(What Kind Of Creatures Are We?)
Noam Chomsky
4 | NHỮNG BÍ ẨN CỦA THIÊN NHIÊN: ĐƯỢC GIẤU KÍN SÂU XA NHƯ THẾ NÀO?
Chúng ta có thể nghĩ về khoa học tự
nhiên như một loại hội tụ ngẫu
nhiên giữa những khả năng nhận thức của chúng ta và những gì đúng thực ít nhiều của thế giới tự
nhiên. Không có lý do để tin rằng con người có thể giải quyết mọi vấn đề vốn họ
đặt ra, hay ngay cả
rằng họ có thể thành hình những câu hỏi đúng; họ có thể giản dị là thiếu những dụng cụ khái niệm, giống như loài chuột không thể đối ứng được với một mê cung dùng những số nguyên
tố để ấn định những
ngã rẽ .
Những kết luận tổng quát của Russell, với tôi, xem dường như đi đúng hướng. Tôi nghĩ rằng công thức có thể được cải
thiện, bằng đơn giản bỏ những từ
“vật chất” và “vật lý”. Kể từ cách mạng Newton, chúng ta nói về thế giới “vật lý”
cũng nhiều như chúng ta nói về sự đúng thực “thực”: để nhấn mạnh, nhưng không nói thêm gì. Chúng
ta có thể phân biệt những phương diện khác loại của thế giới – thí dụ hóa học, điện học, kinh nghiệm
và phần còn lại – và sau đó chúng ta có thể tìm hiểu những nguyên lý cơ bản của chúng và những liên hệ của chúng
với những hệ thống khác, những vấn đề của sự thống nhất.
Giả sử chúng ta áp dụng “thuyết hoài nghi linh động”
vốn đã được bảo đảm sau Newton, nếu không
trước đó. Cho lý thuyết của não thức, điều đó có nghĩa là theo lời khuyên của Gassendi trong Objections.
Ông lập luận rằng nhiều nhất thì Descartes đã cho thấy “nhận thức về sự hiện
hữu của não thức, [nhưng] đã thất bại không vén lên cho thấy bản chất của nó”. Là cần thiết để tiến hành
như chúng ta sẽ làm trong việc tìm kiếm để khám phá “một khái niệm của rượu
thượng hạng so với rượu thường”, bằng việc điều tra nó được cấu thành thế nào và những luật vốn định rõ chức năng của nó thế nào. Tương tự,
ông thúc giục Descartes, “nó là phận sự của ông đề xem xét tự thân bằng một việc
làm giống như phân tích hóa chất nhất
định nào đó, thế khiến ông có thể định rõ và chứng minh
cho chúng ta thấy thực thể bên trong của ông” [1] – và của những người khác.
Lý thuyết của não thức có thể được theo đuổi trong nhiều
đường lối, giống như
những ngành khác của khoa học,
với một cái nhìn
hướng đến sự thống nhất sau cùng, bất kỳ hình thức nào có
thể xảy ra, nếu có. Đó là công việc vốn Hume đã đảm nhận khi ông nghiên cứu những gì ông gọi là
“khoa học của bản chất con người”, tìm kiếm “những suối nguồn và nguyên lý bí mật,
qua đó não thức con người vận hành trong những hoạt động của nó”, gồm “những phần của kiến thức
[của chúng ta]” vốn có nguồn gốc
từ “bàn tay nguyên thuỷ của tự nhiên”, một công trình ông so sánh với của Newton; cơ bản là những gì trong văn học thời nay gọi là “sự tự nhiên hóa của triết học” hay “nhận thức luận đã tự nhiên hóa”. Tiến trình đã nêu lên
của Gassendi trong thực tế đã được theo đuổi trong “cách mạng nhận thức” của thế
kỷ 17, bởi những
những triết gia Britain phái Plato-mới và những triết gia lục địa Europe về ngôn ngữ và não thức và đã được tiếp tục với sinh lực mới trong
những năm gần đây, nhưng tôi sẽ đặt vấn đề đó sang một bên.[2]
Hóa học tự nó hoàn toàn rõ ràng theo đuổi
tiến trình này. Nhà hóa
học thế kỷ 18, Joseph Black
khuyên rằng “lực thu hút [3] hóa học được tiếp nhận như một nguyên lý
đầu tiên, vốn chúng ta không thể giải thích nó được hơn Newton đã có thể giải
thích lực hấp dẫn, và chúng ta hãy hoãn việc giải thích những luật
của lực thu hút, cho đến khi chúng ta thiết lập được một khối học thuyết
như vậy, như Newton đã thiết lập liên quan đến luật hấp dẫn”. Vẫn còn “rất
xa với kiến thức về những nguyên lý đầu tiên”, khoa học của hóa học sẽ là “phân tích, giống như Optics của
Newton, trong dạng của một luật tổng
quát, ở chính giới hạn của phương pháp qui nạp
của chúng
ta, như phần thưởng của công sức của chúng ta”. Tiến trình ông đã phác thảo là tiến trình vốn đã
thực sự được
tuân theo, khi hóa học đã thiết lập
một khối học thuyết phong phú,
“những thành tựu… của nó không xây dựng trên nền tảng thu giảm, nhưng đúng hơn đã đạt được
trong cô lập với khoa học vật lý mới nổi lên”, nhà sử
học hóa học Arnold Thackray nhận xét. Newton và
những người theo ông thực đã cố gắng
để “theo đuổi tưởng tận công việc thu giảm và của Newton của việc khám phá những luật toán học tổng quát chi phối tất
cả những trạng thái hóa học” và để phát triển một khoa học nguyên tắc của những cơ cấu hóa
học dựa trên vật lý học và những khái
niệm của nó về sự tác động lẫn nhau giữa “những hạt vĩnh cửu cuối cùng
của vật chất”. Nhưng chương trình Newton đã bị cắt ngắn bởi “sự thành công đáng kinh ngạc của việc định lượng những đơn vị hóa học” của John Dalton, Thackray tiếp tục,
chuyển “toàn bộ lĩnh vực tranh luận triết học giữa những nhà hóa học từ những cơ cấu hóa học (lý do tại sao? của phản ứng) sang những đơn vị hóa học (cái gì? và bao nhiêu?) “, một
lý thuyết vốn “phản vật lý và chống Newton một cách sâu xa trong sự bác bỏ của nó về tính thống
nhất của vật chất và sự loại bỏ của nó về những lực-phạm vi-ngắn”. “Những ý tưởng của
Dalton đã thành công về mặt hóa học. Do đó , chúng đã hưởng được tôn trọng của lịch sử, không giống những dự án thu giảm mạch lạc hơn,
nếu kém thành công hơn về triết học của
người theo Newton”. [4]
Đem dùng thuật ngữ
thời nay, chúng ta có thể nói rằng Dalton đã không chú ý đến khoảng trống
cần giải thích giữa hóa học và vật lý bằng việc làm ngơ vật lý học nền tảng, giống nhiều những nhà
vật lý sau-Newton đã không chú ý đến khoảng trống
cần giải thích giữa động lực học Newton và triết học cơ học bằng việc làm ngơ (và trong trường hợp này là bác bỏ) triết học cơ học,
dù nó đã là tự hiển nhiên với hiểu biết thực tiễn thông thường.
Đó đã thường là tiến trình của khoa học kể từ đó, dù không
phải không có tranh luận và những chỉ trích gay gắt, thường sau này đã nhìn nhận
là từng bị sai lạc nghiêm trọng.
Tiến sang thế kỷ 20, những nhà khoa học lỗi
lạc đã giải thích sự thất bại của sự thu giảm của hóa học sang vật lý học như một khoảng
trống cần giải thích cực kỳ quan trọng, sau khi cho thấy rằng
hóa học đem cho “chỉ đơn thuần
những ký hiệu phân loại vốn tóm tắt tiến
trình quan sát của một phản ứng”, trích dẫn từ lịch sử tiêu chuẩn của William Brock. August Kekulé, vốn hóa học cấu trúc của ông là một bước quan trọng dẫn đến sự thống nhất cuối cùng
của hóa học và vật lý học, đã hoài nghi rằng” bao giờ có thể đưa
ra được những cấu tạo tuyệt đối của những phân tử hữu cơ”; những mô
hình và phân tích về hoá trị của ông đã chỉ có một giải thích dụng cụ, như những dụng cụ tính toán.
Antoine Lavoisier trước ông, đã tin rằng “số lượng và bản chất của những nguyên tố [là]
một bài toán nan giải, có thể có một vô hạn những lời giải vốn không một nào trong chúng có thể hợp thức với Tự nhiên”; “Có vẻ như rất có thể
xảy ra rằng chúng ta không biết gì về… [những]… atom không thể phân chia được vốn
vật chất được cấu thành”,
và sẽ không bao giờ, ông tin. Kekulé có vẻ như nói rằng không có một vấn đề để giải quyết; những công thức cấu trúc có có
ích hay không, nhưng không có sự đúng thực
của vật chất. Phần lớn vật lý học được hiểu cùng một đường lối. Henri Poincaré
đã đi xa hơn khi nói rằng chúng ta áp dụng thuyết phân tử của chất khí chỉ vì chúng
ta đã quen thuộc với trò chơi bi-a. Người viết tiểu sử khoa học của Ludwig Boltzmann
phỏng đoán rằng ông đã tự tử vì thất bại của ông trong việc thuyết phục
cộng đồng khoa học để xem giải thích lý thuyết của ông về những vấn đề
này như không chỉ
là một hệ thống tính toán – trớ trêu, ngay sau khi công trình của Albert Einstein
về chuyển động Brown và những vấn đề mở rộng hơn đã
thuyết phục những nhà vật lý về thực tại của những thực thể vốn ông đã đưa lên. Mô hình
atom của Niels Bohr cũng bị những nhà khoa học lỗi lạc xem như thiếu “thực
tại vật lý”. Vào những năm 1920, nhà hóa học đoạt giải Nobel đầu tiên của U.S. đã bác bỏ bàn tán về bản chất thực của những liên kết hóa học như là “lảm nhảm vô nghĩa” về siêu hình học: chúng đều là không gì khác hơn nhưng chỉ “một phương pháp rất thô sơ của việc trình bày những sự kiện
đã biết về những phản ứng hóa
học, chỉ một phương
thứccuar trình bày”, vì khái niệm không thể được thu giảm về vật lý học. Sự bác bỏ thuyết hoài nghi đó của một số nhà khoa
học hàng đầu, những người có quan điểm bị lên án vào thời đó như một sự phi lý
về khái niệm, đã dọn đường cho
sự thống nhất cuối cùng của hóa học và vật lý học, với giải thích lý thuyết
quantum của Linus Pauling về liên kết hóa học 70 năm trước đây. [5]
Năm 1927, Russell đã nhận xét rằng những luật hóa học “hiện nay không thể
thu giảm xuống được thành những luật vật lý học”, [6] một nhận xét
vốn đã được tìm thấy
là bị hiểu sai lệch: từ “hiện
nay” hóa ra nói cho nhẹ vấn đề. Những luật
hóa học không bao giờ có thể thu giảm thành những luật vật lý học, vì khái
niệm về những luật vật lý đã không đúng. Khoảng trống cần giải thích đã nhìn nhận không bao giờ lấp được. Lại nữa, là điều cần thiết để loại bỏ, vì không liên quan, ý niệm “có thể
mường tượng hình dung
được” và “có
thể hiểu được của thế giới”, để ủng hộ thuyết
hoài nghi linh động của thuyết tự nhiên về phương pháp luận: tìm để tăng lên kiến thức
chúng ta trong khi giữ một đầu óc cởi mở về tính có thể xảy ra của sự thu giảm .
