Monday, July 25, 2022

Shapiro – Suy Nghĩ Về Toán Học (06)

Suy Nghĩ Về Toán Học

(Triết Học Toán Học)

 Stewart Shapiro

←...tiếp theo) 

 

 

 


6

THUYẾT HÌNH THỨC: NHỮNG PHÁT BIỂU TOÁN HỌC CÓ NGHĨA GÌ KHÔNG?

 

Quan sát dễ dãi cho thấy, hay có vẻ như vén mở lên cho thấy, rằng nhiều hoạt động toán học bao gồm sự vận dụng của những ký hiệu ngôn ngữ theo những luật nhất định. Nếu một người nào đó làm toán số học thiết lập một câu trong dạng a x b = c, sau đó người ấy có thể viết câu tương ứng b x a = c. Nếu người ấy cũng có được một câu như a0, sau đó người ấy được quyền viết c / a = b. Những phần sơ đẳng và cao cấp của toán học đều như nhau, có chung đặc điểm này, ít nhất xuất hiện như như sự vận dụng theo quy luật-điều khiển.

 

Ý nghĩa quan trọng của nhận xét này về sự thực hành của toán học là gì? Những triết lý khác nhau mang tên thuyết hình thức [1] theo đuổi một tuyên xưng rằng yếu tính của toán học là sự vận dụng của những ký tự. Một danh sách của những ký tự và những quy luật cho phép, tất cả nhưng trừ những gì để nói về một nhánh nhất định của toán học. Theo như người theo thuyết hình thức toán học, khi đó, toán học thì không, hay không cần , về bất cứ gì, hay bất cứ gì ngoài những ký hiêu chữ viết và những luật cho sự vận dụng chúng.

 

Thuyết hình thức nắm giữ một phương diện của toán học, có lẽ bỏ qua hay coi nhẹ tất cả gì khác. Dù tốt hay xấu, phần lớn số học cơ bản được dạy như một loạt những kỹ thuật ‘nhắm mắt mà làm’, với rất ít hay không có chỉ dẫn nào về những gì những kỹ thuật này làm gì, hay tại sao chúng làm thế. Có bao nhiêu những thày giáo dạy toán có thể giải thích những luật về phép tính chia số nhiều, chưa nói đến algorithm lấy căn bậc hai, trong những thuật ngữ khác hơn sự thực hành một thủ tục? Nhưng có lẽ đây là một phê bình về một số phương pháp sư phạm nào đó, hơn là một cố gắng để biện minh một triết lý.[2]

 

Thuyết hình thức có một liên hệ tiếp nối giữa những nhà toán học rõ hơn so với giữa những triết gia về toán học. Qua suốt lịch sử, những nhà toán học đã có dịp để giới thiệu những ký hiệu, vốn vào thời điểm đó, đã dường như không có giải thích rõ ràng. Chính những tên gọi ‘những số âm, số vô tỉ, số siêu việt, số ảo/tưởng tượng‘những điểm lý tưởng ở vô cực cho thấy sự mơ hồ, không rõ nghĩa. May mắn; giới chuyên môn toán học cũng có những đầu óc táo bạotâmgiàu tưởng tượng, nhưng có vẻ rằng những người đem cho những tên gọi là những người hoài nghi nhất. Mặc dù những thực thể mới đã đưa vào tỏ ra có ích cho những ứng dụng bên trong toán học và khoa học, nhưng trong những khoảnh khắc triết học của họ, một số nhà toán học đã không biết phải hiểu nghĩa của chúng là gì. Những số ảo, chúng thực sự là gì? Một phản ứng phổ thông với những dilemma như vậy là rút lui về thuyết hình thức. Nhà toán học khẳng định rằng những ký hiệu cho những số phức, thí dụ, đều là để được vận dụng theo như (hầu hết) cùng những quy luật như những số thực, và đó là tất cả những gì có với nó.

 

Tuy nhiên, bản thân những nhà toán học không luôn luôn đào sâu vào trong những quan điểm triết học của họ. Một trong những trình bày mạch lạc chi tiết nhất trong những dạng cụ thể cơ bản của thuyết hình thức được thấy trong phê bình mạnh mẽ của Gottlob Frege (1893: §86-137) về cái nhìn này.

 

1. Những Cái Nhìn Cơ Bản; Tấn Công Dữ Dội Của Frege

 

Ít nhất, có hai lập trường tổng quát khác nhau vốnmột số tuyên bố trong lịch sử cho danh hiệu thuyết hình thức. Mặc dù những triết học đứng đối lập nhau trong những đường lối quan trọng, nhưng cả hai, những chống đối và những bảo vệ của thuyết hình thức đôi khi hợp lẫn với nhau.

