Tuesday, September 6, 2022

Chomsky – Chúng Ta Là Loài Sinh Vật Nào? (01)

Chúng Ta Là Loài Sinh Vật Nào?

(What Kind Of Creatures Are We?)

Noam Chomsky






Giới thiệu

 

Avram Noam Chomsky (1928 -) rất nổi tiếng và hiện được ngưỡng mộ trên khắp thế giới, trước hết như nhà ngữ học sáng lập ngành ngôn ngữ học thời nay, sau như một trong những triết gia sáng lập ngành khoa học nhận thức, và hơn tất cả, có lẽ là nhà lý thuyết và bình luận chính trị nước U.S. được quan tâm tìm đọc nhất trong thời chúng ta. Trong những bài giảng này, ông trình bày những suy tưởng triết học trong cả một đời về ba lĩnh vực nghiên cứu kể trên, vốn trong hơn nửa thế kỷ qua ông đã những đóng góp quan trọng lớn lao tạo ảnh hưởng hết sức sâu rộng.

 

Trong ngôn ngữ trong sáng, rõ ràng và không-chuyên môn, Chomsky trình bày chi tiết về năm mươi năm của phát triển khoa học trong nghiên cứu ngôn ngữ, phác lược công trình của chính ông đã như thế nào mang đến những kết luận về nguồn gốc của ngôn ngữ, những quan hệ chặt chẽ vốn ngôn ngữ mang đến cho tư tưởng, và cơ sở sinh học sau cùng của nó. Ông dẫn giải và phê bình nhiều lý thuyết có thể thay thế khác, chẳng hạn như những lý thuyết nhấn mạnh trên những phương diện xã hội, giao tiếp và quy chiếu của ngôn ngữ. Chomsky xem xét lại những khám phá mới về ngôn ngữ đã như thế nào vượt qua những gì trong quá khứ xem dường là những giả định rất khó giả quyết. Ông cũng điều tra phạm vi và những giới hạn bên ngoài của khả năng nhận thức con người và những gì não thức con người có thể nghiêm chỉnh điều tra, dưới ánh sáng của lịch sử khoa học và suy tưởng triết học và kiến thức hiện nay. Đi từ ngôn ngữ và não thức sang xã hội và chính trị, ông kết luận với một thămkhám phá và biện minh triết học của một lập trường vốn ông mô tả nhưthuyết xã hội theo phái tự do, truy tìm những liên kết của nó với thuyết vô chính phủ và những ý tưởng của John Dewey và ngay cả với những ý tưởng của Marx và Mill, sau khi giảng giải rõ ràng sự phát triển về khái niệm của nó từ quá khứ lịch sử của chúng ta và sự liên hệ cấp thiết với những vấn đề thời nay.

 

Nhà xuất bản trường đại học Columbia


NỘI DUNG

LỜI TỰA

1 | NGÔN NGỮ LÀ GÌ?

2 | CHÚNG TA CÓ THỂ HIỂU ĐƯỢC GÌ?

3 | LỢI ÍCH CHUNG CHO TẤT CẢ LÀ GÌ?

4 | NHỮNG BÍ ẨN CỦA THIÊN NHIÊN: ĐƯỢC GIẤU KÍN SÂU XA NHƯ THẾ NÀO?

GHI CHÚ

CHỈ MỤC

 

Chúng ta là loài sinh vật nào? [1]

 

 



Lời Tựa

(của Akeel Bilgrami)

 

Quyển sách này trình bày một đời của suy tưởng của một nhà khoa học về ngôn ngữ trên những hàm ý lớn rộng hơn của công trình khoa học của ông. Tên quyển sách này, Chúng Ta Là Loài Sinh Vật Nào? truyền đạt chỉ những hàm ý thì có ý nghĩa mở rộng như thế nào. Chúng bao trùm một loạt những lĩnh vực đáng thán phục: ngôn ngữ học lý thuyết, khoa học nhận thức, triết học của khoa học, lịch sử của khoa học, sinh học tiến hóa, siêu hình học, lý thuyết của tri thức, triết học của ngôn ngữ và não thức, triết học đạo đức và triết học chính trị, và ngay cả dù vắn tắt, lý tưởng của giáo dục con người.

 

Chương 1 trình bày, với rõ ràng và chính xác, những ý tưởng cơ bản của riêng Noam Chomsky trong ngôn ngữ học lý thuyết và khoa học nhận thức (cả hai lĩnh vực ông đã tuyệt đối giữ một vai trò sáng lập trung tâm), ghi lại những tiến bộ đã thành tựu trong những năm qua, nhưng ghi lại với nhiều sốt sắng hơn, những tuyên bố đó để tiến bộ, phải được thăm dò thế nào, và một lượng rất lớn công việc còn phải được làm như thế nào, ngay cả trong những lĩnh vực nền tảng nhất của ngành học. Những thay đổi tư tưởng trong những năm này cũng được ghi lại, một số nổi bật nhất trong chúng xảy ra chỉ mới trong mười năm qua, hay không lâu trước đó.

 

Chương sách bắt đầu bằng đem động lực cho câu hỏi báo trước trong nhan đề của nó, “Ngôn ngữ là gì?” Chúng ta cần hỏi nó, vì nếu không rõ ràng về ngôn ngữ là gì, không chỉ chúng ta sẽ không có những trả lời đúng cho những câu hỏi khác về những phương diện nhiều loại đặc biệt của ngôn ngữ (có lẽ ngay cả không thể đặt những câu hỏi đặc biệt đó vào khuôn khổ), nhưng chúng ta sẽ không đi đến gần được với điều tra hay ngay cả phỏng đoán hợp lý chấp nhận được, về cơ sở sinh học và những nguồn gốc về tiến hóa của ngôn ngữ.

 

Một truyền thống có từ thời Galileo và Descartes đã nhìn nhận đặc tính nền tảng nhất của ngôn ngữ, vốn sau đó nó được nói với chi tiết rõ ràng nhất trong Humboldt: “Ngôn ngữ thì hầu như đối mặt khác thường với một lĩnh vực vô tận và thực sự vô biên, yếu tính của tất cả những gì có thể được suy nghĩ. Do đó, nó phải dùng vô hạn của những phương tiện hữu hạn, và có khả năng để làm như vậy, qua năng lực vốn tạo nên bản chất định tính của ngôn ngữ và tư tưởng”. [2] Darwin cũng vậy, được trích dẫn như lập lại điều này trong một dạng đơn giản hơn, trong nội dung của những quan tâm về sự tiến hóa về ngôn ngữ: “Những loài động vật ‘thấp hơn’ [3], khác với con người hoàn toàn chỉ trong năng lực lớn hơn như vô hạn của việc kết hợp với nhau những âm thanh và ý tưởng đa dạng nhất của con người”. Điều đáng chú ý rằng có ba đặc tính nền tảng đã được Humboldt và Darwin quan sát ở đây. Thứ nhất, tuyên bố về một năng lực vô hạn ngụ trong một cơ sở hữu hạn; thứ hai, sự liên kết của những ý tưởng với âm thanh; và thứ ba, sự liên kết của ngôn ngữ với tư tưởng. Tất cả chúng đều tụ hội trong những gì Chomsky tuyên bố ngay từ đầu như Thuộc Tính Cơ Bản của ngôn ngữ: “Mỗi ngôn ngữ đem cho một sắp xếp không giới hạn của những diễn đạt có cấu trúc theo hệ thống thứ bậc vốn nhận những diễn giải ở hai mặt giao tiếp, hệ thống phối hợp giác quan-vận động cho việc làm bày tỏ cảm xúc, (một hệ thống) khái niệm-có chủ đích cho những tiến trình tâm lý” [4].Yếu tố cấu trúc theo hệ thống thứ bậc nói về thuộc tính đặc biệt thứ nhất; mặt giao tiếp hệ thống phối hợp giác quan-vận động nói về thuộc tính đặc biệt thứ hai; và mặt giao tiếp khái niệm-có chủ đích, nói về thuộc tính đặc biệt thứ ba.

 

Những gì sẽ giải thích cho Thuộc tính Cơ bản này là một tiến trinh này là một tiến trình tính toán [5] (hay tiến trình tâm lý liên quan đến tạo và hiểu ngôn ngữ những hoạt động và quy luật tâm lý chi phối ngôn ngữ) . Ý nghĩa triết học của điều này thì hai lớp: một lý thuyết của ngôn ngữ tất yếu là một ngữ pháp phát sinh [6], và lý thuyết thì tất yếu về một đối tượng vốn những cá nhân con người sở hữu, bên trong chủ thể cá nhân và tâm lý của nó (tức là, những yếu tố có chủ định) Nó không là một lý thuyết về những âm thanh thốt ra bên ngoài, do đó cũng không là lý thuyết về một hiện tượng xã hội. Sự phân loại đặt tên để nắm được sự phân biệt vừa nói sau giữa những gì là cá nhân / bên trong/ chủ ý và những gì bên ngoài / xã hội là ngôn ngữ-Ingôn ngữ-E. [7] Chỉ một mình ngôn ngữ-I thì có thể là đối tượng của nghiên cứu khoa học, nhưng không là ngôn ngữ-E.[8] Và mặc dù nghiên cứu loại như vậy thì cuối cùng được đền trong một giải thích về sinh học, cho đến cuối cùng đó, khoa học nắm giữ những hiện tượng ở một mức độ của trừu tượng từ sinh học và nói ở mức độ nhận thức của năng lực tính toan vốn thỏa mãn Thuộc Tính Cơ Bản.[9]

 

Một việc làm khác, tổng quát hơn, là để tìm ra những đặc tính có chung, nằm chìm bên dưới như nền tảng của tất cả những ngôn ngữ-I, vốn cũng được những thuộc tính sinh học tự nhiên đã phú cho con người cho sự xác định (một chủ đề có ý nghĩa của lớn rộng hơn cho nhận thức trong tổng quát sẽ lại được thảo luận trong chương 2 ). Việc làm tổng quát hơn này được đảm nhận với một cái nhìn để khám phá khả năng bẩm sinh về sinh học, vốn xác định những hệ thống (ngôn ngữ) phát sinh nào có thể được dùng như ngôn ngữ-I. Nói một cách khác, những ngôn ngữ con người có thể có là gì?

 

Chomsky sau đó cho thấy rằng ngay khi việc nghiên cứu của những ngữ pháp phát sinh giải quyết Thuộc tính Cơ Bản của ngôn ngữ được chú trọng thực hiện đáng kể, một số những ngạc nhiên khó hiểu đã nảy sinh, với những hàm ý xa-rộng. Một là “sự tùy thuộc trên cấu trúc” của những hoạt động thực hành ngôn ngữ: trong tất cả những xây dựng, trong tất cả những ngôn ngữ, những hoạt động này bất biến, luôn luôn dựa trên khoảng cách về cấu trúc thay trên ý niệm đơn giản hơn nhiều của khoảng cách theo đường thẳng. Những người học ngôn ngữ đều tự động biết điều này, không phải hướng dẫn. Có chứng cớ hỗ trợ từ khoa học thần kinh và tâm lý học thực nghiệm cho điều này. Kết quả đến từ giả định rằng trật tự (cấu trúc) thì đơn giản là không sẵn cho những hoạt động vốn phát sinh những diễn đạt có cấu trúc được diễn giải ở mặt giao tiếp ý tưởng-khái niệm, cho suy nghĩ và tổ chức của hành động. Đến lượt nó, đến từ chính giả định tự nhiên rằng những ngôn ngữ-I đều là những hệ thống phát sinh dựa trên hoạt động tính toán cơ bản nhất, [10] vốn không theo xắp xếp trật tự. Những điều này và nhiều những cân nhắc khác cung ứng bằng có giá trị thực sự rằng trật tự theo đường thẳng thì đem cho hỗ trợ cần thiết cho ngôn ngữ, không gồm trong cú pháp cốt lõi và ngữ nghĩa học. Điều này cũn đúng với những sắp xếp bên ngoài khác loại của ngôn ngữ ký hiệu, vốn hiện nay được biết là giống với ngôn ngữ nói một cách đáng chú ý trong cấu trúc, sự tiếp thu, cách dùng và ngay cả sự biểu thị thần kinh của nó. Giả định rằng những thuộc tính bên ngoài này phản ảnh những điều kiện do hệ thống phối hợp giác quan-vận động áp đặt. Sự chọn lựa của việc dùng trật tự theo đường thẳng ngay cả không nảy sinh cho người học ngôn ngữ. Trật tự theo đường thẳng và những sắp xếp khác đều liên quan với những gì được nghe – tức là, hiện ra bên ngoài – nhưng không với những gì là suy nghĩ, vốn là bên trong.

 

Ông khi đó cho thấy rằng những kết luận này phù hợp rất đúng với những gì được biết ít ỏi về nguồn gốc của ngôn ngữ. Hệ thống phối hợp giác quan-vận động “dường như đã có chỗ đứng từ rất lâu trước khi ngôn ngữ xuất hiện”, và ở đó có vẻ như ít thích ứng đặc biệt cho ngôn ngữ. Những thuộc tính nhận thức thuộc những loại sâu xa hơn nhiều so với của những loài vượn-người, hay đoán chừng cũng có thể có của những hominin không-người, đều nội tại với ngôn ngữ. Loài vượn-người có hệ thống cử chỉ đủ đề tạo âm thanh, và hệ thống thính giác đủ cho sự nhận thức tiếng nói; nhưng không giống trẻ sơ sinh của con người, chúng ‘hiểu’ tiếng nói như chỉ là tiếng ồn, và ngay cả khi được dạy rất lâu, cũng không thể đạt được ngay cả những sơ đẳng của ngôn ngữ ‘ra dấu’ của con người. Aristotle đã nói rằng ngôn ngữ là “âm thanh với ý nghĩa”, nhưng những cân nhắc vừa nêu lên, khiến Chomsky cho rằng những gì nói trước trong khẩu hiệu có thể được đảo ngược và đúng hơn ngôn ngữ sẽ được hiểu là “ý nghĩa với âm thanh”. Trong trường hợp điều này có vẻ như một thuyết Plato (một gì đã được Jerrold Katz nồng nhiệt tuyên truyền), cần phải nhớ chắc chắn rằng với Chomsky, “ý nghĩa” ở đây thì trước sau dùng như một phạm trù tâm lý (cuối cùng là sinh học), và thế nên, hoàn toàn không sự cụ thể hóa trong những thuật ngữ Plato

 

Đến lượt, những kết luận như vậy tăng hỗ trợ cho tuyên bố đã đưa ra từ lâu của Chomsky rằng ngôn ngữ thì không là để hiểu, như khắp nơi thường hiểu nó, giữa những triết gia, những nhà loài người học và những người khác – như trong một số lối xác định đã buộc với sự truyền thông. Nếu sự biểu hiện bên ngoài của ngôn ngữ là thứ yếu, và buộc ngôn ngữ với tư tưởng là chính yếu, khi đó truyền thông không thể là trung tâm cho bất kỳ trả lời nào với câu hỏi vốn chương này đặt ra: Ngôn ngữ là gì? Thật vậy, như ông nói, có lý do để nghĩ rằng hầu hết ngôn ngữ / tư tưởng thì hoàn toàn không hướng ra bên ngoài. Nếu một người nào đó vững vàng hiểu rằng ngôn ngữ thì không do con người thiết kế cho một mục đích cụ thể, nhưng là phần của di truyền sinh lý bẩm sinh của họ, khi đó xem ngôn ngữ như một đối tượng của nghiên cứu, cho dù khoa học hay triết học, ở đó có thể phải là một chuyển hướng thay đổi quan trọng đáng kể trong những dễ dàng nhận hiểu về phương pháp của chúng ta.[11]