Có những tương đồng song song khá rõ ràng
với thảo luận thời nay về ngôn ngữ và não thức, và có thể lấy ra được một số bài
học. Nghiên cứu sự thể hiện ký hiệu của côn trùng,
sự tổ chức của hành vi vận
động, thị giác loài động vật có vú, ngôn ngữ con người, phán đoán đạo đức
và những đề tài khác thì trong mỗi
trường hợp đều được khuyên nên tuân theo chỉ dẫn của Joseph Black. Nếu những tìm
hỏi này thành công trong việc phát triển một “khối học thuyết” vốn giải thích cho những yếu tố của sự điều hướng của côn trùng hay quy luật vốn chuyển động hình ảnh được
ndiễn dịch (nếu những
quy luật khác cho phép) như những chuyển động khô cứng trong không gian ba chiều, hay những hoạt động hoán chuyển vị trí trong ngôn
ngữ [7] tuân theo
những nguyên tắc địa phương, v.v., rằng nên được nhìn như khoa học bình
thường, ngay cả nếu chưa đạt được
sự thống nhất với sinh lý học thần kinh – và có thể không vì nhiều những lý do có thể xảy ra, trong số đó, vốn “cơ sở thu giảm” đã chờ đợi bị hiểu sai
và phải được sửa đổi. Không cần phải nói, khoa học bộ óc không được thiết lập vững
chắc như vật lý học cơ bản một
thế kỷ trước đây, hay như
triết học cơ học đã trong thời Newton. Là vô nghĩa để nhấn mạnh trên những học thuyết về
tính dễ dàng nhận hiểu được với ý thức:
ngay cả khi chúng có thể đem cho được một công thức nhất quán, chúng sẽ
không liên quan với “thực tại vật lý” của nguyên tắc khô cứng hay những điều kiện địa phương. Bây giờ
chúng ta đã đủ hiểu để loại bỏ sự diễn giải của những giải thích lý thuyết như không gì ngoài một lối “mô tả một số sự
kiện đã biết nào đó về [hành vi], một phương thức của sự trình bày” – một phê
bình thường đã công khai chống lại những lý thuyết của những khả năng tâm lý thần kinh cao hơn, dù không
sự tính toán côn trùng, một minh họa
khác của thuyết nhị nguyên về phương pháp
rất phổ biến trong thảo luận phê bình về sự tìm hiểu trong ngôn ngữ và não thức.[8]
Cũng thêm hiểu biết hữu ích để quan sát sự xuất hiện trở lại của nhiều
những cái nhìn sâu xa có trước đó,
dù đã đoạn tuyệt với kiến thức cơ bản của chúng trong sự sụp đổ của thuyết vật lý truyền thống. Thế nên, ngày nay
chúng ta đọc luận điểm của sinh học mới rằng “những sự vật việc về tâm lý, quả thực những não thức vốn ý thức và kinh nghiệm thế giới; đều là những thuộc tính nổi lên của bộ óc, [mặc dù] những
nổi lên này… đều được tạo bởi
những nguyên lý vốn… chúng ta còn vẫn chưa hiểu”, theo như nhà thần kinh học Vernon Mountcastle, hình thành chủ đề hướng dẫn của một tuyển tập những bài điểm sách vốn phê bình những kết
quả của Thập kỷ của Bộ óc, vốn kết thúc thế kỷ 20. Câu “chúng ta còn vẫn chưa hiểu” có thể sẽ cũng cùng số phận với
nhận xét tương tự của Russell về hóa học, bảy mươi năm
trước. Nhiều nhà khoa học và triết gia lỗi lạc khác đã chủ yếu trình bày
cùng luận điểm, như một “giả
thuyết kinh ngạc” của sinh học mới, một ý tưởng mới “triệt để” trong triết học của não thức,
“sự khẳng định táo bạo rằng những hiện
tượng tâm lý đều tự nhiên hoàn
toàn và gây nên bởi những hoạt động sinh lý học thần kinh của bộ óc”, mở ra cánh cửa cho những nghiên cứu mới lạ và
hứa hẹn, một sự bác bỏ của thuyết nhị
nguyên não thức-cơ thể của Descartes, v.v. [9] Thực sự, tất cả đều nhắc lại, hầu
như tỏng cùng những từ giống nhau, những phát biểu hệ thống của nhiều thế kỷ trước,
sau khi vấn đề não thức-cơ thể truyền thống
đã trở thành không thể trình bày rõ ràng chính xác được với sự biến mất của khái
niệm nhất quán duy nhất của vật thể (vật lý, vật chất, v.v.) – lấy thí dụ, kết luận
của Joseph Priestley rằng những thuộc tính “được gọi là tâm lý” thu giảm cách nào
đó thành “cấu trúc hữu cơ của não”, [10] Hume, Darwin,
và nhiều người khác, đã phát biểu trong những từ khác, và, có vẻ như hầu như không thể tránh được, sau sự sụp đổ của triết học cơ học.
Công trình quan trọng của Priestley đã là điểm cao nhất của một thế kỷ của những suy ngẫm trên phỏng đoán
của Locke, và sự khai triển chi tiết trọn vẹn nhất của chúng. [11] Ông nói rõ rằng những kết luận của ông về vật chất-suy tưởng đã theo đến trực tiếp
từ sự sụp đổ của bất kỳ khái niệm sâu xa nào về vật thể , hay vật chất, hay thể chất:
Những nguyên lý của triết học Newton đã không được biết sớm hơn, so với đã được thấy so sánh, rằng
chỉ một phần rất ít của những những hiện tượng
của Tự nhiên được quy cho vật chất rắn, và bao nhiêu do năng lực vốn đã chỉ được giả định để đi cùng và bao quanh
những phần rắn đặc của vật chất.
…. Bây giờ khi tính rắn đặc đã hiển nhiên rất ít liên quan trong hệ thống,
thực là một điều ngạc ngạc nhiên
tự hỏi rằng nó đã
không xảy ra sớm hơn với những nhà triết học … rằng có thể không có sư vật việc như vậy trong
Tự nhiên”.
Sau đó, thôi không có lý do nữa để giả định rằng “nguyên lý của suy nghĩ hay cảm giác [thì] không-tương đồng với vật chất”, Priestley đã kết luận. [12]Theo
đó, “toàn bộ luận chứng cho một nguyên
lý suy tưởng không-vật chất trong con
người, trên sự giả định này, rơi xuống đất; vật chất, thiếu thốn cùng cực những gì vốn
cho đến nay được gọi là chất rắn, thì không còn tương đồng với cảm giác và suy nghĩ hơn thực thể đó, vốn không biết gì thêm hơn về nó, chúng ta vẫn đã thường gọi là không-vật chất”. Những năng lực của cảm giác, nhận thức và suy tưởng nằm trong “một hệ thống tổ chức nhất định nào đó của vật chất, [và] tất yếu hiện hữu trong, và tùy thuộc trên một hệ thống loại như vậy”. Là đúng rằng “chúng ta có một ý tưởng rất không toàn hảo về những gì là năng lực của nhận thức”, và chúng ta có thể
không bao giờ đi đến được một “ý tưởng rõ
ràng”, nhưng “chính sự thiếu hiểu biết này phải khiến chúng ta thận trọng khi khẳng
định với những gì những thuộc tính khác nó có có thể có hay không có hiện hữu”.
Chỉ có một “kiến thức
chính xác và xác định về bản chất của nhận thức và suy nghĩ mới có thể cho
phép bất kỳ một ai để khẳng định
liệu chúng có thể không
thuộc về một thực thể mở rộng, vốn cũng có những thuộc tính của lực hút và đẩy”.
Sự thiếu hiểu biết của chúng ta không đem cho bảo đảm cho giả định rằng cảm giác
và suy nghĩ đều không tương đồng với vật chất sau-Newton”. Trong thực
tế, có cùng lý do để kết luận, rằng những năng lực của cảm giác và suy nghĩ đều là kết quả
tất yếu của một tổ
chức đặc thù, như âm thanh là
kết quả tất yếu của một chấn động đặc thù, của không
khí”. Và trong một thảo luận sau đó, “Theo ý kiến của tôi, thì có đúng cùng một lý do để kết luận rằng bộ óc suy nghĩ, như nó thì màu trắng và mềm”.
[13]
Priestley phê binh Locke vì do dự trong
việc đưa ra phỏng đoán của ông về vật chất-suy tưởng, vì kết luận đến trực tiếp từ “những quy luật được chấp nhận
phổ quát của việc
bàn luận triết học, như đã được Isaac
Newton đặt định”. Ông thúc giục rằng chúng ta buông bỏ thuyết nhị nguyên về phương pháp, vốn ngăn cản chúng ta với việc áp dụng vào
tư tưởng và cảm giác những quy luật vốn chúng ta tuân theo “trong những nghiên cứu tìm hiểu của chúng ta vào trong những nguyên
nhân của những xuất hiện đặc thù trong tự nhiên” và bày tỏ hy vọng của ông “rằng khi
điều này đơn giản chỉ ra sự bất nhất của hành vi của chúng ta, nó không thể thất bại, không đập mạnh vào chúng ta và để là phương
tiện của dẫn dụ thuyết phục” những triết gia để áp dụng cùng
một châm ngôn với sự điều tra củ những phương
diện tinh thần của thế giới vốn họ (đã) làm thế trong những lĩnh vực khác – một hy vọng vẫn chưa thành
hiện thực, tôi nghĩ. [14]
Priestley rõ ràng “đã ước muốn sự biến
mất của vật chất rắn đặc để báo hiệu một kết thúc cho thuyết nhị nguyên vật chất-tinh thần”, Thackray viết.