 

1.1. Những Thuật Ngữ

 

Thuật ngữ thuyết hình thức [3] là cái nhìn rằng toán học là về những ký tự hay những ký hiệu [4] – hệ thống của những chữ số và những dạng khác của ngôn ngữ. Đó là, người theo thuyết hình thức định nghĩa những thực thể của toán học bằng tên gọi của chúng. Số phức 8 + 2i thì chỉ là ký hiệu 8 + 2i. Một người theo thuyết hình thức thông suốt sẽ cũng xác định số tự nhiên 2 với chữ số 2, nhưng có lẽ một người có thể là một người theo thuyết hình thức về một nhánh nào đó của toán học nhưng không những nhánh khác.Một người có thể theo thuyết hình thức chỉ với những nhánh vốn người ấy ít nhiều lo lắng về chúng.

 

Theo thuyết hình thức về thuật ngữ, khi đó, toán học có một chủ đề-nội dung, và những mệnh đề toán học thì hoặc đúng hoặc sai. Cái nhìn này đề nghị những trả lời đơn giản cho những vấn đề (xem dường) khó khăn về siêu hình học và tri thức học với toán học. Toán học là về những gì? Những số, những set, v.v. Những con số, những set, v.v. này là gì? và vân vân tương tự? Chúng là những ký tự ngôn ngữ. Toán học thì được biết thế nào? Kiến thức toán học là gì? Có phải nó là kiến thức của những ký tự liên quan với nhau như thế nào, và chúng thì được vận dụng trong thực hành toán học như thế nào.

 

Hãy xem phương trình đơn giản nhất có thể:

0 = 0.

Giả định-trước là nó cuối cùng là đúng thực. Người theo thuyết hình thức thuật ngữ diễn dịch nó thế nào? Người ấy không thể nói rằng phương trình nói rằng vạch mực ngoài cùng bên trái (hay đốm mực đen) có hình bầu dục thì đồng nhất với đốm mực ngoài cùng bên phải, cũng hình bầu dục. Rõ ràng, đó là hai vạch mực khác nhau.

 

Người theo thuyết hình thức thuật ngữ có thể lấy phương trình để xác định rằng hai vạch mực đó có cùng dạng. Nhưng điều này dường như giả định-trước sự hiện hữu của những thực thể gọi là ‘những dạng. Khi thảo luận về những đề mục ngôn ngữ như những chữ cái và những câu, những triết gia thời nay phân biệt những loại với những biểu hiện [5]. Biểu hiện là những đối tượng vật lý đã tạo thành mực, bút chì, vết phấn, bột mực đen, v.v. Là những đối tượng vật chất, chúng có thể được tạo ra và phá hủy tùy ý. Những loại là những dạng trừu tượng của những biểu hiện. Từ ‘concatenation’ có hai trường hợp của một loại c. Loại c thì được tất cả những ký tự có biểu hiên-chữ-cái, của dạng đó, phân phát đồng đều. Khi chúng ta nói rằng bảng chữ cái Roma có 26 chữ cái, chúng ta nói về những loại chứ không những biểu hiện. Phát biểu sẽ vẫn giữ đúng nếu mọi biểu hiện của ký tự abị phá hủy. Từ viễn tượng này, người theo thuyết hình thức thuật ngữ có thể khẳng định rằng toán học là về những loại. Do đó, phương trình nói trên sẽ là một thí dụ đơn giản, dễ hiểu của luật đồng nhất. Phương trình nói rằng loại ‘0’ thì đồng nhất với chính nó.

 

Chúng ta hiểu những hình dạng hay những loại này thế nào? Lưu ý rằng những hình dạng và những loại là những đối tượng trừu tượng, giống nhiều như những con số. Vậy thì, ưu điểm của thuyết hình thức trong thuật ngữ so với thuyết duy thực trong bản thể học vốn ngay lập tức khẳng định sự hiện hữu của những con số là gì? Có lẽ người theo thuyết hình thức thuật ngữ có thể duy trì rằng, không giống như những số, những loại có những trường hợp đơn giản. những biểu hiện đơn giản của chúng và chúng ta tìm hiểu những sự việc về chúng qua những biểu hiện của chúng.

 

Một thuật ngữ ban đầu của thuyết hình thức đã do hai nhà toán học, E. Heine và Johannes Thomae [6] đưa ra (ít nhất là tạm thời) vào khoảng đầu thế kỷ XX. Heine (1872: 173) đã viết, ‘tôi đặt tên những con số cho những dấu hiệu hữu hình nhất định, như thế khiến sự hiện hữu của những con số này thì không chất vấn (hoài nghi) gì được’. Thomae (1898: §§1- 11) đã tuyên bố rằng ‘quan điểm hình thức loại sạch tất cả những khó khăn siêu hình cho chúng ta; đây là lợi thế nó có thể cho chúng ta. Điều này vẫn còn để chờ xem.

