1 | NGÔN NGỮ LÀ GÌ?
CÂU HỎI TỔNG
QUÁT tôi muốn nói trong quyển sách này là một câu hỏi
có đã từ lâu: Chúng ta là loài sinh vật nào?
Tôi không đủ hão huyền
để nghĩ tôi có thể đem cho một trả lời thỏa đáng, nhưng xem dường hợp lý để tin rằng trong một số lĩnh vực, đặc biệt
về phần bản chất nhận thức của chúng ta, ít
nhất có những cái nhìn trực giác sâu xa của một số quan tâm tìm hiểu và mang ý nghĩa quan trọng, có một số mới, và rằng sẽ là có thể để dẹp đi đươc một số những chướng ngại vốn cản trở việc tìm hiểu sâu thêm, gồm một số học thuyết đã được chấp nhận rộng rãi nhưng với những nền tảng vốn kém vững chắc hơn nhiều so với thường đã giả định.
Tôi sẽ suy nghĩ về ba câu hỏi đặc biệt, theo mức độ tối nghĩa
khó hiểu tăng dần: Ngôn ngữ là gì? Những giới hạn của sự hiểu biết của con người (nếu có) là
gì? Và lợi ích chung chúng ta nên gắng sức đạt đến là gì? Tôi sẽ bắt đầu với câu hỏi
thứ nhất và sẽ cố gắng để cho thấy có lẽ những gì thoạt đầu phần nào có vẻ
là những câu hỏi hạn hẹp và chuyên
môn, nếu kiên nhẫn theo đuổi, dẫn đến một số những kết luận xa rộng vốn tự thân chúng
đều có ý nghĩa quan trọng và khác biệt hẳn với những gì được tin tưởng phổ thông – và thường được xem như nền tảng – trong những ngành học liên hệ : khoa học nhận thức trong một nghĩa rộng rãi, gồm ngôn ngữ học, và triết học của ngôn ngữ và não thức. [1]
Trước sau, tôi sẽ thảo luận về những gì có
vẻ là những phát biểu hay tin tưởng
hầu như đúng thực hiển nhiên với tôi, nhưng thuộc một loại khác ngược với thông
thường [2]. Chúng thường bị phủ nhận. Sự việc đó đăt ra một đilemma, ít nhất với tôi. Và có lẽ bạn cũng sẽ có quan tâm trong việc giải quyết nó.
Quay sang ngôn ngữ, nó đã được nghiên cứu sâu rộng và nhiều thành quả
trong 2.500 năm, nhưng không có trả lời rõ ràng cho câu hỏi ngôn ngữ là gì. Một
số những trả lời
chính yếu đã đưa ra
tôi sẽ nhắc đến sau. Chúng ta có thể hỏi – để lấp đầy chỉ khoảng trống
này thì quan trọng
như thế nào. Cho sự nghiên cứu của bất kỳ phương diện nào của ngôn ngữ,
trả lời nên là rõ ràng. Chỉ trong chừng mức rằng
có một trả lời với câu hỏi này, ít nhất là hiểu ngầm, là điều có thể để tiến hành thăm dò những câu hỏi nghiêm trọng về ngôn ngữ, trong số chúng là sự tiếp thu và cách dùng, nguồn gốc,
sự biến đổi ngôn ngữ, những thuộc tính có chung và khác loại, ngôn ngữ trong xã hội, những cơ
cấu bên trong vốn thực hiện hệ thống, cả tự thân hệ thống tri thức và những cách dùng nhiều loại của nó, phân biệt qua những công việc liên hệ. Không nhà sinh vật học nào sẽ nêu lên một giải
thích của sự phát triển hay sự tiến hóa của mắt người, lấy thí
dụ, nhưng không bảo cho chúng ta một gì xác định khá rõ ràng về một con mắt là gì, và cùng những đúng thực
hầu như hiển nhiên như thế thì cũng đúng cho những thăm dò trong ngôn ngữ. Hay sẽ nên là như thế. Đáng chú ý, đó không
là cách những câu hỏi, về tổng quát,
đã được nhìn như thế nào, một vấn đề tôi sẽ quay lại với nó.
Nhưng có những lý do nền tảng hơn nhiều để cố gắng xác định rõ ràng ngôn ngữ
là gì, những lý do vốn trực tiếp
liên hệ với câu hỏi chúng ta là loài sinh vật
nào. Darwin đã không là người đầu tiên kết luận rằng
“những loài động vật hạ đẳng khác với con người đơn thuần chỉ trong khả năng hầu
như vô tận của nó trong việc liên kết những âm thanh và những ý tưởng
đa dạng nhất với nhau”; [3] “hầu như vô tận” là một câu nói theo thói
quen lâu đời, ngày nay được hiểu như vô hạn. Nhưng Darwin là người đầu tiên đã diễn tả khái niệm theo thói quen
lâu đời này bên trong khung cấu trúc của một giải thích ở giai
đoạn đầu về sự tiến hóa của loài người.
Một quan điểm
giải thích khác hiện nay được một trong những nhà khoa
học hàng đầu, nghiên cứu về sự tiến hóa của loài người, Ian Tattersall đem cho.Trong một bài viết chuyên môn
gần đây, phê bình bằng chứng khoa học hiện có, ông nhận
xét rằng đã có một thời người ta tin rằng hồ sơ về
tiến hóa sẽ mang lại “những dấu hiệu sớm báo trước của bản thân con người chúng ta sau này. Tuy nhiên, thực tế thì ngược lại,
vì ngày càng rõ ràng rằng việc có được khả năng cảm thụ độc đáo của [con người]
ngày nay, thực ra đã là một biến cố (xảy ra) đột ngột và gần đây…. Và sự biểu hiện
của khả năng cảm thụ mới này hầu như chắc chắn đã được tiếp tay chủ yếu bởi sự sáng
tạo của những gì có lẽ là sự việc có một không hai đáng ghi nhận về bản thân con người ngày nay của chúng ta: ngôn ngữ”. [4] Nếu thế, khi đó một
trả lời cho câu hỏi “Ngôn ngữ là gì?”có quan trọng lớn với bất kỳ một ai đã quan tâm với sự hiểu biết về bản thân con người chúng ta ngày nay.
Tattersall
định năm tháng biến cố bất ngờ và đột ngột, như nằm đâu đó trong khung thời gian rất hạn hẹp, khoảng 50.000 đến 100.000 năm trước. Năm tháng chinh
xác thì không rõ ràng và không liên quan với những quan tâm của chúng ta ở đây, nhưng sự đột ngột của việc xuất hiện thì có liên quan. Tôi sẽ trở lại với khối tài liệu lớn rộng và đang phát triển của giả định suy
đoán trên đề tài này, vốn thường nhận được một lập trường rất khác biệt.
Nếu giải thích của Tattersall là chinh xác về cơ bản, như
bằng chứng thực nghiệm vốn rất giới hạn cho thấy, khi đó những gì đã xuất hiện trong
khung thời gian hạn hẹp đã là
một năng lực vô hạn của sự ”liên kết âm thanh đa dạng nhất và những ý tưởng”, trong
những lời của Darwin. Năng lực vô hạn đó hiển nhiên nằm trong một bộ óc hữu hạn.
Đến giữa thế kỷ 20, khái niệm của hệ thống hữu hạn với năng lực vô hạn đã được hiểu
rất rõ. Điều đó khiến có thể cung ứng được một hình thành diễn đạt rõ ràng của những
gì tôi nghĩ chúng ta nên nhìn nhận là thuộc tính cơ bản nhất của ngôn ngữ, vốn tôi
sẽ nhắc đến, ngắn gọn như Thuộc tính Cơ bản:
mỗi ngôn ngữ cung ứng một một chuỗi không giới hạn [5] của những diễn đạt có cấu trúc thứ
bậc vốn nhận những diễn giải ở hai mặt giao
tiếp, mặt phối hợp cảm giác và vận động cho sự thể hiện cảm
xúc (bên ngoài) và mặt khái niệm-chủ
định cho những tiến trình tâm lý ( bên trong). Điều đó
đem cho một công
thức diễn đạt có thực chất nội
dung về năng lực vô hạn của Darwin, hay ngược về xa hơn, về phát biểu cổ điển của Aristotle, rằng ngôn ngữ là âm thanh với ý nghĩa – mặc dù công trình (nghiên cứu)
trong những năm gần đây cho thấy rằng ‘âm thanh’ thì quá hạn hẹp, và có lý do chính đáng, với nó tôi sẽ quay lại, để nghĩ rằng công thức diễn
đạt cổ điển thì sai lạc trong những cách thức quan trọng.
