôn ngữ cá nhân:

 

(1) Những yếu tố di truyền, nhìn bên ngoài gần như đồng nhất với loài, đề tài của UG. Bẳm sinh di truyền diễn giải phần của môi trường như kinh nghiệm ngôn ngữ, một nhiệm vụ không tầm thường vốn trẻ sơ sinh thực hiện theo phản xạ và quyết định tiến trình phát triển tổng quát của sự phát triển của khả năng ngôn ngữ với những ngôn ngữ vốn trẻ đạt được.

(2) Kinh nghiệm, dẫn đến sự thay đổi, trong một phạm vi khá hẹp, như trong trường hợp những hệ thống phụ khác của khả năng con người và sinh vật trong tổng quát.

(3) Những nguyên tắc không đặc biệt dành riêng cho khả năng của ngôn ngữ.

 

Yếu tố thứ ba gồm những nguyên tắc về kiến trúc cấu trúc giới hạn kết quả, gồm những nguyên tắc tính toán hiệu quả, được cho là có ý nghĩa đặc biệt với những hệ thống tính toán như ngôn ngữ, xác định đặc điểm chung của những ngôn ngữ có thể đạt được.

 

Người ta có thể truy nguyên quan tâm trong yếu tố thứ ba về trực giác theo Galileo rằng “Tự nhiên thi hoàn hảo”, từ thủy triều đến đường bay của loài chim, và nhiệm vụ của nhà khoa học là khám phá xem điều này đúng theo nghĩa nào. Tự tin của Newton rằng Tự nhiên phải là “rất đơn giản” phản ảnh cùng trực giác. Cho dù có thể khó hiểu đến đâu, thì trực giác đó về những gì vốn Ernst Haeckel gọi là “động lực hướng tới cái đẹp” của thiên nhiên (“Sinn fuer das Schoene”) đã là đề tài định hướng của khoa học thời nay kể từ nguồn gốc thời nay của nó.

 

Những nhà sinh vật học có khuynh hướng nghĩ khác về những đối tượng nghiên cứu của họ, áp dụng hình ảnh thiên nhiên của Jacob như một người thích sửa chữa và thử nghiệm, làm điều tốt nhất có thể với những vật liệu sẵn có – thường là một công việc khá vụng về, vì óc thông minh của con người dường như có ý định chứng minh về chính nó . Nhà di truyền học người Anh Gabriel Dover nắm bắt được quan điểm phổ biến khi ông kết luận rằng “sinh học là một công việc kỳ lạ và lộn xộn và ‘sự hoàn hảo’ là từ cuối cùng người ta dùng để mô tả cách thức hoạt động của những sinh vật, đặc biệt với bất kỳ gì được tạo ra bởi chọn lọc tự nhiên” – mặc dù chỉ được tạo ra trong một phần là do chọn lọc tự nhiên, như ông nhấn mạnh, và như mọi nhà sinh vật học đều biết, và ở một mức độ nào đó không thể định lượng được bằng những dụng cụ hiện có. Những kỳ vọng này có ý nghĩa tốt với những hệ thống có lịch sử tiến hóa lâu dài và phức tạp, với rất nhiều tai nạn, những ảnh hưởng kéo dài của lịch sử tiến hóa dẫn đến những giải pháp không tối ưu cho những vấn đề, v.v. Nhưng lôgích không áp dụng với xuất hiện tương đối đột ngột, vốn chúng rất có thể dẫn đến những hệ thống không giống những thành quả phức tạp của – những đặc điểm phức tạp và không hoàn hảo ở sinh vật sống được hình thành qua tiến trình thử nghiệm và sai sót trong hàng triệu năm của tiến hóa – [8] theo như Jacob, có lẽ giống những bông tuyết hơn, hay phyllotaxis, hay sự phân chia tế bào thành hình cầu hơn là hình khối hay khối đa diện làm vật liệu xây dựng hay nhiều thứ khác được tìm thấy trong thế giới tự nhiên. Chương Trình Tối Giản được được thúc đẩy bởi nghi ngờ rằng một gì đó như thế thực sự có thể đúng với ngôn ngữ con người, và tôi nghĩ rằng những nghiên cứu gần đây đã đưa ra một số lý do để tin rằng ngôn ngữ trong nhiều phương diện là giải pháp tối ưu cho những điều kiện vốn nó phải đáp ứng, nhiều hơn những gì có thể dự đoán được vài năm trước. [9]

 

Quay trở lại những ngày đầu, trong khuôn khổ của thuyết cấu trúc/hành vi của những năm 1950, những tương tự gần nhất với UG đã là những tiến trình nghiên cứu giả quyết do Trubetzkoy, Harris và những người khác nghĩ ra để xác định những đơn vị ngôn ngữ và những mẫu thức của chúng từ một kho những văn bản dữ liệu ngôn ngữ. Tốt nhất, những tiến trình này không thể đạt được rất xa, bất kể kho dữ liệu rộng lớn và những thiết bị điện toán đem dùng tân tiến đến đâu. Ngay cả những hình thức cơ bản và những yếu tố mang ý nghĩa, những hình vị, cũng không có thuộc tính “những hạt gọn gàng trên một chuỗi dài” cần thiết cho những những tiến trình nghiên cứu giả quyết, nhưng liên quan gián tiếp hơn nhiều với hình thức ngữ âm. Bản chất và những thuộc tính của chúng đều là cố định bên trong hệ thống tính toán trừu tượng hơn vốn xác định phạm vi không giới hạn của những biểu thức. Do đó, những phương pháp nghiên cứu giải quyết sớm nhất với ngữ pháp phát sinh đã giả định rằng thiên tư di truyền đem cho một hình thức cho những hệ thống quy luật và một phương pháp để lựa chọn cách diễn đạt tối ưu của nó, dựa trên dữ liệu kinh nghiệm đã cho. Những đề nghị cụ thể đã được tạo ra khi đó và trong những năm tiếp theo. Trên nguyên tắc, chúng đem cho một giải pháp hứa hẹn cho vấn đề tiếp thu ngôn ngữ, nhưng triển khai thực tiễn bị cản trở bởi sự phức tạp và lớn lao quá mức của tính toán điện toán, khiến nó không hiệu quả trong việc giải quyết vấn đề.