 

Trích dẫn từ Darwin vốn Chomsky tán thành, có nói rằng những gì là nền tảng về ngôn ngữ là một “năng lực của việc liên kết với nhau của những âm thanh và những ý tưởng đa dạng nhất”. Trừ sự kiện, như chúng ta đã nhắc, rằng âm thanh (cùng với những phương thức của hướng ra bên ngoài khác) đã bị đặt xuống thứ yếu, giải thích lý thuyết của riêng Chomsky về Thuộc tính Cơ bản đã lấy điểm này trong Darwin, cho là đúng – mặc dù có lẽ không chính xác như chữ dùng, vì liên kết thì không thật đúng trong việc mô tả hoạt động trung tâm vốn giải thích nêu lên. Tuy nhiên, có sự liên kết xảy ra, ngay cả trong điều kiện cổ điển (chuông, thức ăn) [12], và Chomsky nổi tiếng đã bác bỏ những giải thích của nhà tâm lý học hành vi về ngôn ngữ. Hơn nữa, những liên kết giữa hai đối tượng, như ngay cả những nhà tâm lý học không-hành vi hiểu sự liên kết, có thể hàm ý rằng trật tự của những đối tượng thì quan trọng trong một cách thức vốn sức nặng lớn hơn nhiều đặt trên những hình thức vừa vặn với sự diễn dịch ngữ nghĩa ở mặt giao tiếp khái niệm-chủ định (thay vì mặt giao tiếp hệ thống phối hợp giác quan-vận động) thiết lập nó thì không (là thế). Vì vậy, tránh xa từ “liên kết” gây hiểu lầm của Darwin cho những gì chính Darwin muốn nói, những Chomsky có trong ý tưởng thì để làm trung tâm rằng chúng ta là duy nhất trong việc được khả năng “đặt vào với nhau” những ý tưởng và những yếu tố cú pháp. Và khái niệm nền tảng này về ngôn ngữ thì lập lại trong giải thích lý thuyết của Thuộc Tính Cơ Bản, trong đó hoạt động quan trọng chủ yếu được gọi tên là Hợp Nhất, vốn có thể từ bên ngoài, hoạt động trên hai đối tượng riêng biệt để tạo một đối tượng khác, hay có thể từ bên trong hoạt động chinh bên trong một đối tượng để tạo một đối tượng khác, sau khi tự động đem lại thuộc tính phổ biến của “sự chuyển dịch” (những câu nghe ở một chỗ nhưng cũng hiểu ở một chỗ khác) trong dạng thích hợp cho sự diễn giải ngữ nghĩa phức tạp.

 

Những hoạt động này gọi là Hợp Nhất Bên Ngoài và Hợp Nhất Bên Trong [13], và tôn trọng với tính đơn giản trong phương pháp khoa học, áp dụng trong ngôn ngữ học như trong bất kỳ nơi nào khác, qui định rằng chúng ta giữ những hoạt động cơ bản ở mức tối thiểu này, và không tăng thêm những hoạt động trong việc giải thích cho năng lực tính toán vốn là nền tảng cho Thuộc tính Cơ bản. Sau khi duyệt qua một số thí dụ để trình bày ngôn ngữ thiết kế thế nào ở mức tối ưu của nếu chúng ta tuân giữ chặt chẽ với đòi hỏi ngăn cấm về phương pháp này, Chomsky trình bày những thay đổi trong những cái nhìn của ông, chẳng hạn như về hiện tượng của sự “chuyển dịch”, vốn ông đã có lần xem như một sự “không toàn hảo”, nhưng bây giờ, nếu người ta giữ đúng theo với những giả định về phương pháp đơn giản nhất như vừa nhắc đến, thì mong đợi.được một vốn đơn giản.

 

Chương này kết thúc với một cố gắng táo bạo để khai thác những điểm cuối cùng này về phương pháp để đem hai câu hỏi xem dường khác loại vào cùng với nhau: Chúng ta sẽ đem cho Thuộc tính Cơ bản giải thích nào? Ngôn ngữ đã nảy sinh như thế nào và khi nào? Sự hợp dòng này của tính đơn giản của những giả định trong việc giải thích cho Thuộc tính Cơ bản và sự xác nhận kèm theo của sự sắp xếp tối ưu của ngôn ngữ, có thể giúp để đem lại thực chất cho những gì là giả thuyết hợp lý nhất dựa trên bằng chứng giới hạn chúng ta vốn có được về nguồn gốc của ngôn ngữ: rằng ngôn ngữ đã không nảy sinh dần dần, nhưng đột ngột (và tương đối gần đây). Một “nhảy vọt tới trước” đột ngột như vậy, giờ đây nó có thể được phỏng đoán, đã có lẽ gây bởi “một chút mắc nối lại dây thần kinh của bộ óc [khiến] đã đem lại sự Hợp nhất, một cách tự nhiên trong hình thức đơn giản nhất của nó, cung cấp cơ sở cho sự suy nghĩ sáng tạo và không giới hạn”, cho đến giờ, vốn không có..

 

Chương 2, “Chúng ta có thể hiểu được gì ?”, đã hợp nhất một số những kết luận này bằng việc trước tiên giải thích chi tiết trên một chủ đề trung tâm khác trong công trình của Chomsky: những giới hạn của nhận thức con người.

 

Có một câu nói chúng ta tất cả đều rất thường dùng: “phạm vi và những giới hạn của…” Chomsky xem nó rất quan trọng, cho nó một uốn bẻ khéo léo chuyển hướng quyết định trong việc khai triển chi tiết sự am hiểu của ông về những khả năng nhận thức của chúng ta. Những khả năng này, trong phạm vi của chúng đều sâu rộng hơn so với bất kỳ loài sinh vật nào khác chúng ta được biết, chúng như thế phần chúng cũng chịu những tác động từ những giới hạn, những giới hạn này đến từ bản chất của chúng ta, như tên gọi của quyển sách nêu lên, hay loài sinh vật là chinh chúng ta – đặc biệt, sự kiện rằng những khả năng nhận thức của chúng ta có một cơ bản sinh học.

 

Chúng ta đã ngầm gặp điểm này trong chương 1, dù ở đó đã giới hạn với khả năng ngôn ngữ của con người. Giải thích lý thuyết của ngôn ngữ đã trình bày ở đó, đã giả định sẵn khái niệm về những giới hạn này – đó là, đã giả định sẵn rằng chúng ta đều thừa hưởng những cấu trúc di truyền bẩm sinh khiến chúng ta có khả năng độc đáo dành cho ngôn ngữ, đồng thời những cấu trúc này cũng thúc ép buộc chúng ta ngôn ngữ nào, có thể có những ngôn ngữ-I nào ở đó. Đó là cho sự mô tả tính chất đặc biệt của những cấu trúc bẩm sinh này, vốn từ ngữ chuyên môn “UG” [14] có chủ định, và nó ở bên trong khuôn khổ của phạm vi và những giới hạn do sự thừa hưởng từ di truyền này đặt định, khiến ngôn ngữ như một khả năng của tiến trình tâm lý trong việc tạo, hiểu ngôn ngữ những hoạt động cùng quy luật tâm lý chi phối ngôn ngữ [15], được giải thích trong giải thích ngữ học tạo sinh đã tóm tắt trước đó.

 

Những gì là đúng thực của ngôn ngữ chỉ là một trường hợp đặc biệt của một set hoàn toàn tổng quát gồm những phạm vi và những giới hạn đến từ sự kiện của tư cách hiện hữu của chúng ta là những sinh vật với một cơ thể sinh học.Ý tưởng có không gây tranh luận nào khi nói đến khả năng thể chất: những gì làm chúng ta đã thích hợp để bước đi thì giới hạn chúng ta, thế nên chúng ta đã không được thích hợp để luồn trượt như loài rắn.[16] Chomsky nghĩ rằng đó một tiên kiến để phủ nhận rằng những gì thì hiển nhiên trong trường hợp của những khả năng thể chất như vậy thì lại không hiển nhiên (như những tranh luận không ngừng quanh những ý tưởng bẩm sinh vốn sẽ nêu lên) trong trường hợp của những khả năng nhận thức. Để có được một số khả năng nhận thức tất yếu, có nghĩa là có thể bị thiếu những khả năng nhận thức khác, những khả năng nhận thức vốn những chủ thể có loại não thức khác có thể có khả năng mường tượng hình dung được. Đó là chỉ nếu chúng ta làm ngơ sự kiện của thể chất sinh học của chúng ta khi chúng ta nghiên cứu sự nhận thức của con người, khiến chúng ta sẽ gắng gượng phủ nhận những giới hạn này. Và chương 2 tiến hành xem xét kỹ lưỡng câu hỏi của những giới hạn như vậy trên những khả năng nhận thức của chúng ta, một cách khá tổng quát, vượt ngoài phạm vi đặc biệt của ngôn ngữ, mặc dù quay trở lại ở nhiều điểm khác nhau để lại lấy ra những kết luận về ngôn ngữ. [17]

 

thăm dò kết luận về phương pháp của ý tưởng này về những giới hạn nhận thức, bằng trước tiên nhắc lại một phân biệt, Chomsky đã đưa ra cách đây gần 50 năm, giữa “những vấn đề” và “những bí ẩn”. Nhắc lại cách hiểu của Peirce về phương pháp khoa học và sự phát triển khoa học vốn viện dẫn khái niệm ‘nắm bắt [18], vốn đặt những giới hạn trên những gì được kể như những giả thuyết có thể chấp nhận được”, ông lập luận rằng những cấu trúc bẩm sinh được xác định bởi di truyền sẵn của chúng ta đặt những giới hạn cho những câu hỏi chúng ta có thể hình thành. Những câu hỏi vốn chúng ta có thể hình thành, dễ dàng theo dõi được, gọi là “những vấn đề”, nhưng với những giới hạn nhiều đến mức có thể có, trong đó sự hình thành của chúng, thì sẽ có những sự việc vượt ngoài khả năng nhận thức của chúng ta; đến mức độ vốn ngay cả chúng ta có thể nghĩ về chúng, với những khuôn khổ khái niệm và kiến thức hiện tại của chúng ta, chúng ta sẽ thấy mình không thể hình thành chúng trong một cách thức vốn một hình thức của tìm hiểu khoa học về chúng có thể dễ dàng theo dõi được. Những sự việc này ông gọi là “những bí ẩn”. Tên gọi của quyển sách này, Chúng Ta Là Loài Sinh Vật Nào? thì được nó trực tiếp trả lời, vì những loài sinh vật khác, với một bẩm sinh sinh học khác với của chúng ta, có thể có khả năng để hình thành những vấn đề vẫn còn là những bí ẩn với chúng ta. Vì vậy, với Chomsky, nếu không phải với Peirce (người, khi nói về những giả thuyết có thể chấp nhận được, có thể đã cho nó một vai trò ít quyết định hơn với sự kiện của tư thế là những sinh vật của chúng ta), [19] sự phân biệt giữa “những vấn đề” và “những bí ẩn” tương đối giữ những cấu trúc sinh vật [20]

 

là một phần rất quan trọng của bức tranh này về phương pháp rằng chúng ta nên học để bớt căng thẳng với sự kiện của những giới hạn về nhận thức của chúng ta và những “bí ẩn” vốn không thể tránh khỏi việc chúng buộc chúng ta đi đến nhìn nhận. Chương cuối của tập sách này, “Những Bí Ẩn Của Tự Nhiên”, duyệt qua những thời điểm quan trọng trong lịch sử khoa học để lấy ra bài học này về phương pháp.

 

Một thời điểm quyết định quan trọng nhất của vấn đề. là khi Newton lật ngược những giả định trong cơ học-tiếp xúc [21] của khoa học thời nay buổi đầu, vốn trước ông đã , và đưa ra một khái niệm của lực hấp dẫn vốn làm suy yếu những ý niệm trước đó đã về vật chất, chuyển động và tương quan nhân quả, vốn là những kết tụ vững chắc về khoa học với sự hiểu biết thực tiễn thông thường của chúng ta về thế giới của những đối tượng (có lẽ những giới hạn nhận thức của sinh học của chúng ta đã xác định chúng). Chomsky cho thấy rằng với Newton, một khuôn khổ mới đã xuất hiện dưới ánh sáng của những giới hạn đó – một gì không thể nghĩ tưởng được đã được đưa ra trong đó. Chính Newton cũng thừa nhận điều không thể nghĩ tưởng được này, ngay cả còn gọi nó là một điều phi lý, và kể từ Newton, không ai sau đó đã làm được bất kỳ một tiến bộ nào để cứu chữa chỉ vấn đề ghi nhận này. Thay vào đó, điều phi lý thì đơn giản đã được đưa vào bức tranh khoa học về thế giới của chúng ta. Newton đã không bao giờ để nó ngăn cản ông, sau khi xây dựng những định luật giải thích và làm ngơ trước sự thiếu xót về môt hiểu biết sâu xa hơn nằm chìm bên dưới, nếu chúng ta có nó, vốn sẽ làm cho những gì đã có thành có nghĩa, bởi những thừa nhận này về phần của ông (và của những người khác), đã được mô tả như một sức mạnh “ma thuật siêu nhiên”. Nó đã đủ để xây dựng những lý thuyết có thể hiểu được về thế giới. Và để làm như vậy, không cần thiết phải tìm thấy thế giới có thể hiểu được trong ý hướng sâu xa hơn vốn những giới hạn nhận thức của chúng ta làm nản lòng.