Và với nó một chấm dứt
với bất kỳ lý do nào để chất vắn luận điểm của vật chất-suy tưởng. [15] Theo lời của
John Yolton , kết luận của Priestley đã “không là tất cả đều thu giảm về vật chất,
nhưng đung hơn rằng loại vật chất trên đó quan điểm có hai-thực thể đã dựa trên nó, thì không hiện hữu”, và “với khái niệm đã sửa đổi về vật chất, những đường lối truyền thống
hơn của việc đặt câu hỏi về bản chất của suy tưởng và những liên hệ của nó với bộ óc thì không còn phù hợp. Chúng
ta phải nghĩ đến một hệ thống sinh học được tổ chức phức tạp với những thuộc tính vốn học thuyết
truyền thống có thể gọi là tinh thần trừu tượng và vật chất hữu hình”.[16]
Những kết luận của
Priestley, trong yếu tính, đều là những kết luận vốn Eddington và Russell đã đạt được, và đã khai triển trong
những năm gần đây, đặc biệt bởi Galen Strawson và Daniel Stoljar , trong những đường lối vốn chúng ta quay lại.
Duyệt lại sự phát triển của đề nghị của Locke ở England qua thế kỷ 18, Yolton nhận xét rằng “Những đề nghị đáng chú ý hết sức của Priestley
đã không được quan tâm theo đuổi và mở rộng; chúng ngay cả hầu như không được xem như khác biệt với những diễn giải khác trước đó của
thuyết duy vật. Những vấn đề được đề nghị của Locke nêu lên về vật chất-suy
tưởng … đã tự chúng diễn ra trong suốt thế kỷ, nhưng không ai đem cho quan điểm
mới nổi lên về con người
như một thực thể – đã được Priestley báo trước – một một trình bày
hệ thống toàn diện và chi tiết”.[17]
Kết luận này phần lớn vẫn đúng, ngay cả với những sinh vật có cấu trúc đơn giản ,
nếu chúng ta hiểu nó như dẫn nhắc về vấn đề thống
nhất (hóa học và vật
lý).
Sau khi biện luận rằng vấn đề não thức-cơ thể biến mất, khi chúng ta tuân theo “những nguyên
lý của triết học Newton”, Priestley quay
sang đương đầu với những
cố gắng để dựng lại một gì vốn giống vấn
đề, ngay cả sau khi một trong
những từ ngữ của nó
– cơ thể (vật chất,
v.v.) – thôi không có một nghĩa rõ ràng.
Thứ nhất là “sự khó khăn của việc hình
dung suy tưởng có thể nổi lên từ vật chất như thế nào,… một luận chứng vốn lấy ra tất cả sức mạnh của nó từ sự thiếu hiểu biết của chúng ta”,
ông viết, và (nó) không có sức mạnh trừ khi có
một bằng chứng rằng
chúng “tuyệt đối không tương hợp với nhau”. Priestley đã không thấy bị khó khăn rắc rối bởi những lo lắng nảy sinh từ sự thiếu hiểu biết, tôi nghĩ đúng vậy,
nhiều gì hơn những nhà khoa học đã quan tâm về tính không thể thu giảm của những thuộc tính bí ẩn của
vật chất và chuyển động với triết học cơ học, hay trong những thời gần đây hơn, về không có khả thu giảm hóa học
về một vật lý học không cân xứng, cho đến những năm 1930, lấy thí dụ hai thời điểm
có ý nghĩa quan trọng
từ lịch sử của khoa học.
Một phản đối phổ thông ngày nay là những ý tưởng giống như thế khơi dậy một hình thức
không được chấp nhận
của “sự nổi lên căn bản”,
không giống sự nổi lên của chất lỏng từ những phân tử, ở đó những thuộc
tính của chất lỏng có thể trong một ý hướng hợp lý nào
đó được nhìn như việc kế thừa trong những phân
tử. Trong câu nói của Nagel, “chúng ta có thể thấy trạng thái lỏng
là kết quả lôgích của những
phân tử ‘lăn lộn với lẫn với nhau’ ở mức
vi mô, như thế nào”, dù “không gì được mong tìm thấy tương đương trong trường
hợp của những tế bào thần kinh” và ý thức. [18] Cũng lấy trạng thái lỏng như một mô hình, Strawson biện luận cặn kẽ rằng khái niệm của sự nổi lên thì chỉ có thể hiểu
được nếu chúng ta hiểu nó như “tùy thuộc hoàn toàn”: nếu “một phần hay phương diện
nào đó của Y [đến] từ một nơi nào đó khác”, khi đó chúng ta không thể nói rằng Y thì “nổi lên từ X”. Chúng ta có thể nói rõ ràng hiểu được về sự nổi lên của những hiện tượng-Y từ những hiện tượng
không-Y, nếu chỉ những hiện tượng
không-Y đều ít nhất “cách nào đó phù hợp trong bản chất với việc cấu thành”
những hiện tượng-X; chắc chắn phải có “một gì đó về bản chất của X , nhờ vào đó “chúng đã “phù hợp như thế”. “Nó thì được xây dựng trong khái niệm
của sự nổi lên khiến sự nổi lên không thể là ‘thô bạo’ (phi lý) theo nghĩa không có lý
do nào cả trong bản
chất của sự vật để giải thích tại sao sự vật nổi lên thì như nó là thế”. Đây là
Luận điểm Nổi
Lên Không Triệt để của Strawson,
từ nó ông lấy ra kết luận theo thuyết Ý-Thức-Trong-Tất-Cả [19]
rằng “thực tại kinh nghiệm không thể
xuất hiện từ toàn bộ thực tại và thực tại tuyệt đối không-kinh nghiệm”. Tuyên bố
cơ bản, vốn ông nêu lên rõ, rằng “nếu thực sự
đúng là Y xuất hiện từ X thì đó phải là trường hợp Y theo một nghĩa nào đó hoàn
toàn phụ thuộc vào X và một mình X, do đó tất cả những đặc điểm của Y đều có thể truy ngược trở lại X một cách
đủ rõ ràng để hiểu được”. Ở đây “đủ
rõ ràng để hiểu được” là một khái niệm siêu hình học, hơn là một khái
niệm tri thức học, có nghĩa
là “đủ rõ ràng để hiểu được với Gót”: phải
là một giải thích trong bản chất của những sự vật , dù chúng ta có thể không có khả năng để đạt đến nó.[20]
Priestley, Có vẻ như
sẽ gạt bỏ những e ngại của Nagel trong khi chấp nhận luận điểm của Strawson, nhưng không lấy kết luận theo hướng thuyết ý-thức-trong-tất-cả. Nên lưu ý rằng thí dụ
về phân tử-chất lỏng, thường dùng, thì không là một thí dụ rõ ràng. Chúng ta cũng không thể
tưởng tượng hình dung
được một chất lỏng biến thành hai chất
khí, dù bằng điện giải, và không có ý thức trực giác nào trong đó (nhận biết) những thuộc tính của nước,
bazơ và axit vốn thuộc về hydro hay oxy hay những atom khác. Hơn nữa, toàn bộ
vấn đề về khả năng không
thể nghĩ tưởng được dường như không liên quan, cho dù nó được đưa ra trong liên hệ với những tác động của chuyển động, vốn Newton và Locke thấy là không
thể nghĩ tưởng được, hay những nguyên lý không thu giảm được của hóa học, hay những liên hệ não thức-não bộ. Có một
gì về bản chất của hydro và oxy “nhờ vào đó chúng phù hợp trong bản chất cho việc tạo thành nước”,
vì vậy khoa học đã khám phá sau những nỗ lực lâu dài để đem cho những lý do “trong bản chất của những sự vật tại, sao sự vật lại nổi lên như nó là”. Những gì xem có vẻ như “sự nổi lên vô lý” đã được
đồng hóa vào khoa học như sự nổi lên bình thường – để chắc chắn không là của tính đa dạng của chất lỏng, dựa
trên tính có thể mường tượng hình dung được. Tôi không
thấy có lý do vững mạnh nào về việc tại sao trong
trường hợp của thực tại kinh nghiệm và không-kinh nghiệm, những vấn đề nhất thiết phải khác đi, đặc biệt là sự thiếu hiểu biết đã biết của chúng ta về
điều kể sau, vốn đã nhấn mạnh
từ Newton và Locke đến Priestley, Russell đã khai triển, và lại nổi lên trong thảo
luận gần đây.
Sau đó, Priestley suy ngẫm về tuyên bố rằng
não thức “không thể là vật chất vì nó chịu ảnh hưởng của (những gì đến từ) lý trí”. Về điều này,
ông trả lời rằng vì “những gì đến từ lý trí, dù chúng có thể là gì, cuối cùng cũng thực sự ‘chuyển động’ vật chất,
nên chắc chắn rằng sẽ ít khó
khăn hơn trong việc mường tượng hình dung rằng chúng có thể làm điều này như hậu quả của tư thế chúng có tính chất hay thuộc tính gắn buộc với một số thực thể vật chất nào
đó, hơn là trên giả thuyết về sự gắn buộc của chúng với một thực thể vốn không có cùng thuộc tính
nào với vật chất “ – không giống như cách nói thời nay, nhưng nắm bắt được lý do vấn đề của thảo luận
ngày nay, dẫn một số đến phục hồi thuyết ý-thức-trong-tất-cả. Nhưng ngược với việc phục hồi thời nay, [21] Priestley bác bỏ kết luận rằng ý thức “không thể đồng hóa với toàn thể bộ óc như
một hệ thống, trong khi những phân tử riêng lẻ nó bao gồm đều
là những vô thức tách biệt”. Rằng
“một lượng nhất định nào đó của hệ thần kinh thì cần thiết cho những
ý tưởng và tình cảm phức tạp như thế vì thuộc về não
thức con người; và ý tưởng về cái-tôi, hay cảm giác vốn tương ứng với đại từ ‘tôi’”, ông biện luận “thì không nhất thiết khác biệt với của những ý tưởng
phức tạp khác, thí dụ như ý tưởng của đất nước chúng
ta”. Tương tự, nó không nên khiến chúng ta bối
rối hơn sự kiện là “sự sống phải là thuộc tính của một hệ
động vật hoàn toàn, nhưng không của những phần riêng biệt của nó”, hay nói rằng âm thanh không
thể “là kết quả của sự chuyển động
của một phân tử” của không khí.