Sau đó, ít
nhất, mỗi ngôn ngữ kết hợp một tiến trình tính toán thỏa mãn Thuộc tính Cơ bản. [6] Do đó, một lý thuyết của ngôn ngữ, theo định nghĩa, là một ngữ pháp phát sinh, và mỗi ngôn ngữ là những gì được gọi trong những thuật ngữ kỹ thuật là một “ngôn ngữ-I” – “ I” viết tắt cho bên trong, cá nhân và hàm ý [7]: chúng ta đã quan tâm trong việc khám phá tiến trình tính
toán thực sự, không phải trong một số set gồm những đối tượng nó liệt kê, trong những thuật ngữ
kỹ thuật, những gì nó “phát sinh mạnh”, tương tự như những chứng minh được phát sinh. trong một hệ tiên đề (toán học) [8]
Cũng có một
khái niệm “phát sinh yếu” – set của những diễn đạt được phát sinh, tương tự với set của những định lý được phát sinh. Ngoài ra còn có một khái niệm “ngôn ngữ-E”, viết tắt cho ngôn ngữ bên ngoài, vốn nhiều người – không phải tôi – đồng nhất nó với một kho ngữ liệu hay với một set vô hạn vốn được phát sinh yếu.[9] Những triết gia, những nhà ngôn ngữ học, nhận thức học và khoa
học về cômputơ đã thường hiểu ngôn ngữ là những gì đã được phát sinh yếu. Nhưng ngay cả khái niệm phát sinh yếu thì có thể định nghĩa được cho ngôn ngữ con người hay không thì
là điều không rõ ràng. Nhiều nhất thì nó phát sinh từ khái niệm nền tảng hơn của ngôn ngữ-I. [10] Đây là những vấn đã thảo luận sâu rộng trong những năm 1950, mặc dù
đã không thực sự được ‘tiêu hóa’, tôi tin thế.[11]
Tôi sẽ giới
hạn sự chú ý ở đây vào ngôn ngữ-I, một thuộc tính sinh học của con người, thuộc một số thành phần phụ của (phần lớn) bộ óc, một cơ quan của não thức / bộ óc trong ý hướng rộng rãi trong đó từ ngữ “cơ quan” được dùng trong sinh học. Tôi coi não thức ở
đây là bộ óc, được nhìn ở một mức độ trừu tượng
nhất định. Phương cách giải
quyết đôi khi gọi là khung cấu trúc sinh học-ngôn
ngữ [12] . Nó được xem như còn tranh luận chưa ngã ngũ, nhưng không
có những nền tảng, theo ý kiến của tôi. [13]
Trong những năm đầu, Thuộc tính Cơ
bản đã cưỡng lại việc tạo công thức diễn đạt rõ ràng. Lấy thí dụ, một số công trình cổ điển. Với Ferdinand
de Saussure, ngôn ngữ (theo nghĩa liên hệ) là một kho chứa của những hình
ảnh từ ngữ trong những não thức của những thành
viên của một cộng đồng, vốn “hiện hữu
chỉ nhờ vào một loại của hợp đồng đã do những thành
viên của một cộng đồng ký kết”. Với
Leonard Bloomfield, ngôn ngữ là một loạt [hay một set đa dạng gồm những thói quen
vốn một người có thể có]
của những thói quen để đáp ứng với những tình
cảnh bằng những âm thanh lời nói theo qui
ước, và đáp ứng
với những âm thanh
này bằng những hành
động. Ở những chỗ khác, Bloomfield
đã định nghĩa ngôn ngữ như “toàn bộ của
những lời nói được làm ra trong một
cộng đồng tiếng nói” – một gì
giống như khái niệm trước
đó về ngôn ngữ của William Dwight Whitney như “khối lượng lớn của những dấu hiệu được thốt ra và nghe hiểu được nhờ
đó suy nghĩ chủ yếu được bày tỏ trong xã hội loài người”, thế nên “những dấu hiệu nghe
hiểu được cho suy
nghĩ” – mặc dù đây là một khái niệm có phần nào khác biệt trong những lối tôi sẽ trở
lại với nó. Edward Sapir
đã định nghĩa ngôn ngữ như “một phương
pháp thuần túy con người
và không-trực giác của việc truyền thông những ý tưởng, những cảm xúc và
những mong ước bằng những phương tiện của một hệ thống
gồm những ký hiệu
đã được tự nguyện tạo ra”. [14]
Với những khái niệm như vậy,
không phải là trái tự nhiên để theo những
gì Martin Joos đã gọi là truyền
thống Boas [15], chủ trương rằng những
ngôn ngữ có thể khác nhau tùy tiện và mỗi ngôn
ngữ mới phải được nghiên cứu với không có những khái niệm sẵn trước. [16] Theo đó, lý thuyết ngữ học gồm những tiến trình phân tích để thu giảm một tổng
thể tài liệu viết nói thành hình thức được xếp đặt, cơ bản là những kỹ thuật
phân chia thành phần và xếp loại. Sự phát
triển tinh vi phức tạp nhất của khái niệm này đã là Methods của Zellig
Harris.[17] Một diễn dịch cụ thể thời nay (của nó) là lý thuyết
ngôn ngữ là một hệ thống của những phương
pháp cho tiến trình giải quyết những diễn
đạt.[18]
Trong những năm đầu, đã là có thể hiểu
được rằng câu hỏi “Ngôn
ngữ là gì?” đã nhận được
chỉ những trả lời mơ hồ, không xác định rõ ràng, loại như những
trả lời đã nhắc, bỏ qua không chú ý đến Thuộc tính
Cơ bản. Tuy nhiên, là điều ngạc nhiên
để thấy rằng
những trả lời tương tự vẫn lưu hành trong khoa
học nhận thức thời nay. Không phải không điển
hình là một nghiên cứu dương thời về sự tiến hóa
của ngôn ngữ, trong đó những tác
giả đã viết trong mở đầu rằng
“chúng ta hiểu ngôn ngữ như một bộ đầy đủ của những khả
năng để ghép kết âm thanh với ý nghĩa, gồm
cấu trúc cơ sở vốn hỗ trợ nó”,
[19] về cơ bản
là một lập lại phát biểu của Aristotle,
và quá mơ hồ để đặt cơ sở cho tìm hiểu xa hơn. Thêm nữa, không
nhà sinh vật học nào sẽ nghiên cứu
sự tiến hóa của hệ thống thị giác, nhưng không giả định gì
khác hơn về những đặc điểm sinh học có thể quan sát được trong một cá
thể [20], ngoài việc nó đem
cho một hệ đầy đủ của những khả
năng để ghép kết nối [21] những kích thích
với những gì nhận hiểu được, cùng với bất cứ gì
hỗ trợ nó.
Trước đó, sớm
hơn nhiều, ở khởi nguồn của khoa học
thời nay, đã có những báo hiệu ngầm gián tiếp về một bức tranh
có phần giống với của Darwin
và của Whitney. Galileo
đã tự hỏi trước “sự siêu việt của tinh thần” của cá nhân, người, “đã mơ đến việc tìm những phương tiện
để truyền thông những suy
nghĩ sâu xa nhất của người ấy cho một người bất
kỳ nào khác… bằng
những sắp xếp khác
nhau của hai mươi chữ cái in trên một trang sách”, một thành
tích “vượt qua tất cả những phát minh tuyệt vời”, ngay cả của “một Michelangelo,
một Raphael, hay một Titian”. [22] Cùng một nhìn nhận, và sự quan tâm sâu
xa hơn cho tính cách sáng tạo của
việc dùng thông thường của ngôn ngữ,
đã sớm thành một yếu tố cốt
lõi của triết học-khoa học phái Descartes,
thực sự, là một tiêu chuẩn
chủ yếu cho sự hiện hữu của tinh thần như một thực thể riêng biệt.
Khá hợp lý, điều đó đã dẫn đến những cố gắng để nghĩ ra những thí
nghiệm để xem liệu một sinh vật khác có một não thức giống như của chúng ta hay
không, đáng chú ý là của Géraud de Cordemoy.[23] . Những thí
nghiệm này có phần nào giống như “thí nghiệm
Turing”, mặc dù được quan niệm hoàn toàn khác. Thí nghiệm của De Cordemoy giống
như một thí nghiệm tính axit bằng giấy quỳ tím, một cố gắng để lấy ra những kết luận về thế giới thực tại. Trò Chơi
Bắt Chước của Turing, như ông đã nói rõ, không có những tham vọng như vậy.[24]
Đặt những câu hỏi quan trọng này qua
một bên, ngày nay không có lý do gì để nghi ngờ cái nhìn trực giác sâu xa nền tảng của phái Descartes, rằng việc
dùng ngôn ngữ có một đặc tính sáng tạo:
nó là sáng tạo điển hình không giới
hạn, ứng hợp với những hoàn cảnh, nhưng không do những hoàn cảnh
gây nên – một sự khác biệt
quan trọng – và có thể
đánh thức những suy
nghĩ trong những người khác
khiến họ nhận ra
rằng chính họ lẽ ra đã có thể tự bày tỏ. Chúng ta
có thể bị những hoàn cảnh
và những điều kiện
bên trong “thôi thúc hay ngả sang có ý thích” nói trong những cách
nhất định này nào đó, nhưng không
trong những cách
nhất định khác nào đó, nhưng chúng
ta không bị “buộc” phải
nói như vậy, như
những người tiếp sau Descartes
đã nói. Chúng ta cũng nên nhớ câu nói ngắn gọn và ý nghĩa thường được trích
dẫn hiện nay của Wilhelm von Humboldt rằng ngôn ngữ gồm cách dùng
vô hạn của những phương
tiện hữu hạn, trỏ đến việc dùng. Đầy đủ hơn,
ông viết rằng “Ngôn ngữ thì hầu như đối mặt khác thường bởi một lĩnh vực vô tận và thực
sự vô biên, yếu tính của tất cả những gì vốn có thể được suy nghĩ. Do đó, nó phải
tạo ra vô hạn việc đem dùng những phương tiện hữu hạn, và có khả năng làm được như
thế, qua năng lực vốn tạo nên bản chất định tính của ngôn ngữ và tư tưởng”. [25] Thế nên, ông tự đặt mình trong truyền thống
của Galileo và những người khác, những người liên kết chặt chẽ ngôn ngữ với tư tưởng,
dù sau khi đi xa hơn thế, trong khi
xây dựng một giải thích với cái nhìn khác của một khái niệm truyền
thống về ngôn ngữ như “sự việc độc đáo đáng chú ý nhất về những bản thân chúng ta thời nay”, trong câu nói gần đây của
Tattersall.