 

Những quan tâm chính trong những năm đó khá khác nhau và hiện nay chúng vẫn như vậy. Ngày nay có thể khó tin, nhưng cách đây 50 năm người ta thường cho rằng kỹ thuật cơ bản của sự mô tả ngôn ngữ đã có sẵn và rằng những ngôn ngữ có thể thay đổi rất nhiều và hầu như không giới hạn, [10] khiến triển vọng khám phá những khái quát có thể áp dụng rộng rãi có vẻ mong manh. Ngay khi những cố gắng đã thực hiện để đem cho những giải thích khá rõ ràng về những thuộc tính của ngôn ngữ, người ta lập tức nhận ra rằng kiến ​​thức về bất kỳ lĩnh vực nào cũng được biết rất ít. Mỗi nêu lên cụ thể đều mang lại một kho tàng của những bằng chứng phản bác, đòi hỏi những hệ thống quy luật phức tạp và đa dạng, ngay cả để đạt được mức độ gần đúng rất giới hạn với mức độ đầy đủ mô tả. Điều đó đã khuyến khích nhiều cho nghiên cứu ngôn ngữ, nhưng cũng để lại một tình thế khó khăn nghiêm trọng, vì những suy xét cân nhắc cơ bản nhất đã dẫn đến kết luận rằng UG phải áp đặt những giới hạn chật hẹp trên những kết quả có thể xảy ra nhằm giải thích cho sự việc tiếp thu ngôn ngữ, nhiệm vụ đạt được “sự giải thích thỏa đáng”, được gọi như vậy. Đôi khi những vấn đề này được gọi là “sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích” trong nghiên cứu ngôn ngữ, mặc dù từ ngữ này gây hiểu nhầm vì đây chỉ là một trường hợp đặc biệt của những vấn đề cơ bản vốn nảy sinh phổ biến cho sự tăng trưởng hữu cơ, gồm cả tăng trưởng nhận thức, một biến thể của những vấn đề đã được nhận ra từ thời Plato. [11]

 

Một số con đường đã theo đuổi để cố gắng giải quyết những ý tưởng xung đột về cách ngôn ngữ được tiếp thu. Thành công nhất hóa ra là những cố gắng để hình thành những nguyên tắc tổng quát, được gán cho là của UG – tức là năng khiếu di truyền – để lại một phần nhỏ những hiện tượng còn sót lại vốn bằng cách nào đó sẽ xuất phát từ kinh nghiệm. Những phương pháp nghiên cứu giải quyết này đã có một số thành công, nhưng những căng thẳng cơ bản – giữa nhu cầu về những quy tắc bẩm sinh nghiêm ngặt và sự phức tạp của dữ liệu ngôn ngữ trong thế giới thực – vẫn chưa được giải quyết tại thời điểm của hội nghị năm 1974.

 

Chỉ trong vòng vài năm, cảnh quan đã thay đổi đáng kể. Một phần đây là kết quả của một loạt những tài liệu mới từ những nghiên cứu có nhiều chiều sâu hơn so với trước, một phần từ việc mở ra những đề tài mới để nghiên cứu. Khoảng 25 năm trước, phần lớn công việc này đ ãkết tinh trong một phương pháp nghiên cứu giải quyết hoàn toàn khác với UG, là khung cấu trúc khái niệm “những nguyên tắc và những tham số” (P&P)[12], vốn lần đầu tiên đem cho hy vọng của việc khắc phục sự căng thẳng giữa tính tính mô tả và tính giải thích thỏa đáng. Phương pháp nghiên cứu giải quyết này đã nhằm loại bỏ hoàn toàn khung cấu trúc khái niệm hình thức, và với nó, là khái niệm truyền thống về những quy luật và xây dựng đã được áp dụng rất nhiều vào ngữ pháp phát sinh. Khi làm như vậy, nó đánh dấu một sự thay đổi triệt để hơn nhiều với truyền thống ngôn ngữ phong phú của 2.500 năm qua, so với ngữ pháp phát sinh ban đầu. Khung P&P (Nguyên tắc và Tham số) mới đã dẫn đến sự bùng nổ của việc tìm hiểu những ngôn ngữ có kiểu hình đa dạng nhất, dẫn đến những vấn đề mới trước đây chưa được hình dung, đôi khi là những trả lời và sự hồi sinh của những ngành lân cận liên quan đến việc tiếp thu và tiến hnahf ngôn ngữ, những câu hỏi hướng dẫn của chúng hiện được định hình lại theo hướng thiết lập tham số trong một hệ thống nguyên tắc cố định của UG. Không ai am hiểu lĩnh vực này ngày nay có ảo tưởng rằng chân trời nghiên cứu ngay cả còn có thể nhìn thấy được, chứ đừng nói đến việc hiện hữu trong tầm tay.

 

Việc từ bỏ khung cấu trúc khái niệm định dạng cũng có tác động đáng kể đến chương trình sinh-ngôn ngữ học . Như đã được giả định, việc thu hút là vấn đề lựa chọn trong số những tùy chọn có sẵn theo định dạng do UG đem cho, thì định dạng đó phải phong phú và có tính khớp nối cao, cho phép tương đối ít tùy chọn; mặt khác, sự giải thích thỏa đáng là ngoài tầm với. Lý thuyết tốt nhất về ngôn ngữ phải là một lý thuyết rất không thỏa đáng xét từ những quan điểm khác, với một loạt những điều kiện phức tạp dành riêng cho ngôn ngữ của con người, giới hạn khả năng diễn đạt. Vấn đề sinh học cơ bản của sự giải thích có nguyên tắc hầu như không thể được xem xét, và do đó, triển vọng cho một nghiên cứu nghiêm chỉnh nào đó về sự tiến hóa của ngôn ngữ là mờ mịt; rõ ràng, những điều kiện cụ thể của ngôn ngữ càng đa dạng và phức tạp thì càng ít hy vọng về một giải thích duy lý về nguồn gốc tiến hóa của UG. Đây là một trong những câu hỏi được nêu ra tại hội nghị chuyên môn năm 1974 và những câu hỏi khác trong thời kỳ đó, nhưng chúng dường như vẫn là những vấn đề không thể giải quyết được.

 

Khung cấu trúc khái niệm P&P cũng đưa ra triển vọng giải quyết những căng thẳng này. Trong chừng mức khung này chứng minh là hợp lệ, việc thu thập là một vấn đề thiết lập tham số, và do đó được tách hoàn toàn khỏi định dạng còn lại cho ngữ pháp: những nguyên tắc của UG. Không còn có một mặt khái niệm rào cản với hy vọng rằng UG có thể được thu giảm về thành một dạng đơn giản hơn nhiều, và rằng những thuộc tính cơ bản của hệ thống tính toán của ngôn ngữ có thể có một giải thích nguyên tắc thay vì được quy định trong những thuạt ngữ của một hình thức đặc biệt rất nghiêm ngặt chặt chẽ cho những ngữ pháp. Quay trở lại với ba yếu tố của thiết kế ngôn ngữ, việc áp dụng khung P&P vượt qua một rào cản khái niệm khó khăn để chuyển gánh nặng của giải thích từ yếu tố (1), thiên tư di truyền sang yếu tố (3), những nguyên tắc độc lập-ngôn ngữ của kiến trúc cấu trúc và tính toán hiệu quả, từ đó đem cho một số trả lời cho những câu hỏi nền tảng của sinh học của ngôn ngữ, bản chất và cách dùng của nó, và có lẽ cả sự tiến hóa của nó.