Chúng ta nên nhìn nhận “rằng từ ngữ cái-tôi biểu thị thực thể đó vốn nó là chỗ của set đặc biệt đó gồm những cảm giác và
những ý tưởng cụ thể, khi đó được hồi
tưởng tạo thành một phần như khác biệt
với những thực thể khác vốn là chỗ của những set tương tự gồm những cảm giác và
ý tưởng”. Và “từ lâu rồi, đã lẽ phải từ bỏ những giả thuyết ngẫu nhiên
này, và để hình thành
những kết luận của chúng ta nhìn theo những khả
năng của não thức, cũng như của những thuộc
tính và năng lực của vật chất, bằng một sự chăm chú quan sát của những sự kiện và những suy luận thận trọng từ chúng”, áp dụng phương cách điều tra của Newton trong khi loại bỏ những cân nhắc suy xét của tính hợp lý thực tiễn thông thường
. Đó có vẻ là một lập trường hợp lý. [22]
Priestley thúc dục rằng chúng
ta cũng nên loại bỏ những lập luận dựa trên “cách nói thông tục” và “những cách hiểu thông tục”, như trong sự săn lùng một thực thể của thế giới, được từ ngữ ‘tôi’ chọn ra, khi tôi nói về “cơ thể của tôi”, với
ngầm ý về quan điểm nhị nguyên”.
Theo như lập luận chỉ bằng lời nói này”, Priestley nhận xét, “phải có một
gì đó trong con người bên cạnh tất cả những
phần vốn người ấy gồm có”, một gì
vượt ngoài cả hồn và xác, như khi “một người nói rằng tôi cống hiến linh hồn và thân xác của tôi”. Đại từ được cho là
biểu thị một gì đó vượt ngoai thể xác và
tinh thần để “làm sự cống hiến”. Trong những từ ngữ của Ryle, những câu trong cách dùng phổ thông có thể là “những diễn đạt gây hiểu nhầm một cách hệ thống”, một quan tâm sôi động thời đó, dựa trên một truyền thống có hàng thế kỷ trong việc tìm hiểu những
đường lối hình thức ngữ pháp ngoài mặt che giấu ý nghĩa thực. Giống như Priestley, Thomas
Reid biện luận rằng
việc không chú ý đúng mức xem xét “sự phân biệt
giữa những hoạt động của não thức và những đối tượng của những hoạt động này” là
một nguồn của sai lầm về triết học, như trong việc giải thích
câu “Tôi có một ý tưởng” theo mô hình của câu “Tôi có một
viên kim cương”, trong khi chúng
ta nên hiểu nó có nghĩa như một gì tương tự câu “Tôi đang suy nghĩ”. [23] Trong một thảo luận trước đó, người soạn từ điển bách khoa César Chesneau du Marsais, dùng những thí dụ tương tự và nhiều thí dụ khác, đã
nhắc nhở về sai lầm
của việc coi những danh từ là
“những tên gọi của những đối tượng thực, vốn hiện hữu độc lập với
suy nghĩ của chúng ta”. Khi đó, ngôn ngữ không
đem lại bất kỳ biện
minh nào cho giả định rằng những từ như
“ý tưởng”, “khái niệm” hay “hình ảnh” đại diện cho “những đối tượng thực”, chứ đừng nói đến “những đối tượng có
thể cảm nhận được”. [24] Vì những lý do tương tự, Priestley biện luận rằng “không có gì chắc chắn có thể được suy diễn từ câu như [‘cơ thể của tôi’], vốn xét cho cùng, chỉ
bắt nguồn từ những cách hiểu thông tục”.
Sự cần thiết để cưỡng lại những lập luận từ “những cách hiểu thông tục” được
hiểu rộng hơn: với những câu như “những suy nghĩ của tôi”, “những ước mơ của tôi”,
“tinh thần tôi”, ngay cả là “tự ngã của tôi”, vốn khác với bản thân tôi (= tôi (me), ngay cả dù trong một ý hướng khác, tôi có thể không là bản thân tôi trong những ngày
này). Khi John nghĩ về mình, ông đang nghĩ
về (người có tên gọi là) John, nhưng
không phải thế khi ông đang nghĩ về cái-tôi của ông; ông có thể làm tổn thương mình nhưng không tự ngã của ông (dù vai trò nào
những thực thể đáng chú ý này đóng trong thế giới tinh thần của chúng ta). Có
một khác biệt giữa việc nói rằng hành động của ông đang phản bội cái-tôi thật (chân chinh, trước đây) của ông và ông đang phản bội chính mình,
và “bản thân ông” chỉ định một đặc điểm
thiết yếu hơn là “chính bản thân bạn”. Việc tìm hiểu những câu hỏi nhiều lớp lang như những câu này, trong
khi hoàn toàn chính đáng và có thể soi sáng, thì bận tâm với “những hoạt động của não thức”, những phương thức của nhận thức và suy nghĩ của chúng ta, và không nên bị
hiểu sai là chủ trương rằng “những đối tượng thực hiện hữu độc lập với suy nghĩ của chúng ta “. Vấn
đề thứ hai là quan tâm của khoa học tự nhiên, và tôi coi đó cũng là quan tâm chính yếu của truyền
thống được xem xét ở đây. [25]
Stephen Yablo [26] nêu lên rằng những hoạt động
của não thức chắc chắn phù hợp với luận điểm rằng “Tôi không đồng nhất với cơ thể
của mình”, một giả định cốt lõi của thuyết nhị nguyên thực thể. [27]
Yablo nêu lên những hoạt động của não thức phù hợp với
luận điểm rằng “Tôi không đồng nhất với cơ thể của tôi”, một giả định cốt lõi của thuyết
nhị nguyên bản chất .
Ông nêu thêm rằng
“thuyết nhị nguyên thực thể… đã bị buông bỏ một cách
kỳ lạ”, có lẽ “bởi vì người ta không còn
nhìn nhận ‘những não thức” như những thực thể theo đúng nghĩa của chúng, hay “những thực thể”, dù “những cái tôi – những sự việc chúng ta đề
cập đến bằng cách dùng từ “tôi” – đều chắc chắn
là những thực thể, và nó không bóp méo hay mâu thuẫn đáng kể nào với ý
định đằng sau thuyết nhị nguyên não thức/cơ thể, để giải thích nó như một thuyết nhị
nguyên của những cơ thể và những tự ngã”. Theo truyền
thống tôi đang theo ở đây, đó là vật chất đã mất đi vị thế giả định là của nó,
và không có gì “kỳ lạ”. Nó cũng không
có nghĩa rõ ràng, như vừa ghi chú, rằng bằng
cách dùng đại từ ngôi thứ nhất (như trong
“Tôi cam kết cống hiến cơ thể và hồn người của mình”), hay tên gọi “John”, chúng
ta dùng để chỉ những tự ngã/những cái tôi. Nhưng gạt đúng hay sai sang một bên, cần có một lập luận để cho thấy rằng khi đem
dùng những từ như vậy, chúng ta nhắc đến (hay ngay cả tự coi mình là người đang
nhắc đến) đến những thành phần thực của thế giới vốn hiện hữu độc lập với những phương thức suy nghĩ của
chúng ta. Một giải pháp thay thế, theo tôi có vẻ hợp lý hơn, là những đề tài này
không thuộc về khoa học tự nhiên, nhưng đung
hơn là về một nhánh của khoa học dân tộc học, một ngành học về cách mọi
người nghĩ về thế giới, một lĩnh vực rất khác. Với khoa học tự nhiên, có vẻ như
khó có thể cải thiện kết luận của Priestley: rằng đề nghị của Locke về cơ bản là
chính xác và những thuộc tính “được gọi là tinh thần” thu giảm về thành “cấu
trúc tổ chức của não” – mặc dù theo những cách đã không được hiểu, không có gì ngạc nhiên, ngay cả khi chúng ta suy nhĩ về lịch sử của
những ngành khoa học nền tảng, như hóa
học.
Như đã lưu ý ở trước, với sự sụp đổ của ý niệm truyền thống về cơ thể (v.v.), có
hai cách cơ bản để dựng lại một số vấn đề vốn giống vấn đề não thưc-cơ thể truyền thống:
định nghĩa vật chất, hay xếp đặt vấn đề trong những thuật ngữ khác, chẳng hạn như những gì Priestley đã dự kiến.
Galen Strawson [28] khai triển lựa chọn thứ nhất trong một
loạt những sách báo quan trọng.[29]
Không giống nhiều người khác,
ông có đem cho một định nghĩa của “vật chất”, thế khiến có thể để hình thành một vấn đề vật chất/không-vật chất. Vật chất là “bất kỳ loại tồn tại nào [vốn là] không gian-thời gian (hay ít
nhất đặt vị trí được trong thời gian)”. Vật chất gồm “những biến cố theo kinh nghiệm” (tổng quát hơn là những biến cố tâm lý) và cho phép hình thành
câu hỏi – những hiện tượng về kinh nghiệm
có thể là những hiện tượng
về vật chất như thế nào –
một “vấn đề não thưc-cơ thể”, trong một lối diễn dịch sau-Newton.
Đi theo Eddington
và Russell, và những người trước đó,
đặc biệt là Priestley, Strawson kết luận rằng “thứ chất liệu vật chất, trong tự thân, có ‘một bản chất có khả năng của tự biểu hiện như hoạt động tâm lý’, tức là như kinh nghiệm
hay ý thức”.