 

Những nhà tư tưởng tiếp sau (Priestley, đặc biệt đáng chú ý, như một nhà bình luận sắc bén và am hiểu nhất) đã làm rõ ràng cái nhìn này về phương pháp và đã lấy ra những hệ quả cho những vấn đề trong triết học của não thức vốn làm thao thức những triết gia ngày nay, nhưng nếu như họ đã nhận những gì Priestley đã phải đem cho, việc đó có thể đã khiến họ xem xét lại những gì họ trình bày như vấn đề não thức-cơ thể , hay “vấn đề khó” của ý thức [22]. Những triết gia có một khuynh hướng dán nhãn cho một số vấn đề như “khó” duy nhất, yên nghỉ tự mãn trong giọng điệu bực bội đó. Chomsky nhắc gọi về đúng tình trạng này, để trước hết cho thấy tất cả rằng không có gì là duy nhất về việc tìm thấy một gì “khó” đúng trong cách này. Thế nên, lấy thí dụ, những gì sự giới thiệu về “lực hấp dẫn” đã làm trong vật lý học thì đã cũng đúng là được quan niệm như ‘khó’ trong thời sau Newton, gồm cả chính Newton. [23] Ý nghĩa quan trọng của điều này với những gì đã được gọi là vấn đề não thức-cơ thể là nó đăt nghi ngờ vào trong câu hỏi rằng không biết – kể từ Newton – ngay cả nó còn có thể được hình thành trước sau mạch lạc nữa hay không. Sự giới thiệu ban đầu gây-lo lắng về một gì “bí ẩn” như “lực hấp dẫn” cuối cùng đã trở thành thiết yếu với sự hiểu biết của chúng ta về những vật thể và sự tác động với không tiếp xúc lẫn nhau của chúng, và vì vậy nó đơn giản đã được đưa vào thành là phần của khoa học – quả thực, như ý nghĩa thông thường mới của khoa học. Từ điều này, nếu có bất cứ một gì, chúng ta sẽ kết luận về triết học rằng mọi sự vật việc đều là không-vật chất, vì vậy không gì có thể còn lại rõ ràng của một vấn đề não thức/cơ thể. Trong một đảo ngược hùng hồn đáng nhớ của khẩu hiệu của Ryle, Chomsky nói rằng – hoàn toàn khác với việc bóng ma bị đẩy vào quên lãng, bộ máy đã bị vứt bỏ – nhưng bóng ma vẫn còn nguyên vẹn. Về ý thức, khuynh hướng của triết gia để đòi hỏi rằng phần lớn của tâm lý của chúng ta là những trạng thái có ý thức (hữu thức), một khuynh hướng thấy rõ ràng trong những triết gia, khác biệt như Quine và Searle, được đem vào vấn đề bằng việc xem xét những hoạt động của những khả năng có qui luật-ràng buộc của cả ngôn ngữ và thị giác. Chomsky đặc biệt ý kiến rất chắc chắn về sự việc này, vì ngay cả phần lớn của suy nghĩ có ý thức của chúng ta đều có tác động qua lại với những phương diện của não thức vốn ý thức bị che dấu(vô hay tiềm thức) , và do đó, tự giới hạn người nghiên cứu với những gì là ý thức sẽ cản trở một sự hiểu biết khoa học, ngay cả về não thức ý thức.[24]

 

Với quan tâm của ông với một giải thích khoa học, Chomsky cũng quan tâm để cho thấy rằng một số đường lối suy nghĩ về ngôn ngữ, và nói rộng hơn về tưởng, đều không hợp lý về mặt khoa học. Đặc biệt, có một thảo luận kéo dài của những yếu tố độc lập nhỏ nhất [25] của sự tính toán. Sau khi nhắc đến đến những điểm đã thiết lập trong chương 1, ông cho thấy rằng chúng đã được mô tả nhầm lẫn như những “từ” và như những “đơn vị từ vựng” [26] trong văn học vì – khi chúng được đưa vào trong mặt giao tiếp khái niệm-có chủ đích, vốn đã được cho thấy là chính yếu, ngược lại với mặt giao tiếp hệ thống phối hợp giác quan-vận động – chúng không được những tiến trình của sự biểu hiện ra bên ngoài xây dựng. Ngay cả còn ngạc nhiên hơn cho những triết gia là tuyên bố rằng, trừ một số trường hợp ngoại lệ được quy định rõ ràng trong toán học và khoa học, chúng không có bất kỳ thuộc tính viện dẫn nào và không được nghĩ về việc như có mang theo những quan hệ cơ bản chủ yếu với những đối tượng độc lập với não thức trong thế giới bên ngoài. Ngôn ngữ-I , vốn là khái niệm của ngôn ngữ duy nhất có thể giải thích được về mặt khoa học, như thế là hoàn toàn nội tại. Điểm này được thăm qua một thảo luận của những quan điểm lịch sử, chẳng hạn như quan điểm của Aristotle và Hume, và qua thảo luận về những thí dụ của những những yếu tố cơ bản độc lập như vậy, từ tương đối cụ thể như “nhà” và “Paris” đến tương đối trừu tượng như “con người” và “sự vật”. Việc viện dẫn hay nghĩa rộng bao hàm của một từ, được những thảo luận này cho thấy là quá tùy thuộc vào ngữ cảnh để có thể được nghiên cứu khoa học và nên được xem như liên quan với việc dùng ngôn ngữ nào, hơn là với một phương diện cơ bản chủ yếu của chính ngôn ngữ. Tất cả điều này dẫn đến một phân loại khác với phân loại đã thấy giữa những triết gia, sau khi loại bỏ gần như tất cả những gì họ có trong não thức như “ngữ nghĩa học” với ‘ngữ dụng học’.[27].

 

Những kết luận này đều liên quan đến câu hỏi của nguồn gốc của ngôn ngữ. Những tín hiệu của những động vật với nhau đã do những liên kết trực tiếp vốn chúng có với những đối tượng trong thế giới bên ngoài. Sẽ không hiểu biết chúng nếu bỏ ra ngoài một trong những liên kết nhân quả này, ngược lại trong khi gánh nặng của thảo luận trước đã là để cho thấy chính xác rằng không có những kết hợp nhân quả cấu thành nào như vậy với một thực tại độc lập với não thức cho những những yếu tố cơ bản độc lập của sự tính toán của con người. Điều này cho thêm lý do để kết luận rằng loài sinh vật là chúng ta thuộc, đã có được loại khả năng cho ngôn ngữ và suy nghĩ vốn chúng ta có được, sẽ được một giải thích về tiến hóa thuộc loại đã trình bày trong chương 1 hơn là những gì Chomsky, sau khi trích dẫn Lewontin trong chương 2, mô tả như việc “kể chuyện” về sự tiến hóa dần dần từ những tổ tiên sáng tạo của chúng ta, một phương thức giải thích vốn người ta sẽ lấy làm thích thú, chỉ nếu người ấy không đặt đủ ưu tiên và chú ý khoa học đến bản chất được giải thích của những đặc điểm quan sát được trong cá thể qua sự biểu hiện những tính chất vật lý quan sát được; [28]. Nó cũng là sự kể chuyện một phần, như trích dẫn Lewontin đã nói, vì “không may, khó quá!” của việc không dễ dàng nhận hiểu được với bất kỳ bằng chứng nào, có thể dựa những giải thích này trên đó. Chúng bị che dấu khỏi sự dễ dàng nhận hiểu trong nhận thức con người, một dạng khác của giới hạn của chúng ta.

 

Như thế, những giới hạn trên sự nhận thức của chúng ta đều không thể tránh được vì nhiều loại lý do, chính yếu trong số chúng là để nhìn nhận là sự kiện tinh thuần đã hoàn tất, không liên quan hay trộn lẫn với bất kỳ một gì khác rằng chúng ta đều là những sinh vật. Không giống Locke, Priestley, Hume, Russell, Peirce và Lewontin, những người trong số những khuôn mặt được ngưỡng phục của chương này, hiển nhiên nhất Hilbert (“Tuyệt đối, không có những vấn đề không thể giải quyết được”) [29] và phần lớn của triết học thời nay, ngâm ngầm nhiều hơn đều phủ nhận rằng những bí ẩn, do đó phủ nhận sự phát biểu những đúng thực hầu như hiển nhiên dựa trên sự kiện đã nhấn mạnh này. Điều hết sức đáng chú ý là Chomsky, sau khi trình bày tất cả những điều này, nhận một kết hợp lôi cuốn chú ý của những thái độ với nó. Mặt khác, chính ý tưởng về những giới hạn nhận thức vốn đưa con người chúng ta đến với “những bí ẩn”, vốn những loại chủ thể sinh vật khác có thể tìm thấy toàn hoàn theo dõi kiểm soát được, là một cam kết với những những triết gia gọi là một siêu hình học duy thực. Như ông nói, “trước những phát biểu đúng thực như hiển nhiên về ẩn, những không thể nghĩ tưởng được với tôi không là không có tiêu chuẩn nào cho những gì có thể hiện hữu”. Nhưng mặt khác, lấy ý tưởng của ông từ Newton, thái độ của ông, một khi điều này được thừa nhận, trước sau người theo thuyết thực dụng. Chỉ vì những gì chúng ta nghiên cứu, thế giới, có thể là cuối cùng không thể hiểu được, không có nghĩa là chúng ta nên bị ngăn cấm với việc gắng sức để tạo những lý thuyết khoa học có thể hiểu được về thế giới. Chomsky nói, ngay cả khái niệm về hành động tự do của con người, vốn có thể vượt qua khỏi bất kỳ những khái niệm nào chúng ta có (quan trọng là tính tất định và sự ngẫu nhiên) một ngày nào đó có thể trở thành theo dõi kiểm soát được về khoa học, mặc dù hiện tại chúng ta còn rất xa với bất cứ gì giống như sự hiểu biết thế đó. Điều này hoàn toàn khác với thái độ của Kant, người đã tuyên bố tự do thì suy nghĩ được, nhưng không bao giờ biết được. Giống như Peirce và trước ông là Newton, nhưng không như Kant, Chomsky không muốn thuyết bí ẩn của chính ông và sự nhất quyết của chính ông với những giới hạn của những khả năng nhận thức của chúng ta, như Peirce đã từng nói, đặt “những rào cản trên con đường dẫn đến tri thức”.

 

Chương 3, “Lợi Ích Chung Cho Tất Cả Là Gì ?”, nhấc bỏ sự giới hạn trên những bản chất của chúng ta, nhìn trong những điều kiện của những khả năng cá nhân (cho ngôn ngữ và nhận thức), và nhìn chúng ta như những sinh vật xã hội, tìm kiếm thăm dò những gì là công ích, và những xếp đặt chính trị, kinh tế nào thúc đẩy hay cản trở nó.

 

Những khuôn mặt của phong trào ‘Khai sáng’ phóng lớn trong việc theo đuổi những câu hỏi này, mặc những gì Chomsky nghĩ về Phong Trào Khai Sáng thì rất lớn rộng, gồm những khuôn mặt “tự do” quen thuộc của Adam Smith [30] và Mill, cũng như những khuôn mặt của phong trào Lãng mạn truyền thống mở rộng, như Humboldt và Marx. Và sự diễn giải của nó cũng rất bao hàm, nhấn mạnh không chỉ trên khía cạnh của Smith vốn thường bị hầu hết những nhà phê bình tự do và cấp tiến của ông, cũng như những người bảo thủ sùng tín của ông ngăn chặn hay lấp liếm che dấu, nhưng cũng những nguyên lý vốn để cho phong trào Khai sáng được nhìn như một tiên phong của một truyền thống vô chính phủ sau này ở Europe, cũng như John Dewey ở America.

 

Điểm khởi hành của những thăm này, trong thực tế, là cá thể, và đã buộc với những chương sách trước. Ngay cả bên trong những giới hạn đã xác định về sinh học của họ, những khả năng sáng tạo vốn mỗi cá nhân có được (và điều đó đã thảo luận trong chương 1, trong lĩnh vực đặc biệt của ngôn ngữ ) đều đúng là loại của những sư vật việc vốn sự phát triển đầy đủ của nó làm những cá nhân ‘n hoa’ như những chủ thể. Câu hỏi xã hội của lợi ích chung tất yếu đi vào, khi người ta hỏi những loại định chế nào gây khó khăn, cản trở cho sự phát triển giống như thế bên trong mỗi cá nhân. Những cấu trúc cơ bản xã hội như chủ nghĩa tư bản vốn nhấn mạnh vị kỷ cá nhân thì cản trở hơn là khuyến khích sự phát triển những khả năng cá nhân. Cả hai, những chỉ trích gắt gao sống động của Smith về những gì là sự phân công lao động làm hủy hoại tính sáng tạo cá nhân của chúng ta và những gay gắt của Dewey trên cái bóng tối do quyền lợi doanh nghiệp phủ trên mọi phương diện của đời sống xã hội công cộng và cá nhân, đều được viện dẫn để thiết lập điều này. Truyền thống của chủ nghĩa vô chính phủ (từ Bakunin đến Rudolph Rocker và chủ nghĩa công đoàn-vô chính phủ [31] trong thời Nội chiến ở Spain) kết hợp những ý tưởng của thuyết xã hội với những nguyên tắc tự do của phong trào Khai sáng cổ điển để xây dựng một lý tưởng – của lao động hợp tác, sự kiểm soát của công nhân với công trường nhà máy và những phương tiện của sản xuất, và đời sống xã hội quanh những hiệp hội tự nguyện –nếu được thực hiện, sẽ cuốn trôi đi những trở ngại cho mục đích của sự phát triển con người vốn xuất phát từ cả thuyết tư bản thị trường tự do và những khuynh hướng Bolshevik đến một “bộ máy quan liêu đỏ” [32]. Những ý tưởng của Dewey về giáo dục cho thấy, bằng tương phản với phần lớn thực hành thời nay thấy trong những cơ sở giáo dục, mục tiêu phát triển con người có thể được theo đuổi tốt nhất ngay từ tuổi thơ như thế nào.

 

Có những mô tả cảm động về việc bao nhiêu của những lý tưởng này đã trung tâm cho sự tuyên truyền hoạt động tích cực của một phạm vị rộng lớn của những phong trào cơ sở – từ truyền thống nghị viện cấp tiến ban đầu ở England thế kỷ 17, đến những ‘cô gái nhà máy’ và những người thợ thủ công vốn Norman Ware đã viết trong nghiên cứu của ông về những thợ thuyền kỹ nghệ trong truyền thống U.S., đến những nhà gót học giải phóng theo truyền thống Kitô ở Trung-Mỹ [33] . Những truyền thống lao động dân chủ lâu đời này đã tương phản trong một số chi tiết, với một sự hiểu biết khác về dân chủ, trong một truyền thống vốn bắt đầu ở U.S. với những hạn hẹp nghiêm nhặt “quý tộc” của Madison về ai những người có thể đứng cai trị, và được đổi mới trong cái nhìn của những ý tưởng về dân chủ của Walter Lippmann của sự cai trị của giới “chuyên môn”, một thuyết tiên phong theo kiểu Lenin, nhưng diễn tả theo lối U.S. – như Chomsky nói rõ với một thoáng nhìn về kết quả những thăm dò về những vấn đề quan trọng khác nhau, chẳng hạn như chăm sóc sức khỏe – để bảo đảm rằng những gì người dân muốn hầu như không bao giờ được đem vào chương trình bàn luận về những hoạt động của chính trị “dân chủ”. Dĩ nhiên, hiểu biết vừa nói sau về dân chủ chi phối sự thực hành của những xã hội và chính phủ trong phần lớn thế giới phương Tây, và Chomsky rất muốn cho thấy rằng ngay cả trong sự tệ hại nhất của nó, nó không bao giờ từ bỏ tuyên bố theo đuổi những lý tưởng cao đẹp về lợi ích chung cho tất cả, cho thấy lợi ích chung cho tất cả thì phổ quát như thế nào trong một cách hoàn toàn nghịch lý: nó được rao giảng như được áp dụng cho tất cả mọi người, ngay cả khi khắp mọi nơi, nó bị những người được nói là đại diện tất cả vi phạm, ngoại trừ những ai người hầu hết đuổi theo những lợi ích của một số nhỏ.

