(Language
and Mind)
Noam
Chomsky
Sinh-Ngôn ngữ học Và Khả Năng Con Người
Tôi muốn nói
vài lời về những gì đã đi đến được gọi là “quan điểm sinh-ngôn ngữ học”, vốn đã bắt đầu hình thành nửa thế kỷ trước đây, trong những thảo luận
giữa một ít sinh viên ban tiến sĩ, những người đã nhận nhiều ảnh hưởng của
những phát triển trong sinh học và toán học trong những năm đầu sau chiến tranh, gồm nghiên cứu trong hành vi động vật học mới được biết
đến ở nước Mỹ [1]. Một trong số họ là Eric Lenneberg, người có nghiên cứu nền tảng Biological
Foundations of Language, năm 1967, vẫn là một tài liệu cơ bản của lĩnh vực.
Vào thời điểm đó, những trao đổi đáng kể đã được tiến hành, gồm những hội thảo
liên ngành và hội nghị quốc tế. Môn học có ảnh hưởng sâu rộng nhất, vào năm
1974, lần đầu tiên được gọi là “sinh-ngôn ngữ học”. Nhiều câu hỏi hàng đầu được
thảo luận ở đó vẫn còn rất sống động cho đến ngày nay.
Một trong
những câu hỏi này, được nêu lên nhiều lần như “một trong những câu hỏi cơ bản
được đặt ra từ quan điểm sinh học”, là đến mức độ nào vốn những nguyên tắc rõ
ràng của ngôn ngữ, gồm cả một số nguyên tắc chỉ mới được đưa ra ánh sáng gần
đây, là duy nhất cho hệ thống nhận thức này. Một câu hỏi ngay cả còn cơ bản hơn
từ quan điểm sinh học là có bao nhiêu phần của ngôn ngữ có thể được đem cho một
giải thích theo nguyên tắc? Cho dù có hay không những yếu tố tương đồng có thể
được tìm thấy trong những lĩnh vực hay sinh vật khác. Cố gắng để làm rõ ràng hơn, cụ thể hơn những câu hỏi này và để khảo sát chúng cho ngôn ngữ đã đi đến được gọi
là “Chương Trình Tối Giản” trong những năm gần đây, nhưng những câu hỏi
nảy sinh cho bất kỳ hệ thống sinh học nào, và độc lập với sự thuyết phục về lý
thuyết, trong ngữ học và những lĩnh vực khác. Trả lời cho những câu hỏi này
không chỉ là nền tảng cho sự hiểu biết bản chất và chức năng hoạt động của
những sinh vật và những hệ thống phụ của chúng nhưng còn để khảo sát sự tăng
trưởng và tiến hóa của chúng. [2]
Quan điểm
sinh-ngôn ngữ học nhìn ngôn ngữ của một người trong tất cả những phương diện của nó – âm thanh, ý
nghĩa, cấu trúc – như một trạng thái của một số thành phần của não thức, hiểu “não
thức” trong ý hướng của những nhà khoa học thế kỷ 18 đã nhìn nhận rằng sau khi
Newton phá hủy “triết học cơ học”, dựa trên khái niệm trực giác của một thế
giới vật chất, không còn vấn đề não thức-cơ thể nhất quán nào nữa, và chúng ta
chỉ có thể nhìn những phương diện
của thế giới “gọi là tâm lý” như kết quả của “một cấu trúc hữu cơ loại như cấu
trúc của bộ óc, “như nhà hóa học-triết gia Joseph Priestley đã nhận xét. David
Hume đã nhận xét: Suy nghĩ là một “sự kích động nhỏ của bộ óc”; và, như Darwin
đã nhận xét một thế kỷ sau, không có lý do gì “suy nghĩ, như là một chất tiết
ra của não” lại được coi như “tuyệt diệu hơn trọng lực, một thuộc tính của vật
chất”. Đến thời đó, quan điểm ôn hòa hơn về những mục đích của khoa học vốn
Newton đưa ra đã trở thành kiến thức thực tiễn thông thường về khoa học: Kết
luận ngại ngần của Newton rằng chúng ta phải hài lòng với sự kiện rằng lực hấp
dẫn phổ quát hiện hữu, ngay cả khi chúng ta không thể giải thích nó bằng những
thuật ngữ của “triết học cơ học” tự-hiển nhiên. Như nhiều nhà bình luận đã nhận
xét, vận động trí thức này “nói rõ một quan điểm mới về khoa học”, trong đó mục
đích là “không là tìm kiếm những giải thích sau cùng” nhưng để tìm giải thích
lý thuyết tốt nhất chúng ta có thể có của những hiện tượng của kinh nghiệm và
thử nghiệm (I. Bernard Cohen).
Những vấn đề
trung tâm trong lĩnh vực nghiên cứu về não thức vẫn nảy sinh, dưới hình thức
tương tự. Chúng được nêu ra một cách nổi bật vào cuối tập sách “Thập kỷ của Não
bộ”, đánh dấu sự kết thúc của thiên niên kỷ trước. Viện Hàn lâm Khoa học và
Nghệ thuật Hoa Kỳ đã xuất bản một tập sách để đánh dấu sự kiện này, tóm tắt
tình trạng hiện tại của khoa học nghệ thuật. Chủ đề chỉ đạo được nhà khoa học
thần kinh Vernon Mountcastle đưa ra trong giới thiệu của ông cho tập sách: đó
là luận đề rằng “Những thứ thuộc về tinh thần, thực ra là não thức, đều là
những thuộc tính nổi lên của não bộ, [mặc dù] những nổi lên này không được coi
là không thể giản lược nhưng được tạo ra bởi những nguyên tắc... chúng ta vẫn
còn chưa hiểu”. Cùng luận đề này, gần giống với lời của Priestley, đã được đưa
ra trong những năm gần đây như một “giả thuyết đáng kinh ngạc” của ngành sinh
học mới, một “ý tưởng hoàn toàn mới” trong triết học của não thức, “lời khẳng
định táo bạo rằng những hiện tượng tinh thần đều hoàn toàn là tự nhiên và do
những hoạt động thần kinh sinh lý của não bộ gây ra”, v.v. Nhưng đây là một
hiểu lầm. Luận đề này xuất phát từ sự sụp đổ của bất kỳ khái niệm mạch lạc nào
về “cơ thể” hay “vật chất” trong thế kỷ XVII, như đã sớm được nhìn nhận. Đặt
những thuật ngữ qua bên, luận đề nền tảng vẫn là những gì được gọi là “đề nghị
của Locke”: rằng Gót có thể đã chọn để “chất chồng thêm cho vật chất một khả
năng của suy nghĩ”, vốn chúng ta không cách nào có thể mường tượng rằng chuyển
động lại có thể tạo ra được”.
Việc
Mountcastle nhắc đến những nguyên tắc giản lược vốn chúng ta “chưa hiểu” cũng
đặt ra một số câu hỏi đáng chú ý, như một cái nhìn về lịch sử khoa học minh
họa, ngay cả khoa học khá gần đây. Nó gợi nhắc đến nhận xét của Bertrand
Russell năm 1929, cũng phản ảnh những tin tưởng phổ thông, rằng “những định
luật hóa học hiện nay không thể giản lược về những định luật vật lý”. Cụm từ “hiện
nay” giống như từ “chưa” của Mountcastle diễn tả kỳ vọng rằng sự giản lược sẽ
diễn ra, có lẽ không lâu, theo tiến trình khoa học thông thường của những tiến
bộ khoa học, Trong trường hợp của vật lý và hóa học, điều đó không bao giờ xảy
ra: những gì đã xảy ra đã là sự thống nhất của một hóa học hầu như không thay
đổi với một vật lý được sửa đổi hoàn toàn. Hầu như không cần để phải nói thêm
rằng tình trạng của sự hiểu biết và thành tựu trong những lĩnh vực đó, 80 năm
trước, đã vượt xa bất cứ những gì có thể khẳng định cho bộ óc và khoa học nhận
thức ngày nay. Do đó, tự tin vào 'giản lược' những phức tạp về một ít ỏi có thể
hiểu được không phải lúc nào cũng hợp lý hay phù hợp.
Từ một loạt những hiện tượng vốn người ta có thể coi là có liên quan dù
không chặt chẽ với ngôn ngữ, phương pháp nghiên cứu giải quyết sinh-ngôn ngữ
học tập trung chú ý trên một thành phần của sinh lý con người vốn đi vào trong
việc dùng và tiếp thu của ngôn ngữ, bất kể người ta giải thích từ ngữ “ngôn ngữ”
như thế nào. Gọi nó là “khả năng của ngôn ngữ”, sau khi điều chỉnh một từ ngữ
truyền thống cho một cách dùng mới. Thành phần này ít nhiều ngang bằng với hệ
thống thị giác của loài động vật có vú, hệ thống điều hướng của côn trùng hay
những hệ thống khác. Trong nhiều trường hợp, những lý thuyết giải thích tốt
nhất hiện có đều gán cho những hệ thống tính toán của sinh vật và những gì gọi
là “tuân theo quy luật” trong cách dùng không chính thức – thí dụ, khi một bản
văn gần đây về thị giác, trình bày những gì gọi là “nguyên tắc khô cứng” như nó
đã được đưa ra cách đây 50 năm: “nếu có thể, và những quy luật khác cho phép,
giải thích những hình ảnh chuyển động dưới như những hình chiếu của những
chuyển động khô cứng trong ba chiều”. Trong trường hợp này, những công trình
sau này đã đem cho hiểu biết sâu xa đáng kể về những tính toán tâm lý dường như
có liên quan khi hệ thống thị giác tuân theo những quy luật này, nhưng ngay cả
với những sinh vật rất đơn giản, việc đó thường không là một công việc dễ dàng,
và liên hệ những tính toán tâm lý với phân tích ở mức độ tế bào thì thường là
một mục tiêu xa vời. Một số triết gia đã phản đối khái niệm “tuân theo quy luật”
– với ngôn ngữ, hiếm khi với thị giác. Nhưng tôi nghĩ đó là một sự hiểu lầm
khác, một trong nhiều hiểu lầm theo ý kiến của tôi. Điều đáng quan tâm là so
sánh những lo lắng ngày nay về những lý thuyết của ngôn ngữ và những phương diện của thế giới “đã gọi là
tâm lý”, tổng quát hơn với những tranh luận giữa những nhà khoa học hàng đầu từ
tận những năm 1920, về việc không biết hóa học có phải chỉ đơn thuần là một phương
sách tính toán để dự đoán những kết quả của những thí nghiệm hay không, hay
liệu nó có xứng đáng với địa vị danh dự của một giải thích về “thực tại vật
chất” hay không, những tranh luận về sau này đã được hiểu như là hoàn toàn lạc
lõng vô nghĩa. Những tương đồng, tôi đã thảo luận ở nơi khác, đều nổi bật và
tôi nghĩ là có tính hướng dẫn.
Đặt những đề tài liên quan thách thức này sang một bên, nếu chúng ta áp
dụng quan điểm ngôn ngữ sinh học, thì ngôn ngữ là một trạng thái của khả năng
ngôn ngữ – một ngôn ngữ-I, theo cách dùng kỹ thuật, chuyên môn, trong đó
“I” nhấn mạnh sự kiện rằng khái niệm này là nội tại, cá nhân và có chủ đích
(với chữ “s”, không phải chữ “t”) [3] – tức là,
sự hình thành thực sự của những nguyên tắc tạo sinh, chứ không phải tập hợp mà
nó liệt kê; điều sau chúng ta có thể coi như một thuộc tính trừu tượng hơn của
ngôn ngữ-I, giống như chúng ta có thể coi tập hợp cua những quỹ đạo có thể có
của một sao chổi chạy qua hệ mặt trời nhuw một thuộc
tính trừu tượng của hệ thống đó.