Điều đó dường như không gây tranh luận, dựa trên những
định nghĩa cùng với một số sự kiện không phức tạp. Nhưng Strawson
có ý định thiết lập một luận điểm mạnh mẽ hơn nhiều về thuyết ý-thức-trong-cực-nhỏ (vốn ông đồng nhất ở đây với thuyết ý-thức-trong-tất cả): “ít nhất một số những cơ bản về bản chất
liên quan đến kinh nghiệm”. Tiền đề quan trọng cho kết luận xa hơn đó, như Strawson
nói rõ ràng, là Luận điểm Nổi Lên Không Triệt để,
đã thảo luận, từ đó theo đến rằng “thực tại kinh nghiệm không thể xuất hiện từ toàn bộ thực tại và thực tại tuyệt đối không-kinh nghiệm”, một vấn đề
siêu hình học, không là vấn đề nhận thức học. Strawson giải thích
lập trường của Eddington là thuyết ý-thức-trong-cực-nhỏ, trích dẫn
quan sát của ông rằng sẽ “khá ngớ ngẩn để thích gắn
[suy nghĩ] với một gì đó của cái-gọi-là bản chất ‘cụ thể’ không phù hợp với suy nghĩ, rồi
sau đó tự hỏi suy
nghĩ đó đến từ đâu”, và rằng chúng ta không có kiến thức “về bản chất của những
atom khiến cho việc chúng cấu thành một
đối tượng suy nghĩ trở nên phi lý”. Tuy nhiên, điều này dường như không đến mức của thuyết ý-thức-trong-cực-nhỏ / ý-thức-trong-tất-cả của Strawson.
Thay vào đó, Eddington dường như không đi xa hơn quan niệm của Priestley, viết rằng
không có gì trong vật lý đưa chúng ta đi đến bác bỏ kết
luận rằng một “ghép hợp của những atom cấu thành
một bộ óc” có thể là “một đối tượng (có ý thức, đang kinh nghiệm) có suy nghĩ”. Có vẻ như
ông không chấp nhận Luận điểm Nổi Lên Không Triệt để
vốn cần thiết
để đưa lập luận đi xa hơn kết luận của Strawson. Russell cũng vậy, ông dừng lại ở bước quan trọng này, và Priestley từ chối
nó một cách rõ ràng, liên quan đến sự xuất hiện căn bản như khoa học
thông thường. Giải thích văn bản đặt sang một bên,
những vấn đề dường như được rút ra khá rõ ràng.
Daniel Stoljar, [30]theo đuổi
lựa chọn thứ hai, đã thực hiện một số công trình kỹ lưỡng nhất về thuyết
vật lý và những dạng khác nhau của “vấn đề não thức-cơ thể”. Ông có đem cho một số trả
lời với câu hỏi của việc – nói rằng
một gì đó là vật
chất thì nó nghĩa là gì – một câu
hỏi, ông lưu ý, đã không nhận được nhiều
chú ý trong tài liệu nghiên cứu, dù “với không có bất
kỳ sự hiểu biết nào về vật chất là gì, chúng
ta có thể không có
hiểu biết sâu xa nào về thuyết vật lý [31] Những trả lời ông đưa ra không quá thuyết phục, tôi nghĩ rằng
ông sẽ đồng ý thế, nhưng ông biện luận rằng việc đó thì không quan trọng lắm: “chúng ta có nhiều khái niệm vốn
chúng ta hiểu nhưng không biết
thế nào để phân tích”, và “khái niệm
về vật chất là một trong những khái niệm
trung tâm của tư tưởng con người”. Nhận xét sau là đúng, nhưng chỉ nhìn theo hướng của khái niệm
thực tiễn thông thường
của triết
học cơ học, từ lâu đã không xác định. Điều nói ở trước cũng
đúng, nhưng nó thì không rõ ràng rằng chúng ta muốn tìm được một luận điểm triết học nghiêm chỉnh trên một khái niệm vốn chúng ta nghĩ rằng chúng ta hiểu về trực giác nhưng không thể phân tích, đặc biệt khi một
lịch sử dài cho thấy rằng hiểu biết thực tiễn thông thường như vậy thường không thể đứng vững trước sự nghiên
cứu nghiêm chỉnh. Nhưng lý do
nền tảng hơn của Stoljar
để không quá bận tâm với việc mô tả đặc điểm của “vật chất” thì khác: những vấn
đề, theo ông, nên được chuyển sang những thuật ngữ nhận thức học, không tìm kiếm
sự giản lược về vật chất, nhưng xem thuyết vật lý để chỉ là “nền giả định siêu
hình phản lại nó những vấn đề của
triết học về não thức được đặt ra và thảo luận”. Thế nên, “khi được
hiểu đúng mức, những vấn đề vốn những triết gia về não thức có chú ý quan tâm đều không trong khung cấu trúc [chính nó],
và ở mức độ như thế, đều không là siêu hình học”.
Stoljar đề nghị rằng “vấn đề chính bàn luận trong triết học ngày nay thì khác biệt
cả với vấn đề não thức-cơ thể như vấn đề đó hiểu theo
truyền thống và với vấn đề như nó vốn là, hay có thể là, được theo đuổi
trong những ngành khoa học”; một điểm làm rõ, theo tôi, là vấn đề
truyền thống, ít nhất từ Descartes qua đến Priestley (xem công trình của người sau phản ứng lên đến cao nhất thời sau-Newton với vấn đề truyền thống),
có thể hợp lý hiểu như một
vấn đề bên trong những
khoa học. Những câu hỏi truyền thống “chúng ta có thể gộp chúng chung vào nhau dưới
đề mục ‘siêu hình
học của não thức’”, nhưng Stoljar
xem triết học thời nay thì quan tâm với “ những nguyên
lý tri thức học”
và quan trọng là “vấn đề lôgích của kinh nghiệm”. [32] Ông viết, có thể là đúng rằng “khái niệm về vật chất thất bại, không đạt được những tiêu chuẩn tối thiểu của sự rõ ràng”,
nhưng những vấn đề như vậy “chỉ đóng một vai trò minh họa hay không thiết yếu trong
vấn đề lôgich”, vốn nó có thể được nêu lên “ngay cả trong thiếu vắng … một khái niệm xác định hợp lý về vật chất”. [33] Vấn đề lôgích nảy sinh từ giả định rằng (1) có những
sự đúng thực kinh nghiệm,
trong khi có vẻ hợp lý để tin vào cả hai, rằng (2) mọi
đúng thực như vậy đều
bị kéo theo (hay bao trùm trên) một số đúng thực không-kinh nghiệm và rằng (3) không phải mọi đúng thực kinh nghiệm
đều kéo theo (hay bao trùm trên) một số đúng thực không-kinh nghiệm. Việc chấp nhận (1) và (2) (với một thêm vào rõ ràng để suy nghĩ), câu hỏi quan trọng là (3). Như đã thảo luận, theo
một truyền thống dõi ngược về từ Newton
và Locke, Priestley thấy không có lý do để chấp nhận luận điểm (3): “chính sự thiếu hiểu biết của chúng ta” về những thuộc tính của vật chất
thời sau-Newton bảo cho chúng ta thận trọng, đừng thực hiện bước này. Trong những lời của Russell
(Stoljar trích dẫn), những đúng thực kinh nghiệm “đều không được biết là có bất kỳ thuộc tính nội tại nào
vốn những sự kiện vật lý không thể có, vì chúng ta không biết bất kỳ thuộc tính
nội tại vốn nào có thể
là không tương đồng với những thuộc tính lôgích vốn vật lý gán cho những
sự kiện vật lý”. Từ những viễn cảnh này, khi đó, vấn đề lôgích không nảy sinh.[34]
Giải pháp của Stoljar cho vấn đề lôgích, “vấn đề não thức-cơ thể” mới, thì tương tự như
lập trường của Priestley và Russell, ngay cả nếu nói ra có một chút khác biệt. Nó dựa trên
“giả thuyết của ông về “sự thiếu hiểu
biết, theo đó chúng
ta đều không biết gì thuộc một loại đúng thực không-kinh nghiệm (được) nhưng lại có liên quan với kinh nghiệm”,
thế khiến “vấn đề lôgích của kinh nghiệm”
được gỡ rối trên những nền tảng nhận thức
học.[35]
Ông đề nghị ở nơi khác rằng “cái nhìn triệt để… rằng chúng ta không biết gì về bản chất của vật chất hay không-kinh nghiệm có tiềm năng để biến đổi hoàn
toàn triết học của não thức”.
[36] Trong phát biểu hệ thống của Strawson, dòng suy nghĩ
(dễ nhận thấy) vốn đã hiểu rõ
từ nửa thế kỷ trước “đã hầu như hoàn toàn biến mất khỏi dòng triết học chính [như] triết học phân tích đã thu được những trực
giác nhị nguyên cực đoan” [37]
ngay cả như khi nó tuyên bố
thuyết nhất nguyên của nó. Ngoại trừ một vài trường hợp tôn trọng, một số nhà tư tưởng đã lấy ý tưởng Descartes và vượt quá Descartes, trong chắc chắn của nó rằng chúng ta biết đủ về những gì là vật chất để biết rằng những gì là kinh nghiệm chủ quan không thể là vật chất”. [38]
Điểm làm rõ, liên quan đến (2) là chúng ta không thể dễ dàng giả định rằng có những
đúng thực không-kinh nghiệm;
trong thực tế, giả định có thể là “ngớ ngẩn”, như Eddington đã nói. Một số nhà vật
lý đã đi đến những kết luận như vậy trên những nền tảng của lý thuyết quantum. John Wheeler lập luận rằng “những tối hậu” có thể là chỉ “những mẩu thông tin”, phản hồi cho những
truy vấn do người điều tra đặt ra. Theo H.P. Stapp, “Những
sự kiện thực tế của lý thuyết quantum là những tăng lên được kinh nghiệm trong kiến thức”. [39] Ba ba mức độ của tính chắc chắn
của Russell đưa lên những lý do khác cho sự hoài nghi. Ít nhất, một vài thận trọng thì tất yếu về tính hợp thức, ngay cả của phát biểu hệ thống của “vấn đề lôgích”.