 

Khi đã vượt qua được những rào cản khái niệm do khung cấu trúc khái niệm định dạng áp đặt, chúng ta có thể cố gắng thực tế hơn, để làm rõ câu hỏi về những gì cấu thành một giải thích có nguyên tắc cho những thuộc tính của ngôn ngữ và chuyển sang một trong những câu hỏi cơ bản nhất của sinh học về ngôn ngữ – đến mức độ nào ngôn ngữ xấp xỉ một giải pháp tối ưu cho những điều kiện nó phải đáp ứng để là có thể đem dùng được, dựa trên kiến trúc cấu trúc ngoài-ngôn ngữ? Những điều kiện này đem chúng ta trở lại với đặc tính truyền thống của ngôn ngữ kể từ Aristotle, như một hệ thống liên kết âm thanh và ý nghĩa. Trong những từ ngữ của chúng ta, những biểu thức do ngôn ngữ tạo ra phải đáp ứng hai điều kiện giao tiếp: những điều kiện được áp đặt bởi hệ thống giao tiếp cảm giác-vận động và bởi hệ thống giao tiếp khái niệm-chủ định đi vào khả năng trí thức của con người và sự đa dạng của những hành vi lời nói.

 

Chúng ta có thể coi một giải thích của những thuộc tính của ngôn ngữ như nguyên tắc trong chừng mức nó có thể được thu giảm về thành những thuộc tính của hệ thống giao tiếp tác động và những cân nhắc tổng quát về hiệu quả tính toán và những tương tự. Một cách độc lập, những hệ thống giao tiếp tác động có thể được nghiên cứu riêng, gồm cả nghiên cứu so sánh đã được tiến hành một cách hiệu quả. Và điều tương tự cũng đúng với những nguyên tắc tính toán hiệu quả, được nhiều nhà nghiên cứu áp dụng vào ngôn ngữ trong công trình gần đây với những kết quả quan trọng, và có lẽ cũng có thể sửa đổi theo nghiên cứu so sánh. Do đó, bằng nhiều cách khác nhau, có thể vừa làm rõ vừa giải quyết một số vấn đề cơ bản của sinh học của ngôn ngữ.

 

Ở điểm này, chúng ta phải chuyển sang thảo luận kỹ thuật hơn như có thể được ở đây, nhưng ít nhất một vài nhận xét không chính thức có thể giúp phác họa cảnh quan tổng quát.

 

Một sự kiện cơ bản về khả năng ngôn ngữ là nó là một hệ thống của “vô hạn rời rạc” [13] cho phép tạo ra một số lượng vô hạn những câu duy nhất bằng dùng một tập hợp hữu hạn những yếu tố (như từ và quy luật), – thì hiếm có trong thế giới hữu cơ. Bất kỳ hệ thống nào như vậy đều dựa trên một phép biến đổi cú pháp nguyên thủy lấy những đối tượng đã được xây dựng và xây dựng từ chúng một đối tượng mới: trong trường hợp đơn giản nhất là tập hợp chứa chúng. Gọi phép biến đổi cú pháp đó là Hợp nhất [14]. Hợp nhất hoặc một gì đó tương đương là một đòi hỏi tối thiểu. Với Hợp nhất có sẵn, chúng ta tức thời có một hệ thống vô hạn của những biểu thức có cấu trúc thứ bậc. Giải thích đơn giản nhất về “Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại” trong tiến trình tiến hóa của con người là bộ óc đã được “cài đặt, mắc nối”lại, có lẽ bằng một số đột biến nhỏ, để đem cho phép biến đổi cú pháp Hợp nhất, đồng thời đặt phần cốt lõi của nền tảng cho những gì được tìm thấy ở đó, khoảnh khắc quan trọng của tiến trình tiến hóa loài người: ít nhất là trên nguyên tắc; – hiểu hay giải thích hoạt động của Hợp nhất (hoặc một gì tương đương) ra đời và nó dẫn đến sự tiến hóa của ngôn ngữ như thế nào, bằng ghép nối những bằng chứng hay thông tin khác nhau tạo thành hiểu biết hay giải thích hoàn chỉnh cho nó, thì không là một vấn đề đơn giản [15]. Có những giả thuyết về sự tiến hóa của ngôn ngữ đã đưa lên một tiến trình từng bước một, phức tạp hơn,

 

Theo những lý thuyết này, bước đầu tiên có thể là đột biến gen cho phép tạo ra những biểu thức hai-đơn vị, có thể mang lại lợi thế về tiến hóa bằng cách giảm bớt ký ức cần thiết để nhớ những mục từ vựng riêng lẻ. Những đột biến tiếp theo sau đó có thể cho phép phát triển những biểu thức dài hơn, phức tạp hơn, cuối cùng đạt đến “Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại”, ở đó hoạt động biến đổi cú pháp gọi là Hợp nhất xuất hiện. Mặc dù có thể những bước trung gian này đã xảy ra, nhưng không có bằng chứng thực nghiệm cụ thể hoặc khái niệm lý luận mạnh mẽ nào hỗ trợ cho ý tưởng này. Một giải thích đơn giản và hợp lý hơn là những giai đoạn trước đó chưa bao giờ xảy ra. Thay vào đó, Bước Nhảy Vọt Vĩ Đạ có thể là một sự kiện tức thời, phát sinh từ một cá nhân duy nhất, người đã đạt được khả năng trí tuệ vượt xa những người cùng thời do một đột biến gen nhỏ. Những khả năng này sẽ được truyền lại cho con cháu họ, cuối cùng trở nên phổ biến trong quần thể. Tất nhiên, giả thuyết này chỉ là phỏng đoán, giống như tất cả những ý tưởng về những tiến trình tiến hóa cổ xưa như vậy. Tuy nhiên, đây là giải thích đơn giản nhất hiện có và không mâu thuẫn với những gì đã biết hoặc suy luận hợp lý về tiến hóa của con người. Trên thực tế, rất khó để tưởng tượng ra bất kỳ giải thích đáng tin cậy nào về tiến hóa của con người nhưng lại không giả định ít nhất đến chừng này, dưới dạng này hay dạng khác.

 

Những câu hỏi tương tự nảy sinh khi chúng ta xem xét sự phát triển của ngôn ngữ trong mỗi cá nhân. Người ta thường cho rằng trẻ em tiến triển qua những giai đoạn, bắt đầu bằng giai đoạn hai-từ, sau đó là giai đoạn ba-từ và cuối cùng đạt đến “bước nhảy vọt vĩ đại” cho phép tạo ra những câu dài không giới hạn. Sự tiến triển này thể hiện rõ trong cách dùng ngôn ngữ có thể quan sát được của trẻ (hiệu năng). Tuy nhiên, những nghiên cứu cho thấy ngay cả ở giai đoạn đầu, trẻ em có khả năng hiểu những biểu thức phức tạp hơn nhiều so với khả năng của chúng. Hơn nữa, nếu những câu dài hơn được sửa đổi ngẫu nhiên – chẳng hạn như bằng cách đặt sai vị trí những từ chức năng theo cách vi phạm Ngữ pháp phổ quát (UG), hoặc ngôn ngữ của người lớn của chúng – trẻ em thường trở nên bối rối và hiểu sai ý nghĩa. Điều này cho thấy rằng khả năng của Hợp nhất không giới hạn và những thành phần khác của UG có thể đã có đầy đủ trong đứa trẻ ngay từ đầu. Tuy nhiên, những khả năng này có vẻ chỉ dần dần phát triển do những yếu tố bên ngoài như những giới hạn về trí nhớ, những hạn chế về sự chú ý và những ảnh hưởng tương tự. Những ý tưởng này lần đầu tiên được khám phá trong những thảo luận tại hội thảo năm 1974 và ngày nay, những tiến bộ trong những phương pháp nghiên cứu cho phép nhiều những điều tra hệ thống và hiệu quả hơn nhiều vào trong những câu hỏi này.