 

Frege (1893: §§86-137), trong một thời gian dài, đã phóng ra một phát biểu rõ ràng, tấn công gay gắt trên những cái nhìn của họ. Hãy xem xét phương trình:

5 + 7 = 6 + 6.

Phương trình này có thể đi đến điều gì? Có lẽ nó có nghĩa là ký hiệu 5 + 7 thì đồng nhất với ký hiệu 6 + 6. Nhưng điều này thì phi lý. Ngay cả những loại đều khác nhau. Trong5 + 7’ kể trước có xuất hiện của loại 5và trong kể sau ‘6 + 6 thì không. Nó không mở ra cho người thuyết hình thức để tuyên bố rằng hai ký hiệu biểu thị cùng một số, vì luận điểm trung tâm của thuyết hình thức thuật ngữ là chúng ta không cần xem xét những thực thể ngoài-ngôn ngữ vốn những thuật ngữ đã giả định là biểu thị chúng. Tất cả những gì quan trọng là những tự (chữ hay số). Chúng biểu thị chính chúng. Vì vậy, người thuyết hình thức thuật ngữ không thể giải thích dấu =’ như đồng nhất (bằng/như nhau). Nhân danh thuyết hình thức thuật ngữ, Frege đề nghị rằng phương trình thì được giải thích như nói rằng trong số học, ký hiệu 5 + 7 có thể được thay thế ở bất kỳ chỗ nào cho 6 + 6 nhưng không làm thay đổi trong giá trị-đúng thực. Đó là, một câu thuộc dạng A = B nói rằng ký hiệu tương ứng với A thì thay thế lẫn nhau được với ký hiệu tương ứng với B trong bất kỳ nội dung toán học nào. Vì vậy, (đồng đẳng thức) đồng nhất ở trên 0 = 0khẳng định sự đúng thực rằng loạiQ có thể được thay thế cho chính nó nhưng không làm thay đổi trong giá trị đúng thực

 

Thuật ngữ thuyết hình thức (trong toán học) có thể có lẽ là được mở rộng cho những số nguyên và những số hữu tỉ, nhưng những số thực được giả định là gì? Chúng ta không thể xác định chúng với những tên gọi của chúng, vì hầu hết những số thực không có tên. Một người theo thuyết hình thức thuật ngữ có thể cố gắng xác định số thực π bằng chữ cái Greece (π), nhưng người ấy sẽ nói gì về những số thực không có tên? Làm thế nào người ấy sẽ hiểu một tuyên bố về tất cả những số thực? Một cố gắng đơn giản sẽ là xác định π với chuỗi những số thập phân của nó: 3,14159... Tuy nhiên, mở rộng là đối tượng (một chuỗi số) vô hạn, và không là một ký hiệu ngôn ngữ. Người theo thuyết hình thức thuật ngữ có thể đưa vào một lý thuyết của ‘những giới hạn của những số thập phân hữu hạn, và xác định  với giới hạn của những ký hiệu 3, 3.1, 3.14, ... Tuy nhiên, nếu theo lối này, khó có thể nhận thấy một ưu điểm nào của thuyết hình thức thuật ngữ. Giới hạn của những ký hiệu trông quá giống cách hiểu thông thường về như giới hạn của những số hữu tỉ 3, 3.1, 3.14, ... Chúng ta dường như mất ý nghĩa của thuyết hình thức.

 

Giả định rằng người theo thuyết hình thức thuật ngữ giải quyết thành công vấn đề này và đưa ra một ngôn ngữ thay thế có thể chấp nhận được cho những số thực. Tuy vậy, quan điểm chỉ tóm thu phép tính (số học) toán học. Thuyết thuật ngữ hình thức có thể giải thích thế nào cho ý nghĩa của những mệnh đề toán học, như định lý số nguyên tố hay định lý cơ bản của calculus? Trong ý hướng nào có thể nói những định lý đó là về những ký hiệu?