Stoljar viện dẫn giả thuyết
về sự thiếu hiểu biết trong khi phê binh những kết luận của C.D. Broad về tính
không thể thu giảm
của hóa học
về vật lý học, một tương
tự gần với Luận chứng Kiến thức [40], ông nhận
xét. Ông kết luận rằng Broad đã không ý thức “rằng những sự kiện hóa học tuân theo những sự kiện vật lý”, cụ thể là những sự kiện
về thuyết quantum.[41]
Nhưng đặt vấn đề theo cách đó thì có phần nào sai lạc. Những gì đã xảy ra
là vật lý học thay đổi hoàn
toàn với cách mạng lý thuyết quantum, và cùng với nó là khái niệm về “sự kiện vật
lý”. Tôi nghĩ, một phát biểu hệ thống thích hợp hơn là để nhìn nhận rằng
sau-Newton, khái niệm “những sự kiện vật lý” không có nghĩa gì khác hơn những gì lý thuyết khoa học tốt nhất hiện nay đưa ra đưa ra thành những định đề, do đó nên
được xem như một dụng cụ tu từ của việc làm sáng tỏ, nhưng không thêm thực chất nội dung. Vấn đề của thuyết
vật lý không thể dễ bỏ ra ngoài như vậy. Giống như con chuột chũi cũ của
Marx, nó (thỉnh thoảng vẫn) cứ thò mũi
lên khỏi mặt đất. [42]
Cũng có những mức
độ thấp hơn của tính bí ẩn, nên nhớ, đáng chú ý. Một trong những chú tâm đặc biệt,với con người
là sự tiến hóa của những khả năng nhận thức của họ. Về đề tài này, nhà sinh học tiến
hóa Richard Lewontin đã lập luận mạnh mẽ rằng chúng ta có thể học được rất ít, vì
không đến gần được bằng
chứng, ít nhất trong bất kỳ điều kiện nào khoa học thời
nay hiểu được.[43]
Về ngôn ngữ, theo chiều hướng này, có hai câu hỏi nền tảng: thứ nhất,
sự tiến hóa của khả năng để dựng một phạm vi vô hạn của những diễn đạt có cấu trúc theo thứ bậc vốn những hệ thống nhận thức và hệ thống phối hợp giác quan-vận động của chúng
ta có thể hiểu được; và thứ
hai, sự tiến hóa của những những yếu tố-atom (yếu tố độc lập nhỏ nhất) đại thể giống-như-từ (những “đơn vị từ
vựng”), vốn đi vào những tính toán [44] này. Trong
cả hai trường hợp, những khả năng hiện ra có vẻ như đặc biệt chỉ với con người, ngay cả đặc biệt có lẽ chỉ cho ngôn ngữ con người, vượt ra ngoài những ràng buộc của những quy luật tự nhiên. vốn nghiên cứu
gần đây gợi mở những hệ quả xa rộng bắt nguồn từ nhận biết về đặc biệt này. Tôi nghĩ một
gì đó có thể được nói về câu
hỏi thứ nhất trong số những câu hỏi này, sự tiến hóa của những cơ cấu phát sinh (tạo và hiểu ngôn ngữ). Một kết luận xem ngày càng có vẻ hợp lý là việc thể hiện bên ngoài của ngôn ngữ bằng phương tiện của hệ thống phối
hợp giác quan-vận động là một tiến trình đã thêm vào, và cũng là chỗ tụ hội của nhiều những đa dạng phong phú
và tinh tế phức tạp của ngôn ngữ. Tuy nhiên, sự tiến hóa của những
atom của sự tính toán dường như bị sa lầy trong tính bí ẩn, cho dù chúng ta nghĩ chúng như những khái niệm
hay những đơn vị từ vựng của ngôn ngữ. Trong hệ thống biểu tượng của những loài
động vật khác, những biểu tượng dường như được liên kết trực tiếp với những sự kiện
độc lập với não thức. Những ký hiệu của ngôn ngữ con người thì đều khác biệt rõ rệt. Ngay cả
trong những trường hợp đơn giản nhất, không có quan hệ từ-đối tượng, chỗ những đối
tượng là những thực thể độc lập với não thức. Không có quan hệ quy chiếu nào, theo
nghĩa kỹ thuật quen thuộc từ Frege và Peirce đến những người theo thuyết ‘những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng’ đương thời [45]. Đúng hơn, hiện ra có vẻ rõ ràng rằng chúng ta nên
tiếp nhận một gì giống
như cách giải quyết của cách mạng nhận thức thế kỷ 17 và 18, và những kết luận của Shaftesbury và Hume rằng “bản chất khác lạ thuộc về”
những yếu tố ngôn ngữ đã thường dùng để chỉ không phải một gì bên ngoài
và độc lập với não thức,
“cảm thông của những phần” hướng đến một “cứu cánh chung”, tính
liên tục tâm lý, và những thuộc tính tinh thần khác. Trong câu nói của Hume,
“bản sắc định tính vốn chúng ta gán cho” những thực vật , những cơ thể động vật,
những sự vật tạo tác hay
“não thức của con người” – sưu tập của những thuộc tính riêng biệt – thì chỉ là một “hư cấu”, được những “năng lực nhận thức” [46]
của chúng
ta thiết lập , như những
người đi trước thế kỷ mười bảy của ông đã gọi chúng. Điều đó
thì không là trở ngại cho tiến trình giao tiếp, gồm cả trường hợp đặc biệt của truyền thông,
với những năng lực nhận thức được chia
sẻ rộng rãi. Đúng hơn, những thuộc tính ngữ nghĩa của những từ xem có vẻ giống
nhau nhìn về thướng này cảu những huộc tính
ngữ âm của chúng. Không ai thì có ảo tưởng đến mức tin rằng có một đối tượng độc lập với não thức tương ứng với âm tiết bên trong [ ba
], một cấu tạo nào đó có lẽ từ chuyển
động của những phân tử, vốn được chọn
khi tôi nói [ ba ] và khi bạn nghe nó. Tuy
nhiên, những tác động qua
lại vẫn tiến hành, luôn luôn là một ít-hay nhiều-hơn thay vì là một quan
hệ có-hay-không-có .[47]
Có rất nhiều điều để nói về những đề tài này, nhưng
tôi sẽ không theo đuổi chúng ở đây, chỉ nhận xét rằng trong trường hợp này cũng
vậy, có thể có ích cho kết luận của Strawson rằng “trực giác nhị nguyên cực đoan” nên được loại
bỏ cùng với “sự chắc chắn rằng chúng ta biết đủ về vật chất để biết rằng kinh nghiệm
không thể là vật lý, “và đề nghị của Stoljar rằng” quan điểm cấp tiến “có thể biến
đổi triết học về não thức và ngôn ngữ, nếu được đón nhận nghiêm chỉnh.
Cuối cùng, quay trở lại với thí dụ cốt lõi của khoa học Descartes, ngôn ngữ của
con người, lời khuyên của Gassendi để tìm một hiểu biết
“giống như hóa học” về bản chất bên trong của nó đã được theo đuổi với một số thành
công, nhưng những gì đã bận tâm phái Descartes đã là một gì khác biệt: việc dùng
ngôn ngữ một cách sáng tạo, những gì sau này Humboldt đã gọi là “đem dùng vô hạn
của những phương tiện hữu hạn”, nhấn mạnh
đem dùng.[48]
Có công trình đáng chú ý về những đường lối chỉ đạo cho việc dùng ngôn
ngữ trong những điều kiện cụ thể – đặc biệt là về ý định thông tin,
như trong ngữ dụng học của quan điểm Grice-mới [49] – nhưng không hoàn toàn là rõ ràng rằng điều này mở rộng đến mức độ nào với việc dùng ngôn ngữ
thông thường và trong bất kỳ xảy ra nào, nó không giải quyết những câu
hỏi Descartes của việc sáng tạo đem dùng ngôn ngữ, vốn nó vẫn nhiều là một bí ẩn bây giờ như nó đã
là thế trong những thế kỷ trước,
và có thể quay ra để là một trong những bí mật cuối cùng đó, vốn mãi mãi sẽ vẫn trong bóng tối, thông minh
con người không xuyên thấu. [50]
Noam Chomsky
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Sep/2022)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] [Được trích dẫn trong Wilson, Descartes, 95.]
[2] [David Hume, An Inquiry Concerning Human Understanding
(1772), vol. 2.1. Về những cố gắng hiện đại đáng ngờ để thành hình những gì đã từng là một dự án hợp lý rõ ràng trước khi tách triết học ra khỏi
khoa học, hãy xem Chomsky, New Horizons in the Study of Language and Mind,
79–80, 144–45, và tổng quát những chương 5 và 6 (reprinted from Mind 104 [1995]:
1–61)]
Lời Gassendi: “Chắc chắn, nếu người ta hỏi
bạn một khái niệm
về rượu thượng hạng
so với rượu thường,
thì sẽ không đủ để nói; Rượu là một chất lỏng, ép từ nho, màu trắng hay đỏ, ngọt,
làm say, v.v.;
nhưng bạn sẽ làm việc điều
tra và tuyên bố thực chất
bên trong của nó,
theo cách nào,
theo như nó được quan sát là hỗn hợp, [được cấu thành] của tinh thần, đờm nhớt, nước xốt và những phần khác, trộn lẫn với nhau theo lượng và tỷ lệ
nào đó. Cũng vậy, khi người ta hỏi một khái niệm về tự thân bạn cao siêu hơn cái tầm thường, nghĩa là
đã có được
cho đến giờ, bạn
chắc chắn thấy rằng sẽ là không
đủ nếu bạn tuyên bố với chúng ta rằng bạn là một sự vật suy nghĩ, nghi ngờ, hiểu biết. , vân vân. ; nhưng là phận sự của bạn để xem xét tự
thân qua một việc làm giống như
phân tích hóa chất nhất định nào đó, để bạn có thể xác định và
chứng minh cho chúng ta thấy thực chất bên trong của bạn.
[3] Ái lực
[4] [On Joseph Black, xem Robert E. Schofield, Mechanism and Materialism: British
Natural Philosophy in an Age of Reason (Princeton, N.J.: Princeton University
Press, 1970), 226; William Brock, The Norton History of Chemistry (New York:
Norton, 1993), 271; và Arnold Thackray, Atoms and Powers (Cambridge, Mass.:
Harvard University Press, 1970), 37–38, 276–77.]
[5]
[Brock, Norton History of Chemistry. Để biết những nguồn tham khảo và thảo luận
thêm, xem Chomsky, New Horizons in the Study of Language and Mind; Noam Chomsky,
Knowledge of Language: Its Nature, Origins, and Use (New York: Praeger, 1986),
251–52; và David Lindley, Boltzmann’s Atom: The Great Debate That Launched a Revolution
in Physics (New York: Free Press, 2001). Một số người cho rằng ngay cả khi sự thống
nhất lý thuyết quantum thành công, thì “theo một nghĩa nào đó, chương trình giảm
hóa học thành vật lý [mới] đã thất bại”, một phần là do “những vấn đề thực hành của tinh không thể theo dõi kiểm
soát được” (Maureen Christie và John Christie, “‘Laws’ và ‘Theories’
in Chemistry Do Not Obey the Rules”, trong Of Minds and Molecules: New Philosophical Perspectives on Chemistry, ed. Nalin
Bhushan và Stuart Rosenfield [Oxford: Oxford University Press, 2000], 34–50).]