 

Trường hợp cơ bản giới hạn nhất của Hợp nhất hoạt động trên một đối tượng duy nhất, tạo một tập hợp đơn lẻ. Khi giới hạn trong trường hợp đơn giản nhất này, Hợp nhất đem cho hàm kế tiếp [16], Từ điểm khởi đầu này, toàn bộ cấu trúc của những số tự nhiên có thể được phát triển bằng những phương pháp trong những cách quen thuộc. Ý tưởng này đưa ra một trả lời có thể có được cho một vấn đề đã khiến Alfred Russel Wallace vô cùng bối rối vào cuối thế kỷ 19: theo cách nói của ông, – sự phát triển vượt bậc về khả năng toán học hoàn toàn không thể giải thích được bằng thuyết chọn lọc tự nhiên, vì khả năng này dường như không được dùng trong hầu hết lịch sử loài người. Ông cho rằng nguồn gốc của nó có thể nằm ở một nguyên nhân hoàn toàn khác. Một giải thích có thể có là những số tự nhiên là kết quả của một giới hạn đơn giản trong khả năng ngôn ngữ, thay vì là một món quà thiêng liêng, phù hợp với nhận xét nổi tiếng của Leopold Kronecker rằng những số nguyên được Gót ban cho, phù hợp với câu cách ngôn nổi tiếng của Kronecker, mặc dù nhũng gì còn lại trong toán học là do con người tạo ra, như ông nói tiếp tục. Quan niệm cho rằng khả năng toán học có thể xuất hiện như một sự trừu tượng hóa từ những hoạt động ngôn ngữ đã được khám phá trước đây. Tuy nhiên, vẫn còn những thách thức, chẳng hạn như sự tách biệt giữa khả năng ngôn ngữ và toán học do tổn thương não và vị trí khác nhau của chúng trong não; nhưng sự quan trọng của những hiện tượng đó không rõ ràng vì nhiều lý do (gồm cả vấn đề sở hữu và dùng khả năng). Có thể có một gì đó liên quan với những giả thuyết này, có lẽ theo những hướng vừa được chỉ ra. [17]

 

Những cân nhắc cơ bản về hiệu quả tính toán đặt ra những điều kiện khác cho giải pháp tối ưu cho nhiệm vụ liên kết âm thanh và ý nghĩa. Hiện nay đã có rất nhiều tài liệu khám phá những vấn đề thuộc loại này, và tôi nghĩ có thể công bằng để nói rằng đã có tiến bộ đáng kể trong việc hướng tới sự giải thích có nguyên tắc. Rõ ràng hơn nữa là những nỗ lực này đã đáp ứng được một yêu cầu cơ bản cho một chương trình nghiên cứu hợp lý: kích thích sự tìm tòi có khả năng khắc phục một số vấn đề cũ trong khi nhanh chóng đưa ra ánh sáng những vấn đề mới, trước đây chưa được công nhận ra và ngay cả khó có thể xây dựng được, đồng thời làm phong phú thêm đáng kể những thách thức thực nghiệm về tính đầy đủ mang tính mô tả và giải thích phải đối mặt; và lần đầu tiên, mở ra một triển vọng tực tế về việc vượt xa sự giải thích thỏa đáng về phương diện nguyên tắc một cách đáng kể theo những đường lối đã chỉ ra.

 

Việc tìm kiếm giải thích có nguyên tắc phải đối mặt với những nhiệm vụ khó khăn. Chúng ta có thể xây dựng những mục tiêu một cách rõ ràng hợp lý. Tất nhiên, chúng ta không thể biết trước được mức độ đạt được những mục tiêu đó – tức là mức độ mà những trạng thái của khả năng ngôn ngữ có thể gán cho những nguyên tắc tổng quát , thậm chí có thể áp dụng tổng quát cho những sinh vật. Với mỗi bước tiến tới mục tiêu này, chúng ta hiểu rõ hơn những đặc tính cốt lõi đặc trưng cho khả năng ngôn ngữ, vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết đã được nêu ra trong hàng trăm năm. Trong số này có câu hỏi làm thế nào những thuộc tính “được gọi là tâm lý” liên quan với “cấu trúc hữu cơ của não”, những vấn đề không thể giải quyết ngay cả với loài côn trùng và với những phương diện duy nhất và bí ẩn sâu xa khi chúng ta xem xét khả năng con người và những nguồn gốc về tiến hóa của nó. [18]



Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(Aug/2024)

 

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

 


[1] Ethology: hành vi động vật học: nghiên cứu về hành vi động vật, liên quan đến ngôn ngữ học qua việc làm nổi bật những hành vi bẩm sinh và những giai đoạn quan trọng được thấy ở cả động vật và con người. Một số hành vi ở động vật, như tiếng chim hót hay điệu bay múa của loài ong, là bản năng, nghĩa là chúng do bẩm sinh, không phải do được học. Điều này tương tự như ý tưởng nêu lên trong ngôn ngữ học, Noam Chomsky và Eric Lenneberg tích cực ủng hộ, rằng con người sở hữu khả năng ngôn ngữ bẩm sinh, thường được gọi là “khả năng ngôn ngữ”; như một khả năng sinh lý trong việc học và dùng ngôn ngữ. Tương tự như vậy, có những giai đoạn quan trọng – những khoảng thời gian cụ thể trong tiến trình phát triển khi một sinh vật đặc biệt nhạy cảm với việc học một số kỹ năng nhất định – đóng vai trò trong cả hai lĩnh vực. Thí dụ, chim non phải được nghe tiếng hót trong những giai đoạn cụ thể để tái tạo chúng sau này, trong khi con người cần được tiếp xúc với ngôn ngữ ngay từ khi còn nhỏ (thường là trước tuổi dậy thì) để phát triển những khả năng ngôn ngữ bình thường. Những hiểu biết này từ nghiên cứu hành vi động vật học đã ảnh hưởng đến quan điểm sinh-ngôn ngữ học, coi ngôn ngữ như một đặc điểm sinh lý được tiến trình tiến hóa hình thành, giống như truyền thông giao tiếp theo bản năng ở loài động vật. Bằng so sánh ngôn ngữ của con người với hệ thống truyền thông giao tiếp của động vật, những nhà nghiên cứu khám phá được nguồn gốc, sự tiến hóa và tính độc đáo của ngôn ngữ loài người, nhấn mạnh nền tảng của nó trong sinh học.