 

Nhận điểm khởi hành nền tảng trong tính sáng tạo con người và sự quan trọng của sự bừng nở không bị cản trở của nó, Chomsky nghiêng sang thuyết vô chính phủ thì không có gì ngạc nhiên, và cách ông đưa ra điểm khởi hành đã từng luôn luôn tuyên bố, như ông lập lại trong bài giảng này, rằng bất kỳ hình thức cưỡng bức nào vốn cản trở nó (tính sáng tạo con người) thì không bao giờ có thể được coi là đương nhiên. Nó cần một biện minh. Tất cả những xếp đặt với quyền lực cưỡng bức, gồm cả nhà nước trung ương, phải luôn luôn được biện minh. Vị trí giả định là chúng thì không được biện minh – cho đến khi và trừ khi chúng thực là như vậy. Và với tương lai không doán trước được của “những bãi cạn (đắm tàu) của chủ nghĩa tư bản” (câu của ông) [34] mọi ngõ ngách khắp thế giới, quả thực có một biện minh cho khái niệm của nhà nước vốn bảo vệ một số khối lớn gồm những người bị đẩy ra ngoài lề của xã hội (lập lại chính Smith , người nghĩ rằng chỉ có nhà nước mới có thể làm nhẹ đi đời sống áp bức vốn những quyền lực tư bản công kỹ nghệ áp đặt trên giới lao động), [35] rất khác với tình trạng thực tế trong hầu hết những xã hội, như Dewey đã trích dẫn khi nói rằng phần lớn thực hiện việc đấu thầu của những tập đoàn và khi làm như vậy loại bỏ yếu tố xã hội khỏi thuyết vô chính phủ và cho phép chỉ yếu tố tự do – như một kết quả của nó, dân chủ trở thành “chế độ dân chủ mới “ (đối sánh với “chủ thuyết tự do-mới”), trong đó nếu một người bị nghèo đói thì đó là vì, như Hobbes có thể đã nói, người ấy đã chọn để làm như vậy. Thế nên, để quay lưng lại với điều này và biện minh cho nhà nước như việc đem lại những bảo vệ cho những người chịu đựng khổ sở dưới chế độ tư bản, khác xa với việc mâu thuẫn với thuyết vô chính phủ, nhưng là một áp dụng nhất quán của những nguyên tắc của nó trong những trường hợp dự phòng có thể bất ngờ xảy ra trong lịch sử, một điểm Chomsky trình bày với một ẩn dụ kỳ diệu, ông nói đã mượn từ phong trào công nhân nông thôn ở Brazil và đã mở rộng – ẩn dụ của một “cái lồng sắt” có những nền của nó vốn người ta cố gắng mở rộng khi người ta cố gắng giảm bớt sức mạnh cưỡng chế của nhà nước, ngay cả khi cái lồng bảo vệ người ta khỏi những thế lực phá hoại bên ngoài cái lồng, những sức mạnh khiến chúng ta trở nên yếu ớt, và nghèo khó và bị lạc lõng , không nói gì đến việc làm cho hành tinh chúng ta đang sống thành không thể ở được.

 

Tôi đã cố gắng hết sức để cô đọng nội dung phức tạp của một quyển sách có sự phức tạp và sức mạnh trí thức và độ sâu dày kiến thức và tính khởi nguyên của nó không thể nào nắm bắt được trong một tóm lược tổng quát – vì vậy, một thực hiện và nhiệm vụ vốn cuối cùng có thể sẽ không giúp được gì cho người đọc. Nhưng những gì tôi sẽ nói, với không do dự hay rào đón, rằng đã có rất nhiều thích thú và kiến thức để học hỏi trong sự thực hiện này, đến nỗi tôi không thể làm gì hay hơn là mời người đọc hãy tự nghiên cứu quyển sách cho chính mình – không chỉ vì những phẩm chất tôi vừa nhắc, nhưng còn vì sự nghiêm trọng tuyệt đối của mục đích của nó liên quan với những câu hỏi sâu xa nhất trong triết học và khoa học, và trên hết là tính nhân văn bao la của nó.

 

 

Akeel Bilgrami

Chủ biên Tủ sách Những Chủ Đề Triết Học, nhà xuất bản trường đại học Columbia

Triết gia, giáo sư triết học, Đại học Columbia



Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(Sep/2022)

(Còn tiếp ... )

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com



[1] Dịch theo Noam Chomsky. What Kind Of Creatures Are We? New York, NY: Columbia University Press, 2015.

Những chú thích trong ngoặc vuông [... ] dịch theo nguyên bản.

Những chú thích khác, với những sai lầm nếu có, là của tôi, sẽ tìm chữa sau. Tôi đặt trọng tâm chú ý trên những khái quát trong tư tưởng, triết học của Chomsky

 

[2] [Cho tất cả những tài liệu tham khảo, hãy xem những chương từ đó có trích dẫn đã lấy. Về quan hệ giữa ngôn ngữ và tư tưởng, Chomsky, mặc dù bây giờ ông nghĩ nó thậm chí còn gần hơn so với ông đã nghĩ trước đây, nhưng không nghĩ là cần thiết để khẳng định một gì đó mạnh mẽ như “bản sắc định tính “giữa chúng, như Humboldt đã làm. Descartes và Darwin, những người cũng có nhắc trong thảo luận của Chomsky về quan hệ này, họ đã không đi xa đến vậy.]

[3] lower animals: Trong những nội dung của Darwin, gồm cả On the Origin of Species, từ lower animals thường dùng để chỉ những loài động vật được coi là kém phức tạp và ‘chậm tiến’ hơn trong những đặc điểm tâm sinh lý của chúng.

[4] Mô-đun ngôn ngữ (The language module), cũng gọi là khả năng ngôn ngữ (faculty of language) là một cấu trúc giả định trong bộ óc con người, được cho là chứa những năng lực bẩm sinh về ngôn ngữ, Noam Chomsky đã đầu tiên đưa ra. Theo ông, khả năng ngôn ngữ gồm ba hệ thống liên kết : hệ thống phối hợp giác quan-vận động (sensorimotor), hệ thống khái niệm-chủ định (conceptual-intentional system), và hệ thống những tiến trình tâm lý (the computational mechanisms).

Hệ thống phối hợp giác quan-vận động: gắn liền với những phương diện vật lý (thể chất) của tiến trình tạo ra và nhận hiểu ngôn ngữ. Nó chứa đựng những tiến trình cảm giác và vận động liên quan đến nói và nghe. Hệ thống phối hợp giác quan-vận động vận động là khả năng mỗi người có để phát âm và cảm nhận âm thanh, cử chỉ và những diễn đạt ngôn ngữ khác.

Hệ thống khái niệm-chủ định: liên quan với những phương diện nhận thức (tinh thần) của ngôn ngữ. Nó liên quan đến sự khái niệm hóa và tính chủ định khả năng chúng ta có để hình thành và vận dụng những khái niệm, đồng thời truyền đạt suy nghĩ và ý định của chúng ta qua ngôn ngữ. Hệ thống khái niệm-chủ định kết nối ngôn ngữ với kiến thức, tin tưởng và ý định của chúng ta, khiến chúng ta có khả năng diễn đạt và lĩnh hội những ý nghĩa phức tạp.

Hệ thống những tiến trình tâm lý: tương ứng với những tiến trình ngôn ngữ cốt lõi, có trách nhiệm tạo sinh và diễn giải ngôn ngữ. Nó gồm những quy luật và hoạt động tâm lý cơ bản cho phép chúng ta tạo và hiểu vô hạn những câu theo đúng ngữ pháp. Những hệ thống những tiến trình tâm lý này liên quan với cấu trúc cú pháp, xây dựng cụm từ, phân tích cú pháp và những hoạt động ngôn ngữ dựa trên quy luật khác vốn chi phối việc tạo và hiểu ngôn ngữ. (Trong nội dung “những hệ thống những tiến trình tâm lýcủa Chomsky, từ computationalkhông nói về những tính toán toán học hay tinh toán điện toán theo nghĩa ngày nay, nhưng như một ẩn dụ để mô tả những tiến trình tâm lý liên quan đến việc tạo và hiểu ngôn ngữ. Để nói về những hoạt động và quy luật tâm lý chi phối ngôn ngữ. Từ computational ở đây nhấn mạnh ý tưởng ngôn ngữ được một set gồm những quy luật và những hoạt động cơ bản nằm chìm bên dưới điều hành, tương tự như một hệ thống tính toán). Cùng nhau, những hệ thống như những thanh phần của mô-đun ngôn ngữ, chúng có tác động hỗ tương tạo thuận lợi cho việc nhận, tạo và hiểu ngôn ngữ. Hệ thống phối hợp giác quan-vận động cho phép sự thực hiện vật chất (cơ thể) những diễn đạt ngôn ngữ, hệ thống khái niệm-chủ định cung cấp cơ bản nhận thức cho ý nghĩa và ý định, và những hệ thống những tiến trình tâm lý phục vụ như những tiến trình tâm lý cho sự xây dựng và diễn giải những cấu trúc ngữ pháp.

[5] computational procedure = tiến trình nhận thức + những quy luật và những cấu trúc ngôn ngữ = Tạo và diễn giải câu có nghĩa.

[6] Ngữ Pháp Phát Sinh & Ngữ Pháp Phổ Quát: Những khái niệm nhắc đến trong tập sách này:

(a)

Ngữ Pháp Phát Sinh & Ngữ Pháp Phổ Quát

Lý thuyết ngôn ngữ của Chomsky dựa trên ý tưởng rằng con người có khả năng tiếp thu ngôn ngữ bẩm sinh, có sẵn một set gồm những nguyên tắc ngữ pháp có chung cho tất cả ngôn ngữ con người. Lý thuyết của Chomsky đưa ra giả thuyết rằng ngôn ngữ là một đặc điểm duy nhất của riêng con người, đã có mặt trong tiến trình tiến hóa của loài người, nhưng vẫn diễn ra tranh luận giữa những nhà ngôn ngữ học và nhân chủng học về chính xác khi nào ngôn ngữ đã xuất hiện ngôn ngữ tiến hóa thế nào.

(i)

Theo Chomsky, ngôn ngữ được một set gồm những nguyên tắc được cài đặt gắn chặt trong bộ óc người. Những nguyên tắc này gọi là ngữ pháp phát sinh, và chúng đem cho khả năng khiến chúng ta có thể tạo ra hạn những câu nói từ một set gồm những từ ngữ hữu hạn. Chomsky dưa lên rằng tất cả những ngôn ngữ đều cùng có chung một set gồm những nguyên tắc ngữ pháp cơ bản, ông gọi là ngữ pháp phổ quát. Ý tưởng đằng sau Ngữ pháp phổ quát là có một ngữ pháp chung, tiềm ẩn, làm nền tảng cho tất cả những ngôn ngữ con người và ngữ pháp này vốn được cài gắn sẵn trong não người như một bản năng. Điều này có nghĩa là cấu trúc cơ bản của ngôn ngữ thì giống nhau trong tất cả những ngôn ngữ, ngay cả khi những nguyên tắc và từ vựng cụ thể của chúng khác nhau. Những nguyên tắc của ngữ pháp phổ quát được cho là bẩm sinh, nghĩa là chúng có sẵn trong bộ óc con người từ khi sinh ra. Chomsky lập luận rằng đây là lý do khiến trẻ em có thể tiếp thu ngôn ngữ rất nhanh chóng và dễ dàng, dù chúng thực sự được chỉ dạy rất ít. Ngữ pháp phát sinh và ngữ pháp phổ quát phối hợp với nhau để giải thích cách nhận và dùng ngôn ngữ. Theo Chomsky, những nguyên tắc bẩm sinh của ngữ pháp phổ quát đem cho khiến con người khả năng tạo ra vô hạn những câu bằng cách dùng một set hữu hạn gồm những nguyên tắc. Điều này có nghĩa là con người có thể tạo ra những câu mới và lạ chưa từng được nghe trước đây, chỉ bằng áp dụng những nguyên tắc của ngữ pháp phổ quát cho một set của những từ ngữ. Vắn tắt, ngữ pháp phát sinh là lý thuyết trong ngôn ngữ học cho rằng ngôn ngữ được tạo ra bởi một set gồm những nguyên tắc, trong khi Ngữ Pháp Phổ Quát (giả thuyết riêng của Chomsky) là set gồm những nguyên tắc bẩm sinh làm nền tảng cho tất cả những ngôn ngữ của con người..

Trong lý thuyết của Chomsky, ngữ pháp phát sinh cung cấp một khung cấu trúc cho sự hiểu biết ngôn ngữ được tạo ra và hiểu bởi bộ óc con người như thế nào, trong khi UG đem cho một giải thích cho những thuộc tính có chung của tất cả những ngôn ngữ con người. Thế nên, trong khi hai khái niệm có liên quan với nhau, chúng dùng để chỉ những khía cạnh khác nhau của lý thuyết ngôn ngữ học của Chomsky. Lý thuyết về ngữ pháp phát sinh của Chomsky thừa nhận rằng những quy luật tạo ra ngôn ngữ là bẩm sinh và phổ biến với tất cả mọi người, và set những quy luật này là cái mà ông gọi là ngữ pháp phổ quát. Nói cách khác, UG là set những nguyên tắc ngữ pháp được chia sẻ bởi tất cả những ngôn ngữ của con người và cho phép chúng ta tạo và hiểu ngôn ngữ. Do đó, chúng ta có thể nói rằng UG là một dạng đặc biệt của ngữ pháp phát sinh bởi vì nó là một lý thuyết về cách ngôn ngữ được tạo ra, nhưng đặc biệt tập trung vào những nguyên tắc bẩm sinh, phổ quát làm nền tảng cho tất cả những ngôn ngữ của con người. Ngữ pháp phát sinh là một thuật ngữ rộng hơn gồm những lý thuyết và cách dễ dàng nhận hiểu khác để giải thích cách ngôn ngữ được tạo ra, trong khi UG là một khái niệm cụ thể trong khuôn khổ của ngữ pháp phát sinh.