Đã từng có tiến bộ
lớn trong sự hiểu biết những phương
tiện hữu hạn vốn làm cho cách dùng vô hạn của ngôn ngữ thành có thể được, nhưng điều kể sau vẫn phần lớn còn là một bí
ẩn, dù có những tiến
bộ quan trọng đáng ghi nhận trong sự hiểu biết những quy
ước vốn hướng dẫn
cách dùng thích hợp, một câu
hỏi hạn hẹp hơn nhiều.
Một bí ẩn sâu xa đến mức nào
là một câu hỏi khó trả lời, tôi sẽ trở
lại với nó trong chương
2.
Một thế kỷ trước, Otto Jespersen đã
nêu lên câu hỏi –
những cấu trúc của ngôn ngữ “đi vào thành là-có trong não
thức của một người nói”
như thế nào, – trên cơ bản của kinh nghiệm
hữu hạn, sau khi đem cho một “ý niệm của cấu trúc”
vốn là “đủ xác định để hướng dẫn
người này trong việc
tạo hoặc ghép những câu
nói riêng của người ấy” [26], quan trọng cốt yếu là “những diễn
đạt tự do” vốn điển hình là mới với cả người nói
lẫn người nghe. [27] Việc làm của nhà ngữ
học, sau đó là khám phá
những tiến trình đã thiết lập này và chúng
nảy sinh thế nào trong não
thức, và đi xa hơn nữa để đem ra ánh
sáng “những nguyên
tắc lớn nền tảng cho những ngữ pháp của
tất cả những ngôn ngữ”, và qua việc đem chúng ra ánh
sáng để có được “một cái nhìn trực
giác sâu xa hơn vào trong bản chất nằm ở cùng đáy thâm sâu nhất của ngôn ngữ
con người và của tư tưởng con
người” – những ý tưởng vốn ngày nay nghe có vẻ
bớt lạ hơn nhiều so với như đã nghe chúng trong thời đại khoa học của thuyết cấu trúc như một trường phái tâm lý học vốn đã thành thống trị
phần lớn lĩnh vực, sau khi loại ra bên lề những quan tâm của
Jespersen và truyền thống từ đó chúng bắt nguồn [28]
Hình thành lại chương trình của Jespersen,
việc làm chính là điều
tra bản chất thực của những mặt giao tiếp và những tiến trình phát sinh vốn liên hệ chúng trong những ngôn
ngữ-I khác nhau, và để xác định chúng
nảy sinh trong não thức và được dùng như thế nào, chú ý tập trung chính của
quan tâm đương nhiên là “ những diễn tả tự do”. Và
đi xa hơn, để đem ra ánh
sáng những thuộc tính sinh
học đã có chung, vốn xác định bản
chất của ngôn ngữ-I có thể dễ dàng nhận hiểu được với con người, đề tài của UG, ngữ
pháp phổ quát, trong lối giải thích khác trong thời nay của “những
nguyên tắc lớn làm cơ bản cho những ngữ pháp của
tất cả những ngôn ngữ” của Jespersen, bây giờ được ‘đóng khung’ lại như một câu hỏi
của di truyền được cho sẵn vốn đem lại khả năng ngôn
ngữ độc đáo của con người
và những thể hiện cụ thể của
nó trong những ngôn ngữ-I.
Sự chuyển đổi giữa thế kỷ 20 của những
gì nhìn từ xa sang ngữ pháp
phát sinh bên trong khung cấu trúc sinh học-ngôn ngữ đã
mở đường đến sự tìm hiểu
xa rộng hơn nhiều vào trong bản thân ngôn
ngữ và những đề tài liên quan
với ngôn ngữ.
Phạm vi của những tài liệu thực nghiệm có sẵn từ những ngôn ngữ của những kiểu hình
khác loại xa rộng nhất đã được
phát triển hết sức lớn rộng, và chúng
được nghiên cứu ở một mức độ của chiều sâu vốn trước đây 60 năm đã không thể
tưởng tượng được. Sự chuyển đổi này cũng
làm giàu thêm rất nhiều
tính khác loại của bằng chứng
vốn tác động trên sự nghiên cứu
của mỗi ngôn ngữ riêng
lẻ, để gồm sự tiếp
thu, khoa học thần kinh, những tách rời, và nhiều những gì khác, và cũng cả những gì
học được từ việc nghiên cứu của những ngôn
ngữ khác, trên giả định đã khẳng định rõ ràng rằng khả năng cho ngôn ngữ dựa trên vốn chung đã có sẵn về sinh học.
Ngay khi những
cố gắng ban đầu sớm nhất đã làm để xây dựng rõ ràng những ngữ pháp
phát sinh 60 năm trước, đã
tìm thấy nhiều hiện tượng gây bối rối khó hiểu, chúng đã không được ghi nhận, cho đến khi nào Thuộc Tính Cơ Bản đã không được hình thành và giải quyết rõ ràng, và cú pháp đã chỉ được xem là “cách dùng của những từ” được xác định bởi quy ước và loại suy. Điều này phần
nào gợi nhắc đến những giai đoạn ban đầu của khoa học thời nay. Trong hàng nghìn năm, những nhà khoa học đã hài
lòng với những giải thích đơn giản cho những hiện tượng quen thuộc: đá rơi xuống và hơi nước bốc lên vì chúng tìm kiếm
vị trí tự nhiên của chúng; những đối tượng tác động lẫn nhau
vì những thiện cảm và ác cảm; chúng ta nhận biết một tam giác
vì hình dạng của nó di chuyển nhanh và nhẹ trong không khí và tự cấy trồng vào trí óc của chúng ta, v.v. Khi Galileo và
những người khác đã để chinh họ bối rối tự hỏi về những hiện tượng
của tự nhiên, khoa học thời nay bắt đầu – và đã nhanh chóng tìm ra rằng nhiều những tin tưởng của chúng ta là vô nghĩa
và những trực giác của chúng ta thường sai.
Sự sẵn lòng để chịu bối rối khó hiểu là một phẩm chất giá trị để vun trồng, từ thơ ấu đến tìm hiểu cao xa.
Một khó hiểu về ngôn ngữ vốn đã đưa ra ánh sáng từ 60 năm trước, và vẫn còn sống động, và tôi nghĩ rất có ý nghĩa trong việc
đem nó vào đây, có liên hệ với một sự kiện đơn giản nhưng gây tò mò muốn biết. Hãy suy nghi về câu “theo bản năng, những con chim
ưng vốn bay bơi” [29]. Trạng từ [30] “theo bản năng” thì kết hợp với một động từ, nhưng nó là “bơi”, không phải “bay”.
Không có vấn đề gì với ý tưởng rằng những con chim ưng
bay được theo bản năng thì bơi được, nhưng nó không thể được
diễn tả cách này. Tương tự với câu hỏi “có phải những con chim ưng
vốn bay bơi được không?” là về khả năng bơi, không phải bay. [31]
Những gì phải bối rối khó hiểu là sự kết hợp của những yếu tố khởi đầu-mệnh đề “theo bản năng” và “có thể”
với động từ thì xa hơn, và dựa trên những thuộc tính về cấu trúc, thay vì gần hơn và dựa trên chỉ những thuộc tính về khoảng cách theo
đường thẳng,
một hoạt động tính toán đơn giản hơn rất nhiều, và một hoạt động vốn sẽ là tối ưu cho việc
tiến hành ngôn ngữ. Ngôn ngữ khai thác một thuộc tính của khoảng cách cấu trúc tối thiểu,
không bao giờ dùng hoạt động đơn giản hơn nhiều của khoảng cách
tối thiểu theo đường thẳng; trong trường hợp
này và nhiều trường hợp khác, sự dễ dàng của việc
tiến hành thì bị bỏ qua trong sự thiết kế của ngôn ngữ. Trong những thuật ngữ
kỹ thuật, những quy luật đều tùy thuộc-cấu trúc trong mọi trường
hợp, bỏ qua trật
tự theo đường thẳng. Sự phân vân tự hỏi là điều này tại sao lại như thế – không chỉ cho tiếng England, nhưng cho mọi ngôn ngữ, không chỉ cho những
xây dựng này nhưng cũng cho tất cả những xây dựng khác, trên khắp một phạm vi rộng lớn.