Quyết định để nghiên cứu ngôn ngữ như phần của thế giới theo nghĩa này
đã gây ra nhiều tranh luận từ nhiều nhà ngữ học vào thời đó và cho đến nay vẫn
vậy. Với tôi, có vẻ như những luận chứng phản lại tính hợp lệ, có thể chấp nhận
của phương pháp nghiên cứu giải quyết này có rất ít sức thuyết phục – một luận
điểm yếu; và rằng những giả định cơ bản của nó được ngầm chấp nhận ngay cả bởi
những người kiên quyết bác bỏ chúng – một luận điểm mạnh mẽ hơn nhiều.. Tôi sẽ
không đi sâu chương này vào lịch sử trí thức thời nay ở đây, nhưng đơn giản giả
định rằng những phương diện quan trọng của ngôn ngữ có thể được nghiên cứu như một
phần của thế giới tự nhiên trong nghĩa của phương pháp nghiên cứu giải quyết về
sinh-ngôn ngữ học đã hình thành cách đây nửa thế kỷ và từ đó đã được theo đuổi
mạnh mẽ, theo nhiều con đường khác nhau.
Khả năng ngôn ngữ là một thành phần của những gì vốn người cùng sáng lập
thuyết tiến hóa, Alfred Russel Wallace, gọi là “bản chất trí tuệ và đạo đức của
con người”: những khả năng con người cho trí tưởng tượng sáng tạo, ngôn ngữ và
những phương thức khác của biểu tượng, toán học, diễn giải và ghi chép qua ngôn
ngữ của những hiện tượng tự nhiên, những tập quán xã hội phức tạp và những sự
vật việc tương tự, một phức hợp của những khả năng dường như đã được kết tinh
khá gần đây, có lẽ cách đây hơn 50.000 năm, giữa một nhóm sinh sản nhỏ của
những gì vốn tất cả chúng ta đều là những hậu duệ – một phức hợp khiến đặt con
người trở nên khác biệt khá rõ ràng với những loài động vật khác, gồm cả những
loài vượn nhân hình khác, dựa trên hồ sơ của khảo cổ học. Bản chất của “khả
năng con người”, như một số nhà nghiên cứu ngày nay gọi nó, vẫn còn là một bí
ẩn đáng kể. Nó đã là là một yếu tố của một sự bất đồng nổi tiếng giữa hai người
sáng lập thuyết tiến hóa, với việc Wallace, trái ngược với Darwin, cho rằng sự
tiến hóa của những khả năng này không thể được giải thích chỉ dựa vào sự biến
đổi và chọn lọc tự nhiên, nhưng đòi hỏi “một số ảnh hưởng, định luật hay tác
nhân khác”, một số nguyên lý nào đó của tự nhiên cùng với lực hấp dẫn, sự gắn
kết và những lực khác vốn nếu không có chúng thì vũ trụ vật chất không thể hiện
hữu. Mặc dù những vấn đề được định hình khác đi ngày nay nhưng chúng vẫn chưa
biến mất.
Thường đã giả định rằng năng lực trí tuệ con người dù là gì đi nữa, thì
khả năng của ngôn ngữ là thiết yếu của nó [4]. Nhiều nhà
khoa học đồng ý với nhà cổ nhân loại học Ian Tattersall, người viết rằng ông “gần
như chắc chắn rằng chính sự phát minh của ngôn ngữ” vốn đã là biến cố “đột ngột
và nổi lên” khiến đã là “sự kích thích giải phóng” cho sự xuất hiện của khả
năng của con người trong hồ sơ của tiến trình tiến hóa – “bước nhảy vọt vĩ đại”
như Jared Diamond đã gọi nó, kết quả của một biến cố di truyền nào đó vốn đã “cài
đặt, mắc nối” lại bộ óc [5], cho phép
tạo ra khởi nguyên của ngôn ngữ loài người với cú pháp phong phú, đem cho vô số
những phương thức của diễn đạt suy nghĩ, một điều kiện tiên quyết cho sự phát
triển xã hội và những thay đổi mạnh mẽ trong hành vi ứng xử, vốn đã được vén mở
cho thấy trong hồ sơ khảo cổ học, cũng thường được giả định là nguyên nhân dẫn
đến hành trình di cư nhanh chóng từ Châu Phi, nơi con người hiện đại dường như
đã từng hiện diện trong hàng trăm nghìn năm. Quan điểm này thì tương tự như của
phái Descartes, nhưng mạnh mẽ hơn: họ nhìn việc thông thường dùng của ngôn ngữ như
bằng chứng duy nghiệm rõ ràng nhất cho thấy rằng một sinh vật khác có một não
thức giống như của chúng ta, nhưng họ không tin rằng khả năng đem dùng ngôn ngữ
này là bằng chứng xác định về sự hiện hữu của não thức, hay nguồn gốc của năng
lực tinh thần con người. Bức tranh tổng quát này – ít nhất là đúng một phần,
hay hợp lý dựa trên bằng chứng và hiểu biết hiện tại – nếu có một giá trị nào đó,
thì tiến trình tiến hóa của ngôn ngữ có thể là một sự việc xảy ra nhanh chóng,
dù nó là kết quả rất gần đây của tiến trình tiến hóa. Dĩ nhiên, đã có vô số những
thế hệ trước chúng ta, và chắc chắn họ đã có một lịch sử tiến hóa lâu dài. Thí
dụ, xương tai giữa là một hệ thống khuếch đại âm thanh kỳ diệu, được thiết kế tuyệt
diệu để diễn giải lời nói, nhưng chúng dường như đã di chuyển từ hàm của loài
bò sát như một hiệu ứng cơ học của sự phát triển của vỏ não mới ở loài vật có vú,
bắt đầu từ 160 triệu năm trước, theo như báo cáo. Chúng ta biết quá ít về những
hệ thống khái niệm để có thể nói nhiều, nhưng hợp lý khi cho rằng chúng cũng có
một lịch sử lâu dài sau khi loài vượn nhân hình tách ra, mang lại những kết quả
không có tương đồng gần gũi ở nơi nào khác. Nhưng câu hỏi về sự tiến hóa của bản
thân ngôn ngữ có liên quan với việc làm thế nào những gì có trước khác nhau này
đã được tổ chức vào thành khả năng của ngôn ngữ, có lẽ qua một số kết quả di
truyền nhỏ đã mang lại một sự đổi mới quan trọng. Nếu ngôn ngữ tiến hóa nhanh
chóng do một thay đổi nhỏ về phương diện di truyền, những ý tưởng phỏng đoán này
có thể hướng dẫn những nhà nghiên cứu tập trung vào những lĩnh vực tìm hiểu mà
họ có nhiều khả năng tìm thấy những hiểu biết có ý nghĩa.
Tattersall coi ngôn ngữ là “gần như đồng nghĩa với suy nghĩ tượng trưng”.
Giải thích thêm, một trong những người khởi xướng hội nghị chuyên môn năm 1974,
người đoạt giải Nobel, François Jacob, đã nhận xét rằng “vai trò của ngôn ngữ
như một hệ thống truyền thông giao tiếp giữa những cá nhân đã chỉ xảy ra thứ
yếu”, có lẽ nhắc đến những thảo luận tại hội nghị năm 1974, nơi người đồng đoạt
giải Nobel của ông, Salvador Luria đã là một trong những người ủng hộ mạnh mẽ
hơn cho quan điểm rằng những nhu cầu về truyền thông giao tiếp đã không đem cho
“bất kỳ áp lực chọn lọc lớn nào để tạo ra một hệ thống loại như ngôn ngữ”, với quan
hệ định đoạt chủ yếu của nó để “sự phát triển suy nghĩ trừu tượng hay suy nghĩ
sáng tạo”. Jacob tiếp tục, “tính chất của ngôn ngữ khiến nó trở nên độc đáo
dường như không nhiều trong vai trò của nó trong việc truyền đạt những chỉ thị
hành động” hay những đặc điểm chung khác trong truyền thông giao tiếp của loài
vật, nhưng đúng hơn là “vai trò của nó trong việc biểu tượng hóa, trong gợi lên
những hình ảnh nhận thức”. Trong “nhào nặn” khái niệm về thực tại của chúng ta và
mang lại khả năng cho suy nghĩ và lập kế hoạch của chúng ta, qua thuộc tính độc
đáo của nó là cho phép “những kết hợp vô hạn của những biểu tượng” và do đó “sự
sáng tạo về phương diện tinh thầcủa những thế giới có thể có được”, những ý
tưởng bắt nguồn từ cách mạng nhận thức thế kỷ 17.
Jacob cũng nhấn mạnh hiểu biết tổng quát vốn trả lời cho những câu hỏi
về tiến hóa “trong hầu hết những trường hợp. . . khó có thể có được hơn là những
phỏng đoán ít nhiều tin cậy được Và trong hầu
hết những trường hợp, , hầu như ngay cả không có được như vậy. Một thí dụ có lẽ
được quan tâm ở đây là nghiên cứu về sự tiến hóa của hệ thống thông tin liên
lạc của loài ong, bất thường ở chỗ trên nguyên tắc, nó cho phép sự truyền tải
của thông tin trên một phạm vi (liên tục) vô hạn. Có hàng trăm loài ong mật và
ong đốt, một số có những biến thể của hệ thống liên lạc, một số thì không, mặc
dù tất cả chúng đều có vẻ có thể sống và sinh sản thành công, như không có ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng sống còn của chúng.Vì vậy, có
rất nhiều cơ hội cho so sánh nghiên cứu. Ong thì
dễ nghiên cứu hơn người rất nhiều, về mọi phương diện. Nhưng ít được hiểu. Ngay cả tài liệu cũng thưa
thớt. Nghiên cứu có sẵn về chủ đề này khá hạn chế. Nhà côn trùng học Fred Dyer,
trong một trong những bài đánh giá toàn diện nhất mà tôi từng đọc, chỉ ra rằng
ngay cả những thách thức cơ bản – chẳng hạn như cách ong chuyển đổi thông tin
về vị trí của thức ăn (thông tin không gian) thành những chuyển động cụ thể như
điệu nhảy lắc lư của chúng, và cách những con ong khác diễn giải những chuyển
động đó để hiểu vị trí – vẫn chưa được hiểu rõ và vẫn còn rất khó hiểu. Hơn
nữa, chúng ta không hiểu rõ về những tiến trình thần kinh đã khiến diễn giải này
trở nên có thể được. Về phần những nguồn gốc tiến hóa của những hành vi này,
chúng hầu như hoàn toàn mang tính suy đoán. Sự thiếu hiểu biết này hoàn toàn
trái ngược với khối lượng lớn của những tài liệu và những tuyên bố chắc chắn về
sự tiến hóa của ngôn ngữ loài người – một điều mà tự thân nó, người ta cũng có
thể thấy khá “khó hiểu”.