Ngữ pháp phát sinh (generative grammar) và ngữ pháp phổ quát (UG) không hoàn toàn giống nhau, nhưng là những khái niệm có liên quan chặt chẽ với nhau trong lý thuyết ngôn ngữ học của Chomsky. Ngữ pháp phát sinh để chỉ về lý thuyết về cách bộ óc con người tạo ra và hiểu một số vô hạn những câu bằng cách dùng một set hữu hạn những quy luật hay những nguyên tắc. Nó quan tâm với cấu trúc tiềm ẩn cơ bản của ngôn ngữ và tìm cách xác định những quy luật hay nguyên tắc vốn cho người nói khả năng để tạo ra và để hiểu những câu mới nghĩa lạ, chưa từng nghe bao giờ. Mặt khác, ngữ pháp phổ quát là một dạng cụ thể của ngữ pháp phát sinh nêu lên sự hiện hữu của những nguyên tắc bẩm sinh và phổ quát vốn là nền tảng tiềm ẩn cho tất cả những ngôn ngữ của loài người. Theo lý thuyết UG, tất cả con người được sinh ra với một set gồm những nguyên tắc ngôn ngữ bẩm sinh cho họ khả nang để tiếp thu và dùng ngôn ngữ một cách nhanh chóng và dễ dàng. Những nguyên tắc này được cho là phổ quátở chỗ tất cả những ngôn ngữ con người đều cùng có chung, khiến chúng tạo thành nền tảng cho những cấu trúc ngữ pháp cụ thể của những ngôn ngữ riêng lẻ. Cùng nhau, hai lý thuyết này, theo Chomsky cung cấp một khuôn khổ để hiểu cách con người tiếp thu và dùng ngôn ngữ như thế nào

(ii)

Khái niệm Ngữ pháp phổ quát (UG) của Noam Chomsky không thể truy nguyên trực tiếp từ bất kỳ triết gia hay nhà ngôn ngữ học nào. UG dựa trên ý tưởng đến từ nhiều nhà tư tưởng khác nhau trong lịch sử. Tuy nhiên, xét một số lý thuyết và ý tưởng đã có ảnh hưởng góp phần vào sự phát triển của khái niệm UG. Có thể thấy từ Plato và Aristotle với quan điểm rằng một số kiến thức con người là bẩm sinh, và ý tưởng này cộng hưởng với tin tưởng của Chomsky rằng ngôn ngữ không hoàn toàn được học qua kinh nghiệm, nhưng dựa trên những nguyên tắc bẩm sinh. Descartes cũng nhấn mạnh trên sự quan trọng của kiến thức bẩm sinh, và cho rằng não thức có những ý tưởng và cấu trúc bẩm sinh nhất định, chúng cho con người khả năng tiếp thu ngôn ngữ. Gần đây hơn, Ferdinand de Saussure, nhấn mạnh trên sự quan trọng của cấu trúc cơ bản của ngôn ngữ và bản chất tùy tiện của những dấu hiệu ngôn ngữ. Qua sự phân biệt giữa ngôn ngữ và lời nói, nêu lên ý tưởng về một cấu trúc cơ bản sâu hơn của ngôn ngữ vốn tất cả ngôn ngữ con người đều có chung. Ý tưởng của một cấu trúc ngôn ngữ có chung (phổ quát) này đã ảnh hưởng trên tưởng của Chomsky. Edward Sapir và Leonard Bloomfield, nêu lên ý tưởng về tính chất tương đối của ngôn ngữ, dẫn đến ý tưởng rằng ngôn ngữ ảnh hưởng trên suy nghĩ. Ý tưởng này, cùng với sự phân biệt của Saussure giữa ngôn ngữ và lời nói, đã giúp đặt nền móng cho lý thuyết UG. Sau cùng, Chomsky chính là người có ảnh hưởng lớn nhất trong khai triển và thúc đẩy khái niệm UG này.

Chomsky đầu tiên giới thiệu thuyết UG trong Syntactic Structures (1957), lập luận rằng ngôn ngữ của con người về nền tảng khác với truyền thông giao tiếp của loài động vật và không thể được giải thích theo những nhà tâm lý học trong thuyết hành vi về hoc tập. Từ đây, Chomsky đưa lên tuyên bố rằng con người có một khả năng bẩm sinh ngôn ngữ và gọi một set gồm những quy luật trừu tượng nền tảng cho tất cả những ngôn ngữ con người là UG. Sau đó, Chomsky tiếp tục phát triển và hoàn thiện lý thuyết UG của ông.Những năm 1960, Chomsky đã phát triển lý thuyết của ông về ngữ pháp biến đổi phát sinh (transformational generative grammar – TGG) trong Aspects of the Theory of Syntax (1965): TGG đã giải thích những quy luật của UG tạo ra vô hạn những câu có thể có trong bất kỳ ngôn ngữ nào như thế nào. TGG đưa ra khái niệm “cấu trúc sâu” và “cấu trúc ngoài mặt” và cho rằng những câu được tạo ra bởi một set của những phép biến đổi để chuyển đổi một cấu trúc này vào thành một cấu trúc khác. Những năm 1970, Chomsky đã giới thiệu khái niệm về cơ năng thu nhận ngôn ngữ (LAD) trong Language and Mind (1968): vốn ông mô tả như một mô-đun bẩm sinh trong não người cho phép trẻ em học ngôn ngữ nhanh chóng không cần hướng dẫn rõ ràng. LAD được coi là một thành phần quan trọng của UG, và Chomsky lập luận rằng trách nhiệm của nó là về tốc độ và hiệu quả đáng kể của việc tiếp thu ngôn ngữ của trẻ nhỏ. Những năm 1990, Chomsky đã phát triển một khuôn khổ mới cho UG, gọi là chương trình tối giản trong The Minimalist Program (1995). Chương trình tối giản đã tìm cách đơn giản hóa và hợp lý hóa lý thuyết bằng cách giảm số lượng những quy luật và cấu trúc. Chương trình tối giản nêu luận thuyết rằng UG gồm một set nhỏ gồm những nguyên tắc phổ quát áp dụng cho tất cả những ngôn ngữ và những thuộc tính cụ thể của từng ngôn ngữ được xác định bởi những tham số có thể khác nhau giữa những ngôn ngữ. Chomsky cũng đã viết nhiều về UG trong Knowledge of Language: Its Nature, Origin, and Use (1986): khám phá bản chất của kiến thức ngôn ngữ, và “New Horizons in the Study of Language and Mind”, gồm những đề tài liên quan với ngôn ngữ học và nhận thức học

Trong những năm qua, khái niệm ngữ pháp phổ quát đã trở thành một ý tưởng trung tâm và có ảnh hưởng lớn trong việc nghiên cứu ngôn ngữ, và nó tiếp tục là một lĩnh vực nghiên cứu tích cực và tranh luận sống động giữa những nhà ngôn ngữ học, tâm lý học và triết học.

(b)

Thuộc tính cơ bản của ngôn ngữ:( Basic Property of Language)

Chomsky lập luận rằng thuộc tính cơ bản của ngôn ngữ là khả năng tạo ra một số vô hạn những câu mới lạ. Đây là điều khiến ngôn ngữ của con người khác biệt với những hình thức truyền thông khác, chẳng hạn như tiếng kêu của động vật hay ngôn ngữ của động tác cơ thể.

(c)

Hợp nhất bên ngoài và bên trong:( External and Internal Merge)

 Lý thuyết của Chomsky cho rằng ngôn ngữ được xây dựng qua tiến trình hợp nhất những từ hay cụm từ riêng lẻ để tạo ra những cấu trúc phức tạp hơn. Hợp nhất bên ngoài kết hợp hai phần tử riêng biệt để tạo thành một đơn vị lớn hơn, trong khi hợp nhất bên trong tạo ra một cấu trúc phức tạp hơn bằng cách hợp nhất những phần tử trong một cụm từ.

(d)

E-Language và I-Language:

Chomsky đưa ra một phân biệt giữa ngôn ngữ bên ngoài và ngôn ngữ bên trong. Ngôn ngữ-E để chỉ những từ và câu thực vốn chúng ta tạo ra khi nói hay viết, trong khi Ngôn ngữ-I để chỉ ngữ pháp tinh thần tiềm ẩn cơ bản vốn đem cho chúng ta khả năng để tạo ra và hiểu những câu đó.

(e).

Nói thêm về Generative Grammar: Ngữ Pháp Phát Sinh (Tàu dịch: 生成文法 – sinh thành văn pháp) – tôi tạm dùng từ phát sinh, theo tôi gần nguyên ý hơn – dù đã dịch phổ biến là tạo sinh, generative grammar là một khái niệm cơ bản trong lý thuyết ngữ học Chomsky, – [nó không được ‘sinh’ hay ‘tạo’ ra, đúng hơn nó ‘phát’ ra hay ‘khởi’ lên, như những tiếng hát thốt lên tự nhiên thành những lời ca, vô thức theo một luật hòa âm (harmony), thành vô hạn những kết cấu dài ngắn tùy ý (những bài hát/khúc nhạc).Quan điểm của tôi đến từ Leonard Bernstein (1918-1990). Bernstein đã dùng khái niệm UG của Chomsky (The Joy of Music (1954) để nói về những tương đồng giữa ngôn ngữ và (ngôn ngữ) âm nhạc. Ông giả định rằng âm nhạc cũng có một ‘ngữ pháp’ tương tự như ngữ pháp của ngôn ngữ, và con người có khả năng bẩm sinh để hiểu cấu trúc và quy luật của âm nhạc, giống như họ có khả năng bẩm sinh học ngôn ngữ (như chúng ta vẫn thường nói ‘tiếng nhạc/tiếng lòng’ và tiếng nói/tiếng người’). Bernstein đã tiếp tục dùng những ý tưởng của Chomsky trong những bài giảng âm nhạc sau này của ông (The Norton Lectures, Harvard,1973), và cho thấy rằng lý thuyết UG đã đem cho một ‘dụng cụ’ hữu ích để tìm hiểu tính phổ quát của âm nhạc và những liên hệ sâu xa giữa âm nhạc và ngôn ngữ. Một số nghiên cứu tâm lý trẻ sơ sinh, cho thấy chúng có một số sở thích hay nhạy cảm bẩm sinh với âm thanh. Chúng cũng phản ứng tốt, thích nghe những những âm thuận tai, hợp hòa âm (consonant), hơn là những-âm nghịch tai, không hợp hoà âm (dissonant)] – tương tự như giả định trong UG, về khả năng ngôn ngữ bẩm sinh của chúng ta. Noam Chomsky, người đưa ra chính UG, tuyên bố ông đã tìm thấy bằng chứng ngôn ngữ rằng những cấu trúc cú pháp không được học nhưng được đứa trẻ tiếp thu từ ngữ pháp phổ quát. Trong Linguistics for Non-Linguists: A Primer with Practice, Frank Parker và Kathryn Riley lập luận rằng ngữ pháp phát sinh là một loại kiến thức vô thức đem cho khả năng khiến một người, bất kể họ nói ngôn ngữ nào, có thể hình thành những câu nói đúng. (‘Nói đơn giản, ngữ pháp phát sinh là một lý thuyết về khả năng ngôn ngữ: một mô hình của hệ thống tâm lý của tri thức vô thức làm cơ sở cho khả năng của người nói trong việc tạo ra và giải thích những phát biểu trong một ngôn ngữ ... Một cách cố gắng để hiểu quan điểm của Chomsky là nghĩ về một ngữ pháp phát sinh, cơ bản như một định nghĩa về khả năng: một set gồm những tiêu chuẩn vốn những cấu trúc ngôn ngữ phải đáp ứng để được phán đoán như có thể chấp nhận được)

Từ giữa những năm 1950 trở đi, Noam Chomsky đã thiết lập một số mục tiêu vốn tiếp tục định hướng tiến trình của nghiên cứu ngôn ngữ cho đến ngày nay. Trung tâm cách dễ dàng nhận hiểu của Chomsky là khái niệm của câu hình thành tốt (well-formed sentence). Bất kỳ lý thuyết nào có khả năng tạo ra những câu được hình thành tốt và gạt bỏ những câu không-hình thành tốt, đều được xem như Ngữ Pháp Phát Sinh. Chúng ta sẽ xem xét những câu, sau đó xem xét một khái niệm trung tâm, khái niệm về khả năng, và cuối cùng xem xét những thành phần của Ngữ Pháp Phát Sinh. Trước tiên hãy xem xét những câu , lý thuyết cú pháp đơn giản nhất có thể tưởng tượng được là một ngữ pháp gồm một danh sách tất cả những câu được hình thành tốt của một ngôn ngữ . Tuy nhiên, một danh sách như vậy sẽ quá dài, vì có một số vô hạn những câu nói (trong tiếng England, hay tiếng Việt), nên số câu trong một ngôn ngữ là vô hạn. (#câu = vô hạn).

Hai nguyên tắc tạo nên đặc điểm không giới hạn này của ngôn ngữ tự nhiên.Nguyên tắc đầu tiên là sáng tạo. Nói và diễn đạt ngay những gì trông thấy lần đầu tiên và và nghe hiểu những gì chưa từng nghe nói trước đó. Tính cách sáng tạo này cho thấy ngôn ngữ không thể học được đơn giản bằng bắt chước, nhưng đúng hơn là ngôn ngữ được tiếp nhận dựa trên những nguyên tắc trừu tượng, Chomsky một số nhà ngôn ngữ học thậm chí còn cho rằng những nguyên tắc này là bẩm sinh. Nguyên tắc thứ hai được gọi là tự lập lại. Những ngôn ngữ tự nhiên điển hình đem cho khả năng khiến những cấu trúc có những xuất hiện của những phần tử được lập lại. Hiện tượng này được định nghĩa như sự tự lập lại theo tính toán hay kết hợp. Bất kỳ cố gắng mô tả nào về những cấu trúc dài thêm lên như vậy bằng cách liệt kê những yếu tố trong chúng, đều gặp vấn đề là không có giới hạn với độ dài của những cấu trúc câu như vậy . Tuy nhiên, với một hệ thống quy luật rất đơn giản, có thể mô tả được tính chất tự lập lại của ngôn ngữ tự nhiên. Lấy thí dụ về sự tự lập lại này. Lập lại đầu tiên gọi là phối hợp câu hay cụm danh từ (S, NP). Chúng ta có những thí dụ như “Giáp thấy Ất Ất thấy Bính và Bính thấy Đinh, vân vân và vân vân..’. như thế câu này có thể kéo dài mãi mãi, không dứt, lập đi lập lai dạng ‘X thấy Y’ và chúng ta áp dụng sự lập đi lập lại theo cùng một quy luật phố hợp (S, NP).. Một thí dụ khác là lập lại bằng liệt kê thuật từ/tĩnh tù hay sự lập đi lập lại. Chúng ta có những thí dụ như ‘ngôi nhà gạch xám, chơ vơ, trên sườn đồi, giữa những cây thông già, trong chiều tà, trông buồn bã, ...’. với những tính từ và thậm chí nhiều hơn nữa trên thuật từ cuối cùng được gọi là phần đính kèm câu mệnh đề (PP-attachment). Thí dụ,cbắt đầu với cụm danh từ:

‘quả bóng’

bước tiếp theo, đặt quả bóng vào hộp, vì vậy chúng ta có câu mệnh đề từ đầu tiên

‘quả bóng trong hộp’

sau đó hãy tiếp tục với

‘quả bóng trong hộp dưới bàn’

tốt và ở đây chúng ta có thể tiếp tục

‘quả bóng trong hộp dưới bàn có đèn’…

và không có giới hạn về số lượng những câu mệnh đề có thể được gắn vào cấu trúc này và quy luật khá đơn giản. Mặc dù số lượng câu là vô hạn, nhưng không phải tất cả những câu dùng trong trò chuyện con người đều được đưa vào bên trong một lý thuyết ngữ pháp. Qua khéo léo chọn lựa, một mức độ cụ thể của sự trừu tượng được nói đến như khả năng. Như một người nói tiếng mẹ đẻ , chúng ta có khả năng làm được nhiều những phán đoán trực giác về tiếng nói của mình, chúng ta không cần phải tham khảo những sách ngữ pháp, cũng như không phải dò hỏi một nhóm người khác nói cùng tiếng mẹ đẻ, nhưng thay vào đó, bằng vào việc biết một ngôn ngữ, chúng ta biết câu nào được hình thành tốt, và ngược lại. Đây khả năng. Hai thành phần cấu thành cốt lõi của một Ngữ Pháp Phát Sinh và chúng tác động lẫn nhau:Thành phần thứ nhất là thành phần cấu trúc cụm từ, nhiệm vụ trung tâm của nó là mô tả cấu trúc của tất cả những câu được hình thành tốt của một ngôn ngữ. Để đạt được mục tiêu này, cần có một hệ thống quy luật xác định rõ ràng, vì vậy cần những quy luật trong thành phần này kết hợp tất cả những phân loại liên tiếp vào thành những đơn vị lớn hơn. Cách dễ dàng nhận hiểu này nhận được sự hỗ trợ thực nghiệm bằng phương tiện của một số lượng lớn những kiểm nghiệm cấu trúc có một truyền thống lâu dài, từ những hệ thống đầu tiên của những năm 1950 cho đến lược đồ cú pháp x-bar phức tạp ngày nay.