[2] The Minimalist Program /Chương Trình Tối Giản: của Noam Chomsky nhấn mạnh trên phương pháp nghiên cứu giải quyết đơn giản hóa, hợp lý hóa để hiểu ngôn ngữ. Ý tưởng chính là cấu trúc của ngôn ngữ có thể được giải thích bằng một tập hợp của những nguyên tắc cơ bản, phổ quát, vốn có ở con người và được chia sẻ trong tất cả những ngôn ngữ. Phương pháp nghiên cứu giải quyết “tối giản” của Chomsky tìm cách thu gọn ngôn ngữ thành những yếu tố cơ bản nhất của nó, tập trung vào những qui luật cốt lõi cần thiết để tạo ra tất cả những ngôn ngữ có thể. Nó loại bỏ những phức tạp không cần thiết, hướng đến cách giải thích tối giản và tiết kiệm nhất về những cấu trúc ngôn ngữ, dựa trên giả định rằng ngôn ngữ được một ngữ pháp phổ quát cơ bản chi phối. Phương pháp nghiên cứu giải quyết mới này trái ngược với những lý thuyết trước đây vốn đã đưa ra những qui luật phức tạp hơn, cụ thể cho từng ngôn ngữ hoặc những ảnh hưởng từ bên ngoài.

[3]the conception is internalist, individual, and intensional” Khái niệm này mang tính nội tại, nghĩa là tập trung vào những tiến trình bên trong não thức; mang tính cá nhân, vì nó áp dụng cụ thể cho từng người; và có chủ đích, vì nó nhấn mạnh vào những quy luật hoặc nguyên tắc cơ bản hơn là những thí dụ hoặc kết quả từ bên ngoài. – intensional (with an “s”) and intentional (with a “t”) : intensional nhấn mạnh trên sự tập trung vào xây dựng những nguyên tắc nội tại (những quy luật của ngôn ngữ I) thay vì những gì nói ra bên ngồi hoặc diễn giải bên ngoài (ý định).

[4] “essential” = thiết yếu : không thể thiếu hay cơ bản. Chomsky lập luận rằng khả năng ngôn ngữ là một tạo phần quan trọng và di truyền của năng lực trí tuệ con người. Nếu không có nó, sự phát triển và biểu hiện của tư tưởng con người, cũng như những thay đổi về phương diện xã hội và hành vi được quan sát thấy ở loài người, sẽ không thể xảy ra. Do đó, ngôn ngữ không chỉ là một phụ tùng cho nhận thức của con người; nhưng là trung tâm của những gì làm cho năng lực trí tuệ của con người thành chỉ có một (duy nhất giữa những động vật)

[5] “rewired” hiểu như là một số sự kiện di truyền đã thay đổi hoặc tổ chức lại cấu trúc hoặc chức năng của não, có ý nhấn mạnh về sinh lý, vật chất.

[6] “canalization” kênh hóa : đề cập đến tiến trình mà sự phát triển của một số đặc điểm được định hướng theo những con đường cụ thể, dẫn đến kết quả nhất quán và ổn định bất chấp sự thay đổi về điều kiện môi trường hoặc di truyền. (như một kênh đào đảm bảo rằng nước chảy theo một hướng nhất)

[7] Hệ thống phân tích và lựa chọn (Mechanism): Những tiến trình, nguyên tắc hoặc cấu trúc cơ bản (sinh học, thần kinh hoặc tính toán) chi phối cách ngôn ngữ được tạo ra và hiểu. Những loại tối ưu (optimal types): Những kết quả ngôn ngữ được coi là hiệu quả, tự nhiên hoặc lý tưởng trên nhiều ngôn ngữ (thí dụ: tính đơn giản, dễ xử lý hoặc tính phổ quát trong những mô hình). Nói một cách đơn giản hơn, tuyên bố này nhấn mạnh rằng mục tiêu chính của nghiên cứu ngôn ngữ là khám phá cách ngôn ngữ của con người được định hình bởi những ràng buộc tích hợp đảm bảo ngôn ngữ phát triển theo những cách hiệu quả và được nhìn nhận phổ quát.

Một vấn đề trung tâm trong nghiên cứu về khả năng của ngôn ngữ là để hiểu những tiến trình, nguyên tắc hoặc hay cấu trúc nằm chìm dưới —cho dù là sinh học, thần kinh hay những liên quan với tiến hành thông tin, al-gô-rít hay những quy luật hệ thống tương tự như cách một cômputơ hoạt động—điều hành cách ngôn ngữ được tạo ra và nhận hiểu. Những hệ thống phân tích và lựa chọn này đảm bảo rằng những kết quả ngôn ngữ nằm trong những mẫu thức được coi là hiệu quả, tự nhiên hoặc lý tưởng trong mọi những ngôn ngữ (yhis dụ: tính đơn giản, dễ tiến hành, hay tính phổ quát). Điều này liên quan đến việc khám phá cách những hệ thống nội tại này định hình ngôn ngữ để phản ánh hiệu quả và phổ quát một cách nhất quán, ngay cả trong bối cảnh đa dạng ngôn ngữ..

[8] Nguyên văn – “the complex outcomes of millions of years of Jacobian “bricolage” – những cấu trúc hay hệ thống phức tạp và thường không hoàn hảo trong những sinh vật sống đã tiến hóa trong thời gian dài qua tiến trình mày mò từng bước. Tiến trình này gồm: (a) Dùng những nguồn lực sẵn có: Tiến hóa hoạt động với những gì đã có, dùng lại những cấu trúc hoặc hệ thống phân tích và lựa chọn hiện có thay vì tạo ra những cấu trúc hoặc hệ thống phân tích và lựa chọn hoàn toàn mới. (b) Thích ứng không hoàn hảo: Những giải pháp được tạo ra bởi tiến trình này thường không tối ưu, chứa đựng sự kém hiệu quả hoặc “gì còn thừa/sót lại” từ những giai đoạn tiến hóa trước đó. (c) Kết quả từ sự ngẫu nhiên và lịch sử: Những kết quả bị ảnh hưởng bởi những đột biến ngẫu nhiên, những tình huống bất ngờ trong lịch sử và áp lực của môi trường, dẫn đến một sản phẩm cuối cùng “lộn xộn” nhưng có chức năng.

Đơn giản hơn, những sinh vật và đặc điểm của chúng không được thiết kế hoàn hảo; chúng là kết quả của tiến trình thử nghiệm và sai sót trong tiến hóa, giống như một người thợ sửa chữa lắp ráp một thiết bị bằng bất kỳ dụng cụ và những vật liệu nào có sẵn. François Jacob, một nhà sinh học phân tử đoạt giải Nobel, người đã mô tả sự tiến hóa là một tiến trình “bricolage” (tiếng Pháp có nghĩa là “ mày mò”). Jacob coi thiên nhiên như một người thợ sửa chữa làm việc với những vật liệu có sẵn, dùng lại và sửa đổi chúng để giải quyết vấn đề thay vì tạo ra những thiết kế hoàn hảo, tối ưu ngay từ đầu.