Chúng ta có thể bổ sung thêm một hiểu biết sâu xa khác của triết học thế
kỷ 17 và 18, có nguồn gốc từ phân tích của Aristotle về những gì sau này được
hiểu là những thực thể tâm lý: rằng ngay cả những khái niệm cơ bản nhất của
ngôn ngữ con người cũng không liên quan với những đối tượng độc lập với não thức,
qua những phương tiện của một số liên hệ giống-như-tham chiếu giữa những biểu
tượng và những đặc điểm vật lý có thể nhận dạng được của thế giới bên ngoài, như
có vẻ là phổ quát trong những hệ thống giao tiếp của loài vật. Đúng hơn, chúng
là những sáng tạo của “những năng lực về nhận thức” vốn đem cho chúng ta những
phương tiện phong phú để tham chiếu về thế giới bên ngoài từ những góc nhìn
nhất định, nhưng được phân chia thành những hoạt động tâm lý vốn không thể thu
giảm về một “bản chất đặc biệt thuộc về” sự vật chúng ta đang nói đến, như Hume
đã tóm tắt một thế kỷ nghiên cứu. “Lý thuyết khởi đầu của ngữ nghĩa học” của
Julius Moravcsik là sự phát triển gần đây của một số ý tưởng này, từ nguồn gốc Aristotle
của chúng và có ý nghĩa phong phú với ngữ nghĩa ngôn ngữ tự nhiên.
Đây là những nhận xét quan trọng về ngữ nghĩa cơ bản của ngôn ngữ tự
nhiên, cho thấy rằng những yếu tố nguyên thủy nhất của nó có liên quan với thế
giới độc lập với não thức giống như những yếu tố bên trong của âm vị học, không
phải bởi quan hệ giống như quy chiếu nhưng là phần của một loại ngôn ngữ phức
tạp hơn đáng kể. quan niệm và hành động. Tôi không thể cố gắng giải thích ở
đây, nhưng tôi nghĩ những cân nhắc như vậy, nếu được theo đuổi một cách nghiêm
chỉnh, sẽ vén mở lên cho thấy rằng việc cố gắng đặt cơ bản ngữ nghĩa của ngôn
ngữ tự nhiên dựa trên bất kỳ loại quan hệ “từ-đối tượng” nào, cho dù khái niệm
được xây dựng về “đối tượng” có phức tạp đến đâu cũng là điều vô ích, cũng
giống như sẽ là vô ích nếu đặt cơ bản ngữ âm của ngôn ngữ tự nhiên dựa trên
quan hệ “ký hiệu-âm thanh”, trong đó âm thanh được coi như cấu trúc của những
sự kiện vật lý – có lẽ là cấu trúc bốn chiều không thể diễn tả được dựa trên
chuyển động của những phân tử, cùng với những câu hỏi tiếp theo được gửi đi tới
khoa vật lý, hay nếu ai đó muốn làm cho vấn đề càng trở nên vô vọng hơn, thì
tới cả khoa xã hội học. Mọi người đều đồng ý rằng những động thái này là sai
lầm khi nghiên cứu phương diện
âm thanh của ngôn ngữ và tôi nghĩ những kết luận cũng hợp lý về phương diện ý
nghĩa. Với mỗi lời nói-viết , có một sự kiện vật chất, nhưng điều đó không có
nghĩa là chúng ta phải tìm kiếm quan hệ thần thoại nào đó giữa một đối tượng
bên trong như âm tiết [ta] và một sự kiện độc lập với não thức có thể nhận dạng
được; và với mỗi hành động quy chiếu, có một phương diện phức tạp nào đó của thế giới được kinh nghiệm hay
tưởng tượng vốn hành động đó tập trung chú ý vào, nhưng điều đó không có nghĩa
là ngôn ngữ tự nhiên hiện hữu một quan hệ quy chiếu. Tôi nghĩ là không, ngay cả
ở mức độ nguyên thủy nhất.
Nếu điều này tổng quát là đúng hướng thì ít nhất có hai vấn đề cơ bản
nảy sinh khi chúng ta xem xét nguồn gốc của khả năng ngôn ngữ và vai trò của nó
trong sự xuất hiện đột ngột của khả năng trí thức con người: thứ nhất, ngữ
nghĩa cốt lõi của ý nghĩa tối thiểu – những yếu tố mang, gồm cả những yếu tố
đơn giản nhất trong số chúng; và thứ hai, những nguyên tắc cho phép kết hợp
không giới hạn những ký hiệu, được tổ chức theo thứ bậc, đem cho phương tiện
dùng ngôn ngữ ở nhiều phương diện.
Tương tự như vậy, lý thuyết cốt lõi của ngôn ngữ – ngữ pháp phổ quát, UG –
trước tiên phải đem cho một kho có cấu trúc những thông tin về đơn vị từ vựng
có thể có liên quan với, hay có lẽ giống hệt với những khái niệm là thành phần
của “khả năng nhận thức” và thứ hai, có nghĩa là xây dựng từ những đơn vị từ
vựng này vô số cấu trúc bên trong đi vào suy nghĩ, diễn giải, lập kế hoạch và
những hành vi tâm lý khác của con người, và đôi khi được thể hiện ra bên ngoài,
một tiến trình thứ cấp nếu những giả thuyết vừa được xem xét hóa ra là đúng. Về
vấn đề đầu tiên, bộ máy từ vựng-khái niệm rõ ràng là dành riêng cho con người,
có một nghiên cứu sâu xa về những khái niệm quan hệ được liên kết với cấu trúc
cú pháp và về những đối tượng bên trong não thức một phần dường như đóng một
vai trò quan trọng (sự kiện, mệnh đề, v.v.). Nhưng có rất ít những nhận xét
mang tính mô tả về bộ máy viện dẫn cốt lõi được dùng để nói về thế giới. Vấn đề
thứ hai đã trở thành trọng tâm của nghiên cứu ngôn ngữ trong nửa thế kỷ qua,
với một lịch sử lâu dài trước đó trong những những lý thuyết, phương pháp hoặc
thuật ngữ khác nhau so với hiện nay.
Phương pháp nghiên cứu giải quyết sinh-ngôn ngữ học ngay từ đầu đã áp
dụng quan điểm vốn nhà thần kinh học nhận thức R. G. Gallistel ngày nay gọi là “chuẩn
mực trong khoa học thần kinh”, “quan điểm học tập theo mô-đun”: kết luận rằng trong
tất cả những loài động vật, việc học tập đều dựa trên những hệ thống phân tích
và lựa chọn chuyên biệt, “bản năng để học” theo những cách cụ thể. Ông đề nghị
rằng chúng ta nên coi những hệ thống phân tích và lựa chọn này như “những cơ
quan bên trong não”, đạt được những trạng thái trong đó chúng thực hiện những
loại đặc biệt của tính toán. Ngoài “môi trường cực kỳ thù địch”, chúng còn thay
đổi trạng thái dưới tác đông của kích động và định hình của những yếu tố bên
ngoài, ít nhiều mang tính phản xạ và phù hợp với thiết kế bên trong. Đó là “tiến
trình học tập”, mặc dù “tăng trưởng” có thể là một từ ngữ thích hợp hơn, tránh
những ý nghĩa sai lệch về từ ngữ “học tập”. Người ta có thể liên hệ những ý
tưởng này với công trình bách khoa toàn thư của Gallistel về tổ chức của chuyển
động, dựa trên “những ràng buộc về cấu trúc” đặt ra “những giới hạn với những
loại giải pháp vốn loài vật sẽ đưa ra trong một hoàn cảnh học tập”.
Dĩ nhiên, quan điểm mô-đun của việc học không đòi hỏi rằng những thành
phần của mô-đun là duy nhất với nó: ở một mức độ nào đó, mọi người đều cho rằng
chúng không phải như vậy – thí dụ như tế bào. Câu hỏi về mức độ tổ chức vốn tại
đó những thuộc tính độc nhất xuất hiện vẫn là một câu hỏi cơ bản theo quan điểm
sinh học, giống như tại hội nghị năm 1974. Những nhận xét của Gallistel gợi lại
khái niệm “kênh hóa” [6] được C. H.
Waddington đưa vào sinh học tiến hóa và phát triển cách đây sáu mươi năm, nhắc
đến những tiến trình “được điều chỉnh để mang lại một kết quả cuối cùng xác
định bất kể những thay đổi nhỏ về điều kiện trong tiến trình phản ứng”. do đó
bảo đảm “việc sản xuất loại bình thường, đó là loại tối ưu khi đối mặt với
những nguy cơ hiện hữu không thể tránh khỏi”. Đó xem có vẻ là một mô tả hợp lý
về sự phát triển ngôn ngữ của mỗi cá nhân. Vấn đề cốt lõi của nghiên cứu của
khả năng ngôn ngữ là để khám phá những hệ thống phân tích và lựa chọn vốn giới
hạn những kết quả với “loại tối ưu”. [7]
Đã được nhình nhận, từ những nguồn gốc của sinh học thời nay, rằng những
giới hạn phát triển bên ngoài của sinh vật và những nguyên tắc cấu trúc-kiến
trúc không chỉ ảnh hưởng đến sự phát triển của sinh vật nhưng còn ảnh hưởng đến
tiến trình tiến hóa của chúng. Trong một bài viết kinh điển đương thời, Maynard
Smith và những cộng sự đã truy nguyên phiên bản sau-Darwin ngược về từ Thomas
Huxley, người đã bị ấn tượng bởi sự kiện là dường như có “những dòng biến đổi
được định sẵn” dẫn đến tiến trình chọn lọc tự nhiên “tạo ra những giống có số
lượng và loại hạn chế” cho mọi loài. Họ xem xét nhiều giới hạn như vậy trong
thế giới hữu cơ và mô tả “những giới hạn về sự biến đổi kiểu hình” “gây ra bởi
cấu trúc, đặc điểm, thành phần hay động lực của hệ thống phát triển”. Họ cũng
cho thấy rằng “những giới hạn phát triển như vậy chắc chắn đóng một vai trò
quan trọng trong tiến trình tiến hóa” mặc dù vẫn “có rất ít sự đồng ý về sự
quan trọng của chúng so với sự lựa chọn, sự trôi dạt và những yếu tố khác trong
việc hình thành lịch sử tiến hóa”. Vào khoảng thời gian đó, Jacob đã viết rằng “những
quy luật điều khiển sự phát triển phôi thai”, gần như hoàn toàn chưa được biết
đến, tác động qua lại với những yếu tố vật lý khác để “giới hạn những thay đổi
có thể có về cấu trúc và chức năng” trong tiến trình phát triển tiến hóa, đem
cho “ những ràng buộc về kiến trúc” “giới hạn phạm vi thích ứng”. và kênh những
mô hình tiến hóa”, trích dẫn một bài viết thẩm định giá trị gần đây. Những nhân
vật nổi tiếng nhất đã cống hiến phần lớn công việc của mình cho những đề tài
này là D’Arcy Thompson và Alan Turing, những người có quan điểm rất mạnh mẽ về
vai trò trung tâm của những yếu tố như vậy trong sinh học. Trong những năm gần
đây, những cân nhắc như vậy đã được đưa ra cho một loạt những vấn đề về phát
triển và tiến hóa, từ sự phân chia tế bào ở vi khuẩn đến tối ưu hóa cấu trúc và
chức năng của mạng lưới vỏ não, ngay cả đưa lên rằng những sinh vật có “bộ não
tốt nhất trong tất cả những bộ não có thể có”, như nhà khoa học thần kinh điện toán
Chris Cherniak biện luận. Những vấn đề nằm là ranh giới của khảo sát , nhưng ý
nghĩa quan trọng của chúng thì không gây tranh luận.