Có một giải
thích đơn giản và hợp lý cho sự kiện rằng đứa trẻ biết câu trả lời đúng theo phản xạ trong những
trường giống như những trường hợp này, mặc dù bằng chứng thì rất ít hay hầu như
không có, hay không đáng kể: trật tự theo đường thẳng thì chỉ đơn giản không có sẵn đó cho người học ngôn ngữ khi chạm mặt với những thí dụ loại như vậy, là người được một nguyên tắc ẩn sâu hướng dẫn, vốn ngăn cấm sự tìm kiếm khoảng cách cấu trúc tối
thiểu, sau khi ngăn chặn hoạt động rất đơn giản hơn
nhiều của khoảng cách theo đường thẳng tối thiểu. Tôi biết không có giải thích nào khác. Và đưa lên giải thích
này dĩ nhiên
ngay lập tức gọi đến sự giải thích thêm nữa: Tại sao điều này là như thế? Thế còn tính cách đã xác định về di truyền của ngôn ngữ – UG – vốn áp đặt điều kiện cụ thể này – là gì ? [32]
Nguyên tắc
của khoảng cách tối thiểu thì [33] được dùng rất rộng rãi trong thiết kế ngôn ngữ, với giả định như một trường hợp của một nguyên tắc
tổng quát hơn, gọi là Tính Toán Tối Thiểu [34], vốn nó đến lượt được giả định là một trường hợp của một thuộc tính lại còn rất tổng quát hơn nhiều của thế giới hữu cơ, hay ngay cả xa hơn thế nữa. Tuy nhiên, phải có một số thuộc
tính đặc biệt của thiết kế ngôn ngữ vốn giới hạn Tính Toán Tối Thiểu với khoảng cách cấu trúc hơn là với khoảng cách theo đường thẳng, bất chấp sự đơn giản hơn rất nhiều của hoạt động kể
sau cho sự tính toán và tiến hành ngôn ngữ.[35]
Có bằng chứng
độc lập từ những nguồn khác, gồm khoa học thần kinh, hỗ trợ cùng một kết luận. Một nhóm khảo cứu ở Milan đã nghiên cứu hoạt động
não của những đối tượng đã được trình bày với hai loại kích thích:
những ngôn ngữ phù hợp với UG đã đặt ra, và những ngôn ngữ khác không phù hợp với UG; trong trường hợp sau,
thí dụ, một quy luật cho sự phủ định vốn đặt thành phần phủ định sau từ thứ
ba, một hoạt động tính toán đơn giản hơn nhiều so với những quy luật phủ định trong
ngôn ngữ con người. Họ tìm thấy rằng trong trường hợp phù hợp với UG, có sự khởi động bình thường trong những khu vực ngôn
ngữ (của não), dù không phải khi trật tự theo đường thẳng được
dùng.[36] Trong trường hợp đó, việc làm được hiểu như một vấn đề khó hiểu không thuộc
lĩnh vực ngôn ngữ, như hoạt động của não đã cho thấy. Công trình của Neil Smith và Ianthi-Maria Tsimpli
với một đối tượng tuy suy kém về nhận thức nhưng có năng khiếu về ngôn
ngữ đã đi đến những kết luận tương tự – nhưng đáng chú ý là, đã tìm thấy những người bình thường cũng thế, đã không có khả năng để giải
quyết với những
vi phạm của UG trong việc dùng trật tự theo đường thẳng. Như
Smith kết luận: “dạng ngôn ngữ của thí nghiệm dường như ngăn cản họ với việc tạo ra sự khái quát hóa cấu trúc độc lập
phù hợp, mặc dù họ có thể giải quyết dễ dàng. những vấn đề tương đương trong một môi trường không-ngôn ngữ”. [37]
Có một nỗ lực hoạt động nhỏ trong khoa học nhận thức điện toán [38] đang cố gắng cho thấy rằng những thuộc tính này của ngôn ngữ có thể học được
bằng phân tích thống kê của Data Cực Lớn [39]. Trong thực tế, đây là một trong
số rất ít thuộc tính có ý nghĩa của ngôn ngữ đã từng được nhắc đến – không hời hợt,
dù với mức độ nào đi nữa – trong những thuật ngữ này. Mọi cố
gắng vốn là đủ rõ ràng để được điều tra đã cho thấy bị thất bại, không thể khắc phục được.[40] Nhưng quan trọng hơn, những cố gắng
đó đầu tiên đã không là mục đích chính. Nếu chúng đã được thành công, vốn trông thấy là điều không thể được, chúng sẽ bỏ bỏ lại, không động
gì đến câu hỏi nghiêm trọng ban đầu và duy nhất: Tại sao
ngôn ngữ luôn luôn dùng thuộc tính tính toán phức tạp của khoảng
cách cấu trúc tối thiểu trong những trường hợp liên quan, trong khi luôn luôn bỏ
qua lựa chọn đơn giản hơn nhiều của khoảng cách tối thiểu xa gần đường
thẳng? Thất bại, không thấu hiểu điểm này là một minh họa cho việc
thiếu sẵn sàng để nhận thấy sự
khó hiểu phải phân vân vốn tôi đã nhắc ở trước, bước đầu tiên của tiến trình nghiêm chỉnh tìm hiểu khoa học, như đã nhìn nhận trong những ngành khoa học thực nghiệm, ít nhất kể từ Galileo.
Một luận đề rộng hơn là trật tự theo đường thẳng
thì không bao
giờ có sẵn cho sự tính toán
trong những phần lõi của ngôn ngữ sau khi gồm cú pháp-ngữ
nghĩa [41]. Khi đó, trật tự
theo đường thẳng là một phần ngoại vi của ngôn ngữ, một phản chiếu của những thuộc tính của hệ thống
phối hợp cảm
giác và vận động,vốn đòi hỏi nó: chúng ta không thể nói
song song, hay tạo những cấu trúc, nhưng chỉ những chuỗi của những từ. Hệ thống
phối hợp cảm
giác và vận động thì không đặc biêt thích ứng
với ngôn ngữ trong những phương diện nền tảng: những phần
thiết yếu cho sự thể hiện bên ngoài
và tri giác dường như
đã có từ rất lâu trước khi ngôn ngữ xuất hiện. Có bằng chứng rằng hệ thống thính giác của loài chimpanzee
có thể là thích nghi được khá tốt cho tiếng nói con người [42] , mặc dù loài ape không thể thực hiện được ngay cả bước đầu tiên trong việc tiếp
thu ngôn ngữ, lấy ra những dữ liệu liên
quan về ngôn ngữ từ
“sự hỗn độn bùng vỡ, ù ù” xung quanh chúng, như trẻ sơ sinh con người làm ngay lập tức theo phản
xạ, không phải là một thành tích
nhỏ, không đáng kể. Và dù khả năng để điều khiển đường (hệ thống) phát
âm cho lời nói phát ra có vẻ là đặc biệt-con người,
nhưng sự kiện đó không thể duy trì quá nhiều sức
nặng, sau khi đã biết việc tạo ra
ngôn ngữ của con người là độc lập về phương thức, như công trình gần đây về
ngôn ngữ ký hiệu đã thiết lập, và có rất ít lý do để hoài nghi rằng loài ape có đủ những khả năng ra dấu hiệu (động
tác). Hiển nhiên là những thuộc
tính nhận thức nhiều sâu xa hơn đã gồm trong sự tiếp thu và thiết kế ngôn ngữ.
Mặc dù vấn đề thì chưa giải quyết xong xuôi, có bằng
chứng đáng kể rằng luận đề rộng hơn có thể trong thực tế
là đúng: thiết kế ngôn ngữ về nền tảng làm ngơ trật tự và
những sắp xếp bên ngoài khác. Đặc biệt, sự diễn giải ngữ nghĩa
trong những trường hợp cốt lõi tùy thuộc trên thứ bậc, không trên trật tự thấy trong những dạng thức bên ngoài. Nếu thế, khi đó Thuộc tính
Cơ bản thì không chính xác như tôi đã hình thành nó trước đó,
và như nó đã được hình thành trong tài
liệu ngữ học gần đây – những bài viết của tôi, cũng vậy.
Đúng hơn, Thuộc tính cơ bản là sự tổng quát hóa
của một chuỗi vô hạn của những
diễn đạt có cấu trúc thứ bậc ghép kết nối tới mặt giao
tiếp khái niệm-có chủ đích, đem cho một loại của “ngôn ngữ của suy nghĩ” – và hoàn toàn có thể là ngôn ngữ của
suy nghĩ ( LOT) [43] duy nhất loại như vậy, mặc dù có những câu hỏi đáng
chú ý nảy sinh ở đây. Những câu hỏi đáng chú ý và quan trọng cũng nảy sinh về trạng
thái và tính cách của sự ghép kết nối
này, vốn tôi sẽ đặt nó sang một bên.