Thành phần thứ hai là từ vựng (lexicon). Từ vựng tác động với thành phần cấu trúc cụm từ và chứa thông tin về những đơn vị từ vựng (hay hình thức từ vựng lexemes) của một ngôn ngữ, gồm những phương diện cú pháp và ngữ nghĩa hình thái học âm vị học. Toàn bộ hệ thống hoạt động như sau: thành phần cấu trúc cụm từ chứa một set giới hạn gồm những qui luật, vốn có thể tạo ra những cấu trúc câu cơ bản với chúng. Những cấu trúc này được phép bằng những phương tiện của thông tin từ vựng; nói cách khác, từ vựng cung cấp những đơn vị từ vựng trên cơ sở thông tin của chúng vốn những cấu trúc câu cơ bản có thể được tạo ra cùng với nhau, thành phần cấu trúc cụm từ trong từ vựng tạo thành cốt lõi của bất kỳ ngữ pháp phát sinh hiện đại nào. Ngữ Pháp Phát Sinh không chỉ đem cho một mô tả của cấu trúc của một ngôn ngữ, nhung còn tìm cách để giải thích những hiện tượng sau: (1) Nhận thức ngôn ngữ: con người hiểu và tạo ra lời nói như thế nào. (2) Sự tiếp thu ngôn ngữ: những gì diễn ra trong não thức sơ sinh khi trẻ con học tiếng mẹ đẻ. (3) Sự biến thể ngôn ngữ: tại sao ngôn ngữ thay đổi trong những gì đang diễn ra dưới bề mặt của sự khác loại ngôn ngữ.

Như một kết quả của những thảo luận về những hiện tượng này, có vẻ hợp lý để tuyên bố rằng ngôn ngữ giống như một bản năng vốn chúng ta có được và dùng nó trong tiềm thức. Cốt lõi của tiến trình này là những nhiều nhà ngôn ngữ học nói đến như ngữ pháp phổ quát.

[7] E-Language và I-Language: nói thêm và nhắc lại ở trên: Chomsky đưa ra một phân biệt giữa ngôn ngữ bên ngoài và ngôn ngữ bên trong. Ngôn ngữ-E để chỉ những từ và câu thực vốn chúng ta tạo ra khi nói hay viết, trong khi Ngôn ngữ-I để chỉ ngữ pháp tinh thần tiềm ẩn cơ bản vốn đem cho chúng ta khả năng để tạo ra và hiểu những câu đó. Có thể vắn tắt: E-language: external language ngôn ngữ bên ngoài : ngôn ngữ truyền tải và có chung trong thế giới hay cộng đồng. I-language : internal language – ngôn ngữ bên trong: ngôn ngữ được nhận thức và hiểu trong từng cá nhân.Theo Chomsky, ngôn ngữ bên ngoài là một gì đó trừu tượng đem ra bên ngoài từ bộ máy thực sự của não thức chúng ta, ngôn ngữ bên trong là cơ chế vật chất của bộ óc chúng ta.

[8] [Mặc dù Chomsky nhắc đến ngôn ngữ-E theo cách như tương phản với ngôn ngữ-I, nhưng ông nghi ngờ tính mạch lạc của chính ý tưởng và do đó không biết chúng có tồn tại hay không. Trong một số những luận thuyết của ông, ông phê bình những giả định cơ bản nhất vốn những triết gia đưa ra về sự mạch lạc chặt chẽ trước sau của chúng, khi đưa ra những giải thích về chúng.

[9] [Khi chủ ý đưa ra điểm này về sự nghiên cứu ở một mức độ trừu tượng với một cái nhìn đến một giải thích cuối cùng trong những thuật ngữ nói về não bộ, Chomsky trỏ rõ cho thấy sự phố hợp giải quyết thì không khác trong nghiên cứu khoa học của ngôn ngữ hơn là, lấy thí dụ với trong hoạt động định chỗ hay đường đi của côn trùng. Trong một công trình khác, Chomsky trích dẫn một số tiến bộ vốn có thể làm được trong sự tìm hiểu vào trong những nền tảng cơ bản sinh học, nhưng cũng trích dẫn như thế nào có thể có một số những giả định sai về nền tảng đã được những nhà khoa học não bộ về đối tượng nghiên cứu là gì. Về điểm cuối cùng này, xem tham khảo của ông về tác phẩm của Charles Gallistel trong chương 2.]

[10] những hoạt động tính toán Chomsky nói ở đây , để chỉ những hoạt động về cú pháp, như xây dựng cấu trúc cụm từ, hoạt động biến đổi và áp dụng quy luật. Nhữn hoạt động này cho phép những cá nhân tạo những câu đúng ngữ pháp và hiểu ý nghĩa câu nghe hay đọc.

[11] Design = thiết kế: ở đây chỉ sự sắp xếp hoặc tổ chức với chủ ý của những yếu tố trong một hệ thống hay cấu trúc để đạt một mục đích hay kết quả cụ thể; ‘ngôn ngữ không được thiết kế, có nghĩa là ngôn ngữ không phải là một hệ thống được tổ chức hay xếp đặt theo kế hoạch với ý thức, nhưng một hiện tượng phức tạp và năng động đã phát triển tự nhiên theo thời gian.

[12] Thí nghiệm cổ diển của Ivan Pavlov (1897): phản xạ có điều kiện của những con chó liên kết tiếng chuông nghe với thức ăn.

[13] External & Internal Merge: nói ở trên.

[14] Nói thêm về Ngữ Pháp Phổ Quát:

(a)

Universal Grammar (UG): Ngữ Pháp Phổ Quát là hệ thống lý thuyết hay giả thuyết về những phạm trù, hoạt động và nguyên tắc có chung trong tất cả những ngôn ngữ của con người, và được coi là bẩm sinh. Sau những năm 1980, thuật ngữ này thường được viết hoa, và còn được gọi là Universal Grammar Theory/Lý thuyết Ngữ pháp Phổ quát. Noam Chomsky giải thích, “UG được coi là set những thuộc tính, điều kiện hay bất cứ gì cấu thành ‘trạng thái ban đầu’ của người học ngôn ngữ, do đó là cơ sở trên đó phát triển kiến thức của một ngôn ngữ. (Rules and Representations. Columbia University Press, 1980) “Không nên nhầm lẫn UG với ngôn ngữ phổ quát”, Elena Lombardi lưu ý, “hay với cấu trúc sâu xa của ngôn ngữ, hay ngay cả với chính ngữ pháp” (The Syntax of Desire, 2007). Như Chomsky đã nhận xét, “UG không phải là một ngữ pháp, nhưng đúng hơn là một lý thuyết của những ngữ pháp, một loại lý thuyết của lý thuyết, hay sự sắp xếp và trình bày theo một hệ thống của ngữ pháp” (Language and Responsibility, 1979).

(b)

Khái niệm Ngữ Pháp Phổ Quát không chỉ dẫn đến một hiểu biết sáng tạo của ngôn ngữ học, những ý tưởng, triết học và lịch sử, nhưng cũng dẫn đến một hiểu biết của bản chất con người, giá trị của sự hiện hữu của con người, và sự khác biệt giữa loài người và những loài sinh vật khác. Khoảng giữa thế kỷ 20, Noam Chomsky đã nêu một lý thuyết cho rằng bộ óc của chúng ta được ‘hàn-nối-kết mạch’ chặt chẽ với một khuôn mẫu tâm lý cho sự học hỏi ngữ pháp và chúng ta dựa vào mô-đun ngữ pháp bẩm sinh này để có được ngôn ngữ. Lý thuyết về UG của ông sẽ cố gắng xác định một set những quy luật áp dụng được cho tất cả những ngôn ngữ, thiết yếu phơi bày một sự thống nhất ẩn dấu vốn nằm chìm như co bản cho sự đa dạng rộng lớn ngoài mặt của khoảng 7.000 ngôn ngữ trên thế giới. UG đã là một bước đột phá triệt để so với những dễ dàng nhận hiểu không chính thức phổ biến hơn vào thời điểm đó. Những dễ dàng nhận hiểu truyền thống dựa quá nhiều trên sự thông minh của người nói và thất bại, không giải thích được một số hiện tượng ngôn ngữ. Những dễ dàng nhận hiểu theo thuyết cấu trúc có phạm vi quá hạn chế, tập trung quá nhiều vào những hình thái và những âm vị và đã không kể đến sự thông minh của người nói. Trong Aspects of the Theory of Syntax,1965, Chomsky đã thu hút sự chú ý đến tất cả những phức tạp gồm trong việc trở thành một người nói thành thạo của một ngôn ngữ. Hình thức đầu tiên của thuyết UG của ông đã pha trộn hai khuynh hưỡng mới nổi trong sinh hoạt trí thức phương Tây: ý tưởng rằng ngôn ngữ có cả: (a) một cấu trúc tính toán và (b) có gốc trong sinh học con người. Ông nêu lên rằng ngôn ngữ chúng ta dùng để thông tin trong đời sống hàng ngày hoạt động trong cùng cách thức như ngôn ngữ cômputơ dựa trên toán học, đồng thời ông cho rằng UG là một thành phần bẩm sinh của não thức con người với những nền tảng sinh học sâu xa.

(c)

UG có lẽ là ý tưởng nổi tiếng nhất của Chomsky. Chủ yếu là tin tưởng rằng khả năng đem dùng ngôn ngữ là phần của cấu tạo về gen của chúng ta. Trước khi Chomsky nêu lên ý tưởng này, quan điểm phổ biến đã là ngôn ngữ được học thông qua một tiến trình của làm thử và chữa sai – một đứa trẻ sẽ quan sát cha mẹ chúng chỉ vào những sự vật việc và cố gắng bắt chược lập lại những phát âm tương ứng. Chomsky đã chỉ ra rằng quan điểm ngôn ngữ theo thuyết hành vi này không thể giải thích được thực tại là hầu hết những câu nói đều lần đầu tiên được nói ra – mô hình tiếp thu ngôn ngữ ‘trỏ vào và lập lại không thể giải thích cho vô tận khác loại của những câu nói có thể được tạo ra. (Nếu quan điểm của nhà hành vi học này là đúng, thì về lý thuyết, có thể dạy ngôn ngữ cho một loài động vật thông minh.) Chomsky nêu lên rằng một khả năng về ngôn ngữ thì bẩm sinh, và tất cả những gì người học ngôn ngữ phải học là những âm tùy tiện ngẫu nhiên vốn chúng ta dùng cho những từ và những cấu trúc sắp xếp theo đường thẳng hay trong những bước tuần tự (trật tự của những từ) vốn những ngôn ngữ khác nhau dùng để tạo ra những câu nói. Ông lập luận rằng ngoài những khác biệt bề ngoài này, tất cả những ngôn ngữ đều giống nhau về cơ bản. Khái niệm này đến nay đã được giằng co thảo luận từ lâu và rất nhiều người đã chỉ trích nó và chỉ ra những vấn đề, nhưng trong suy nghĩ của tôi , nó vẫn có vẻ khá hợp lý, đặc biệt là trong so sánh với những giải pháp thay thế tôi thấy đã được đưa ra. Những bác bỏ tôi hiểu xem dường như tấn công vào chữ nghĩa diễn đạt của hình thức hiện tại của lý thuyết hơn là ý tưởng trung tâm đằng sau nó. Ý tưởng quan trọng nhất đến từ khái niệm của UG là ý kiến cho rằng ngôn ngữ không thực sự là một gì đã học được nhưng là một gì vốn lớn dậy. Giống như khả năng thị giác, khả năng ngôn ngữ là bẩm sinh và phát triển cùng với phần còn lại của cơ thể. Theo đó, ngôn ngữ không phải là sự vật việc có thể được ‘dạy’ theo nghĩa truyền thống của từ đó. Trẻ nhỏ tiếp thu ngôn ngữ với rất ít hướng dẫn.

(d)

UG của những năm 1960, ban đầu đã dựa trên cấu trúc tiềm ẩn của những ngôn ngữ nói của những nhà ngôn ngữ học, những người đã phát triển lý thuyết vốn mang ý nghĩa với hầu hết những Ngôn ngữ-Europe. Chương trình UG hoạt động trên những khoanhngôn ngữ như danh từ và những cụm động từ, do đó, để định nghĩa những quy luật có thể được áp dụng hay biến đổi những cụm từ đó. Tuy nhiên, những ngoại lệ đã không phù hợp với đề cương thiết lập đã bắt đầu xuất hiện, thách đố ý tưởng ban đầu của một ngữ pháp phổ quát này. Thí dụ, tiếng Urdu dùng những chủ ngữ trong câu theo cách không giống với nhiều Ngôn ngữ-Europe. Ngoài ra, những ngôn ngữ bản địa của Australia như tiếng Warlpiri phân tán danh từ và những cụm động từ trong suốt câu. Những ngoại lệ này đã rất khó khăn để thuận hợp với cách dễ dàng nhận hiểu UG và dẫn đến một loạt những sửa đổi của lý thuyết vào những năm 1980. Thay vì một UG duy nhất cho tất cả những ngôn ngữ trên thế giới, hình thức mới của lý thuyết được thiết lập để xác định những nguyên tắc phổ quát, chẳng hạn như bất kỳ cấu trúc X nào cũng phải có thuộc tính Y, cộng với những nhân tố chi phối cấu trúc của ngôn ngữ. Những nguyên tắc này được thể hiện khác nhau trong mỗi ngôn ngữ và ngày nay tác động với văn hóa để tạo ra những nhân tố khác nhau .Chúng ta hãy lấy một thí dụ ngoài ngôn ngữ để minh họa cách dễ dàng nhận hiểu những nguyên tắc và nhân tố này. Một nguyên tắc có thể tìm thấy trong thế giới của chúng ta là tất cả mọi nước đều có những đường xá lưu thông đi lại , và vấn đề là trên đường đi tới phía trước thì giữ lề nào. Vì vậy, ở đây chúng ta có một nhân tố có thể được liên kết với mỗi quốc gia, + (giữ bên phải/đúng cách) cho người đi giữ lề bên tay phải, và – (giữ bêb trái) cho người đi giữ lề bên trái. Có một nguyên tắc trong ngôn ngữ, những câu tường thuật tiêu chuẩn thường có một chủ ngữ rõ ràng, ngay cả khi chủ ngữ đó là một đại từ. Nguyên tắc này đúng với tiếng England và tiếng Germany trong đó những câu không có chủ ngữ đại từ và đúng ngữ pháp. Ngược lại, những ngôn ngữ như tiếng Italy hay tiếng Spain có thể tạo những câu đúng ngữ pháp nhưng không cần có những chủ ngữ riêng biệt. Nhân tố này đã được biết như nhân tố pro-drop (pro-drop parameter). Người ta nói – với tiếng tiếng England và tiếng Germany, nơi không thể bỏ đại từ là chuộng-nhân tố (pro parameter) và bỏ-nhân tố (drop parameter) với tiếng Italy hay iếng Spain. Ý tưởng là ngay khi một đứa trẻ gặp một vài câu thuộc loại này, nhân tố pro-drop này sẽ được thiết lập, và trẻ sẽ biết liệu chúng có thể bỏ chủ ngữ trong những câu này hay không.