Giả định rằng khả năng ngôn ngữ có những thuộc tính tổng quát của những
hệ thống sinh học khác, do đó chúng ta nên tìm kiếm ba yếu tố vốn đi vào sự
phát triển của ngôn ngữ cá nhân:
(1) Những yếu tố di truyền, nhìn bên ngoài gần như đồng nhất với loài,
đề tài của UG. Bẳm sinh di truyền diễn giải phần của môi trường như kinh nghiệm
ngôn ngữ, một nhiệm vụ không tầm thường vốn trẻ sơ sinh thực hiện theo phản xạ
và quyết định tiến trình phát triển tổng quát của sự phát triển của khả năng
ngôn ngữ với những ngôn ngữ vốn trẻ đạt được.
(2) Kinh nghiệm, dẫn đến sự thay đổi, trong một phạm vi khá hẹp, như
trong trường hợp những hệ thống phụ khác của khả năng con người và sinh vật
trong tổng quát.
(3) Những nguyên tắc không đặc biệt dành riêng cho khả năng của ngôn
ngữ.
Yếu tố thứ ba gồm những nguyên tắc về kiến trúc cấu trúc giới hạn kết
quả, gồm những nguyên tắc tính toán hiệu quả, được cho là có ý nghĩa đặc biệt
với những hệ thống tính toán như ngôn ngữ, xác định đặc điểm chung của những
ngôn ngữ có thể đạt được.
Người ta có
thể truy nguyên quan tâm trong yếu tố thứ ba về trực giác theo Galileo rằng “Tự
nhiên thi hoàn hảo”, từ thủy triều đến đường bay của loài chim, và nhiệm vụ của
nhà khoa học là khám phá xem điều này đúng theo nghĩa nào. Tự tin của Newton
rằng Tự nhiên phải là “rất đơn giản” phản ảnh cùng trực giác. Cho dù có thể khó
hiểu đến đâu, thì trực giác đó về những gì vốn Ernst Haeckel gọi là “động lực
hướng tới cái đẹp” của thiên nhiên (“Sinn fuer das Schoene”) đã là đề tài định
hướng của khoa học thời nay kể từ nguồn gốc thời nay của nó.
Những nhà
sinh vật học có khuynh hướng nghĩ khác về những đối tượng nghiên cứu của họ, áp
dụng hình ảnh thiên nhiên của Jacob như một người thích
sửa chữa và thử nghiệm, làm điều tốt nhất có thể với những vật liệu sẵn có
– thường là một công việc khá vụng về, vì óc thông minh của con người dường như
có ý định chứng minh về chính nó . Nhà di truyền học người Anh Gabriel Dover
nắm bắt được quan điểm phổ biến khi ông kết luận rằng “sinh học là một công
việc kỳ lạ và lộn xộn và ‘sự hoàn hảo’ là từ cuối cùng người ta dùng để mô tả
cách thức hoạt động của những sinh vật, đặc biệt với bất kỳ gì được tạo ra bởi
chọn lọc tự nhiên” – mặc dù chỉ được tạo ra trong một phần là do chọn lọc tự
nhiên, như ông nhấn mạnh, và như mọi nhà sinh vật học đều biết, và ở một mức độ
nào đó không thể định lượng được bằng những dụng cụ hiện có. Những kỳ vọng này
có ý nghĩa tốt với những hệ thống có lịch sử tiến hóa lâu dài và phức tạp, với
rất nhiều tai nạn, những ảnh hưởng kéo dài của lịch sử tiến hóa dẫn đến những
giải pháp không tối ưu cho những vấn đề, v.v. Nhưng lôgích không áp dụng với xuất
hiện tương đối đột ngột, vốn chúng rất có thể dẫn đến những hệ thống không
giống những thành quả phức tạp của – những đặc điểm phức tạp và không hoàn hảo
ở sinh vật sống được hình thành qua tiến trình thử nghiệm và sai sót trong hàng triệu năm của tiến hóa – [8] theo như Jacob, có lẽ giống những bông tuyết hơn, hay phyllotaxis, hay
sự phân chia tế bào thành hình cầu hơn là hình khối hay khối đa diện làm vật
liệu xây dựng hay nhiều thứ khác được tìm thấy trong thế giới tự nhiên. Chương Trình
Tối Giản được được thúc đẩy bởi nghi ngờ rằng một gì đó như thế thực sự có thể
đúng với ngôn ngữ con người, và tôi nghĩ rằng những nghiên cứu gần đây đã đưa
ra một số lý do để tin rằng ngôn ngữ trong nhiều phương diện là giải pháp tối
ưu cho những điều kiện vốn nó phải đáp ứng, nhiều hơn những gì có thể dự đoán
được vài năm trước. [9]
Quay trở lại
những ngày đầu, trong khuôn khổ của thuyết cấu trúc/hành vi của những năm 1950,
những tương tự gần nhất với UG đã là những tiến trình nghiên cứu giả quyết do
Trubetzkoy, Harris và những người khác nghĩ ra để xác định những đơn vị ngôn
ngữ và những mẫu thức của chúng từ một kho những văn bản dữ liệu ngôn ngữ. Tốt
nhất, những tiến trình này không thể đạt được rất xa, bất kể kho dữ liệu rộng
lớn và những thiết bị điện toán đem dùng tân tiến đến đâu. Ngay cả những hình thức
cơ bản và những yếu tố mang ý nghĩa, những hình vị, cũng không có thuộc tính “những
hạt gọn gàng trên một chuỗi dài” cần thiết cho những những tiến trình nghiên
cứu giả quyết, nhưng liên quan gián tiếp hơn nhiều với hình thức ngữ âm. Bản
chất và những thuộc tính của chúng đều là cố định bên trong hệ thống tính toán
trừu tượng hơn vốn xác định phạm vi không giới hạn của những biểu thức. Do đó,
những phương pháp nghiên cứu giải quyết sớm nhất với ngữ pháp phát sinh đã giả
định rằng thiên tư di truyền đem cho một hình thức cho những hệ thống quy luật
và một phương pháp để lựa chọn cách diễn đạt tối ưu của nó, dựa trên dữ liệu
kinh nghiệm đã cho. Những đề nghị cụ thể đã được tạo ra khi đó và trong những
năm tiếp theo. Trên nguyên tắc, chúng đem cho một giải pháp hứa hẹn cho vấn đề
tiếp thu ngôn ngữ, nhưng triển khai thực tiễn bị cản trở bởi sự phức tạp và lớn
lao quá mức của tính toán điện toán, khiến nó không hiệu quả trong việc giải
quyết vấn đề.
Những quan tâm chính trong những năm đó khá
khác nhau và hiện nay chúng vẫn như vậy. Ngày nay có thể khó tin, nhưng cách
đây 50 năm người ta thường cho rằng kỹ thuật cơ bản của sự mô tả ngôn ngữ đã có
sẵn và rằng những ngôn ngữ có thể thay đổi rất nhiều và hầu như không giới hạn,
[10] khiến triển vọng khám phá những khái quát có thể áp dụng rộng rãi có vẻ
mong manh. Ngay khi những cố gắng đã thực hiện để đem cho những giải thích khá
rõ ràng về những thuộc tính của ngôn ngữ, người ta lập tức nhận ra rằng kiến
thức về bất kỳ lĩnh vực nào cũng được biết rất ít. Mỗi nêu lên cụ thể đều
mang lại một kho tàng của những bằng chứng phản bác, đòi hỏi những hệ thống quy
luật phức tạp và đa dạng, ngay cả để đạt được mức độ gần đúng rất giới hạn với
mức độ đầy đủ mô tả. Điều đó đã khuyến khích nhiều cho nghiên cứu ngôn ngữ,
nhưng cũng để lại một tình thế khó khăn nghiêm trọng, vì những suy xét cân nhắc
cơ bản nhất đã dẫn đến kết luận rằng UG phải áp đặt những giới hạn chật hẹp trên
những kết quả có thể xảy ra nhằm giải thích cho sự việc tiếp thu ngôn ngữ,
nhiệm vụ đạt được “sự giải thích thỏa đáng”, được gọi như vậy. Đôi khi những
vấn đề này được gọi là “sự nghèo nàn của những tác nhân kích
thích” trong
nghiên cứu ngôn ngữ, mặc dù từ ngữ này gây hiểu nhầm vì đây chỉ là một trường
hợp đặc biệt của những vấn đề cơ bản vốn nảy sinh phổ biến cho sự tăng trưởng
hữu cơ, gồm cả tăng trưởng nhận thức, một biến thể của những vấn đề đã được
nhận ra từ thời Plato. [11]
Một số con
đường đã theo đuổi để cố gắng giải quyết những ý tưởng xung đột về cách ngôn
ngữ được tiếp thu. Thành công nhất hóa ra là những cố gắng để hình thành những
nguyên tắc tổng quát, được gán cho là của UG – tức là
năng khiếu di truyền – để lại một phần nhỏ những hiện tượng còn sót lại vốn bằng cách nào đó sẽ xuất phát từ kinh nghiệm. Những phương pháp nghiên cứu giải quyết này đã có một số thành công,
nhưng những căng thẳng cơ bản – giữa nhu cầu về những quy tắc bẩm sinh nghiêm ngặt
và sự phức tạp của dữ liệu ngôn ngữ trong thế giới thực – vẫn chưa được giải
quyết tại thời điểm của hội nghị năm 1974.
Chỉ trong
vòng vài năm, cảnh quan đã thay đổi đáng kể. Một phần đây là kết quả của một
loạt những tài liệu mới từ những nghiên cứu có nhiều chiều sâu hơn so với
trước, một phần từ việc mở ra những đề tài mới để nghiên cứu. Khoảng 25 năm
trước, phần lớn công việc này đ ãkết tinh trong một phương pháp nghiên cứu giải
quyết hoàn toàn khác với UG, là khung cấu trúc khái niệm “những nguyên tắc và những
tham số” (P&P)[12], vốn lần đầu tiên đem cho hy vọng của việc khắc phục sự căng thẳng giữa
tính tính mô tả và tính giải thích thỏa đáng. Phương pháp nghiên cứu giải quyết
này đã nhằm loại bỏ hoàn toàn khung cấu trúc khái niệm hình thức, và với nó, là
khái niệm truyền thống về những quy luật và xây dựng đã được áp dụng rất nhiều
vào ngữ pháp phát sinh. Khi làm như vậy, nó đánh dấu một sự thay đổi triệt để
hơn nhiều với truyền thống ngôn ngữ phong phú của 2.500 năm qua, so với ngữ
pháp phát sinh ban đầu. Khung P&P (Nguyên tắc và Tham số) mới đã dẫn đến sự
bùng nổ của việc tìm hiểu những ngôn ngữ có kiểu hình đa dạng nhất, dẫn đến
những vấn đề mới trước đây chưa được hình dung, đôi khi là những trả lời và sự
hồi sinh của những ngành lân cận liên quan đến việc tiếp thu và tiến hnahf ngôn
ngữ, những câu hỏi hướng dẫn của chúng hiện được định hình lại theo hướng thiết
lập tham số trong một hệ thống nguyên tắc cố định của UG. Không ai am hiểu lĩnh
vực này ngày nay có ảo tưởng rằng chân trời nghiên cứu ngay cả còn có thể nhìn
thấy được, chứ đừng nói đến việc hiện hữu trong tầm
tay.