Nếu dòng lý luận này tổng quát thì đúng, khi đó có lý do hợp
lý để quay về một khái niệm truyền thống của ngôn ngữ như “một dụng cụ của suy nghĩ “, và chữa lại phát biểu của Aristotle
cho thích ứng; ngôn ngữ không là âm thanh với ý
nghĩa nhưng ý nghĩa với âm thanh – tổng quát hơn, với một
số hình thức của sự thể hiện bên
ngoài [44], điển hình là âm thanh
mặc dù những phương thức khác đều có sẵn: công
trình của thế hệ
trước về ký hiệu đã cho thấy những điểm tương đồng đáng ghi nhận với ngôn ngữ
nói trong cấu trúc,
sự tiếp thu, và sự biểu hiện thần kinh.,
mặc dù phương thức của sự thể hiện bên ngoài dĩ nhiên là hoàn
toàn khác nhau. [45]
Đáng ghi nhận rằng sự thể
hiện bên ngoài thì hiếm khi được dùng. Hầu hết việc đem dùng ngôn ngữ thì phần rất lớn
không bao giờ là thể hiện bên ngoài. Nó là một loại của đối thoại bên trong, và khảo cứu ít ỏi trên đề tài, đi ngược về một số những quan sát của Lev Vygotsky, [46] phù hợp với
những gì sự quan sát bên trong đưa lên – ít nhất
là của tôi: những gì đạt đến ý thức là những mảnh vụn phân tán.
Đôi khi, những diễn đạt đã hình thành-đầy đủ ngay
lập tức xuất hiện
bên trong, quá
nhanh khiến những phát âm rõ ràng không
thể dự vào, hay ngay cả
có thể hướng dẫn chúng. Đây là một đề tài đáng chú ý vốn đã được thăm dò rất ít, nhưng có
thể là đối tượng
để điều tra và
có nhiều hệ quả bất ngờ.
Đặt vấn đề vừa nói sang một bên,
điều tra của sự thiết kế của
ngôn ngữ cho lý do hợp lý để nghiêm chỉnh
đón nhận một khái niệm truyền thống của ngôn ngữ như thiết yếu là một dụng cụ của suy nghĩ. Khi đó sự biểu hiện ra
bên ngoài sẽ là một tiến trình phụ trợ, những thuộc tính của
nó là một phản xạ –
của phần lớn hay
hoàn toàn độc lập – của hệ thống phối hợp giác quan-vận động. Điều tra thêm hỗ trợ kết luận này. Theo đó, tiến trình là một tính năng phụ, nằm
ở vòng ngoai, của ngôn ngữ,
và rằng những cách dùng cụ thể của ngôn ngữ vốn tùy thuộc
trên sự thể hiện bên ngoài, trong số
chúng là sự truyền thông, đều ngay cả còn nằm
ở vòng ngoài nhiều hơn, ngược lại với giáo
điều võ đoán [47] vốn không có hỗ trợ nghiêm chỉnh thật sự. Cũng theo
đó, rằng sự suy đoán rộng rãi về sự tiến hóa ngôn ngữ trong những năm
gần đây thì đi lạc đường, với sự chú ý của
nó tập trung trên sự truyền thông
giao tiếp. [48]
Thực vậy, đó là giáo diều võ đoán rằng chức năng của ngôn ngữ là truyền thông. Một hình thành điển hình của ý tưởng là như sau: “Là điều quan trọng
rằng trong một
cộng đồng của những người
dùng ngôn ngữ,
rằng những từ được
dùng với cùng nghĩa. Nếu điều kiện này được đáp ứng, nó dễ dàng giúp cho cứu cánh chính yếu của ngôn ngữ
vốn là sự truyền thông. Nếu một
người không dùng những từ với
nghĩa vốn hầu hết mọi
người gắn vào chúng, người
này sẽ thất bại để truyền
thông hiệu quả với những người khác.
Như vậy người ta sẽ đánh bại mục đích chính của ngôn ngữ”. [49]
Trước tiên, đó là điều khác lạ, ngược với
thông thường để nghĩ rằng ngôn ngữ có một mục đích.
Những ngôn ngữ không
là những dụng cụ vốn
con người thiết kế nhưng là những đối tượng sinh học, giống như hệ thống thị giác, miễn dịch hay
tiêu hóa. Những cơ quan loại như thế đôi khi được cho là có những chức năng, là để cho một vài mục đích . Nhưng khái niệm đó thì thiếu xót, không rõ ràng. Lấy thí dụ, như xương cột sống Có phải chức năng của
nó là giữ chúng ta cho thẳng lưng, bảo vệ những dây thần kinh, sản xuất những tế
bào máu, lưu trữ canxi, hay tất cả những chức năng trên? Những câu hỏi tương tự
nảy sinh khi chúng ta hỏi về chức năng và thiết kế của ngôn ngữ. Ở đây, những cân
nhắc suy nghĩ về tiến hóa
thường được đưa vào, nhưng
những điều này thì không phải là tầm thướng,
không quan trọng; cũng như
với xương cột
sống. Với ngôn ngữ, những phỏng đoán khác nhau về sự tiến hóa điển hình thường quay sang những loại hệ thống
truyền thông được thấy trong khắp vương quốc động vật, nhưng đó lại nữa, thì chỉ là một phản ảnh của giáo điều thời nay và
có nhiều phần xảy ra là một ngõ cụt, vì những lý do đã nhắc, và tôi sẽ trở lại với điều đó..
Thêm nữa, ngay cả cho đến mức như ngôn ngữ được dùng cho truyền thông, không cần thiết
cho những ý nghĩa để là cùng có chung (hay những âm thanh, hay
những cấu trúc). Truyền thông không là một có-hay-không, nhưng đúng hơn là một nhiều-hay-ít. Nếu những tương đồng, có chung thì
ít, không đủ, sự truyền thông thất bại đến một mức độ nào đó, như trong đời sống
bình thường.
Ngay cả nếu
thuật ngữ “truyền thông” bị tước đi phần
lớn thực chất ý nghĩa và được dùng như một thuật ngữ để chỉ chung cho những giao tiếp xã hội nhiều loại khác nhau, nó vẫn là một phần
thứ yếu của việc thực sự dùng ngôn ngữ, cho bất cứ gì vốn quan sát đó thì có giá trị.
Vắn tắt, không
có nền tảng cơ bản cho giáo điều tiêu chuẩn, và bây giờ có bằng chứng với ý nghĩa quan trọng rằng nó thì đơn giản là sai. Không nghi ngờ gì, ngôn
ngữ thì đôi khi được dùng cho truyền
thông, cũng thế là phơng cách ăn mặc , diễn tả qua nét mặt, và tư thế đi đứng, và nhiều sự việc khác nữa. Nhưng những thuộc tính nền tảng
của thiết kế ngôn ngữ cho ấn định rằng một truyền thống giàu có thì chính xác trong việc nhìn ngôn ngữ
như một dụng cụ thiết yếu của suy nghĩ, ngay cả nếu chúng ta không đi cũng xa như Humboldt trong việc định rõ hai sự việc này.[50]
Kết luận trở
thành ngay cả sâu chặt vững
chắc hơn nếu chúng
ta suy nghi về Thuộc tính
Cơ bản kỹ lưỡng hơn. Một cách tự nhiên, chúng ta tìm kiếm giải thích đơn giản nhất của Thuộc
tính Cơ bản, lý thuyết với ít nhất những quy định tùy tiện –
hơn nữa, sau cùng
mỗi chúng là một rào cản cho một vài giải thích sau cùng của nguồn gốc của ngôn ngữ. Và chúng
ta hỏi việc phải dùng đến phương pháp khoa học tiêu chuẩn này sẽ mang chúng ta đi xa đến đâu.
Hoạt động
tính toán đơn giản nhất, nằm chìm trong một vài cách thức trong mọi thủ tục tính toán liên quan,
lấy những đối tượng đã được xây dựng X và Y và hình thành một đối tượng mới Z. Gọi nó
là sự Hợp nhất. [51] Nguyên tắc của Tính toán Tối thiểu ấn định rằng cả X và Y đều không bị sự Hợp Nhất sửa đổi và rằng chúng xuất hiện trong Z không có trật
tự. Do đó Hợp Nhất ( X, Y ) = {X, Y}. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là
bộ óc có chứa những set, như một số cách diễn dịch sai, đang lưu hành, tuyên bố, nhưng đúng hơn rằng bất cứ gì đang xảy ra trong bộ óc có những thuộc tính vốn có thể được mô tả tính chất đặc
biệt trong những thuật ngữ thích hợp này – cũng giống đúng như chúng ta không mong đợi để tìm thấy sơ đồ Kekulé [52] cho chất benzen trong một ống nghiệm.