 

1.2. Những Trò chơi

 

Dạng cụ thể cơ bản khác của thuyết hình thức mô tả việc thực hành của toán học tương tự như một trò chơi với những ký tự ngôn ngữ. Giống như, trong cờ chess, người ta có thể dùng một con tốt, đi theo đường chéo đến một hình vuông phía trước, để bắt một con cờ khác, vì vậy trong số học người ta có thể viết x = 10 nếu trước đó người ta đã được cho ‘x = 8 + 2 ·. Gọi đây thuyết hình thức trò chơi trong toán học [7]

 

Những dạng cụ thể cực đoan của quan điểm này khẳng định thẳng thắn rằng những ký hiệu của toán học là vô nghĩa. Những công thức và những câu toán học không biểu diễn những mệnh đề đúng hay sai về bất kỳ vấn đề-nội dung nào. Cái nhìn là những ký tự toán học không có ý nghĩahơn những quân cờ trên một bàn cờ chess. Nội dung của toán học được những quy luật cho vận hành với ngôn ngữ của nó đem dùng hết. Những dạng cụ thể ôn hòa hơn của thuyết hình thức trò chơi trong toán học  thừa nhận rằng những ngôn ngữ toán học có thể có một vài loại ý nghĩa, nhưng nếu vậy, ý nghĩa này không liên quan gì đến sự thực hành của toán học. Trong chừng mức quan tâm của nhà toán học làm việc, những ký hiệu của ngôn ngữ toán học cũng có thể là vô nghĩa.

 

Sự khác biệt giữa những dạng cụ thể cực đoan và ôn hòa của thuyết hình thức trò chơi trong toán học có rất ít ý nghĩa với triết học toán học. Hai cái nhìn đồng ý về việc thiếu sự giải nghĩa toán học cho những ký hiệu chữ của một nhánh toán học. Chống lại điều này, người theo thuyết hình thức thuật ngữ chủ trương rằng toán học là về thuật ngữ của nó.

 

Giống như thuyết hình thức thuật ngữ, thuyết hình thức trò chơi hoặc giải quyết hoặc tránh qua những vấn đề siêu hình và tri thức học khó khăn với toán học. Toán học là về những gì? Không về gì cả. Những số, những set, và v.v. là gì? Chúng không hiện hữu, hay chúng cũng có thể không hiện hữu. Toán học được biết như thế nào? Kiến thức toán học là gì? Nó là kiến thức về những quy luật của trò chơi, hay hiểu biết vốn một số nước cờ phù hợp với những quy luật này đã được thực hiện. Phương trình2 10 = 1024 và định lý rằng với mọi số tự nhiên x một số nguyên tố y > x (trong ký hiệu, xy (y > x & y là số nguyên tố)) mỗi phương trình chỉ định kết quả của một lần chơi nhất định phù hợp với quy luật số học.[8]

 

Trong nội dung của thuyết hình thức trò chơi trong toán học, những cụm từ như ngôn ngữ‘ký hiệu’ đều gây hiểu lầm. Giống như trong bất kỳ nội dung nào khác, mục đích của ngôn ngữ, trước hết và quan trọng nhất, là để truyền thông. Chúng ta dùng ngôn ngữ để nói về những sự vật việc, thường là những sự vật việc khác với bản thân ngôn ngữ. Trong cách dùng thông thường của nó, một ký hiệu là dấu hiệu để thay cho một gì đó. Từ Stewart là đại diện, hay thay thế cho con-người tên là Stewart. Như thế, người ta sẽ nghĩ rằng chữ số 2 là đại diện cho số 2. Đây thì đúng là điều vốn nhà hình thức trò chơi phủ nhận, hay ngần ngại. Hoặc chữ số không đại diện cho bất cứ gì, hoặc nếu không, nó cũng có thể không đại diện cho bất kỳ gì. Đối với toán học, tất cả những gì quan trọng là chữ số và là vai trò của chữ số trong trò chơi toán học.

 

Thật là trớ trêu khi chính công trình của Frege về lôgích (xem chương 5, §1) đã tạo động lực cho một dạng cụ thể tinh vi của thuyết hình thức trò chơi trong toán học . Frege đã tuyên bố rằng một trong những mục đích của lôgích học của ông là hệ thống hóa qua việc soạn thành luật lệ cho những suy luận đúng. Để xác định ý nghĩa tri thức của một khai triển diễn dịch [9] , không thể có khoảng trống trong lý luận; tất cả những tiền đề phải được làm rõ ràng. Vì mục đích này, Frege đã phát triển một hệ thống hình thức, hay nói chính xác, ông đã trình bày một hệ thống suy luận có thể hiểu về hình thức: khái niệm về ghi chép của tôi ... được trù định để ... hoạt động giống như một calculus bằng những phương tiện của một số nhỏ gồm những bước đi tiêu chuẩn, sao cho không bước đi nào được phép nếu không tuân theo những quy luật vốn đã được đặt ra dứt khoát và vĩnh viễn? (Frege 1884: §91, nhấn mạnh của tôi). Frege đã nhận thức được rằng đặc trưng này có thể cung cấp chất liệu cho một dạng cụ thể của thuyết hình thức:

 