(e)

Sửa đổi gần đây nhất của UG, vào năm 2002, khi Chomsky và những đồng nghiệp của ông xuất bản một bài báo khoa học, trong đó họ mô tả một UG chỉ gồm một tính năng là tự lập lại theo tính toán hay kết hợp (computational recursion or merge). Trong ngôn ngữ học, ứng dụng cốt lõi của sự lập lại những cụm từ trong những cụm từ . Chomsky đưa ra một phương thức, kết hợp không giới hạn (Unbounded Merge), vốn kết hợp một cách tự lập lại những từ để tạo ra những cụm từ lớn hơn. Thí dụ:

{Ất, {nói, {Giáp, {đã nghĩ, {Bính, {đã, {mệt mỏi và xúc động}}}}} }}.

Theo quan điểm của Chomsky, sự tiến hóa của kết hợp không giới hạn là khởi nguyên của ngôn ngữ:

Bên trong một nhóm nhỏ nào đó vốn từ đó chúng ta là những hậu duệ, một cá nhân nào đó, đã có một sự mắc nối lại dây thần kinh trong óc, gọi người này là Prometheus, tạo ra hoạt động kết hợp không giới hạn, áp dụng cho những khái niệm có những thuộc tính phức tạp (và ít được hiểu rõ)… Ngôn ngữ của Prometheus cung cấp cho người này một chuỗi vô hạn của những diễn đạt có cấu trúc. (Chomsky, 2010)

Noam Chomsky tin rằng phép tự lập lại là một thuộc tính nhận thức cơ bản của ngôn ngữ một phần của “ngữ pháp phổ quát” của con người, giải thích cho sự nhanh chóng tiếp thu ngôn ngữ. Tự lập lại này không nên hiểu đơn giản là xếp chen thêm vào những mệnh đề đến vô tận. Khá nhiều loài động vật có thể lập đi lặp lại cùng một âm thanh hay chuỗi âm thanh. thí dụ: một loài linh trưởng (không phải người) có thể gọi đi gọi lại – kêu báo động – tên gọi ‘con sư tử’ mà không đòi hỏi tự lập lại, và chim hót lập đi lập lại cùng một cụm từ phức tạp. Thay vào đó, điều (được giả định là) phân biệt sự tự lập lại của ngôn ngữ con người với sự lặp lại hay lặp lại đơn giản là việc đặt chen vào trong một cấu trúc (câu) bên trong một cấu trúc khác cùng loại. Đó là, để dùng ký hiệu hình thức:

S –> NP VP

VP –> V S

Vì thế:

[Ất tin [Mùi nghĩ [Ất đẹp trai]]]

Sự thay đổi mới này trong mô hình đem cho khả năng khiến một số lượng giới hạn của những từ và quy luật để được kết hợp để tạo một số lượng vô giới hạn của những câu, Chomsky cũng nêu lên rằng khả năng tự lập lại này có thể đã phát sinh từ một đột biến gen duy nhất, trong khoảng từ 100.000 đến 50.000 năm trước, là những gì đặt ngôn ngữ.đứng ngoài những loại tiến trình nhận thức khác, chẳng hạn như sự phân loại và sự nhận thức tương quan/liên hệ.

Tuy nhiên, giống như hình thức của lý thuyết này năm 1960, có một thí dụ phản lại: trong ngôn ngữ Piraha, thổ dân Amazon. Everett (2009) bày tỏ sự hoài nghi với luận điểm này từ những khảo cứu ngôn ngữ Piraha, của chính ông, trong tiếng nói Piraha, dường như không có sự thể hiện của sự tự lập lại cú pháp. Chomsky và những học giả đồng minh đã trả lời lập luận của Everett qua lập luận rằng tiềm năng nhận thức với sự tự lập lại vẫn tồn tại và nó không nhất thiết phải áp dụng cho tất cả những ngôn ngữ. Những người bảo vệ UG đưa ra so sánh tượng tự rằng những nhân tố và nguyên tắc phổ quát giống như vị giác của chúng ta, trong khi văn hóa và địa lý có thể tạo ra những biến thể trong những món ăn trên thế giới, tuy nhiên tất cả chúng ta đều được sinh ra với một set cơ bản gồm những vị chua, ngọt, mặn, đắng, v.v. Chỉ vì một nền văn hóa thiếu muối để nêm thức ăn không có nghĩa là những người trong nền văn hóa đó thiếu khả năng nếm vị mặn nhu muối. tương tự như vậy, họ sẽ nói chỉ vì một ngôn ngữ thiếu cấu trúc tự lập lại, điều này không có nghĩa là những người nói ngôn ngữ đó thiếu khả năng của tự lập lại trong ngôn ngữ. Dòng suy luận này làm một ngữ pháp phổ quát thành khó kiểm nghiệm trong thực tại, và góp phần vào những bất cập thực nghiệm tổng thể của lý thuyết. Nhiều nhà nghiên cứu trở nên ngày càng không hài lòng với một dễ dàng nhận hiểu ngôn ngữ hoàn toàn chính thức như UG. Với ngày càng nhiều bằng chứng phản bác lý thuyết của Chomsky, một sự chuyển đổi về mô hình có thể đang diễn ra.

[15] computational power: đã giải thích ở trên

[16] [Tôi lấy thí dụ này từ Carol Rovane. xem Carol Rovane và Akeel Bilgrami, “Mind, Language, and the Limits of Inquiry”, trong The Cambridge Companion to Chomsky, ed. James McGilvray (Cambridge: Cambridge University Press, 2005), 181–203.]

[17] Thí dụ, trong khi con người sở hữu khả năng nhận thức để tiếp thu và dùng ngôn ngữ, những loài động vật khác có thể sở hữu những khả năng nhận thức khác nhau cho phép chúng vượt trội trong những lĩnh vực như định hướng không gian, nhận dạng mẫu thức, hay hợp tác xã hội. Theo nghĩa này, sở hữu một set những khả năng nhận thức có thể có nghĩa là những tập hợp khả năng nhận thức khác không có hay tương đối kém phát triển. Điều này nêu lên rằng dù con người có một số khả năng nhận thức nhất định (chẳng hạn như ngôn ngữ), nhưng những khả năng này có thể phải trả giá bằng việc không có, hay thiếu những khả năng nhận thức khác, vốn có thể thấy trong những loại não thức của những loài sinh vật khác..

[18] abduction: Thuật ngữ ‘abduction (dẫn đi; bắt đi, mang đi, nắm bắt, ở đây có nghĩa là kéo dãn ra xa (to draw away, như phản nghĩa của ‘adduction (thu về gần)), nên tôi tạm dịch nôm na là nắm bắt. Charles Sanders Peirce (1839-1914), thường được coi là người sáng lập chủ nghĩa thực dụng, đặt ra trong công trình nghiên cứu lôgich của khoa học của ông. Ông đưa nó vào để chỉ một kiểu suy luận không là suy luận diễn dịch, và cũng khác với suy luận quy nạp quen thuộc. Suy luận nắm bắt này thường bắt đầu với một set không đầy đủ của những quan sát (nhiều nhưng không đủ tất cả những trường hợp), và di đến một giải thích có thể xảy ra nhất và thích hợp nhất với set đó. Suy luận nắm bắt mang cho quyết định vẫn làm hàng ngày vốn thích hợp nhất với thông tin giới hạn có được trong tay, thường không đầy đủ. Ba suy luận chúng ta dùng thường ngày là; (a) Suy luận diễn dịch, hay diễn dịch, là đưa ra suy luận dựa trên những dữ kiện hay tiền đề đã được chấp nhận rộng rãi. (b) Suy luận quy nạp, hay quy nạp, là đưa ra một suy luận dựa trên một quan sát, thường là một gì điển hình hay tiêu biểu. (c) Suy luận nắm bắt (Abduction = ‘bắt đi, nắm bắt’) nói trên – là lấy ra một kết luận có thể xảy ra nhất từ những gì đang biết giới hạn. Nắm bắt và Quy Nạp là những hình thức lập luận để dẫn đến kết luận từ những thông tin không đầy đủ. Qui nạp, tức là suy ra những thuộc tính của những set của những cá thể từ những thuộc tính của những cá thể, đã được Aristotle phân loại, trong khi thuật ngữ nắm bắt được Peirce đưa ra vào cuối thể kỉ 19, để suy diễn những giải thích cho những hiện tượng quan sát được. Peirce đã phát triển hai cách nhìn về Suy luận nắm bắt, một dựa trên những tam đoạn luận (syllogisms), một dựa trên mô thức suy luận ẩn chìm cơ bản (underlying inferential pattern).

Trong Suy luận nắm bắt, tiền đề chính là hiển nhiên, nhưng những tiền đề phụ đều là những có thể, và do đó kết luận chỉ có thể xảy ra. Khác với suy luận diễn dịch có kết luận tất yếu (từ những tiền đề tổng quát hay phổ quát) và suy luận quy nạp có kết luận kết quả của một sự tổng quát hóa từ những cụ thể. Nói cách khác, nó có nghĩa là hình thành một khái quát trên những gì đã biết hay quan sát được. Phương pháp suy luận thứ ba, Suy luận nắm bắt có thể định nghĩa như một tam đoạn luận’ trong đó tiền đề chính là hiển nhiên nhưng tiền đề phụ thì không, do đó kết luận là những gì chỉ có thể xảy ra. Trong cơ bản, nó liên quan đến việc hình thành một kết luận từ những đã biết nhưng giới hạn. Cả ba từ deduction’, ‘induction’ và ‘abductionđều có gốc ‘ducere trong Latinh, có nghĩa là ‘dẫn đến’ Tiền tố de-có nghĩa là ‘từ’ và suy luận diễn dịch bắt nguồn từ những tuyên bố hay sự kiện được chấp nhận chung. Tiền tố in-có nghĩa là ‘đến’ hay ‘hướng đến’, và suy luận quy nạp dẫn chúng ta đến một sự khái quát hóa. Tiền tố ab- có nghĩa là ‘nắm bắt’, và trong Suy luận nắm bắt, chúng ta nắm bắt giải thích có thể xảy ra nhất và thích hợp nhất. Suy luận nắm bắt, còn được gọi là “suy luận để đưa ra giải thích tốt nhất” là một dạng suy luận lôgích tìm kiếm giả thuyết có khả năng nhất để giải thích sự vật việc gì đó. Mặc dù người ta có thể không ý thức, nhưng mọi người luôn dùng Suy luận nắm bắt để đưa ra những phỏng đoán dựa trên hiểu biết hay hình thành những giả thuyết về lý do một sự việc hay sự kiện nhất định diễn ra. Khi chúng ta dùng Suy luận nắm bắt, những gì chúng ta suy luận không nhất thiết phải đúng hay tất yếu. Thí dụ:

Cỏ ướt (quan sát), do đó, trời có thể mưa đêm qua (giả thuyết khả dĩ nhất).

Ở đây, chúng ta có thể thấy giả thuyết “trời phải mưa đêm qua” được đưa ra như thế nào, là một suy luận đến từ một quan sát không đầy đủ của sự kiện. Trong thực tế, người thực hiện quan sát đã không tự mình chứng kiến ​​rằng trời đã mưa đêm hôm qua. Thay vào đó, người ấy dùng suy luận, hay dùng lôgích của Suy luận nắm bắt để đưa ra một giải thích, là giải thích tốt nhất có thể có, cho kết luận đã cho. Cho rằng cỏ ướt (kết luận), có lẽ là do đêm qua trời đã mưa (giả thuyết). Lưu ý rằng mặc dù có thể có một số giải thích thay thế khác cho sự kiện quan sát cỏ ướt; chẳng hạn như có thể người này không biết hay quên rằng vườn có vòi tưới nước tự động và nó đã mở sáng sớm hôm nay, hay đơn giản hơn, cỏ ướt có thể vì đêm qua trời nhiều sương. Điều này cho thấy Suy luận nắm bắt đôi khi có thể dẫn đến giả định hay giải thích không chính xác về lý do của một sự vật việc gì đó đã xảy ra.

[19] [Ở đây sẽ phải thêm cho đủ rằng Chomsky, ở cuối chương này, thực sự thảo luận một lập luận trong Peirce vốn gọi đến những những cân nhắc về sinh học – cụ thể là những cân nhắc về tiến hóa dựa trên sự chọn lọc tự nhiên (vốn ông thấy hoàn toàn sai lầm). Điều này cho thấy rằng chính Peirce đã có phần nào mơ hồ về việc có nên xem tuyên bố nói chung về phương pháp luận của ông về những giả thuyết có thể chấp nhận được và những giới hạn với chúng là do bản chất sinh học của chúng ta hay không.]

[20] organism-relative.

[21] Contact mechanics

[22] The hard problem /easy problems: Sự phân biệt giữa ‘vấn đề dễ’ và ‘vấn đề khó’ của ý thức (từ David Chalmers, thừa hưởng từ di sản của the mind-body problem: sự phân biệt vật chất/tinh thần nhắc đến nhiều trong Descartes). Vấn đề dễlà việc hiểu cách não (và cơ thể) hình thành ý thức, nhận thức, học tập và tâm lý hành vi như thế nào. Vấn đề ‘khó’ là việc hiểu tại sao và như thế nào vốn bất kỳ điều gì trong số này lại liên quan với ý thức: tại sao chúng ta không chỉ là những người máy (bộ máy không hồn), hay những thây ma triết học, không có một ‘vũ trụ bên trong’ nào? Những vấn đề dễ của ý thức là những vấn đề có thể tiếp nhận những phương pháp tiêu chuẩn của khoa học nhận thức, theo đó một hiện tượng được giải thích trong những thuật ngữ của cơ cấu tính toán , hay cơ cấu thần kinh. Những vấn đề khó là những vấn đề dường như không tiếp nhận tác động hay ảnh hưởng của.những phương pháp đó.