Việc từ bỏ
khung cấu trúc khái niệm định dạng cũng có tác động đáng kể đến chương trình
sinh-ngôn ngữ học . Như đã được giả định, việc thu hút là vấn đề lựa chọn trong
số những tùy chọn có sẵn theo định dạng do UG đem cho, thì định dạng đó phải
phong phú và có tính khớp nối cao, cho phép tương đối ít tùy chọn; mặt khác, sự
giải thích thỏa đáng là ngoài tầm với. Lý thuyết tốt nhất về ngôn ngữ phải là
một lý thuyết rất không thỏa đáng xét từ những quan điểm khác, với một loạt
những điều kiện phức tạp dành riêng cho ngôn ngữ của con người, giới hạn khả
năng diễn đạt. Vấn đề sinh học cơ bản của sự giải thích có nguyên tắc hầu như
không thể được xem xét, và do đó, triển vọng cho một nghiên cứu nghiêm chỉnh
nào đó về sự tiến hóa của ngôn ngữ là mờ mịt; rõ ràng, những điều kiện cụ thể
của ngôn ngữ càng đa dạng và phức tạp thì càng ít hy vọng về một giải thích duy
lý về nguồn gốc tiến hóa của UG. Đây là một trong những câu hỏi được nêu ra tại
hội nghị chuyên môn năm 1974 và những câu hỏi khác trong thời kỳ đó, nhưng chúng
dường như vẫn là những vấn đề không thể giải quyết được.
Khung cấu
trúc khái niệm P&P cũng đưa ra triển vọng giải quyết những căng thẳng này.
Trong chừng mức khung này chứng minh là hợp lệ, việc thu thập là một vấn đề thiết lập tham số, và do đó được tách hoàn toàn
khỏi định dạng còn lại cho ngữ pháp: những nguyên tắc của UG. Không còn có một mặt
khái niệm rào cản với hy vọng rằng UG có thể được thu giảm về thành một dạng
đơn giản hơn nhiều, và rằng những thuộc tính cơ bản của hệ thống tính toán của
ngôn ngữ có thể có một giải thích nguyên tắc thay vì được quy định trong những
thuạt ngữ của một hình thức đặc biệt rất nghiêm ngặt chặt chẽ cho những ngữ
pháp. Quay trở lại với ba yếu tố của thiết kế ngôn ngữ, việc áp dụng khung
P&P vượt qua một rào cản khái niệm khó khăn để chuyển gánh nặng của giải
thích từ yếu tố (1), thiên tư di truyền sang yếu tố (3), những nguyên tắc độc lập-ngôn
ngữ của kiến trúc cấu trúc và tính toán hiệu quả, từ đó đem cho một số trả lời
cho những câu hỏi nền tảng của sinh học của ngôn ngữ, bản chất và cách dùng của
nó, và có lẽ cả sự tiến hóa của nó.
Khi đã vượt
qua được những rào cản khái niệm do khung cấu trúc khái niệm định dạng áp đặt, chúng
ta có thể cố gắng thực tế hơn, để làm rõ câu hỏi về những gì cấu thành một giải
thích có nguyên tắc cho những thuộc tính của ngôn ngữ và chuyển sang một trong
những câu hỏi cơ bản nhất của sinh học về ngôn ngữ – đến mức độ nào ngôn ngữ
xấp xỉ một giải pháp tối ưu cho những điều kiện nó phải đáp ứng để là có thể đem
dùng được, dựa trên kiến trúc cấu trúc ngoài-ngôn ngữ? Những điều kiện này đem chúng
ta trở lại với đặc tính truyền thống của ngôn ngữ kể từ Aristotle, như một hệ
thống liên kết âm thanh và ý nghĩa. Trong những từ ngữ của chúng ta, những biểu
thức do ngôn ngữ tạo ra phải đáp ứng hai điều kiện giao tiếp: những điều kiện được áp đặt bởi hệ thống giao tiếp cảm giác-vận động và bởi hệ thống giao tiếp khái niệm-chủ định đi vào khả năng trí thức của con người và sự đa dạng của những hành vi
lời nói.
Chúng ta có
thể coi một giải thích của những thuộc tính của ngôn ngữ như nguyên tắc trong
chừng mức nó có thể được thu giảm về thành những thuộc tính của hệ thống giao tiếp
tác động và những cân nhắc tổng quát về hiệu quả tính toán và những tương tự.
Một cách độc lập, những hệ thống giao tiếp tác động có thể được nghiên cứu
riêng, gồm cả nghiên cứu so sánh đã được tiến hành một cách hiệu quả. Và điều
tương tự cũng đúng với những nguyên tắc tính toán hiệu quả, được nhiều nhà
nghiên cứu áp dụng vào ngôn ngữ trong công trình gần đây với những kết quả quan
trọng, và có lẽ cũng có thể sửa đổi theo nghiên cứu so sánh. Do đó, bằng nhiều
cách khác nhau, có thể vừa làm rõ vừa giải quyết một số vấn đề cơ bản của sinh
học của ngôn ngữ.
Ở điểm này,
chúng ta phải chuyển sang thảo luận kỹ thuật hơn như có thể được ở đây, nhưng
ít nhất một vài nhận xét không chính thức có thể giúp phác họa cảnh quan tổng
quát.
Một sự kiện
cơ bản về khả năng ngôn ngữ là nó là một hệ thống của “vô hạn rời rạc” [13] cho phép tạo ra một số lượng vô hạn những câu duy nhất bằng dùng một
tập hợp hữu hạn những yếu tố (như từ và quy luật), – thì hiếm có trong thế giới hữu cơ. Bất kỳ hệ thống nào như
vậy đều dựa trên một phép biến đổi cú pháp nguyên thủy lấy những đối tượng đã
được xây dựng và xây dựng từ chúng một đối tượng mới: trong trường hợp đơn giản
nhất là tập hợp chứa chúng. Gọi phép biến đổi cú pháp đó là Hợp nhất [14]. Hợp nhất hoặc một gì đó tương đương là một đòi hỏi tối thiểu. Với Hợp
nhất có sẵn, chúng ta tức thời có một hệ thống vô hạn của những biểu thức có
cấu trúc thứ bậc. Giải thích đơn giản nhất về “Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại” trong tiến
trình tiến hóa của con người là bộ óc đã được “cài đặt, mắc nối”lại, có lẽ bằng
một số đột biến nhỏ, để đem cho phép biến đổi cú pháp Hợp nhất, đồng
thời đặt phần cốt lõi của nền tảng cho những gì được tìm thấy ở đó, khoảnh khắc
quan trọng của tiến trình tiến hóa loài người: ít nhất là trên nguyên tắc; – hiểu
hay giải thích hoạt động của Hợp nhất (hoặc một gì tương đương) ra đời và nó
dẫn đến sự tiến hóa của ngôn ngữ như thế nào, bằng ghép nối những bằng chứng hay
thông tin khác nhau tạo thành hiểu biết hay giải thích hoàn chỉnh cho nó, thì không
là một vấn đề đơn giản [15]. Có những giả thuyết về sự tiến hóa của ngôn ngữ đã đưa lên một tiến trình
từng bước một, phức tạp hơn,
Theo những lý
thuyết này, bước đầu tiên có thể là đột biến gen cho phép tạo ra những biểu
thức hai-đơn vị, có thể mang lại lợi thế về tiến hóa bằng cách giảm bớt ký ức cần
thiết để nhớ những mục từ vựng riêng lẻ. Những đột biến tiếp theo sau đó có thể
cho phép phát triển những biểu thức dài hơn, phức tạp hơn, cuối cùng đạt đến “Bước
Nhảy Vọt Vĩ Đại”, ở đó hoạt động biến đổi cú pháp gọi là Hợp nhất xuất hiện. Mặc
dù có thể những bước trung gian này đã xảy ra, nhưng không có bằng chứng thực
nghiệm cụ thể hoặc khái niệm lý luận mạnh mẽ nào hỗ trợ cho ý tưởng này. Một giải
thích đơn giản và hợp lý hơn là những giai đoạn trước đó chưa bao giờ xảy ra.
Thay vào đó, Bước Nhảy Vọt Vĩ Đạ có thể là một sự kiện tức thời, phát sinh từ
một cá nhân duy nhất, người đã đạt được khả năng trí tuệ vượt xa những người
cùng thời do một đột biến gen nhỏ. Những khả năng này sẽ được truyền lại cho
con cháu họ, cuối cùng trở nên phổ biến trong quần thể. Tất nhiên, giả thuyết
này chỉ là phỏng đoán, giống như tất cả những ý tưởng về những tiến trình tiến
hóa cổ xưa như vậy. Tuy nhiên, đây là giải thích đơn giản nhất hiện có và không
mâu thuẫn với những gì đã biết hoặc suy luận hợp lý về tiến hóa của con người.
Trên thực tế, rất khó để tưởng tượng ra bất kỳ giải thích đáng tin cậy nào về
tiến hóa của con người nhưng lại không giả định ít nhất đến chừng này, dưới
dạng này hay dạng khác.
Những câu
hỏi tương tự nảy sinh khi chúng ta xem xét sự phát triển của ngôn ngữ trong mỗi
cá nhân. Người ta thường cho rằng trẻ em tiến triển qua những giai đoạn, bắt
đầu bằng giai đoạn hai-từ, sau đó là giai đoạn ba-từ và cuối cùng đạt đến “bước
nhảy vọt vĩ đại” cho phép tạo ra những câu dài không giới hạn. Sự tiến triển
này thể hiện rõ trong cách dùng ngôn ngữ có thể quan sát được của trẻ (hiệu năng).
Tuy nhiên, những nghiên cứu cho thấy ngay cả ở giai đoạn đầu, trẻ em có khả
năng hiểu những biểu thức phức tạp hơn nhiều so với khả năng của chúng. Hơn
nữa, nếu những câu dài hơn được sửa đổi ngẫu nhiên – chẳng hạn như bằng cách
đặt sai vị trí những từ chức năng theo cách vi phạm Ngữ pháp phổ quát (UG),
hoặc ngôn ngữ của người lớn của chúng – trẻ em thường trở nên bối rối và hiểu
sai ý nghĩa. Điều này cho thấy rằng khả năng của Hợp nhất không giới hạn và những
thành phần khác của UG có thể đã có đầy đủ trong đứa trẻ ngay từ đầu. Tuy
nhiên, những khả năng này có vẻ chỉ dần dần phát triển do những yếu tố bên
ngoài như những giới hạn về trí nhớ, những hạn chế về sự chú ý và những ảnh
hưởng tương tự. Những ý tưởng này lần đầu tiên được khám phá trong những thảo
luận tại hội thảo năm 1974 và ngày nay, những tiến bộ trong những phương pháp
nghiên cứu cho phép nhiều những điều tra hệ thống và hiệu quả hơn nhiều vào
trong những câu hỏi này.
Trường hợp cơ
bản giới hạn nhất của Hợp nhất hoạt động trên một đối tượng duy nhất, tạo một
tập hợp đơn lẻ. Khi giới hạn trong trường hợp đơn giản nhất này, Hợp nhất đem
cho hàm kế tiếp [16], Từ điểm khởi đầu này, toàn bộ cấu trúc của những số tự nhiên có thể
được phát triển bằng những phương pháp trong những cách quen thuộc. Ý tưởng này
đưa ra một trả lời có thể có được cho một vấn đề đã khiến Alfred Russel Wallace
vô cùng bối rối vào cuối thế kỷ 19: theo cách nói của ông, – sự phát triển vượt
bậc về khả năng toán học hoàn toàn không thể giải thích được bằng thuyết chọn
lọc tự nhiên, vì khả năng này dường như không được dùng trong hầu hết lịch sử
loài người. Ông cho rằng nguồn gốc của nó có thể nằm ở một nguyên nhân hoàn
toàn khác. Một giải thích có thể có là những số tự nhiên là kết quả của một
giới hạn đơn giản trong khả năng ngôn ngữ, thay vì là một món quà thiêng liêng,
phù hợp với nhận xét nổi tiếng của Leopold Kronecker rằng những số nguyên được Gót
ban cho, phù hợp với câu cách ngôn nổi tiếng của Kronecker, mặc dù nhũng gì còn
lại trong toán học là do con người tạo ra, như ông nói tiếp tục. Quan niệm cho
rằng khả năng toán học có thể xuất hiện như một sự trừu tượng hóa từ những hoạt
động ngôn ngữ đã được khám phá trước đây. Tuy nhiên, vẫn còn những thách thức,
chẳng hạn như sự tách biệt giữa khả năng ngôn ngữ và toán học do tổn thương não
và vị trí khác nhau của chúng trong não; nhưng sự quan trọng của những hiện
tượng đó không rõ ràng vì nhiều lý do (gồm cả vấn đề sở hữu và dùng khả năng).