Lưu ý rằng
nếu ngôn ngữ quả thực thuận hợp theo nguyên tắc của Tính Toán Tối Thiểu về mặt này, chúng ta có một trả lời có phạm vi và ảnh
hưởng xa rộng. cho câu
hỏi khó trả lời – tại sao trật
tự theo đường thẳng chỉ là một thuộc tính phụ trợ của ngôn ngữ, rõ ràng không có sẵn cho những tính toán về cú pháp và về ngữ nghĩa cốt lõi: thiết kế ngôn ngữ
thì hoàn hảo về
mặt này (và lại nữa, chúng ta có thể hỏi tại sao). Nhìn
xa hơn, bằng chứng tăng lên trong sự ủng hộ của kết luận này. [53]
Giả định X và Y được hợp nhất và không một nào là phần của
một kia, như trong việc kết hợp ‘đọc’ và ‘quyển sách đó’ để thành hình đối tượng cú pháp tương ứng với ‘đọc quyển sách đó’. [54] Gọi trường hợp đó là Hợp Nhất Bên
ngoài. Giả định rằng một này là phần của
một kia, như trong kết hợp Y = quyển sách nào, và X = Giáp đọc quyển sách nào, để tạo thành quyển sách nào Giáp
đọc quyển sách nào, vốn hiện ra như “quyển sách nào Giáp đã đọc”
bằng những hoạt động thêm vốn tôi sẽ quay lại với chúng. Đó là một
thí dụ của hiện tượng
phổ biến của sự chuyển dịch [55] trong ngôn ngữ tự nhiên: những câu
được nghe ở một chỗ nhưng được giải thích) cả ở chỗ đó và ở một chỗ khác, do đó câu được hiểu như “(nói về mặt ) quyển sách x nào, (thì) Giáp đọc quyển sách x”. Trong trường
hợp này, kết quả của Hợp Nhất của X và Y lại là {X, Y}, nhưng với hai
sao chép của Y (= quyển sách nào), một bản gốc còn giữ trong X, bản
kia là sao chép
đã đổi chỗ, đã hợp nhất với X. Gọi đó là Hợp Nhất Bên
Trong.
Điều quan trọng là tránh một cách
giải thích sai lầm phổ thông,
cũng gặp cả trong những tài liệu chuyên môn. Không
có hoạt động Sao chép hay Tái-Hợp-Nhất.[56] Hợp Nhất
Bên Trong xảy ra thì tạo ra hai sao chép,
nhưng đó là kết quả của Hợp Nhất theo nguyên tắc Tính Toán Tối Thiểu, vốn giữ Hợp Nhất trong dạng đơn giản nhất của nó, không can
thiệp với một nào trong những phần tử được Hợp Nhất. Những khái
niệm mới về Sao chép hay Tái-Hợp-Nhất không là chỉ
thừa thãi; nhưng chúng cũng gây ra
những khó khăn đáng kể, trừ khi đã chặt chẽ bó buộc tuân theo những điều kiện đặc biệt mức
chính xác rất cao hay chi tiết đòi hỏi đặc biệt
của Hợp Nhất Bên Trong, vốn được đáp ứng tự
động theo khái niệm đơn giản nhất của Hợp Nhất. [57]
Hợp Nhất Bên Ngoài và Hợp Nhất Bên
Trong là hai trường hợp duy nhất có thể
xảy ra của Hợp Nhất hai phần tử. Cả hai đều
thành tự do nếu
chúng ta hình thành Hợp Nhất trong lối tối ưu, áp
dụng với bất kỳ hai
đối tượng nào về cú pháp nào vốn đã được xây dựng xong xuôi, với
không thêm những điều kiện nào nữa. Nó sẽ đòi hỏi sự qui định để ngăn chặn, một trong
hai trường hợp của Hợp Nhất, hay để làm phức tạp không một nào trong chúng. Đó là một
sự kiện quan trọng. Trong nhiều năm, bởi cả chính
tôi nữa – đã giả định rằng chuyển
dịch là một loại của sự “không toàn
hảo” của ngôn ngữ, một thuộc tính khác lạ vốn phải được giải
thích cho mất đi, bằng một số phương pháp và những giả định phức tạp hơn về UG. Nhưng
điều đó hóa ra là không đúng. Chuyển dịch là những gì chúng ta sẽ mong đợi trên những giả định đơn giản
nhất. Sẽ là một không toàn hảo nếu như đã thiếu nó. Đôi khi đã có ý kiến rằng Hợp Nhất Bên Ngoài
thì cách nào đó
là đơn giản hơn
và nên có ưu tiên trong
sự thiết kế hay
sự tiến hóa. Không có
cơ sở cho tin tưởng đó. Nếu có chăng bất cứ một gì, người ta có thể biện luận rằng Hợp Nhất Bên Trong thì đơn giản hơn vì nó liên quan đến ít hơn rất nhiều việc tìm kiếm của không gian hoạt động
cho sự tính toán – không phải rằng người ta nên
chú ý nhiều đến điều đó.
Một sự kiện quan trọng
khác là Hợp Nhất Bên Trong trong dạng đơn giản nhất của nó – sau khi làm đúng theo nguyên tắc
bao trùm của Tính Toán
Tối Thiểu – thường mang lại cấu trúc thích hợp cho sự diễn dịch ngữ nghĩa,
như vừa minh họa trong
trường hợp đơn giản của “ quyển sách nào Giáp đã đọc” [58]. Tuy nhiên,
những trường hợp này là những cấu trúc sai cho hệ thống giác quan-vận động: trong
ngôn ngữ về phổ quát, chỉ có sao chép nổi bật nhất về cấu trúc thì được phát âm, như trong trường hợp này:
sao chép thấp hơn thì
bị xóa. Có một lớp để lộ cho thấy
của những ngoại lệ vốn trong thực
tế hỗ trợ cho luận điểm tổng quát, nhưng tôi
sẽ đặt điều đó sang
một bên. [59]
Sự xóa bỏ của những sao
chép theo đến từ một áp dụng không thể phủ nhận
khác của Tính Toán Tối Thiểu : tính
toán và phát âm rõ ràng từng tiếng một càng ít càng tốt. Kết quả là những
câu đã phát âm rõ
ràng có những chỗ trống. Người nghe
phải đoán ra xem yếu tố bị thiếu ở chỗ nào. Như đã biết rõ trong sự nghiên cứu của nhận thức và phân tích câu và cú pháp những phần của câu [60] , điều đó đem lại những vấn
đề khó khăn cho tiến trinh giải quyết ngôn ngữ, điều-được-gọi là những vấn đề lấp-chỗ-trống. Trong lớp rất rộng này
của những trường hợp này cũng thế, thiết kế ngôn
ngữ chuộng sự tính toán tối thiểu, bỏ qua những
phức tạp trong việc tiến hành và dùng ngôn ngữ.
Lưu ý rằng bất kỳ lý thuyết ngôn ngữ
nào vốn thay thế Hợp Nhất Bên Trong bằng những
cơ chế khác đều có hai gánh nặng của chứng minh
để đáp ứng: là cần thiết để
biện minh sự quy định ngăn cản Hợp Nhất Bên Trong và cũng cả những cơ chế mới đã dự định để giải thích cho sự chuyển dịch – trong
thực tế, sự chuyển dịch với những sao chép, thông thường là những hình thức đúng cho sự diễn dịch
ngữ nghĩa. [61]
Cùng những kết luận giữ đúng trong những trường hợp phức tạp hơn.
Lấy thí dụ, hãy suy nghĩ về câu “[bức
nào của những bức tranh của ông ấy] có phải chúng đã thuyết
phục nhà bảo tàng rằng
[[mọi họa sĩ] thích nhất]?” [62] Nó thì chuyển hóa bởi
Hợp Nhất Bên Trong từ cấu trúc cơ
bản “[bức nào của những bức tranh của ông ấy] chúng đã thuyết phục nhà bảo tàng rằng [[mọi họa sĩ] thích
[bức nào của những bức tranh của ông ấy] nhất ] ?”, đã hình thành trực tiếp bởi Hợp Nhất
Bên Trong, với sự chuyển dịch và hai sao chép. Câu đã phát âm “bức nào của những bức tranh
của ông ấy” được hiểu là đối tượng của “thích”, trong vị trí của khoảng trống, tương tự như “một của những bức tranh của ông ấy” trong
“chúng đã thuyết
phục nhà bảo tàng rằng [[mọi họa sĩ] đều thích
[một trong số những bức ảnh của ông ấy] nhất]”. Và đó thì đung là cách diễn
dịch rằng cấu trúc cơ bản tiềm ẩn với hai sao
chép đem cho.
Hơn nữa, quan
hệ lượng từ-biến số [63] giữa mọi người và của ông ấy mang sang trong “[bức nào của những bức tranh
của ông ấy] họ đã thuyết phục nhà bảo tàng rằng
[[mọi họa sĩ] thích nhất]?” Trả lời có thể là “bức tranh đầu tiên của ông ấy” –
khác biệt cho mọi họa sĩ, như trong một diễn dịch của “họ đã thuyết phục nhà bảo tàng rằng [[mọi họa sĩ] thích
[một trong những bức tranh của ông ấy] nhất]”. Ngược lại, không có trả lời giống vậy cho diễn đạt tương tự về cấu trúc
“[bức nào của những bức tranh của ông ấy] đã thuyết phục viện bảo tàng rằng [[mọi
họa sĩ] thích những bông hoa ]?”, trong trường hợp đó “bức tranh của
ông ấy” không rơi vào trong phạm vi của
“mọi họa sĩ”. Rõ ràng, đó là sao chép không-phát âm vốn
cung cấp cấu trúc đòi hỏi cho việc gán cho lượng từ-biến số cũng như cho việc giải thích động
từ-đối tượng. Những kết quả, một lần nữa
lại theo sau một cgách đơn giản từ Hợp Nhất Bên Trong và xóa sao chép dưới sự thể hiện ra bên
ngoài [64] . Có rất nhiều thí dụ tương tự – cùng
với những vấn đề đáng chú ý khi tính phức tạp tăng lên.