[9] Noam Chomsky giới thiệu Mô hình Ba yếu tố trong bài viết có ảnh hưởng của ông, Three Factors in Language Design, 2005, trên tạp chí Linguistic Inquiry. Công trình này mở rộng những ý tưởng trước đó của Chomsky về tiến trình tiếp thu ngôn ngữ và nền tảng sinh học của nó, kết hợp những thấu hiểu từ khoa học nhận thức, sinh học và lý thuyết ngôn ngữ. Chomsky xây dựng mô hình này dựa trên tập trung lâu dài của ông vào Ngữ pháp phổ quát (UG) trong khi nhìn nhận ảnh hưởng của những yếu tố bổ sung. Mô hình đã phát triển để đáp lại những chỉ trích về ngữ pháp phát sinh truyền thống, đặc biệt là sự nhấn mạnh mạnh mẽ của nó trên những cấu trúc bẩm sinh. Bằng cách tích hợp những tiến bộ trong lý thuyết điện toán tính toán và sinh-ngôn ngữ học, Mô hình tìm cách cân bằng những hệ thống phân tích và lựa chọn bẩm sinh với những ảnh hưởng nhận thức tổng quát và bên ngoài. Mô hình cung cấp giải thích toàn diện về cách ngôn ngữ phát triển ở những cá nhân, kết hợp những nguyên tắc sinh học, môi trường và nhận thức. Ba yếu tố định hình sự phát triển ngôn ngữ có thể tóm tắt như sau:

1. Những yếu tố di truyền: Đây là nền tảng sinh học cho tiến trình tiếp thu ngôn ngữ, thường gắn liền với Ngữ pháp phổ quát. Cấu trúc bẩm sinh này trang bị cho con người khả năng diễn giải input ngôn ngữ và phát triển ngôn ngữ theo phản xạ.

2. Kinh nghiệm: Kinh nghiệm bao gồm input ngôn ngữ và những tác động qua lại với môi trường vốn mở ra cho một cá nhân tiếp xúc. Trong khi khả năng ngôn ngữ được prô-gram sẵn về phương diện sinh học, ngôn ngữ cụ thể (thí dụ: tiếng Anh, tiếng Tàu, tiếng Swahili) mà một người học tùy thuộc vào môi trường của chúng, dẫn đến sự khác biệt trong những ràng buộc do UG đặt ra.

3. Những nguyên tắc không đặc biệt dành riêng cho ngôn ngữ: Đây là những nguyên tắc nhận thức và vật lý tổng quát ảnh hưởng đến cách ngôn ngữ được tiến hành và học nhưng không chỉ dành riêng cho khả năng ngôn ngữ. Thí dụ gồm những chức năng nhận thức như trí nhớ và sự chú ý, cũng như tính toán hiệu quả, vốn ưu tiên cho những giải pháp đơn giản hơn, tiết kiệm hơn trong tiến trình tiến hành ngôn ngữ.

Mô hình thể hiện sự thay đổi trong công trình của Chomsky, vượt ra ngoài quan điểm thuần túy bẩm sinh bằng tích hợp vai trò của input môi trường và những nguyên tắc nhận thức tổng quát. Phương pháp nghiên cứu giải quyết này kết nối ngôn ngữ học với sinh học và khoa học nhận thức, mang lại sự hiểu biết rộng hơn và thống nhất hơn về khả năng ngôn ngữ của con người.

[10] Nói cách khác, có một giả định rằng những ngôn ngữ có thể khác nhau theo hầu hết mọi cách có thể tưởng tượng được, với ít hoặc không có nguyên tắc chung nào chi phối cấu trúc và sự phát triển của chúng

[11] Trong MenoPhaedo, Plato giới thiệu thuyết hồi tưởng, nêu rằng việc học bao gồm việc nhớ lại kiến ​​thức bẩm sinh. Những ý tưởng này liên quan đến vấn đề sự nghèo nàn của tác nhân kích thíchtrong ngữ học, khám phá cách con người tiếp thu kiến ​​thức phức tạp từ những kinh nghiệm thực tại rất giới hạn.

[12] Principles and Parameters” (P&P) frameworkKhung Nguyên tắc và Tham số (P&P) là một lý thuyết đã phát triển để giải thích ngôn ngữ hoạt động và được tiếp nhận thế nào. Lý thuyết này cho rằng tất cả những ngôn ngữ của con người đều có chung một tập hợp những nguyên tắc cơ bản (những quy luật hoặc cấu trúc tổng quát), vốn phần của Ngữ pháp phổ quát (UG), một hệ thống bẩm sinh trong não của chúng ta. Tuy nhiên, những ngôn ngữ có thể khác nhau về cách chúng dùng những nguyên tắc này, và những khác biệt này được những tham số xác định – những lựa chọn khác nhau giữa những ngôn ngữ. Thí dụ, một tham số có thể là liệu một ngôn ngữ có đặt chủ ngữ trước động từ (như trong tiếng Anh) hay sau động từ (như trong tiếng Nhật) hay không. Ý tưởng là trẻ em học một ngôn ngữ về cơ bản là “thiết lập” những tham số này dựa trên kinh nghiệm ngôn ngữ mà chúng nhận được. Khung P&P giúp giải thích cách những ngôn ngữ có thể vừa giống nhau (do những nguyên tắc tổng quát, có chung) vừa khác nhau (do những tham số đã chọn lưa khác nhau). Nó cũng chuyển trọng tâm của việc tiếp thu ngôn ngữ từ việc học những quy luật phức tạp (như trong những lý thuyết trước đó) sang điều chỉnh một vài cài đặt hoặc lựa chọn trong một cấu trúc phổ quát. Phương pháp nghiên cứu này giải quyết những câu hỏi chính về cách ngôn ngữ phát triển và cách nó được tiến hành trong não.

[13] screte infinity

[14] Merge

[15] một việc làm phức tạp và khó khăn. Nó cho thấy rằng trong khi ý tưởng về một sự thay đổi đột ngột trong tiến hóa (Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại) có vẻ đơn giản trên lý thuyết, nhưng vì liên quan đến nhiều câu hỏi phức tạp, chưa giải đáp, làm nên khó khăn để hiểu hay giải thích đầy đủ.

[16] successor function: Hàm kế tiếp : là một khái niệm cơ bản trong toán học và logic, đặc biệt là trong lý thuyết số và nền tảng của số học. Đây là một hàm, khi áp dụng cho một số, sẽ tạo ra số kế tục trực tiếp của nó (số tiếp theo trong chuỗi). [S(0) = 0; S(n) = n+1]

[17] Noam Chomsky nêu lên một so sánh cho thấy rằng có lẽ những số tự nhiên có thể xuất hiện từ cùng một tiến trình nhận thức cơ bản của ngôn ngữ, khi nhấn mạnh trên bản chất “bẩm sinh” và “phổ quát” của những tiến trình tinh thần cơ bản này vốn giúp chúng ta hiểu và dùng ngôn ngữ hay những số trong toán học, vốn chúng đều được xây dựng trong não chúng ta..