Có thể có một gì đó liên quan với những giả thuyết này, có lẽ theo những hướng
vừa được chỉ ra. [17]
Những cân
nhắc cơ bản về hiệu quả tính toán đặt ra những điều kiện khác cho giải pháp tối
ưu cho nhiệm vụ liên kết âm thanh và ý nghĩa. Hiện nay đã có rất nhiều tài liệu
khám phá những vấn đề thuộc loại này, và tôi nghĩ có thể công bằng để nói rằng
đã có tiến bộ đáng kể trong việc hướng tới sự giải thích có nguyên tắc. Rõ ràng
hơn nữa là những nỗ lực này đã đáp ứng được một yêu cầu cơ bản cho một chương
trình nghiên cứu hợp lý: kích thích sự tìm tòi có khả năng khắc phục một số vấn
đề cũ trong khi nhanh chóng đưa ra ánh sáng những vấn đề mới, trước đây chưa
được công nhận ra và ngay cả khó có thể xây dựng được, đồng thời làm phong phú
thêm đáng kể những thách thức thực nghiệm về tính đầy đủ mang tính mô tả và
giải thích phải đối mặt; và lần đầu tiên, mở ra một triển vọng tực tế về việc
vượt xa sự giải thích thỏa đáng về phương diện nguyên tắc một cách đáng kể theo
những đường lối đã chỉ ra.
Việc tìm
kiếm giải thích có nguyên tắc phải đối mặt với những nhiệm vụ khó khăn. Chúng
ta có thể xây dựng những mục tiêu một cách rõ ràng hợp lý. Tất nhiên, chúng ta
không thể biết trước được mức độ đạt được những mục tiêu đó – tức là mức độ mà những
trạng thái của khả năng ngôn ngữ có thể gán cho những nguyên tắc tổng quát ,
thậm chí có thể áp dụng tổng quát cho những sinh vật. Với mỗi bước tiến tới mục
tiêu này, chúng ta hiểu rõ hơn những đặc tính cốt lõi đặc trưng cho khả năng
ngôn ngữ, vẫn còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết đã được nêu ra trong hàng
trăm năm. Trong số này có câu hỏi làm thế nào những thuộc tính “được gọi là tâm
lý” liên quan với “cấu trúc hữu cơ của não”, những vấn đề không thể giải quyết
ngay cả với loài côn trùng và với những phương
diện duy nhất và bí ẩn sâu xa khi chúng ta xem xét khả năng con người và
những nguồn gốc về tiến hóa của nó. [18]
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Aug/2024)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Ethology: hành vi động vật học: nghiên cứu về hành vi động vật, liên quan đến ngôn ngữ học
qua
việc làm nổi bật những hành vi bẩm sinh và những giai đoạn
quan trọng được thấy ở cả động vật và con người. Một số hành vi ở động vật, như
tiếng chim hót hay điệu bay múa của loài ong, là bản năng, nghĩa là chúng do bẩm
sinh, không phải do được học. Điều này tương tự như ý tưởng nêu lên trong ngôn
ngữ học, Noam Chomsky và Eric Lenneberg tích cực ủng hộ, rằng con người sở hữu
khả năng ngôn ngữ bẩm sinh, thường được gọi là “khả năng ngôn ngữ”; như một khả
năng sinh lý trong việc học và dùng ngôn ngữ. Tương tự như vậy, có những giai
đoạn quan trọng – những khoảng thời gian cụ thể trong tiến trình phát triển khi
một sinh vật đặc biệt nhạy cảm với việc học một số kỹ năng nhất định – đóng vai
trò trong cả hai lĩnh vực. Thí dụ, chim non phải được nghe tiếng hót trong những
giai đoạn cụ thể để tái tạo chúng sau này, trong khi con người cần được tiếp
xúc với ngôn ngữ ngay từ khi còn nhỏ (thường là trước tuổi dậy thì) để phát triển
những khả năng ngôn ngữ bình thường. Những hiểu biết này từ nghiên cứu hành vi động vật học đã ảnh
hưởng đến quan điểm sinh-ngôn ngữ học, coi ngôn ngữ như một đặc điểm sinh lý được
tiến trình tiến hóa hình thành, giống như truyền thông giao tiếp theo bản năng ở
loài động vật. Bằng so sánh ngôn ngữ của con người với hệ thống truyền thông giao
tiếp của động vật, những nhà nghiên cứu khám phá được nguồn gốc, sự tiến hóa và
tính độc đáo của ngôn ngữ loài người, nhấn mạnh nền tảng của nó trong sinh học.
[2] The
Minimalist Program /Chương
Trình Tối Giản: của Noam
Chomsky nhấn mạnh trên phương
pháp nghiên cứu giải quyết đơn giản hóa, hợp lý hóa để hiểu ngôn ngữ. Ý tưởng
chính là cấu trúc của ngôn ngữ có thể được giải thích bằng một tập hợp của những
nguyên tắc cơ bản, phổ quát, vốn có ở con người và được chia sẻ trong tất cả
những ngôn ngữ. Phương pháp nghiên cứu giải quyết “tối giản” của Chomsky tìm
cách thu gọn ngôn ngữ thành những yếu tố cơ bản nhất của nó, tập trung vào
những qui luật cốt lõi cần thiết để tạo ra tất cả những ngôn ngữ có thể có. Nó loại bỏ những phức tạp không cần thiết, hướng đến cách giải thích tối giản và
tiết kiệm nhất về những cấu trúc ngôn ngữ, dựa trên giả định rằng ngôn ngữ được
một ngữ pháp phổ quát cơ bản chi phối. Phương pháp nghiên cứu giải quyết mới này trái ngược với những lý thuyết trước đây vốn đã đưa ra những qui luật phức tạp hơn, cụ thể cho từng ngôn
ngữ hoặc những ảnh hưởng từ bên ngoài.
[3] “the
conception is internalist, individual, and intensional” – Khái niệm
này mang tính nội tại, nghĩa là tập trung vào những tiến trình bên trong não thức; mang tính cá nhân, vì nó áp dụng cụ
thể cho từng người; và có chủ đích, vì nó nhấn mạnh vào những quy luật hoặc
nguyên tắc cơ bản hơn là những thí
dụ hoặc kết quả từ bên
ngoài. – intensional (with an “s”) and
intentional (with a “t”) : intensional nhấn mạnh trên sự tập trung vào xây dựng
những nguyên tắc nội tại (những quy luật của ngôn ngữ I) thay vì những gì nói
ra bên ngồi hoặc diễn giải bên ngoài (ý định).
[4] “essential” = thiết yếu : không thể thiếu hay cơ bản. Chomsky lập luận rằng khả năng
ngôn ngữ là một tạo phần
quan trọng và di truyền của
năng lực trí tuệ con người. Nếu không có nó, sự phát triển và biểu hiện của tư
tưởng con người, cũng như những thay đổi về
phương diện xã hội và hành vi được quan sát thấy ở loài người, sẽ không thể xảy
ra. Do đó, ngôn ngữ không chỉ là một ‘phụ tùng’ cho nhận thức của con người; nhưng là trung tâm của những gì làm cho năng lực
trí tuệ của con người thành chỉ
có một (duy nhất giữa những động vật)
[5] “rewired”
hiểu như là
một số sự kiện di truyền đã thay đổi hoặc tổ chức lại cấu trúc hoặc chức năng của
não, có ý nhấn mạnh về sinh lý, vật
chất.
[6] “canalization” kênh hóa : đề cập đến tiến trình mà sự phát triển của một
số đặc điểm được định hướng theo những con đường cụ thể, dẫn đến kết quả nhất
quán và ổn định bất chấp sự thay đổi về điều kiện môi trường hoặc di truyền.
(như một kênh đào đảm bảo rằng nước chảy theo một hướng nhất)
[7] Hệ
thống phân tích và lựa chọn (Mechanism): Những tiến trình,
nguyên tắc hoặc cấu trúc cơ bản (sinh học, thần kinh hoặc tính toán) chi phối
cách ngôn ngữ được tạo ra và hiểu. Những loại tối ưu (optimal types): Những kết quả ngôn ngữ được coi là hiệu
quả, tự nhiên hoặc lý tưởng trên nhiều ngôn ngữ (thí dụ: tính đơn giản, dễ xử
lý hoặc tính phổ quát trong những mô hình). Nói
một cách đơn giản hơn, tuyên bố này nhấn mạnh rằng mục tiêu chính của nghiên cứu
ngôn ngữ là khám phá cách ngôn ngữ của con người được định hình bởi những ràng
buộc tích hợp đảm bảo ngôn ngữ phát triển theo những cách hiệu quả và được nhìn nhận phổ quát.
Một vấn đề trung tâm
trong nghiên cứu về khả năng của ngôn ngữ là để hiểu những tiến trình, nguyên tắc
hoặc hay cấu trúc nằm chìm dưới —cho dù là sinh học, thần kinh hay những liên
quan với tiến hành thông tin, al-gô-rít hay những quy luật hệ thống tương tự
như cách một cômputơ hoạt động—điều hành cách ngôn ngữ được tạo ra và nhận hiểu.
Những hệ thống phân tích và lựa chọn này đảm bảo rằng những kết quả ngôn ngữ nằm
trong những mẫu thức được coi là hiệu quả, tự nhiên hoặc lý tưởng trong mọi những
ngôn ngữ (yhis dụ: tính đơn giản, dễ tiến hành, hay tính phổ quát). Điều này
liên quan đến việc khám phá cách những hệ thống nội tại này định hình ngôn ngữ
để phản ánh hiệu quả và phổ quát một cách nhất quán, ngay cả trong bối cảnh đa
dạng ngôn ngữ..
[8] Nguyên văn – “the complex outcomes of millions
of years of Jacobian “bricolage” – những
cấu trúc hay hệ thống phức tạp và thường không hoàn hảo trong những sinh vật sống
đã tiến hóa trong thời gian dài qua tiến trình mày mò từng bước. Tiến trình này
gồm: (a) Dùng những nguồn lực sẵn có: Tiến hóa hoạt động với những gì đã có, dùng
lại những cấu trúc hoặc hệ thống phân tích và lựa chọn hiện có thay vì tạo ra
những cấu trúc hoặc hệ thống phân tích và lựa chọn hoàn toàn mới. (b) Thích ứng
không hoàn hảo: Những giải pháp được tạo ra bởi tiến trình này thường không tối
ưu, chứa đựng sự kém hiệu quả hoặc “gì còn thừa/sót lại” từ những giai đoạn tiến
hóa trước đó. (c) Kết quả từ sự ngẫu nhiên và lịch sử: Những kết quả bị ảnh hưởng
bởi những đột biến ngẫu nhiên, những tình huống bất ngờ trong lịch sử và áp lực
của môi trường, dẫn đến một sản phẩm cuối cùng “lộn xộn” nhưng có chức năng.