The mind-body problem Vấn đề não thức-cơ thể Con người có (hay dường như có) cả những thuộc tính vật chất và những thuộc tính tinh thần. Con người có (hay dường như có) loại thuộc tính được quy cho khoa học vật lý. Những thuộc tính vật lý này gồm kích thước, trọng lượng, hình dạng, màu sắc, chuyển động qua không gian và thời gian, v.v. Nhưng chúng cũng có (hay dường như có) những thuộc tính tinh thần, vốn chúng ta không quy cho những đối tượng vật chất điển hình. Những thuộc tính này liên quan đến ý thức (gồm cả kinh nghiệm tri giác, kinh nghiệm cảm xúc, và nhiều những sự việc khác), chủ ý (gồm tin tưởng, ước muốn và nhiều những sự việc khác), và chúng đều được một chủ thể hay một tự ngã sở hữu. Những thuộc tính vật lý là công khai, trong ý hướng về nguyên tắc, chúng đều có thể được bất kỳ ai quan sát như nhau. Một số tính chất vật lý – như của một electron – hoàn toàn không thể quan sát được trực tiếp, nhưng chúng có sẵn cho tất cả mọi người, ở cùng một mức độ, với những dụng cụ và kỹ thuật khoa học. Điều này thì không đúng với những thuộc tính tinh thần. Tôi có thể nói và hiểu một người đang chịu đau đớn qua hành vi biểu hiện của người ấy, nhưng chỉ người này mới có thể cảm nhận trực tiếp được đau đớn đó. Tương tự, chỉ A biết một cái gì đó trông như thế nào với A, và tôi chỉ có thể phỏng đoán. Những sự kiện tinh thần ý thức là riêng tư với chủ thể, người có một đặc quyền dễ dàng nhận hiểu chúng thuộc loại không ai có được về phần thể chất.

Vấn đề não thức-cơ thể (hay tâm/vật; tinh thần/vật chất, hồn/xác, ...) đến từ chính sự bận tâm về quan hệ giữa hai set gồm những tính chất nói trên. Vấn đề não thức-cơ thể có thể phân tích thành một số thành tố. (a) Câu hỏi bản thể học: Những trạng thái tinh thần là gì và những trạng thái vật chất là gì? Có phải một lớp này (những trạng thái) là lớp phụ của lớp kia, khiến tất cả những trạng thái tinh thần đều là vật chất, hay ngược lại? Hay những trạng thái tinh thần và những trạng thái thể chất hoàn toàn khác biệt? (b) Câu hỏi nhân quả: những trạng thái vật chất có ảnh hưởng đến những trạng thái tinh thần không? Những trạng thái tinh thần có ảnh hưởng đến những trạng thái vật chất không? Nếu có, ảnh hưởng thế nào?

David Chalmers đã ghép chữ và cho tên gọi ‘vấn đề khó (khoảng 1995) mới đây, nhưng vấn đề này không hoàn toàn mới, nhưng đã vẫn là yếu tố then chốt của vấn đề não thức-cơ thể có từ lâu nói trên. Tuy nhiên, Chalmers được xem như người chủ yếu trong việc làm bùng lên những thảo luận về đề tài. Vấn đề nảy sinh vì ‘ý thức hiện tượng’, ý thức như được nêu trong câu hỏi của ‘chủ thể sẽ giống như thế nào, đã thất bại trước sự giải thích tiêu chuẩn theo chức năng vốn đã thành công ở những chỗ khác trong tâm lý học . Tất cả những hiện tượng tâm lý như học tập, suy luận và ghi nhớ đều có thể được giải thích trong những thuật ngữ của việc đóng đúng vai trò chức năng Nếu một hệ thống (tâm lý) làm điều đúng, nếu nó thay đổi hành vi một cách thích hợp để đáp ứng với kích thích của môi trường, nó được giảit hích, hiểu và coi như việc học tập của hệ thống đó. Việc chỉ định những chức năng này cho chúng ta biết học tập là gì và đem cho khả năng khiến chúng ta thấy những tiến trình của não có thể đóng vai trò học tập này như thế nào. Nhưng theo Chalmers: ‘Điều làm cho vấn đề khó trở nên khó khăn và gần như duy nhất là nó vượt ngoài những vấn đề về sự thực hiện của những chức năng. Để thấy điều này, hãy lưu ý rằng ngay cả khi chúng ta đã giải thích sự thực hiện của tất cả những chức năng nhận thức và hành vi trong lĩnh vực gần với kinh nghiệm – phân biệt tri giác, phân loại, hồi tưởng, thuật lại bằng lời nói – vẫn có thể vẫn còn một câu hỏi chưa được trả lời: Tại sao việc thực hiện của những chức năng này đều kinh nghiệm đi kèm?’. Chalmers giải thích sự tồn tại dai dẳng của câu hỏi này bằng lập luận chống lại sự có thể có của một ‘giải thích thu giảm cho ý thức hiện tượng. Một giải thích thu giảm Thí dụ, gen có thể được giải thích trong những thuật ngữ DNA như sau:

Gen = đơn vị của di truyền. (Bằng phân tích.)

Những vùng của DNA = đơn vị của di truyền. (Bằng điều tra thực nghiệm.)

Do đó, gen = những vùng của DNA. (Bằng 1, 2)

Chalmers cho rằng về nguyên tắc, những giải thích thu giảm như vậy thì sẵn sàng cho tất cả những hiện tượng tự nhiên khác, nhưng không cho ý thức. Đây là vấn đề khó. Theo Chalmers, lý do khiến sự giải thích thu giảm không thành công với ý thức vì nó không thể được phân tích về chức năng. Điều này được chứng minh bằng sự tưởng tượng liên tục của những gì Chalmers gọi là ‘những thây ma’ (zombies) những sinh vật có cơ thể (và chức năng) giống hệt như chúng ta, nhưng thiếu ý thức – ngay cả với một loạt những phân tích chức năng đã đem cho. Nếu chúng ta có một phân tích chấp nhận được về chức năng của ý thức, thì những thây ma như vậy không thể tưởng tượng được.Thiếu một phân tích chức năng cũng được thấy qua sự tưởng tượng liên tục của quang phổ (có lẽ với tôi khi nhìn thấy màu xanh lá cây thì là những gì giống như khi bạn nhìn thấy màu đỏ). Nếu ý thức thực sự có thể được nêu lên những đặc tính tiêu biểu về chức năng, những vấn đề khó sẽ biến mất. Vì chúng vẫn bám chặt vào những triết gia , nhà khoa học, nên chúng ta có thể kết luận rằng ý thức không có đặc điểm chức năng nào. Chalmers tuyên bố, với sự lựa chọn nghiêm trọng sau đây: hay loại bỏ ý thức (nó hoàn toàn không tồn tại) hay thêm ý thức vào bản thể học của chúng ta như một đặc điểm không thể thu giảm của thực tại, cũng như lực hấp dẫn và trường điện từ. Dù cách nào, chúng ta cũng phải đối mặt với một vấn đề bản thể học đặc biệt, một vấn đề không thể giải quyết bằng những phương pháp thu giảm rút gọn thông thường.

[23] [Và trước Newton, chuyển động đã được William Petty và những người khác xem như ‘vấn đề khó’.]

[24] Đó là một điều gì đó như bí ẩn về ý thức của con người. Không ai biết nó là gì, hay nó đến từ đâu, tại sao chúng ta lại có nó. Những nhà khoa học có thể nhìn vào thế giới vật chất và hiểu cách thức nó vận hành theo những quy luật và cách thức một sự vật việc gây ra (hay đúng hơn xảy ra trước sau liên quan với) một sự vật việc khác, giống như trong một cỗ máy. Đó là cỗ máy. Nhưng không ai hiểu ý thức (như có trong chính cỗ máy này) là gì. Ý thức như một bóng ma. Theo nghĩa rộng hơn, bóng ma có thể là một ẩn dụ cho tất cả những gì chúng ta không hiểu. Trong thực tế, một số sự vật việc chúng ta có thể sẽ không bao giờ hiểu được, bởi vì chúng có thể nằm ngoài khả năng nhận thức của chúng ta, ngay cả với khoa học và những phương pháp/dụng cụ của nó. Gồm cả ý thức của chính chúng ta. Vì bộ óc người sống với ứng xử tâm lý thì khó để học và hiểu. Nhưng chắc chắn những nhà khoa học sẽ tìm một cách để nghiên cứu sâu kỹ hơn bộ óc người sống và chúng ta có thể tìm hiểu thêm hơn về liên hệ giữa cỗ máy và bóng ma. Nhưng có nhiều phần chắc chắn rằng sẽ không bao giờ có thể hiểu thấu được ý thức đến từ đâu. Những nhà khoa học dù có thể khám phá được vị trí chính xác trong bộ óc, nơi có những hoạt động ý thức dang diễn ra và quan sát não thức. Nhưng điều này vẫn không cho chúng ta biết bất cứ một gì về lý do chúng ta có một cảm giác sống của chủ thể kinh nghiệm, và điều đó đến từ đâu. Điều đó có nghĩa là bóng ma như vẫn còn nguyên vẹn, như ý Chomsky nhắc ở trên.. Cũng thêm cho rõ những gì giải thích trên là theo quan điểm nhị nguyên (tiêu biểu là Descartes – cho rằng có hai loại thực thể: vật chất, những gì trong không gian mở rộng, và tinh thần, những gì trong suy nghĩ). Vấn đề dễ và vấn đề khó trong triết học não thức đã nêu lên từ chính quan điểm nhị nguyên này.

[25] atomic elements

[26] words & lexical items

[27] pragmatics

[28] phenotype

[29] Ông nói về những vấn đề toán học

[30] [Chomsky đã là người đầu tiên nhấn mạnh khía cạnh này của Smith từ nhiều những mười năm trước, một khía cạnh của Smith vốn đã được nghiên cứu theo dõi với nhiều chi tiết trong trong khảo luận gần đây của Emma Rothschildand và bình luận của Amartya Sen]

[31] Anarcho-Syndicalism & Anarchism: Noam Chomsky là người theo Học thuyết Vô Chính Phủ công khai.Trong một phỏng vấn năm 2013, Chomsky giải thích cách ông nhìn học thuyết Vô Chính Phủ và vai trò của nó:

“Chính yếu, [Học thuyết Vô Chính Phủ] là một khuynh hướng vốn thiếu tin tưởng tích cực nghi ngờ về sự thống trị, quyền lực và đẳng cấp. Nó tìm kiếm những cấu trúc của đẳng cấp và sự thống trị trong đời sống con người trên phạm vi toàn bộ, kéo dài, tạm nói, từ tổ chức tộc trưởng gia đình, chẳng hạn, đến những hệ thống đế quốc, và nó hỏi không biết những hệ thống đó có hợp lý chính đáng hay không. Quyền lực của chúng thì không là tự biện minh. Chúng phải đưa ra một lý do cho điều đó, một biện minh. Và nếu chúng không thể biện minh cho uy quyền, thế lực và sự kiểm soát đó, vốn là trường hợp thường thấy, khi đó uy quyền sẽ nên bị triệt phá và thay thế bằng một gì tự do hơn và công bằng hơn. Và, như tôi hiểu, tình trạng vô chính phủ chính là khuynh hướng đó. Nó mang những hình thức khác nhau vào những thời điểm khác nhau”.

 

Tự nhận một người theo Học thuyết Vô Chính Phủ, Chomsky nói rằng ông không tin những thể chế và hệ thống vốn làm nền móng cho xã hội của chúng ta là công bằng. Chủ yếu, đây là cốt lõi của thuyết vô chính phủ; hệ thống (chính trị, xã hội) hiện có thì bất chính và phải bị tháo dỡ để được thay thế bằng một gì đó tốt hơn. Văn hóa đại chúng phổ thông chỉ cho thấy một khuynh hướng chú trọng vào (lật đổ) phần phải tháo dỡ hơn là (phê bình) phần bất chính. Như thế Chomsky ủng hộ gì như một thay thế cho hệ thống hiện tại? Đây là chỗ phần chủ nghĩa công đoàn (syndicalism) của chủ nghĩa công đoàn-vô chính phủ (anarcho-syndicalism) đi vào. Chomsky và những người khác trong trường phái tư tưởng của ông lập luận rằng chủ nghĩa tư bản vốn có tính bóc lột và nguy hiểm: một công nhân thuê bán sức lao động của họ cho ai đó ở đẳng cấp cao hơn trong hệ thống theo sự vật thứ bậc – một chủ doanh nghiệp, tạm nói – những người, nhằm tối đa hóa lợi nhuận của mình, thì được thúc đẩy để làm ngơ tác động của công việc kinh doanh của họ với xã hội quanh họ. Chomsky lập luận,thay vào đó, những người lao động và những đồng nghiệp nên tổ chức thành những công đoàn và công (hay hiệp hội), mỗi tổ chức như thế đưa ra những quyết định tập thể dưới một hình thức của dân chủ trực tiếp. Tuy nhiên, lập luận của Chomsky, giống như lập luận của nhiều triết gia, thường không đi sâu vào trong thực chất của vấn đề là nếu một thế giới như vậy nó sẽ thực sự được vận hành thế nào. Trong thời kỳ Nội chiến ở Spain, chỉ trong thời gian ngắn, tám triệu người Catalonia đã thực sự thành lập một xã hội vô chính phủ. Không có đẳng cấp sự vật thứ bậc xã hội, chinh trị; những nông trại, nhà máy và doanh nghiệp đều được những nông dân, công nhân của chúng, bình đẳng cai quản và điều khiển. George Orwell (chiến đấu cho những người vô chính phủ ở đây) đã mô tả tình trạng vô chính phủ ở Catalonia bằng những từ ngữ rực rỡ. Nhưng chỉ được 10 tháng, xã hội theo chủ nghĩa công đoàn vô chính phủ đã nhanh chóng giải thể, sau khi bị những người theo chủ nghĩa Stalin phá hoại.Trong lịch sử – Mohandas Gandhi từng được mô tả là một người theo chủ nghĩa hòa bình vô chính phủ (anarcho-pacifist). Noam Chomsky như vậy là một người theo chủ nghĩa công đoàn vô chính phủ (anarcho-syndicalist)

[32] red bureaucracy

[33] liberation theologians: những nhà gót học giải phóng: trong phong trào tôn giáo phát sinh từ hội nhà thờ Catô Roma, cuối thế kỷ 20 và tập trung ở châu Mỹ Latinh. Nó chủ trương ‘dấn thân, nhập thế’, áp dụng giáo thuyết Kivào những vấn đề chính trị và dân sự cốt lõi của những cộng đồng bị gạt ra bên lề xã hội, chính trị hay kinh tế, tiêu biểu bằng việc giúp đỡ giới nghèo khổ và bị áp bức trong xã hội những nước châu Mỹ Latinh.

[34] “Classical liberalism was wrecked on the shoals of capitalism” – “Chủ nghĩa tự do cổ điển đã bị đắm (tàu) trên những bãi cạn của chủ nghĩa tư bản”

[35] [Người ta có thể thêm rằng có những vấn đề trong đó nhà nước có thể được biện minh, vì nó có thể bảo vệ không chỉ những người bị thiệt thòi và cùng khổ sống ngoài lề xã hội, nhưng bảo vệ tất cả mọi người khỏi sự điên rồ và diệt vong của chính họ, chẳng hạn như những vấn đề về môi trường, và nói chung là bảo vệ những công dân khỏi rác rưởi văn hóa và sự thống khổ cô đơn tâm lý (những vấn đề “lạc lõng/xa lạ/vong thân” ,..nói vắn tắt.) vốn tác động những xã hội tư bản.]