Cùng mức độ tương tự trong những trường hợp đơn giản hơn, giống như “theo bản năng, loài chim ưng vốn bay bơi” [65], là điều không tưởng tượng được rằng một số hình thức của tiến trình giải quyết
dữ liệu mang
lại những kết cục này. Dữ liệu
liên quan đều không có sắn với người học ngôn ngữ. Do đó, những kết
quả phải lấy được “từ bàn tay
nguyên thủy của tự nhiên”,
theo câu nói của Hume –
trong thuật ngữ
của chúng ta, từ bẩm sinh di truyền,
cụ thể là cấu trúccủa ngôn ngữ như được UG xác
định trong tác động lẫn nhau với những
nguyên tắc tổng quát như Tính Toán
Tối Thiểu. Bằng những
lối này, chúng
ta có thể lấy ra những kết luận khá sâu rộng và vững chắc về bản chất của UG.
Người ta thường đọc những tuyên bố trong văn học (ngôn ngữ
học) rằng UG đã
bị bác bỏ, hay không hiện hữu. Nhưng đây phải là một sự hiểu lầm. Để phủ nhận sự hiện hữu của UG – đó là, của một bẩm sinh có sẵn về
sinh học làm khả năng tiềm ẩn nền tảng
cho ngôn ngữ – sẽ là để chủ trương rằng đó là một phép lạ,
một kỳ diệu, rằng loài người có ngôn ngữ nhưng những loài sinh vật khác không có. Tuy nhiên, viện dẫn tham khảo
trong những
tuyên bố này thì đoán chừng là không với UG; tuy nhiên, đúng hơn, với những mô tả khái quát hóa – thí dụ, những nêu lên rất quan trọng
của Joseph Greenberg về những khái quát ngôn ngữ [66] . Lấy thí dụ, trong phần giới thiệu cho bản
in mới của Word and Object của Quine,
[67] Patricia Churchland, với một trích
dẫn không liên quan, viết rằng “những phổ quát về ngôn ngữ, từ lâu là những đứa con cưng của những nhà lý thuyết,
đã bị đánh bại tan tác, khi lần lượt mỗi chúng rơi vào (loại) dữ liệu không được xác nhận của những nhà ngôn
ngữ học thực địa”. Có lẽ bà coi điều này là sự xác nhận quan điểm của Quine rằng
“sự phản ảnh kịp thời về phương pháp và bằng chứng sẽ nghiêng sang giới hạn phần lớn những bàn tán về những phổ quát về ngôn ngữ”, nghĩa là những sự tổng quát hóa về ngôn ngữ. Trong thực tế, chính
những nhà ngôn ngữ học thực địa đã tìm ra
và xác nhận không chỉ
những tổng quát hóa có giá trị tổng quát và rất quan trọng nhưng cũng những thuộc tính bất biến của UG. Thuật ngữ “những nhà ngôn
ngữ học thực địa” [68] có nghĩa là những nhà ngôn ngữ học
quan tâm với dữ liệu, cho
dù họ đang làm việc trong rừng rậm Amazon, hay trong những văn phòng của họ ở Belem, hay ở New York.
Mảnh vụn của sự đúng thực trong những quan sát như
vậy là những tổng quát hóa đều có thể có những ngoại lệ, vốn điều này có thể hoàn toàn có giá trị như một kích thích để tìm
hiểu – thí dụ, những ngoại lệ với việc xóa những sao chép, vốn tôi vừa nhắc đến.
Đó là kinh nghiệm thông thường trong những
ngành khoa học. Việc tìm thấy những nhiễu động trong quỹ đạo của Uranus không dẫn
đến việc buông bỏ những nguyên
lý của Newton và những định luật của Kepler, hay đi đến kết luận rộng hơn rằng không có định
luật vật lý nào cả, nhưng đi đến giả định – sau này khám phá – về một hành tinh khác,
Neptune. Những ngoại lệ với những khái quát mô tả phần lớn có giá trị, đóng một vai trò tương tự khá tổng quát trong khoa học và đã làm như thế, lập lại
nhiều lần
trong nghiên cứu ngôn ngữ.
Khi đó, có bằng chứng thuyết phục và chắc chắn có tác dụng rộng rãi. rằng nếu ngôn
ngữ được thiết kế tối ưu, nó sẽ cung cấp những cấu trúc thích hợp cho giải
thích ngữ nghĩa nhưng nhường lại những khó khăn cho
nhận thức và tiến trình giải quyết ngôn ngữ (do đó là truyền thông).
Có nhiều những minh họa khác.
Lấy thí dụ, hãy nói, sự thụ động hóa. Người ta đã lập luận
rằng sự chuyển sang thể thụ động hỗ trợ tin tưởng rằng ngôn ngữ được thiết
kế tốt cho sự truyền thông.
Vì vậy, trong câu “the
boys took the books” [69], nếu chúng ta muốn nói “the books” trước, thì tác động chuyển sang
thể thụ động, cho chúng ta làm
như thế, bằng cách nói “the books
were taken by the boys”. Thực sự, kết luận là điều ngược lại. Thiết kế của ngôn ngữ,
theo đến từ Tính Toán Tối thiểu, thường xuyên ngăn chặn chọn lựa này. Giả sử trong câu “the boys
took the books from the library”, chúng ta muốn đặt “the library” đứng trước, tức là “the library
was taken the books from by the boys” Điều đó bị thiết kế ngôn ngữ ngăn cản, thế nhưng một rào cản khác với sự truyền thông.
Những trường
hợp nên quan tâm chú ý là những
trường hợp trong đó có một mâu thuẫn trực tiếp giữa hiệu năng tính toán và truyền thông. Trong mọi
trường hợp được biết, hiệu
năng tính toán
chiếm ưu thế; sự dễ dàng cho truyền thông bị hy sinh. Nhiều trường
hợp như vậy rất quen thuộc, trong số đó có sự mơ hồ về cấu trúc và “Những Câu
quanh co như Lối Đi Trong Vườn” [70] như “the horse raced past the barn fell / con ngựa đã chạy ngang qua chuồng bị ngã”, được
hiểu như trái văn phạm trong trình bày đầu tiên [71]. Một trường hợp được quan tâm đặc
biệt khác được gọi là những
đảo chặn [72]– những xây dựng trong đó việc lấy ra (Hợp nhất Bên Trong) thì bị cấm – trong chừng mực khi chúng có thể được đem cho những giải thích theo nguyên tắc dẫn đến hiệu quả về tính toán. Một minh họa là những câu
hỏi liên quan đến câu “they asked if the mechanics fixed the cars /họ hỏi không biết những người thợ máy đã chữa những ô tô?”. Chúng ta có thể hỏi “how many cars,
/ có bao nhiêu
ô tô”, kết quả
là “how many cars did they ask if the mechanics fixed? / có bao nhiêu
ô tô họ đã hỏi
nếu những gười thợ máy đã chữa?” Hay chúng
ta có thể hỏi “how many mechanics, / có bao nhiêu thợ máy”, đem cho “how many mechanics did they ask if fixed the
cars? / họ đã hỏi
bao nhiêu thợ máy nếu đã chữa ô tô?” Hai
câu hỏi khác nhau
rõ rệt về tình trạng: “how many mechanics
/ có bao nhiêu
thợ máy” là một
suy nghĩ tốt, nhưng nó phải được diễn đạt bằng một số cách nói nói quanh co luẩn
quẩn, một lần nữa cản trở sự truyền thông;
về mặt kỹ thuật là vi phạm ECP. Ở đây, cũng vậy, dường như có những thí dụ ngược lại,
chẳng hạn trong tiếng Italy.
Việc thừa nhận những điều này đã dẫn đến những khám phá về bản chất của những ngôn
ngữ chủ ngữ rỗng của Luigi
Rizzi, [73] củng cố nguyên tắc ECP [74], một lần nữa minh họa giá trị của
những khái quát được nêu lên và những ngoại lệ rõ ràng.
Có nhiều những trường hợp tương tự. Trong chừng mức như chúng được hiểu, những cấu trúc là
kết quả từ phục vụ hoạt động tự do của những quy luật
đơn giản nhất, nhường lại những khó khăn cho
nhận thức và tiến trình giải quyết
ngôn ngữ. Lại nữa, ở chỗ việc làm
dễ dàng tiến trình giải quyết
và hiệu quả
truyền thông xung đột với hiệu quả về tính toán
trong thiết kế ngôn ngữ, trong mọi trường hợp đã biết, việc kể trước sẽ bị hy sinh. Điều đó hỗ trợ
thêm cho cái nhìn của ngôn ngữ như
một dụng cụ của tư tưởng, trong những phương
diện quan tâm chú ý đã thiết kế hoàn hảo, với việc thể hiện
bên ngoài một tiến trình phụ, do đó, một sự truyền thông, vì những lý
do tương tự nhưng thuyết phục hơn, và những cách dùng khác của ngôn ngữ được thể hiện bên
ngoài . Như thường lệ, những gì thực sự quan sát được đem cho một bức tranh khá sai lệch về những
nguyên tắc làm nền tảng cho nó. Nghệ thuật thiết yếu của khoa học là sự thu giảm của “những gì nhìn-thấy-được phức tạp thành những gì không-nhìn-thấy-được đơn giản”, như người đoạt giải Nobel
hóa học Jean Baptiste Perrin, đã nói về vấn đề.