Đơn giản hơn, những
sinh vật và đặc điểm của chúng không được thiết kế hoàn hảo; chúng là kết quả của
tiến trình thử nghiệm và sai sót trong tiến hóa, giống như một người thợ sửa chữa
lắp ráp một thiết bị bằng bất kỳ dụng cụ và những vật liệu nào có sẵn. François
Jacob, một nhà sinh học phân tử đoạt giải Nobel, người đã mô tả sự tiến hóa là
một tiến trình “bricolage” (tiếng Pháp có nghĩa là “ mày mò”). Jacob coi thiên
nhiên như một người thợ sửa chữa làm việc với những vật liệu có sẵn, dùng lại
và sửa đổi chúng để giải quyết vấn đề thay vì tạo ra những thiết kế hoàn hảo, tối
ưu ngay từ đầu.
[9] Noam
Chomsky giới thiệu Mô hình Ba yếu tố trong bài viết có ảnh
hưởng của ông, Three Factors in Language Design, 2005, trên tạp
chí Linguistic Inquiry. Công trình này mở rộng những ý tưởng trước đó
của Chomsky về tiến trình tiếp thu ngôn ngữ và nền tảng sinh học của nó, kết
hợp những thấu hiểu từ khoa học nhận thức, sinh học và lý thuyết ngôn ngữ. Chomsky
xây dựng mô hình này dựa trên
tập trung lâu dài của ông vào Ngữ pháp
phổ quát (UG) trong khi nhìn nhận ảnh
hưởng của những yếu tố bổ sung. Mô hình đã phát
triển để đáp lại những chỉ trích về ngữ pháp phát sinh truyền thống, đặc biệt
là sự nhấn mạnh
mạnh mẽ của nó trên những cấu
trúc bẩm sinh. Bằng cách tích hợp những tiến bộ trong lý thuyết điện toán tính toán và sinh-ngôn ngữ
học, Mô hình tìm cách cân bằng những hệ thống phân tích và lựa chọn bẩm sinh
với những ảnh hưởng nhận thức tổng quát và bên ngoài. Mô hình
cung cấp giải thích toàn diện về cách ngôn ngữ phát triển ở những cá nhân, kết
hợp những nguyên tắc sinh học, môi trường và nhận thức. Ba yếu tố định hình sự
phát triển ngôn ngữ có thể tóm tắt
như sau:
1. Những yếu tố di truyền: Đây là
nền tảng sinh học cho tiến trình tiếp thu ngôn ngữ, thường gắn liền với Ngữ
pháp phổ quát. Cấu trúc bẩm sinh này trang bị cho con người khả năng diễn giải
input ngôn ngữ và phát triển ngôn ngữ theo phản xạ.
2. Kinh nghiệm: Kinh
nghiệm bao gồm input ngôn ngữ và những tác động
qua lại với môi trường vốn mở ra cho một cá
nhân tiếp xúc. Trong khi khả năng ngôn ngữ được prô-gram sẵn về phương diện sinh học, ngôn ngữ cụ thể (thí dụ: tiếng Anh, tiếng
Tàu, tiếng Swahili) mà một người học tùy thuộc vào
môi trường của chúng, dẫn đến sự khác biệt trong những ràng buộc do UG đặt ra.
3. Những nguyên tắc không đặc biệt dành
riêng cho ngôn ngữ: Đây là
những nguyên tắc nhận thức và vật lý tổng quát ảnh hưởng đến cách ngôn ngữ được
tiến hành và học nhưng không chỉ dành riêng cho khả năng ngôn ngữ. Thí dụ gồm những chức năng nhận thức như trí nhớ và sự chú ý,
cũng như tính toán hiệu quả,
vốn ưu tiên
cho những
giải pháp đơn giản hơn, tiết kiệm hơn trong tiến trình tiến hành ngôn ngữ.
Mô hình thể hiện sự thay đổi trong công trình của Chomsky, vượt ra ngoài
quan điểm thuần túy bẩm sinh bằng tích hợp vai trò của input môi trường và
những nguyên tắc nhận thức tổng quát. Phương
pháp nghiên cứu giải quyết này kết nối ngôn ngữ học với sinh học và khoa học
nhận thức, mang lại sự hiểu biết rộng hơn và thống nhất hơn về khả năng ngôn
ngữ của con người.
[10] Nói cách khác, có một giả định rằng những ngôn ngữ có thể khác nhau theo
hầu hết mọi cách có thể tưởng tượng được, với ít hoặc không có nguyên tắc chung
nào chi phối cấu trúc và sự phát triển của chúng
[11]
Trong Meno và Phaedo, Plato
giới thiệu thuyết hồi tưởng, nêu rằng việc học bao gồm việc nhớ lại kiến thức
bẩm sinh. Những ý tưởng này liên quan đến vấn đề “sự nghèo nàn của tác nhân kích thích” trong ngữ học, khám phá cách con người tiếp
thu kiến thức phức tạp từ những kinh
nghiệm thực tại rất giới hạn.
[12] Principles
and Parameters” (P&P) framework – Khung
Nguyên tắc và Tham số (P&P) là một lý thuyết đã phát
triển để giải thích ngôn ngữ hoạt động và được tiếp nhận thế nào. Lý thuyết này cho rằng tất cả những ngôn ngữ của
con người đều có chung một tập
hợp những nguyên tắc cơ bản (những quy luật hoặc cấu
trúc tổng quát), vốn là phần của
Ngữ pháp phổ quát (UG), một hệ thống bẩm sinh trong não của chúng ta. Tuy
nhiên, những ngôn ngữ có thể khác nhau về cách chúng dùng những
nguyên tắc này, và những
khác biệt này được những tham số xác định – những lựa chọn khác nhau giữa những
ngôn ngữ. Thí dụ, một tham số có thể là
liệu một ngôn ngữ có đặt chủ ngữ trước động từ (như trong tiếng Anh) hay sau động
từ (như trong tiếng Nhật) hay không. Ý tưởng
là trẻ em học một ngôn ngữ về cơ bản là “thiết lập” những tham số này dựa trên
kinh nghiệm ngôn ngữ mà chúng nhận được. Khung
P&P giúp giải thích cách những ngôn ngữ có thể vừa giống nhau (do những
nguyên tắc tổng quát, có chung) vừa
khác nhau (do những tham số đã chọn lưa khác
nhau). Nó cũng chuyển trọng tâm của việc tiếp thu ngôn ngữ từ việc học những quy
luật phức tạp (như trong những lý thuyết trước đó) sang điều chỉnh một vài cài
đặt hoặc lựa chọn trong một cấu trúc phổ quát. Phương pháp nghiên cứu này giải quyết những câu hỏi chính về cách ngôn ngữ
phát triển và cách nó được tiến hành trong
não.
[13] screte
infinity
[14] Merge
[15] một việc làm phức tạp và khó khăn. Nó cho thấy rằng trong khi ý tưởng về
một sự thay đổi đột ngột trong tiến hóa (Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại) có vẻ đơn giản
trên lý thuyết, nhưng vì liên quan đến nhiều câu hỏi phức tạp, chưa giải đáp,
làm nên khó khăn để hiểu hay giải thích đầy đủ.
[16] successor
function: Hàm
kế tiếp : là
một khái niệm cơ bản trong toán học và logic, đặc biệt là trong lý thuyết số và
nền tảng của số học. Đây là một hàm, khi áp dụng cho một số, sẽ tạo ra số kế tục trực tiếp của nó (số tiếp theo trong chuỗi). [S(0) = 0; S(n) = n+1]
[17] Noam
Chomsky nêu lên một so sánh cho thấy rằng có lẽ những số tự nhiên có thể xuất hiện từ cùng một tiến trình nhận thức cơ
bản của ngôn ngữ, khi nhấn mạnh
trên bản chất “bẩm
sinh” và “phổ quát” của những tiến trình
tinh thần cơ bản này vốn giúp
chúng ta hiểu và dùng ngôn ngữ
hay những số trong toán học, vốn chúng đều được xây dựng
trong não chúng ta..
(a) Merge / Hợp nhất như một nguyên lý phổ quát: Trong thuyết Ngữ pháp Phổ quát (UG) của Chomsky, Hợp nhất là một hoạt
động cơ bản – tạo phức
hợp bằng lập lại cùng quy luật – kết hợp những yếu tố cơ bản (như từ hoặc cụm
từ) thành những cấu trúc lớn hơn. Hoạt động này có trong tất cả những ngôn ngữ
của con người, bất kể những quy luật ngữ pháp cụ thể, khiến nó trở thành một
nguyên lý nhận thức phổ quát (‘con mèo’
, ‘tấm thảm’ > ‘con mèo nằm trên tấm thảm’). Dạng đơn giản nhất của Hợp nhất
tạo ra một “singleton set / tập hợp
có chỉ một phần tử”, một đối
tượng duy nhất kết hợp với chính nó. Hoạt động
này là nền
tảng cho những cấu trúc phức tạp hơn, cả trong ngữ học
và toán học.
(b) Successor
Function / Hàm số kế
tục như một hệ thống phân tích và lựa chọn nhận thức
Chomsky liên kết hoạt động Hợp nhất với Hàm Số Kế Tục:
S:N→N,S(n)=n+1
một tiến trình tạo phức hợp bằng lập lại cùng quy luật tạo ra những số
tự nhiên N , thí dụ:
0 là điểm bắt đầu.
1 là số kế tục của 0.
2 là số kế tục của 1, v.v.
Tiến trình tạo phức hợp bằng lập lại cùng quy luật này phản ảnh hoạt động
của Hợp nhất, cho thấy rằng những hệ thống phân tích và lựa chọn nhận
thức tạo ra ngôn ngữ cũng hỗ trợ việc tạo ra những số. Chomsky đưa lên giả thuyết rằng khả năng lý luận về những con số của chúng ta
có thể cũng bắt nguồn từ cùng một cấu trúc
nhận thức, khiến những
hoạt động ngữ pháp trong ngôn ngữ có thể xảy
ra.
Như vậy, Ngôn ngữ
và Toán học có chung một cơ sở
về nhận thức
: Ở đây, Merge và Hàm Số Kế Tục như những
hoạt động nhận thức (recursive/tạo phức
hợp bằng lập lại cùng quy tắc) phổ quát.
Merge là một nguyên lý trung tâm trong tất cả những ngôn ngữ, cho phép hình
thành những cấu trúc ngôn ngữ phức tạp, trong khi hàm số kế tục là một nguyên
lý nền tảng trong toán học, cho phép tạo ra những số tự nhiên. Những hệ thống
phân tích và lựa chọn (những tiến trình hoặc chức
năng tinh thần cơ bản cho phép chúng ta làm một việc gì đó. Chúng là “như thế
nào” đằng sau cách bộ não của chúng ta hoạt động để thực hiện những nhiệm vụ) này phản
ánh khả năng nhận thức bẩm sinh, chung cho lý luận trừu tượng, mở rộng trên cả
ngôn ngữ và toán học.Vắn tắt, Chomsky
lập luận rằng những hoạt động nhận thức chịu trách nhiệm cho ngôn ngữ và toán
học có liên hệ chặt chẽ với nhau, phát sinh từ những cấu trúc tinh thần phổ
quát và bẩm sinh.