Bây giờ, hoàn toàn đúng là chúng ta có thể đã đưa ra những quy luật của chúng ta và những luật khác của Begriffsschrift [thí dụ Frege 1879] như những quy định tùy ý, với không nói đến ý nghĩa và ý định của những dấu hiệu. Sau đó chúng ta sẽ coi những dấu hiệu như những (hình vẽ) con số. Những gì chúng ta coi là biểu hiện bên ngoài của một suy luận sau đó sẽ được so sánh với một nước đi trong cờ chess, chỉ đơn thuần là sự chuyển đổi từ phương hình xếp đặt này sang phương hình xếp đặt khác. Chúng ta có thể đem cho cho người nào đó [những tiên đề] và ... những định nghĩa của chúng ta ... – như chúng ta có thể cho vị trí ban đầu của những quân cờ trong cờ chess – nói cho người ấy biết những quy luật cho phép những chuyển đổi, và sau đó đặt cho người ấy vấn đề của việc suy diễn định lý của chúng ta ... tất cả điều này với việc người ấy không có một chút hiểu biết,nghi ngờ, hay gợi ý nào về ý nghĩa và ý định của những dấu hiệu này, hay về những suy nghĩ được biểu diễn bằng những công thức ... (Frege 1903: §90)

 

Frege chỉ ra cho thấy rằng ý nghĩa vốn chúng ta gán cho những câu là những gì làm chúng trở nên đáng chú ý, và ý nghĩa này gợi lên những chiến lược cho những diễn dịch khai triển. Người theo thuyết hình thức trò chơi có thể đồng ý với điều này, nhưng sẽ nói thêm rằng ý nghĩa của những biểu thức toán học thì không liên quan đến chính toán học. Đúng cho đến một mức đô nào nào đó với toán học, tất cả những gì quan trọng là những quy luật được tuân theo. có ý nghĩa thì đơn thuần chỉtự-tìm-hiểu, không hơn gì ngaoif một trợ giúp tâm lý. Toán học không cần có chủ đề-nội dung gì cả.

 

Tuy nhiên, người theo thuyết hình thức trò chơi phải gánh một vấn đề rất khó khăn. Tại sao những trò chơi toán học rất có ích trong những ngành khoa học? Rốt cuộc, ngay cả không ai tìm kiếm những ứng dụng có ích của cờ chess. Tại sao nghĩ rằng trò chơi vô nghĩa của toán học sẽ có bất kỳ những ứng dụng nào? Nó rõ ràng là có, và chúng ta phải giải thích những ứng dụng đó. Một vấn đề tương tự nảy sinh cho những ứng dụng của toán học bên trong toán học. Tại sao trò chơi phân tích số phức lại có ích trong trò chơi phân tích số thực [10] hay số học? Vấn đề này càng trở nên rắc rối khó khăn hơn với một người theo thuyết trò chơi về giải tích phức, nhưng không phải về giải tích thực hay số học.

 

Theo nghĩa này, thuyết hình thức trò chơi trong toán học  giống như một triết học khoa học được gọi là thuyết công cụ [11], đưa ra với ý định giảm bớt những lo lắng về những thực thể lý thuyết không quan sát được, như những electron. Theo thuyết công cụ, khoa học lý thuyết thì không là gì hơn một dụng cụ phức tạp cho việc tạo những tiên đoán về thế giới vật lý quan sát được. Nhà khoa học không cần phải tin rằng những thực thể lý thuyết hiện hữu. Do đó, người theo thuyết công cụ đã tránh khỏi vấn đề về tri thức học của việc giải thích cho kiến thức của chúng ta về những thực thể lý thuyết, nhưng người ấy bị bỏ lại với một khó khăn lớn của việc giải thích chỉ tại sao dụng cụ hoạt động tốt như vậy, hay tại sao nó lại hoạt động được tất cả. Tương tự như vậy, nhà hình thức trò chơi đã tránh khỏi vấn đề của việc nói toán học là về những gì, và có lẽ người ấy có một giải pháp rõ ràng cho vấn đề toán học được biết như thế nào, nhưng vấn đề tại sao toán học thì có ích bây giờ nhìn có vẻ khó chữa.