[6] [Russell, Analysis of Matter, 388]
[7] Displacement operations in
language
[8]
[Xem note 39. Đôi khi, việc hiểu lầm và bóp méo đạt đến mức độ siêu thực. Để biết
một số thí dụ kinh ngạc, xem
Noam Chomsky, “Symposium on Margaret Boden, Mind as Machine: A History of Cognitive
Science, Oxford, 2006”, Artificial Intelligence 171 (2007): 1094–1103.
Về “the rigidity rule and [Shimon] Ullman’s theorem”, xem Hoffman, Visual Intelligence,
159. Không phải nói, quy luật thì ý thức không tiếp cận được]
[9]
[Vernon B. Mountcastle, “Brain Science
at the Century’s Ebb”, trong “The Brain”, special issue, Dædalus 127, số
2 (1998): 1. Về những tài liệu gốc, xem Chomsky, New Horizons in
the Study of Language and Mind, chương 5.]
[10] [Joseph Priestley, “Materialism”, từ Disquisitions ReLatinhg to Matter
and Spirit (1777), trng Priestley’s Writings on Philosophy,
Science, and Politics, ed. John
Passmore (New York: Collier-Macmillan, 1965).]
[11]
Những ý tưởng tương tự xuất hiệu thời
trước-Newton, đặc biệt trong Objections to the Meditations, trong đó những phê bình đặt câu hỏi Descartes
có thể biết, “với không có sự vén lên cho thấy thiêng liêng…
rằng Gót đã không cấy
trồng trong một số cơ thể nhất định nào đó một năng lực hay thuộc tính đem cho họ khả năng để hoài nghi, suy
nghĩ, v.v”. như thế nào? (Catherine Wilson, “Commentary on Galen Strawson”, in
Strawson et al., Consciousness and Its Place in Nature, 178).]
[12]
Joseph Priestley
(1733-1804) là nhà khoa học, nhà gót học và nhà lý luận chính trị người England.
Ông có những đóng góp quan trọng trong nhiều lĩnh
vực khác nhau, gồm hóa học, vật lý và triết học tự nhiên. Priestley được biết đến
nhiều nhất với khám phá ra một số loại khí, gồm cả oxy và công trình tiên phong
của ông trong lĩnh vực hóa học lực nén (pneumatic
chemistry). Là một nhà gót học, Priestley có quan điểm tôn giáo
độc đáo và gắn liền với thuyết Nhất Thể (Unitarianism). Ông đã viết
nhiều về những chủ đề tôn giáo và triết học, ủng hộ thuyết duy lý và những cải cách xã hội. Ông tin vào sự thống nhất giữa khoa
học, tôn giáo và triết học, và tìm cách dung hòa chúng trong những tác phẩm của
ông. Priestley cũng hoạt động chính trị, ủng hộ những lập trường cấp tiến như
Cách mạng France và ủng hộ
những quyền tự do chính trị và tôn giáo. Quan điểm tự do và những bất đồng của ông thường khiến ông trở thành một nhân vật gây gây tranh luận trong thời ông. Những đóng góp của Joseph Priestley
cho khoa học, triết học và gót học đã có tác động lâu dài. Ông được nhớ đến như
một nhân vật quan trọng của thời Khai sáng và là một trong những tiên phong của
hóa học hiện đại.
[13] [Priestley, “Materialism”. Cho bàn luận sau, xemYolton, Thinking Matter,
113. Julien Offrey de La Mettrie đã lấy ra những kết luận tương tự một thế hệ trước đó nhưng
trong một khuôn khổ khác, và không giải quyết những luận chứng Descartes, vốn ông đã cố gắng
để trả lời. Điều này cũng đúng với Gilbert Ryle và những cố gắng khác trong thời nay. Về một số thảo luận thêm,, xem Chomsky, Cartesian
Linguistics.]
[14]
[Cho thảo luận và những minh họa,
xem Chomsky, New Horizons in
the Study of Language and Mind. Về “hyperdualism”, xem Galen Strawson, “Realistic Monism:
Why Physicalism Entails Panpsychism”,
trong Strawson và cộng tác, Consciousness and Its Place in Nature, 3–31.]
[15] [Thackray, Atoms and Powers, 190. Những lý do của Priestley để hoan nghênh
“sự phát triển tột độ này của vị trí Newton” đã chủ yếu là gót học, Thackray kết luận.].
[16] [Yolton, Thinking Matter, 114.]
nguyên văn ‘mental and physical’
[17] [Ibid., 125. Về thảo luận, hãy xem chương 5 và 6. Yolton viết rằng “không có La Mettrie”, nhưng
điều đó phóng đại sự đóng góp của La Mettrie , tôi tin. Xem chú thích 51.]
[18] [ Nagel, “O’Shaughnessy:
The Will”, trong Other Minds, 94.]
[19] Panpsychism: Ý-Thức-Trong-Tất-Cả:
là quan điểm triết học cho rằng ý thức là một đặc điểm cơ bản của
vũ trụ, vượt ra ngoài con người và động vật, bao trùm tất cả mọi sự vật, ngay cả trong những vật thể vô tri giác. Nó cho
rằng có một số dạng ý thức sẵn có, hoặc kinh
nghiệm chủ quan, có mặt trong tất cả những thực thể, ngay
cả ở mức độ cơ bản nhất. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là panpsychism
không hàm ý rằng tất
cả mọi sự vật việc đều có ‘hồn’ theo nghĩa truyền thống (như đã dịch là thuyết phiếm
linh – từ Greek: pan/khắp, tất cả; psychē/hồn), nhưng đúng hơn ý thức là một khía cạnh trong yếu tính của chính thực tại. Tóm lại, panpsychism
khẳng định rằng ý thức hiện diện trong vạn vật, nhấn mạnh ý tưởng rằng nó là một khía cạnh cơ bản của vũ trụ, không giới
hạn trong chỉ những sinh
vật cụ thể. Nó có thể được hiểu đơn giản như một tin tưởng vào quan điểm ‘ý thức trong tất cả’, gợi ý rằng ý thức thấm nhuần trong cấu trúc của vũ trụ như một phẩm chất
cơ bản. Thuyết ý thức trong tất cả gắn liền với những
triết gia như Alfred North Whitehead, David Chalmers, Thomas Nagel và Galen Strawson,
những người đã thăm dò ý thức và
quan hệ của nó với bản chất nền tảng của vũ trụ. Quan điểm này, như Chomsky
nhắc trên, thách đố quan
điểm cho rằng ý thức chỉ là sản phẩm của những hệ thống sinh học phức tạp và mở
ra khả năng rằng ý thức là một đặc điểm cơ bản của tự thân vũ trụ.
[20]
[Strawson, “Realistic Monism” và “Panpsychism?
Trả lời với những bình luận với một Celebration of Descartes”, trong Strawson et
al., Consciousness and Its Place in Nature, 3–31, 184–280. Đã sửa lỗi máy
in (Strawson, pers. comm.). Cho thảo luận thêm, xem những
tiểu luận trong tập này.]
[21] [Strawson, “Realistic Monism”, “Panpsychism”, và commentary.]
[22] Priestley bác bỏ ý tưởng rằng ý thức thì giới hạn với những phần
cụ thể của bộ óc, thay vì là một thuộc tính của toàn thể bộ óc như một hệ thống. Priestley
lập luận rằng cảm giác về “tự ngã” hay “tôi” về cơ bản không khác biệt so với những
ý tưởng phức tạp khác, như cảm giác của chúng ta với đất nước của chúng ta. Ông so sánh nó với sự kiện là sự sống thuộc về toàn bộ hệ thống
động vật, không chỉ với những bộ phận
riêng lẻ của nó, và âm thanh đó không là kết quả của chuyển động của một hạt không
khí. Priestley kêu gọi chúng ta nhìn nhận rằng khi chúng ta đề cập đến
“tự ngã”, chúng ta muốn nói đến thực thể vốn kinh nghiệm những cảm
giác và những ý tưởng cụ thể, vốn khác với những
cảm giác và những ý tưởng những thực thể khác kinh nghiệm. Ông khuyến khích chúng ta
từ bỏ những lý thuyết không có cơ sở, thay vào đó
dựa vào những quan sát cẩn thận và những suy luận hợp lý, theo cách tiếp cận của
khoa học Newton. Nói một cách
đơn giản hơn, Priestley lập luận rằng ý thức không chỉ giới hạn ở một số phần của
bộ não mà là một thuộc tính của toàn bộ bộ não với tư cách là một hệ thống. Cảm
giác về “cái tôi” không khác gì những ý tưởng phức tạp khác mà chúng ta có, như
sự gắn bó của chúng ta với đất nước chúng ta
[23]
Thomas Reid
(1710-1796): triết gia người Scotland, ông bác thuyết
nhị nguyên Descartes, thay vào đó nêu lên thuyết hiện thực
dựa trên kiến thứ
thực tiễn thông thường. Ông nhấn mạnh nhận thức trực tiếp về thế
giới bên ngoài và liên hệ không thể tách rời của nó với những tiến trình tinh
thần. Những ý tưởng của Reid đã có ảnh hưởng
lớn đến những bàn luận sau này
về não thức, ý thức và
triết học.
[24]
[Noam Chomsky, Aspects of the Theory of Syntax
(Cambridge, Mass.: MIT Press, 1965), 199–200; Cho thảo luận rộng hơn nhiều, hãy xem Chomsky, Cartesian
Linguistics. Về độ chính xác của những diễn giải lý thuyết duy nghiệm của những ý tưởng của
Reid và những người khác, xem John Yolton, Perceptual Acquaintance from Descartes
to Reid (Minneapolis: University of Minnesota Press, 1984), chương 5.]