[18] Tôi tạm tóm lược chương cuối ngắn nhưng có nhiều luận
thuyết quan trọng như sau:
Lý thuyết
của Noam Chomsky về cơ bản sinh học của ngôn ngữ con người đưa ra một lập luận
thu hút và thuyết phục, định vị ngôn ngữ như một khả năng bẩm sinh, độc nhất
của con người bắt nguồn từ tiến trình tiến hóa và khoa học nhận thức. Bằng cách
xem xét sự xuất hiện, hệ thống phân tích và lựa chọn cơ bản và ý nghĩa tiến hóa
của nó, Chomsky đem cho một khuôn khổ chi tiết để giải thích cách ngôn ngữ định
hình và được định hình bởi nhận thức và sinh học của con người.
Nền tảng sinh học của ngôn ngữ:
Chomsky cho rằng ngôn ngữ là một phần không thể thiếu của
những gì mà Alfred Russel Wallace gọi là “bản chất trí tuệ và đạo đức của con
người”, bao gồm những khả năng như trí tưởng tượng sáng tạo, lý luận tượng
trưng, toán học và những tác động hỗ tương xã hội phức tạp. Những khả năng này
phân biệt con người với những loài khác và được cho là đã kết tinh tương đối
gần đây về phương diện tiến hóa, khoảng 50.000 năm trước. Điều này đánh dấu một
sự thay đổi sâu xa trong tiến trình tiến hóa của con người, thường được gọi là “Bước Nhảy Vọt Vĩ Đại”,
khi con người phát triển những khả năng nhận thức độc đáo cho phép những hành
vi phức tạp như nghệ thuật, truyền bá văn hóa và tổ chức xã hội tiên tiến.Theo
quan điểm này, ngôn ngữ không chỉ là dụng cụ truyền thông giao tiếp mà còn là
đặc điểm xác định nhận thức của con người, cho phép tư duy trừu tượng, lập kế
hoạch và phát triển những xã hội phức tạp. Những gì nêu lên của Chomsky đặt
ngôn ngữ vào trung tâm của những gì khiến con người có khả năng lý luận sáng
tạo và tượng trưng độc đáo.
Ngôn ngữ như một chất xúc tác cho sự tiến hóa của con người
Chomsky,
được những nhà khoa học như Ian Tattersall ủng hộ, cho rằng sự ra đời của ngôn
ngữ đã thúc đẩy “Bước nhảy vọt vĩ đại”. Ngôn ngữ, với cú pháp phong phú và khả
năng tạo ra vô số tổ hợp ký hiệu, đã trở nên thiết yếu đối với tư duy biểu
tượng, giải quyết vấn đề và phát triển văn hóa. Không giống như những hệ thống
giao tiếp của động vật, thường cố định và hạn chế, ngôn ngữ của con người cho
phép sáng tạo không giới hạn, cho phép truyền tải những ý tưởng phức tạp, kiến
thức văn hóa và lý luận đạo đức qua nhiều thế hệ. Vai trò chuyển đổi này nhấn
mạnh tầm quan trọng của ngôn ngữ không chỉ là một hệ thống sinh học mà còn là
động lực chính thúc đẩy tiến trình tiến hóa và nhận thức của con người.
Nền tảng sinh học và di truyền
Chomsky lập
luận rằng khả năng ngôn ngữ là một hệ thống được ban tặng về phương diện sinh
học được “ký hiệu” trong di truyền học của con người. Ông đưa ra giả thuyết
rằng khả năng di truyền này là phổ biến trên toàn loài người, đem cho nền tảng
tổng quát cho việc tiếp thu ngôn ngữ. Cấu trúc bẩm sinh này cho phép trẻ sơ
sinh diễn giải môi trường ngôn ngữ của chúng và phát triển những kỹ năng ngôn
ngữ một cách dễ dàng trong phạm vi khả năng hạn hẹp. Chomsky ví khả năng ngôn
ngữ như những hệ thống sinh học khác, coi nó là mô-đun và bao gồm những hệ
thống phân tích và lựa chọn chuyên biệt hoặc “bản năng học hỏi”, được prô-gram
chặt chẽ vào não
người. Tính mô-đun này phản ánh thiết kế của những cơ quan khác, như mắt hoặc
hệ thống miễn dịch, được cấu hình sẵn để thực hiện những chức năng cụ thể.
Ba yếu tố của thiết kế ngôn ngữ
Chomsky xác
định ba yếu tố quan trọng hình thành nên khả năng ngôn ngữ của con người:
1.
Tài
sản di truyền: Một khung
di truyền bẩm sinh đem cho nền tảng cấu trúc cho ngôn ngữ.
2.
Kinh
nghiệm: Input và tác động hỗ tương môi trường hướng dẫn tiến trình tiếp thu
ngôn ngữ cụ thể, dẫn đến sự khác biệt trong cách diễn đạt ngôn ngữ.
3.
Nguyên
tắc tổng quát: những nguyên tắc về cấu trúc và tính toán, không chỉ giới hạn ở
ngôn ngữ, hạn chế kết quả ngôn ngữ và đảm bảo hiệu quả và tối ưu hóa. những
nguyên tắc này phản ánh những đặc tính sinh học rộng hơn và những ràng buộc
tiến hóa.
Mô hình ba
yếu tố này làm nổi bật tác động hỗ tương
giữa sinh học, kinh nghiệm và những nguyên tắc nhận thức tổng quát, nhấn mạnh
rằng ngôn ngữ phát sinh từ sự kết hợp giữa khuynh hướng bẩm sinh và những kích
thích từ môi trường.
Khung nguyên tắc và tham số
Một trong
những đóng góp có ảnh hưởng nhất của Chomsky là khuôn khổ Nguyên tắc và Tham
số (P&P). Theo mô hình này, tiến trình tiếp thu ngôn ngữ liên quan đến
việc thiết lập những tham số trong một hệ thống nguyên tắc ngôn ngữ phổ quát
được gọi là Ngữ pháp phổ quát (UG). Thay vì dựa vào những quy luật cụ thể của
ngôn ngữ, khuôn khổ P&P những gì nêu lên rằng sự đa dạng ngôn ngữ phát sinh
từ những biến thể tham số được định hình bởi input môi trường. Phương pháp
nghiên cứu giải quyết thanh lịch này làm giảm sự phức tạp của việc học ngôn
ngữ, nhấn mạnh những nguyên tắc cấu trúc phổ quát trong khi vẫn tính đến sự đa
dạng của ngôn ngữ loài người.
Hoạt động Hợp Nhất và ý nghĩa về tiến hóa
Trọng tâm
của lý thuyết của Chomsky là hoạt động Merge ,
một hệ thống phân tích và lựa chọn tính toán cho phép xây dựng những biểu thức
có cấu trúc phân cấp từ những thành phần đơn giản hơn. Merge được coi là nền
tảng của ngôn ngữ loài người, tạo điều kiện cho bản chất với thuộc tính của sự tạo phức hợp bằng lập lại cùng quy tắc, và vô hạn của nó. Chomsky đưa ra giả
thuyết rằng một đột biến gen nhỏ đã prô-gram lại não bộ để cho phép Merge, tạo
nền tảng cho cú pháp phức tạp và lý luận trừu tượng. Sự thay đổi đột ngột này
được coi là tia lửa tiến hóa dẫn đến “Bước Nhảy
Vọt Vĩ Đại”, khiến
ngôn ngữ loài người khác biệt về phương diện chất lượng so với những hình thức
giao tiếp khác của động vật.
Điểm mạnh của lập luận của Chomsky
Những gì nêu
lên của Chomsky có sức thuyết phục vì tính logic, phù hợp với những nguyên tắc
sinh học và sức mạnh giải thích của nó:
1. Khả năng hợp lý về phương diện sinh
học: Ý tưởng cho rằng ngôn ngữ là một khả năng sinh học phù hợp với khoa học
thần kinh, nơi những hệ thống phân tích và lựa chọn chuyên biệt được biết đến
để xử lý những phép tính cụ thể. Sự đồng nhất về phương diện di truyền giữa con
người hỗ trợ cho khái niệm về khả năng ngôn ngữ bẩm sinh.
2. Bối cảnh tiến hóa: Sự xuất hiện
nhanh chóng của ngôn ngữ phù hợp với bằng chứng khảo cổ học và những lý thuyết
về sự tiến hóa của loài người. Hoạt động Merge đưa ra giải thích hợp lý cho sự
xuất hiện đột ngột của những khả năng ngôn ngữ phức tạp.
3. Thanh nhã và đơn giản: Khung P&P làm giảm đòi
hỏi về những quy luật cụ thể của ngôn ngữ, thay vào đó tập trung vào những
nguyên tắc tổng quát về cấu trúc và tính toán hiệu quả. Phương pháp nghiên cứu giải quyết này đem cho giải
thích có nguyên tắc cho sự đa dạng và phức tạp của ngôn ngữ.
4. Hỗ trợ thực nghiệm: Nghiên cứu về
hiệu quả tính toán và giao diện âm thanh-ý nghĩa đã đem cho sự hỗ trợ thực
nghiệm cho những lý thuyết của Chomsky. Khung của ông đã kích thích sự tìm hiểu
đáng kể, giải quyết những câu hỏi lâu đời, đồng thời mở ra những hướng nghiên cứu mới.
Những thách thức và vấn đề chưa được giải quyết
Mặc dù với những điểm mạnh của ông, lý thuyết
của Chomsky vẫn phải đối mặt với những phê bình và những câu hỏi chưa có giải
đáp:
1. Tính chất suy đoán: Một số phương diện, đặc biệt là những phương
diện liên quan đến nguồn gốc tiến hóa của ngôn ngữ và sự xuất hiện đột ngột của
Merge, vẫn còn mang tính suy đoán và thiếu bằng chứng thực nghiệm trực tiếp.
2. Sự phức tạp về phương diện sinh học:
Quan niệm cho rằng ngôn ngữ là “giải pháp tối ưu” có thể đơn giản hóa quá mức
sự phức tạp và hỗn độn của
những hệ thống sinh học, thường là kết quả của sự kết hợp giữa tiến trình thích
nghi và những ngẫu nhiên tiến hóa.
3. Những câu hỏi chưa có trả lời: Quan hệ giữa những đặc tính
tinh thần và cấu trúc thần kinh vẫn chưa rõ ràng. Ngoài ra, những đặc tính cụ
thể chỉ có ở khả năng ngôn ngữ và quỹ đạo tiến hóa của chúng vẫn là chủ đề
tranh luận sôi nổi.
Kết luận
Lý thuyết của Chomsky về cơ bản sinh học của ngôn ngữ đem cho một khuôn khổ đột phá để hiểu nguồn gốc, cấu trúc và ý nghĩa nhận thức của ngôn ngữ con người. những lập luận của ông thuyết phục về tính mạch lạc, khả năng hợp lý về phương diện sinh học và sự phù hợp với dữ liệu thực nghiệm, đem cho những hiểu biết sâu xa về điều làm cho ngôn ngữ con người trở nên độc đáo. Tuy nhiên, một số phương diện trong những gì nêu lên của ông vẫn mang tính suy đoán, làm nổi bật những thách thức trong việc nghiên cứu nền tảng tiến hóa và sinh học của những hệ thống nhận thức phức tạp. Khi nghiên cứu tiếp tục tiến triển, những ý tưởng của Chomsky sẽ vẫn là trọng tâm trong những cuộc thảo luận về nguồn gốc và bản chất của ngôn ngữ, nhấn mạnh vai trò sâu xa của nó trong việc định hình tiến trình tiến hóa và nhận thức của con người.