 

Phê bình chính của Frege (1903: §91) về thuyết hình thức trò chơi trong toán học  đi theo những dòng sau:

 

một số học với không suy nghĩ cung như nội dung của nó cũng sẽ là không có khả năng ứng dụng. Tại sao không ứng dụng nào có thể tạo ra được từ phương hình xếp đặt của những quân cờ? Hiển nhiên, vì nó không diễn tả suy nghĩ. Nếu nó đã như vậy và mỗi nước cờ tuân theo những quy luật tương ứng với một chuyển đổi từ một suy nghĩ này sang một suy nghĩ khác, những ứng dụng của cờ chess tất cũng có thể hình dung được. Tại sao những phương trình số học có thể áp dụng? Chỉ vì chúng diễn tả suy nghĩ. Chúng ta có thể áp dụng thế nào một phương trình không diễn tả gì và là không gì hơn một là một nhóm gồm những hình vẽ, để biến đổi sang một nhóm hình vẽ khác trong phù hợp với những quy luật nhất định? Đó là chỉ một mình tính có thể ứng dụng được vốn nâng số học từ một trò chơi lên hàng một khoa học.

 

Người theo thuyết hình thức có thể phản bác rằng những ứng dụng không là phần của chính toán học, chỉ trừ là có liên quan với nó. Frege (1903: §88) trích dẫn Thomae (1898: §§1-11):

 

Khái niệm chính thức về những con số chấp nhận những hạn chế khiêm tốn hơn so với khái niệm về lôgích. Nó không hỏi những con số là gì và chúng làm gì, vốn là những gì đã đòi hỏi về chúng trong số học. Với người theo thuyết hình thức, số học là một trò chơi với những dấu hiệu vốn được gọi là trống rỗng. Điều đó có nghĩa là chúng không có nội dung nào khác (trong trò chơi tính toán) ngoài việc chúng được chỉ định bởi hành vi của chúng đối với những quy luật nhất định của kết hợp (những quy luật của trò chơi). Người chơi cờ chess đi nước cờ tương tự với những quân cờ của người ấy; người ấy gán cho những quân cờ những tác động nhất định xác định tác động của chúng trong trò chơi. . . Chắc chắncó một khác biệt quan trọng giữa số học và cờ chess. Những quy luật của cờ chess là tùy tiện, hệ thống những quy luật số học là sao cho bởi phương tiện của những tiên đề đơn giản, những con số có thể được quy về nhiều những khác nhau, và do đó có thể làm những đóng góp quan trọng vào kiến thức của chúng ta về tự nhiên.

 

đây, Thomae dường như chấp nhận cái nhìn tôi gọi là thuyết hình thức trò chơi ôn hòa. Ý tưởng là nhà toán học xemngôn ngữ của ông như thể nó là một chùm những ký tự vô nghĩa. Những luật số học có lẽ đã được chọn cho mục đích của một số ứng dụng, nhưng những ứng dụng này không là quan tâm như thế với nhà toán học. Như Frege nói về , thay cho nhà hình thức trò chơi này, trong số học hình thức, chúng ta tự gỡ khỏi việc giải thích cho một lựa chọn những quy luật này thay vì một lựa chọn những qui luật khác (Frege 1903: §89).

 

Frege đáp ứng rằng vấn đề của tính ứng dụng không đi mất chỉ vì người theo thuyết hình thức, hay ngay cả nhà toán học, từ chối để giải quyết nó. Frege mỉa mai hỏi né tránh thế thì nhận được: Chắc chắn, số học thì được giảm bớt một số công việc, nhưng liệu điều này có gạt bỏ được vấn đề không? [Người thuyết hình thức] chuyển nó sang vai của những đồng nghiệp của người ấy, những nhà hình học, những nhà vật lý và những nhà thiên văn học; nhưng họ cảm ơn và từ chối công việc giải quyết vấn đề; và như thế, nó rơi vào trong một khoảng trống giữa những khoa học. Một sự tách biệt rõ ràng của những lĩnh vực của khoa học có thể là một điều tốt, miễnkhông lĩnh vực nào không ai có trách nhiệm (Frege 1903: §92). Frege sau đó cho thấy rằng những ứng dụng trong vấn đề đều rất lớn rộng. Toán học áp dụng cho bất kỳ gì có thể đếm được hay đo được. Cùng con số có thể hiện ra với những chiều dài, những khoảng thời gian, những khối lượng, những mômen quán tính, v.v.Do đó, vấn đề củasự hữu dụng’ của số học phải được giải quyết – một phần, ít nhất – độc lập với những khoa học vốn nó sẽ được ứng dụng. Và như thế nó sẽ không làm để tránh vấn đề trong lối này [12]. Ngay cả nếu việc gạt bỏ quá sớm thuyết hình thức của Frege, thì rõ ràng là người theo thuyết hình thức vẫn nợ chúng ta một giải thích về tính ứng dụng của toán học.