[25] Ở đây là lập luận của Chomsky về
chủ đề này. Về cơ bản, ông lập luận rằng việc cố gắng phân định ranh giới giữa sống/không
sống hoặc tinh thần/không-tinh thần thì cũng như việc phân định ranh giới của “hóa
học”/không- hóa học, “điện”/không-điện, v.v. một quan điểm vô nghĩa về khoa học
tự nhiên.
[26] [Stephen Yablo,
“The Real Distinction Between Mind and Body”, Canadian Journal of Philosophy,
suppl. 16 (1990):149–201.]
Stephen Yablo (1960-): triết gia
người U.S. gốc Canada
nổi tiếng với công trình nghiên cứu về siêu hình học, triết học ngôn ngữ và triết
học não thức . Ông giảng dạy tại nhiều đại học danh tiếng, gồm MIT và Harvard. Nghiên
cứu của ông tập trung vào lôgích modal (lôgích học về tất yếu và khả hữu), sự hiện hữu, và bản chất
của những đối tượng
trừu tượng.
[27] substance dualism: Thuyết
nhị nguyên thực thể cho rằng có hai thực thể khác biệt cơ bản trong thực tại : tinh
thần (não thức hay hồn người) và thể chất (cơ thể hay vật chất). René Descartes
lập luận nổi tiếng rằng não thức và cơ thể tác động hỗ tương qua (một tuyến nội
tiết nhỏ ở giữa não (pineal gland), dù chúng khác nhau cơ bản về bản chất.
[28] Galen Strawson (1952-): triết gia người Britain, nổi tiếng với công trình về
triết học não thức và siêu hình học. Ông đã có những đóng góp đáng kể trong nghiên cứu về ý thức và vấn
đề não thức-cơ thể. Những bài
viết và vị trí học thuật của Strawson trong những tổ chức như Đại học Oxford đã
khiến ông
có tên tuổi như
một triết lỗi lạc thời nay.
[29] [Những Trích dẫn
từ Strawson, “Realistic Monism” và “Panpsychism”.
[30] Daniel Stoljar (1968-) gia
người Australia, nổi
tiếng với công trình triết học về não thức và siêu hình học. Ông là Giáo sư Triết
học của Đại
học Quốc gia Australia, và
có những đóng
góp vào những tranh
luận về bản chất của ý thức và vấn đề não thức-cơ thể. Nghiên cứu của Stoljar tập
trung vào quan hệ giữa tinh thần và thể chất, khiến ông thành một khuôn mặt nổi bật trong triết học thời nay..
[31] [Trích dẫn trong đoạn này từ Daniel Stoljar, “Physicalism”,
in The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Spring 2001 ed.), ed. Edward
N. Zalta, http://plato.stanford.edu/archives/spr2001/entries/physicalism/.]
[32] vấn đề lôgích của kinh nghiệm là thách đố triết học trong
việc giải thích
ý thức chủ quan nảy sinh từ những tiến trình
của bộ não vật chất như
thế nào. Nó thăm dò quan
hệ giữa hoạt động khách quan của não và những kinh nghiệm chủ quan của
chúng ta. Ngày
nay, trọng tâm
trong triết học não thức và
khoa học nhận thức là giải
quyết vấn đề này.
[33] [Stoljar, Ignorance and Imagination, 56, 58.]
[34] [Ibid., 17ff, 56–57, 104. Stoljar Stoljar hiểu “vấn đề
truyền thống” bắt nguồn từ the Meditations 45), nên không là vấn đề của khoa học. Nhưng dù là một cách đọc theo thông thường, nó thì vẫn còn nghi vấn, vì những lý do đã
thảo luận ]
[35] [Ibid., chương 4.]
[36] [Daniel Stoljar, “Comments on Galen Strawson”, trong Strawson et al., Consciousness
and Its Place in Nature, 170–76.]
[37] Hyperdualist intuitions: chỉ về
tin tưởng mạnh mẽ hoặc cực đoan, nhấn mạnh sự tách biệt rõ ràng và tuyệt đối giữa
những phương diện khác nhau của thực tại, đặc biệt là giữa não thức và thế giới
vật chất.
[38] [Strawson, “Realistic Monism”, 11n.21.]
[39] [John A. Wheeler, At Home in the Universe (New
York: American Institute of Physics, 1994); H. P. Stapp, “Commentary on Strawson’s
Target Article”, trong Strawson et al., Consciousness and Its Place in Nature,
163–69]
[40] Luận chứng Kiến
thức (The
Knowledge Argument): do Frank Jackson
đưa lên trong bài viết ‘Epiphenomenal Qualia’ năm 1982 của ông. Ý tưởng này nêu rõ rằng một số phương diện của kinh nghiệm hữu thức không thể được giải thích đầy đủ chỉ bằng khoa học.
Nó thường nhắc trong những thảo luận về ý thức và sự liên hệ giữa những tiến trình não bộ và những kinh nghiệm chủ
quan. Lập luận nêu lên rằng ngay
cả nếu chúng ta hiểu
những tiến trình vật
lý đằng sau việc nhìn, chúng ta có thể không thấu hiểu trọn vẹn kinh nghiệm về những sự vật việc như màu
sắc. Về bản chất, kinh nghiệm hữu thức có thể mở
rộng ra ngoài những gì khoa học có thể giải thích
[41] [Stoljar, Ignorance and Imagination, 139.]
[42] Con chuột chũi cũ của Marx (Marx’s old mole) bắt nguồn từ luận văn The Eighteenth Brumaire of Louis Bonaparte
(1852) của Karl Marx Trong đoạn văn này,
ẩn dụ minh họa tác động lâu dài của những sức mạnh lịch sử và xã hội, ngay cả khi dường như thấy không hoạt động. Nó tượng trưng cho
sự bền bỉ của một số ý tưởng hoặc sức mạnh có thể xuất
hiện trở lại để tác động
vào những sự kiện. Ẩn dụ này nhấn mạnh khái niệm về những
sức mạnh tiềm ẩn, dai dẳng định hình lịch sử,
hoạt động bên dưới bề mặt và trở nên rõ ràng với thời gian
[43] [Richard C. Lewontin, “The Evolution of Cognition: Questions
We Will Never Answer”, trong Methods, Models, and Conceptual Issues, ed.
Scarborough và Sternberg, 107–32.]
[44] “những tính toán”: những
tiến trình, hoạt động liên quan đến việc
xây dựng và giải thích những diễn đạt có cấu trúc phân cấp trong ngôn
ngữ. Cũng đề
cập đến những hoạt
động tinh thần diễn ra khi chúng ta dùng ngôn ngữ để tạo và hiểu những từ và những cụm từ phức tạp.
[45] Quan điểm cho rằng ý nghĩa
của từ hay khái
niệm không chỉ xác định bởi trạng thái tinh thần hay kinh nghiệm chủ quan cá nhân, nhưng còn chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố bên ngoài, như bối cảnh
sử dụng từ hay môi
trường xã hội và văn hóa.
[46] Cognoscitive powers: năng lực nhận
thức: khả năng tinh thần hoặc khả năng liên quan đến việc biết,
hiểu và ý thức mọi sự vật việc . Nó gồm những tiến trình như nhận thức, tri giác
và ý thức góp phần vào khả năng của chúng ta để hiểu và tạo ý nghĩa cho thế giới
quanh chúng ta.
[47]
[Chomsky, Cartesian Linguistics, 94ff. On Cartesian
và neo-Platonist conceptions of the role of “cognoscitive powers”, see James McGilvray,
“Introduction to the Third Edition”, trong Chomsky, Cartesian Linguistics,
1–52. Cho phê đọc và những nguồn tham khảo, hãy xem Chomsky, New Horizons
in the Study of Language and Mind; on Shaftesbury, Hume, and forerunners, xem Mijuskovic, Achilles of Rationalist Arguments.]
[48] [Về những hiểu lầm về vấn đề này, xem Noam Chomsky, “A Note on the Creative
Aspect of Language Use”, Philosophical Review 41, số 3 (1982): 423–34.]
[49] Herbert Paul Grice (1913-1988),
thường gọi là H.P. Grice: triết
gia và nhà ngôn ngữ học người England. Ông được biết đến nhiều nhất với những đóng
góp cho lĩnh vực ngữ dụng học, lĩnh vực khám phá cách mọi người dùng ngôn ngữ trong ngữ cảnh để truyền
đạt ý nghĩa vượt ngoài cách hiểu theo nghĩa đen của những từ. Tác phẩm chính của ông là
Studies in the Way of Words, trong
đó giới thiệu nguyên tắc hợp tác và những châm ngôn hội thoại có ảnh hưởng trong
việc hiểu chức năng của giao tiếp. Những ý tưởng của Grice có ảnh hưởng
qaun trọng trong nghiên
cứu ngôn ngữ và giao tiếp.
[50]
Chúng ta đã
nỗ lực hết sức để hiểu cách chúng ta dùng ngôn ngữ trong những trường hợp cụ thể,
như khi chúng ta có ý định truyền đạt thông tin cho chính xác. Sự thăm dò này thì đặc biệt rõ ràng trong lĩnh vực ngữ dụng học Grice-mới. Nhánh nghiên cứu này đi sâu vào những cách thức tinh tế chúng ta ngụ ý trong những trò chuyện của chúng ta, vượt ngoài những
từ nói hiểu theo nghĩa
đen. Tuy nhiên, điều không là hoàn toàn
rõ ràng những hiểu biết này áp dụng thế nào vào việc đem dùng ngôn ngữ hàng ngày. Mặc dù chúng ta đã đạt được
những bước tiến trong việc phân tích việc dùng ngôn ngữ trong những điều kiện nhất
định, nhưng chúng ta vẫn tự hỏi những tìm ra này mở rộng đến mức nào với những tác động hỗ tương và giao tiếp điển hình của chúng ta. Mặc dù có những nỗ lực này, vẫn còn một khoảng trống đáng kể khi đi đến đến những
bí ẩn sâu xa hơn của ngôn ngữ. Chúng ta đang phải đối mặt với câu đố dai dẳng của việc sáng tạo đem dùng ngôn ngữ – cách chúng
ta dùng ngôn ngữ để diễn đạt những ý tưởng và khái niệm mới lạ. Câu hỏi này đã làm
bối rối những nhà tư tưởng trong nhiều thế kỷ và lời giải của nó vẫn tiếp tục lẩn
tránh chúng ta. Nó có thể chỉ là một trong những bí ẩn cuối cùng mãi mãi giấu kín, ngoài thấu hiểu của con người.