(a) Merge / Hợp nhất như một nguyên lý phổ quát: Trong thuyết Ngữ pháp Phổ quát (UG) của Chomsky, Hợp nhất là một hoạt động cơ bảntạo phức hợp bằng lập lại cùng quy luật – kết hợp những yếu tố cơ bản (như từ hoặc cụm từ) thành những cấu trúc lớn hơn. Hoạt động này có trong tất cả những ngôn ngữ của con người, bất kể những quy luật ngữ pháp cụ thể, khiến nó trở thành một nguyên lý nhận thức phổ quát (‘con mèo’ , ‘tấm thảm’ > ‘con mèo nằm trên tấm thảm’). Dạng đơn giản nhất của Hợp nhất tạo ra một “singleton set / tập hợp có chỉ một phần tử, một đối tượng duy nhất kết hợp với chính nó. Hoạt động này là nền tảng cho những cấu trúc phức tạp hơn, cả trong ngữ học và toán học.

(b) Successor Function / Hàm số kế tục như một hệ thống phân tích và lựa chọn nhận thức

Chomsky liên kết hoạt động Hợp nhất với Hàm Số Kế Tục:

S:NN,S(n)=n+1

một tiến trình tạo phức hợp bằng lập lại cùng quy luật tạo ra những số tự nhiên N , thí dụ:

0 là điểm bắt đầu.

1 là số kế tục của 0.

2 là số kế tục của 1, v.v.

Tiến trình tạo phức hợp bằng lập lại cùng quy luật này phản ảnh hoạt động của Hợp nhất, cho thấy rằng những hệ thống phân tích và lựa chọn nhận thức tạo ra ngôn ngữ cũng hỗ trợ việc tạo ra những số. Chomsky đưa lên giả thuyết rằng khả năng lý luận về những con số của chúng ta có thể cũng bắt nguồn từ cùng một cấu trúc nhận thức, khiến những hoạt động ngữ pháp trong ngôn ngữ có thể xảy ra.

Như vậy, Ngôn ngữ và Toán học có chung một cơ sở về nhận thức : Ở đây, Merge và Hàm Số Kế Tục như những hoạt động nhận thức (recursive/tạo phức hợp bằng lập lại cùng quy tắc) phổ quát. Merge là một nguyên lý trung tâm trong tất cả những ngôn ngữ, cho phép hình thành những cấu trúc ngôn ngữ phức tạp, trong khi hàm số kế tục là một nguyên lý nền tảng trong toán học, cho phép tạo ra những số tự nhiên. Những hệ thống phân tích và lựa chọn (những tiến trình hoặc chức năng tinh thần cơ bản cho phép chúng ta làm một việc gì đó. Chúng là “như thế nào” đằng sau cách bộ não của chúng ta hoạt động để thực hiện những nhiệm vụ) này phản ánh khả năng nhận thức bẩm sinh, chung cho lý luận trừu tượng, mở rộng trên cả ngôn ngữ và toán học.Vắn tắt, Chomsky lập luận rằng những hoạt động nhận thức chịu trách nhiệm cho ngôn ngữ và toán học có liên hệ chặt chẽ với nhau, phát sinh từ những cấu trúc tinh thần phổ quát và bẩm sinh.

[18] Tôi tạm tóm lược chương cuối ngắn nhưng có nhiều luận thuyết quan trọng như sau:

Lý thuyết của Noam Chomsky về cơ bản sinh học của ngôn ngữ con người đưa ra một lập luận thu hút và thuyết phục, định vị ngôn ngữ như một khả năng bẩm sinh, độc nhất của con người bắt nguồn từ tiến trình tiến hóa và khoa học nhận thức. Bằng cách xem xét sự xuất hiện, hệ thống phân tích và lựa chọn cơ bản và ý nghĩa tiến hóa của nó, Chomsky đem cho một khuôn khổ chi tiết để giải thích cách ngôn ngữ định hình và được định hình bởi nhận thức và sinh học của con người.

Nền tảng sinh học của ngôn ngữ:

Chomsky cho rằng ngôn ngữ là một phần không thể thiếu của những gì mà Alfred Russel Wallace gọi là “bản chất trí tuệ và đạo đức của con người”, bao gồm những khả năng như trí tưởng tượng sáng tạo, lý luận tượng trưng, toán học và những tác động hỗ tương xã hội phức tạp. Những khả năng này phân biệt con người với những loài khác và được cho là đã kết tinh tương đối gần đây về phương diện tiến hóa, khoảng 50.000 năm trước. Điều này đánh dấu một sự thay đổi sâu xa trong tiến trình tiến hóa của con người, thường được gọi là “Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại”, khi con người phát triển những khả năng nhận thức độc đáo cho phép những hành vi phức tạp như nghệ thuật, truyền bá văn hóa và tổ chức xã hội tiên tiến.Theo quan điểm này, ngôn ngữ không chỉ là dụng cụ truyền thông giao tiếp mà còn là đặc điểm xác định nhận thức của con người, cho phép tư duy trừu tượng, lập kế hoạch và phát triển những xã hội phức tạp. Những gì nêu lên của Chomsky đặt ngôn ngữ vào trung tâm của những gì khiến con người có khả năng lý luận sáng tạo và tượng trưng độc đáo.

Ngôn ngữ như một chất xúc tác cho sự tiến hóa của con người

Chomsky, được những nhà khoa học như Ian Tattersall ủng hộ, cho rằng sự ra đời của ngôn ngữ đã thúc đẩy “Bước nhảy vọt vĩ đại”. Ngôn ngữ, với cú pháp phong phú và khả năng tạo ra vô số tổ hợp ký hiệu, đã trở nên thiết yếu đối với tư duy biểu tượng, giải quyết vấn đề và phát triển văn hóa. Không giống như những hệ thống giao tiếp của động vật, thường cố định và hạn chế, ngôn ngữ của con người cho phép sáng tạo không giới hạn, cho phép truyền tải những ý tưởng phức tạp, kiến thức văn hóa và lý luận đạo đức qua nhiều thế hệ. Vai trò chuyển đổi này nhấn mạnh tầm quan trọng của ngôn ngữ không chỉ là một hệ thống sinh học mà còn là động lực chính thúc đẩy tiến trình tiến hóa và nhận thức của con người.

Nền tảng sinh học và di truyền

Chomsky lập luận rằng khả năng ngôn ngữ là một hệ thống được ban tặng về phương diện sinh học được “ký hiệu” trong di truyền học của con người. Ông đưa ra giả thuyết rằng khả năng di truyền này là phổ biến trên toàn loài người, đem cho nền tảng tổng quát cho việc tiếp thu ngôn ngữ. Cấu trúc bẩm sinh này cho phép trẻ sơ sinh diễn giải môi trường ngôn ngữ của chúng và phát triển những kỹ năng ngôn ngữ một cách dễ dàng trong phạm vi khả năng hạn hẹp. Chomsky ví khả năng ngôn ngữ như những hệ thống sinh học khác, coi nó là mô-đun và bao gồm những hệ thống phân tích và lựa chọn chuyên biệt hoặc “bản năng học hỏi”, được prô-gram chặt chẽ vào não người. Tính mô-đun này phản ánh thiết kế của những cơ quan khác, như mắt hoặc hệ thống miễn dịch, được cấu hình sẵn để thực hiện những chức năng cụ thể.