 

2. Thuyết Suy Diễn: Grundlagen Der Geometrie Của Hilbert

 

Một trong những phê bình của Frege về thuyết hình thức trò chơi trong toán học nêu lên một trường hợp thay đổi trên biến dạng ôn hòa của quan điểm đó. Giả định rằng một ai đónhà toán học, nhà vật lý học, nhà thiên văn học – làm việc giải thích những tiên đề cơ bản của số học khiến chúng thành đúng thực. Điều này thì không đủ để bảo đảm một ứng dụng cho số học, vì trong tự thân diễn giải này sẽ không bảo đảm rằng những định lý đều đúng trong cùng diễn giải. Làm thế nào chúng ta biết rằng những qui luật của trò chơi-số học đưa chúng ta từ những đúng thực (được diễn giải như vậy) đến những đúng thực? Frege (1903: §91) đã viết:

 

Nhưng trái lại trong một số học với những phương trình và những bất đẳng thức chấp nhận sẵn sàng là những nghĩa lý biểu thị những suy nghĩ, trong số học hình thức, chúng đều so sánh được với những vị trí của những quân cờ được, được chuyền đổi trong thuận hợp với những quy luật, với không cân nhắc nào về nghĩa . Vì nếu chúng được xem như có nghĩa , thì những quy luật không thể được quy định tùy tiện; chúng sẽ phải được lựa chọn sao cho từ những công thức biểu thị những mệnh đề đúng [người ta] có thể [suy ra] chỉ những công thức tương tự biểu thị những mệnh đề đúng. Khi đó, lập trường của số học hình thức sẽ bị buông bỏ, vốn khẳng định rằng những quy luật về sự vận dụng của những dấu hiệu đều hầu hết đã quy định tùy tiện.

 

Trong những thuật ngữ thời nay, cho sự ứng dụng của một nhánh như số học được thành công, những quy luật của trò chơi không thể là tùy tiện, nhưng phải lập thành những hệ quả lôgích. Bất kể ngôn ngữ được giải thích như thế nào, nếu những tiên đề thành ra đúng, khi đó những định lý sẽ đúng trong cùng diễn giải.

 

Sự ra đời của những hệ thống suy luận chặt chẽ – phần lớn nhờ Frege – nêu lên một triết học thu hút, vốn có chung một gì đó với thuyết hình thức trò chơi trong toán học , nhưng tránh được vấp ngã cụ thể này. Một người theo thuyết suy diễn [13] chấp nhận lập trường của Frege rằng những quy luật của suy luận phải gìn giữ sự đúng thực, nhưng người này nhấn mạnh rằng những tiên đề của những lý thuyết toán học khác nhau được coi như nếu chúng đã được quy định tùy tiện. Ý tưởng là sự thực hành của toán học gồm trong việc xác định những hệ quả lôgích của những tiên đề không được giải thích về mặt khác. Nhà toán học thì tự do để coi những tiên đề (và định lý) của toán học như không-có-ý-nghĩa, hay đem cho chúng một giải thích tùy ý

 

Để trình bày hoàn toàn chi tiết cái nhìn này, người ta sẽ phân biệt những thuật ngữ lôgích như , nếu ... thì, hiện hữu, và cho tất cả với thuật ngữ không-lôgích, hay cụ thể toán học, chẳng hạn thuật ngữ như số, ‘điểm’, set‘đường’. Thuật ngữ lôgích được hiểu với nghĩa thông thường của nó, trong khi thuật ngữ không-lôgích thì để không-diễn giải, hay được coi như thể nó không được diễn giải. [14] Gọi Φ là một định lý, thí dụ, của số học. Theo thuyết diễn dịch, nội dung của Φ là rằng Φ tuân theo những tiên đề của số học. Thuyết suy diễn đôi khi được gọi là ‘thuyết nếu-thì-là. [15]

 

Cấu trúc giống nhau giữa thuyết hình thức trò chơi trong toán học và thuyết suy diễn là kết quả của sự phát triển của những hệ thống lôgích có thể được hoạt động như một calculus, như Frege đã nói. Thuyết suy diễn thì thuận hợp với khẩu hiệu rằng lôgích thì chủ đề-trung lập’[16]. Từ quan điểm mô-hinh-lý thuyết thời nay, nếu một suy luận từ một set những tiền đề r đến một kết luận Φ là hợp lệ, thì Φ là đúng theo bất kỳ cách diễn giải nào vốn làm tất cả những tiền đề r đúng. Ý tưởng đằng sau thuyết suy diễn là để bỏ qua sự diễn giải  và bám vào những lập luận.

 

Giống như người theo thuyết hình thức trò chơi trong toán học, người theo thuyết suy diễn của chúng ta đưa ra những trả lời không hàm hồ, rõ ràng dễ hiểu cho những câu hỏi triết học. Toán học là về những gì? Là không-gì, hay nó có thể được coi như về không- cả. Kiến thức toán học là gì? Nó là kiến thức của những gì đến theo từ những gì. Kiến thức toán học là kiến thức lôgích. [17] Một nhánh của toán học thì được ứng dụng thế nào? Bằng việc tìm những diễn giải khiến những tiên đề của nó thành đúng thực.



Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(Jan/2022)

(Còn tiếp... )

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com

 


[1] formalism: thuyết hình thức, hay đúng hơn thuyết hình thức trong toán học, trường phái tư tưởng do David Hilbert, nhà toán học người Germany, thế kỷ 20 đưa ra, cho rằng tất cả toán học có thể được rút gọn thành những quy luật vận dụng công thức mà không cần viện dẫn đến ý nghĩa của công thức. Những người theo chủ nghĩa hình thức cho rằng chính những ký hiệu toán học, nhưng không phải bất kỳ ý nghĩa nào vốn có thể đã gán cho chúng, mới là đối tượng cơ bản của suy tưởng (triết lý) toán học.

[2] [Sự ra đời của những máy tính có thể làm tăng lên khuynh hướng với thuyết hình thức toán học. Nếu có một câu hỏi về minh định, hay tìm ý nghĩa của những hoạt động của máy tính, thì nó là cho một kỹ sư (hay một nhà vật lý), không là cho một thày giáo hay học trò của toán học sơ đẳng. Có một cần thiết thực để gán ý nghĩa cho việc bấm-nút không? Chúng ta nghe (hay đã từng nghe) phàn nàn rằng những máy tính làm hỏng khả năng suy nghĩ của thế hệ trẻ, hay ít nhất là khả năng làm toán của họ. Với tôi, dường như nếu những algorithm và thủ tục cơ bản được dạy bằng học thuộc lòng, không có cố gắng giải thích những gì chúng làm hay tại sao chúng được việc, thì trẻ con dùng những máy tính cũng là việc tốt. Thuyết hình thức cắt rất sâu.]

[3] Term formalism; thuyết hình thức (trên những thuật ngữ trong) toán học

[4] characters, symbols: ký tự, ký hiệu. Thí dụ những ký tự : những chữ viết, thường là những cái Roma và Greek, dùng như dấu hiệu: Α, α,; Β, β,; Γ, γ,; Δ, δ,; Ε, ε, ... , ...); những ký hiệu, những hình vẽ dùng như dấu hiệu, thí dụ, trong toán: ≠, =, <, >, ≤, ≥, [ ], ( ),..., trong lôgích: , , , , ...

[5] token: biểu hiện: một xuất hiện riêng lẻ của một đơn vị ngữ học trong nói hay viết, như ngược lại với loại (type hay class) của một đơn vị ngữ học vốn nó là một trường hợp thí dụ.

[6] Heinrich Eduard Heine (1821–1881), Carl Johannes Thomae (1840 - 1921): những nhà toán học người Germany

[7] game formalism

[8] [Kể từ Wittgenstein 1953, đã có nhiều thảo luận triết học về việc tuân theo quy tắc. Điều gì xảy ra với một người nào đó tuân theo một quy tắc này, thay vì một quy tắc khác? Chúng ta có thể phân biệt việc đi theo sai của một quy tắc sai với đi theo đúng của một quy tắc khác? Thí dụ, hãy xem Kripke 1982. Nếu có vấn đề ở đây, thì đó là vấn đề với bất kỳ triết học toán học nào, không chỉ là thuyết hình thức toán học về trò chơi.]

[9] derivation

[10] game of complex analysis, game of real analysis

[11] instrumentalism: thuyết công cụ

[12] [Tính ứng dụng rộng rãi của những con số là một trong những cân nhắc của Frege trong sự ủng hộ thuyết lôgích. Giải thích riêng của ông về những số tự nhiên bắt đầu rõ ràng với một trong những ứng dụng của chúng: để đánh dấu số đếm (xem Chương 5, §1). Lý do giải thích của Frege (1903) về những số thực đã tùy thuộc trên ứng dụng của chúng trong việc đo lường những tỷ lệ của những đại lượng (xem Simons 1987 và Dummett 1991: ch. 22).]

[13] Deductivism: thuyết Suy diễn (suy luận diễn dịch trong toán học). Suy luận suy diễn là phương pháp rút ra kết luận trong những chứng minh hình học.

[14] [Cách tiếp cận này xa lạ với thuyết lôgích của Frege. với Frege, mọi thuật ngữ toán học đều lôgích, và như vậy sẽ được giải thích đầy đủ. Xem van Heijenoort 1967a và Goldfarb 1979.

[15] if-then-ism: thuyết nếu-thì-là

[16] topic-neutral

[17] [Thuyết diễn dịch có nhiều điểm tổng quát với thuyết lôgích (xem chương 5).]