Ba yếu tố của thiết kế ngôn ngữ

Chomsky xác định ba yếu tố quan trọng hình thành nên khả năng ngôn ngữ của con người:

1.       Tài sản di truyền: Một khung di truyền bẩm sinh đem cho nền tảng cấu trúc cho ngôn ngữ.

2.       Kinh nghiệm: Input và tác động hỗ tương môi trường hướng dẫn tiến trình tiếp thu ngôn ngữ cụ thể, dẫn đến sự khác biệt trong cách diễn đạt ngôn ngữ.

3.       Nguyên tắc tổng quát: những nguyên tắc về cấu trúc và tính toán, không chỉ giới hạn ở ngôn ngữ, hạn chế kết quả ngôn ngữ và đảm bảo hiệu quả và tối ưu hóa. những nguyên tắc này phản ánh những đặc tính sinh học rộng hơn và những ràng buộc tiến hóa.

Mô hình ba yếu tố này làm nổi bật tác động hỗ tương giữa sinh học, kinh nghiệm và những nguyên tắc nhận thức tổng quát, nhấn mạnh rằng ngôn ngữ phát sinh từ sự kết hợp giữa khuynh hướng bẩm sinh và những kích thích từ môi trường.

Khung nguyên tắc và tham số

Một trong những đóng góp có ảnh hưởng nhất của Chomsky là khuôn khổ Nguyên tắc và Tham số (P&P). Theo mô hình này, tiến trình tiếp thu ngôn ngữ liên quan đến việc thiết lập những tham số trong một hệ thống nguyên tắc ngôn ngữ phổ quát được gọi là Ngữ pháp phổ quát (UG). Thay vì dựa vào những quy luật cụ thể của ngôn ngữ, khuôn khổ P&P những gì nêu lên rằng sự đa dạng ngôn ngữ phát sinh từ những biến thể tham số được định hình bởi input môi trường. Phương pháp nghiên cứu giải quyết thanh lịch này làm giảm sự phức tạp của việc học ngôn ngữ, nhấn mạnh những nguyên tắc cấu trúc phổ quát trong khi vẫn tính đến sự đa dạng của ngôn ngữ loài người.

Hoạt động Hợp Nhất và ý nghĩa về tiến hóa

Trọng tâm của lý thuyết của Chomsky là hoạt động Merge , một hệ thống phân tích và lựa chọn tính toán cho phép xây dựng những biểu thức có cấu trúc phân cấp từ những thành phần đơn giản hơn. Merge được coi là nền tảng của ngôn ngữ loài người, tạo điều kiện cho bản chất với thuộc tính của sự tạo phức hợp bằng lập lại cùng quy tắc, và vô hạn của nó. Chomsky đưa ra giả thuyết rằng một đột biến gen nhỏ đã prô-gram lại não bộ để cho phép Merge, tạo nền tảng cho cú pháp phức tạp và lý luận trừu tượng. Sự thay đổi đột ngột này được coi là tia lửa tiến hóa dẫn đến “Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại”, khiến ngôn ngữ loài người khác biệt về phương diện chất lượng so với những hình thức giao tiếp khác của động vật.

Điểm mạnh của lập luận của Chomsky

Những gì nêu lên của Chomsky có sức thuyết phục vì tính logic, phù hợp với những nguyên tắc sinh học và sức mạnh giải thích của nó:

1.       Khả năng hợp lý về phương diện sinh học: Ý tưởng cho rằng ngôn ngữ là một khả năng sinh học phù hợp với khoa học thần kinh, nơi những hệ thống phân tích và lựa chọn chuyên biệt được biết đến để xử lý những phép tính cụ thể. Sự đồng nhất về phương diện di truyền giữa con người hỗ trợ cho khái niệm về khả năng ngôn ngữ bẩm sinh.

2.       Bối cảnh tiến hóa: Sự xuất hiện nhanh chóng của ngôn ngữ phù hợp với bằng chứng khảo cổ học và những lý thuyết về sự tiến hóa của loài người. Hoạt động Merge đưa ra giải thích hợp lý cho sự xuất hiện đột ngột của những khả năng ngôn ngữ phức tạp.

3.       Thanh nhã và đơn giản: Khung P&P làm giảm đòi hỏi về những quy luật cụ thể của ngôn ngữ, thay vào đó tập trung vào những nguyên tắc tổng quát về cấu trúc và tính toán hiệu quả. Phương pháp nghiên cứu giải quyết này đem cho giải thích có nguyên tắc cho sự đa dạng và phức tạp của ngôn ngữ.

4.       Hỗ trợ thực nghiệm: Nghiên cứu về hiệu quả tính toán và giao diện âm thanh-ý nghĩa đã đem cho sự hỗ trợ thực nghiệm cho những lý thuyết của Chomsky. Khung của ông đã kích thích sự tìm hiểu đáng kể, giải quyết những câu hỏi lâu đời, đồng thời mở ra những hướng nghiên cứu mới.

Những thách thức và vấn đề chưa được giải quyết

Mặc dù với những điểm mạnh của ông, lý thuyết của Chomsky vẫn phải đối mặt với những phê bình và những câu hỏi chưa có giải đáp:

1.       Tính chất suy đoán: Một số phương diện, đặc biệt là những phương diện liên quan đến nguồn gốc tiến hóa của ngôn ngữ và sự xuất hiện đột ngột của Merge, vẫn còn mang tính suy đoán và thiếu bằng chứng thực nghiệm trực tiếp.

2.       Sự phức tạp về phương diện sinh học: Quan niệm cho rằng ngôn ngữ là “giải pháp tối ưu” có thể đơn giản hóa quá mức sự phức tạp và hỗn độn của những hệ thống sinh học, thường là kết quả của sự kết hợp giữa tiến trình thích nghi và những ngẫu nhiên tiến hóa.

3.       Những câu hỏi chưa có trả lời: Quan hệ giữa những đặc tính tinh thần và cấu trúc thần kinh vẫn chưa rõ ràng. Ngoài ra, những đặc tính cụ thể chỉ có ở khả năng ngôn ngữ và quỹ đạo tiến hóa của chúng vẫn là chủ đề tranh luận sôi nổi.

Kết luận

Lý thuyết của Chomsky về cơ bản sinh học của ngôn ngữ đem cho một khuôn khổ đột phá để hiểu nguồn gốc, cấu trúc và ý nghĩa nhận thức của ngôn ngữ con người. những lập luận của ông thuyết phục về tính mạch lạc, khả năng hợp lý về phương diện sinh học và sự phù hợp với dữ liệu thực nghiệm, đem cho những hiểu biết sâu xa về điều làm cho ngôn ngữ con người trở nên độc đáo. Tuy nhiên, một số phương diện trong những gì nêu lên của ông vẫn mang tính suy đoán, làm nổi bật những thách thức trong việc nghiên cứu nền tảng tiến hóa và sinh học của những hệ thống nhận thức phức tạp. Khi nghiên cứu tiếp tục tiến triển, những ý tưởng của Chomsky sẽ vẫn là trọng tâm trong những cuộc thảo luận về nguồn gốc và bản chất của ngôn ngữ, nhấn mạnh vai trò sâu xa của nó trong việc định hình tiến trình tiến hóa và nhận thức của con người.