Để đưa ra
rõ ràng hơn những gì đang bị đe dọa, chúng ta hãy đảo ngược lập luận đã nêu ở đây, đặt nó trong một cách nguyên tắc hơn. Chúng ta bắt
đầu với Thuộc Tính Cơ Bản của ngôn ngữ và hỏi xem hệ thống tính toán tối ưu sẽ là
gì vốn nắm bắt nó, sau khi áp dụng phương pháp khoa học thông
thường. Trả lời là sự Hợp Nhất ở dạng đơn giản nhất, của nó, với hai biến thể của nó, Hợp Nhất Bên
Ngoài và Hợp Nhất Bên Trong, biến thể sau mang lại “lý thuyết sao chép của chuyển
dịch”. Trong một phạm vi lớn rộng và quan trọng của những những trường hợp, vốn mang lại những hình thức thích hợp cho việc
giải thích ngữ nghĩa ở mặt giao tiếp khái niệm-có chủ đích, vốn thiếu trật tự hay những sắp xếp khác.
Sau đó, một tiến trình phụ trợ của sự thể hiện bên ngoài sẽ chuyển đổi những đối
tượng được tạo ra bên trong thành một dạng thích nghi với hệ thống giác quan-vận
động, với những sắp xếp vốn thay đổi tùy thuộc trên phương thức cảm giác [75] cho sự thể hiện bên ngoài . Bên ngoài cũng
phải tuân theo Tính toán Tối thiểu, do đó những sao chép bị xóa, gây khó khăn cho
việc giải quyết và dùng ngôn
ngữ (gồm cả trường hợp truyền thông đặc biệt). Một sai sót của những giả định tối
ưu là những quy luật luôn tùy thuộc vào cấu trúc, giải quyết câu đố được thảo luận
ngay từ đầu và những người khác thích nó.
Một dự án
nghiên cứu rộng hơn – trong những năm gần đây, gọi là chương trình tối giản
[76]– bắt đầu với sự giả định về tối ưu – những gì đã gọi là luận đề tối giản mạnh,
SMT – và để hỏi xem nó
có thể giữ vững được bao lâu, bao xa trong
khi đối mặt
với những phức tạp và
sự đa dạng được quan sát trong những ngôn ngữ trên
thế giới [77]. Khi thấy được một chỗ trống, công việc sẽ là xem liệu dữ liệu có thể được
diễn giải lại hay không, hay những nguyên tắc của sự tính toán tối ưu có thể được xem xét lại?, như thế để giải quyết những câu hỏi khó khăn
bên trong khuôn
khổ của SMT, như thế cung ứng một số hỗ trợ, trong một lĩnh vực nhiều bất ngờ và nhiều quan tâm chú ý, cho châm ngôn của Galileo rằng thiên nhiên thì đơn giản, và công việc của nhà khoa học là chứng minh điều
đó. Công việc dĩ nhiên là
một thách thức. Công bằng vốn nói, tôi nghĩ, ngày nay có vẻ là một thỏa thuận thực
tế hơn so với vài năm trước đây, dù những
vấn đề to lớn, dĩ nhiên vẫn còn.
Tất cả những
điều này đồng thời nêu lên thêm một câu hỏi
tiếp: Tại sao ngôn ngữ phải được thiết kế tối ưu, trong chừng mực vốn SMT chủ trương? Câu hỏi này dẫn chúng ta đến cân nhắc suy nghĩ
về nguồn gốc
của ngôn ngữ. Giả thuyết SMT rất phù hợp với bằng chứng rất giới hạn vốn chúng ta có về sự xuất hiện của ngôn
ngữ, rõ ràng là rất mới đây và đột ngột trong thang thời gian
tiến hóa, như Tattersall đã thảo luận. Một phỏng đoán thẳng thắn trong ngày nay – và một phỏng đoan vốn mở ra những con đường nghiên cứu và
tìm hiểu phong phú – là một số “gài đặt móc nối lại
mạch nơrôn” nhẹ của bộ
óc đã đem lại (hoạt động) Hợp Nhất,
một cách tự nhiên trong dạng đơn giản
nhất của nó, đem cho
cơ sở cho suy nghĩ sáng tạo và vô hạn, “bước nhảy vĩ đại về trước” được vén mở cho thấy trong hồ sơ khảo cổ học, và những
khác biệt đáng chú ý ghi nhận tách biệt con người thời nay với những người
có trước của họ và
phần còn lại của vương quốc động vật. Trong chừng mực như phỏng đoán có thể đứng vững, chúng ta sẽ có một trả lời cho những câu hỏi về sự thiết kế tối ưu hiện thấy rõ của ngôn ngữ: đó là những gì sẽ được mong đợi dưới những trường hợp đã được nêu lên, với không có lựa chọn hay những áp lực khác hoạt động, như thế hệ thống nổi lên sẽ chỉ tuân theo những luật của tự nhiên, trong trường hợp này là
những nguyên tắc
của Tính Toán Tối Thiểu – đúng hơn theo cách một hoa tuyết thành hình thế nào. [78]
Những ghi nhận này chỉ như vết cào xước
chạm vào mặt ngoài. Có lẽ chúng có thể dùng để minh
họa – tại sao trả lời cho
câu hỏi “Ngôn ngữ là gì?” thì rất quan trọng,
và cũng để minh họa – sự chú ý chặt chẽ với câu hỏi cơ bản này có thể mang lại
như thế nào – những kết luận có nhiều hệ quả cho sự nghiên cứu của con người là loài sinh vật nào.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Sep/2022)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
(a) Những công trình nghiêm cứu ngữ học của Chomsky đặc biệt đã làm thay đổi bản chất của chính ngành học này, qua đó dẫn đến những
kết luận có ý nghĩa triết học lớn lao. Một vấn đề
trung tâm đã thống trị
phần lớn triết học thế kỷ 20, là câu hỏi về quan
hệ giữa ngôn ngữ và thế giới . Wittgenstein, thí du, đã như quị lụy suốt đời ông với vấn
đề này. Chomsky, như một nhà ngôn ngữ học, lập luận rằng
đường lối chúng ta thực
sự có được cách dùng ngôn ngữ và qua đô với quan hệ của nó
với kinh nghiệm, và quan hệ của nó với thế giới, tất cả đều hoàn toàn khác với những gì truyền thống triết học Anglo-Saxon
đã duy trì. Chomsky giữ vai trò chính trong
việc lật đổ thuyết hành vi tâm lý như giáo điều
chính trong nghiên cứu tâm lý học và triết học, phục hồi cách dễ dàng nhận hiểu
triết học của chủ nghĩa duy lý, và làm khái niệm về bẩm sinh và mô-đun được tôn trọng trong nghiên cứu về não thức. Chomsky đầu tiên đưa ra ý tưởng của ông vào cuối những năm 1950 như phần của phê bình trường phái Tâm Lý Học
Hành Vi (behavioral psychology) của ông. Quan điểm trong thuyết tâm lý học hành vi cho rằng mỗi cá nhân
con người bước vào thế giới như một khối vật chất, không có gì khác nhau, dễ uốn nắn. Sau đó được môi trường của nó nhào nặn và định hình,
qua những tiến trình của kích thích
và phản ứng. Qua thưởng/phạt, củng cố của những phản ứng và liên kết những ý tưởng
khiến cá nhân phát triển và học, gồm việc học ngôn ngữ.
Chomsky biện luận rằng
điều này không thể giải thích được hiện tượng là hầu như mọi
người, bất kể mức độ thông minh, đều làm được một việc cực kỳ khó khăn, là dùng một ngôn ngữ thành thạo; ngay cả khi không được chủ ý dạy, như trường hợp của hầu hết chúng ta, và họ làm được điều này trong
một thời gian rất ngắn, ngay sau khi ra đời. Ông lập luận rằng để điều này xảy ra như thế, chúng ta
phải được program-sẵn trước về di truyền. Do đó, tất cả những ngôn ngữ của con người phải có chung một cấu trúc cơ bản tương ứng với program-sẵn trước này. Điều này cũng có một số ý nghĩa tiêu cực. Quan trọng nhất là bất cứ sự vật việc gì không thể phù hợp
với cấu trúc này; bất cứ sự việc vật gì không bị vướng trong ‘mắt lưới’ của mạng lưới cụ thể này, với chúng
ta về ngôn ngữ, chúng đều không
thể diễn đạt và không thể hiểu được. Như thế, những nguyên tắc chung cho tất cả những ngôn ngữ đã đặt những giới hạn quan trọng với khả năng hiểu biết thế giới và trao đổi, thông tin ý nghĩ của chúng ta. Noam Chomsky
(khi còn ở trường MIT) nghiên cứu những gì đã trở thành khoa
học nhận thức, một lĩnh vực hướng đến việc khai mở những biểu hiện tinh thần, và những quy luật nền tảng cho những khả năng tri giác và nhận thức của chúng ta. Chomsky và những đồng nghiệp
của ông đã lật đổ thuyết hành vi thịnh hành đương thời, do nhà tâm lý học B.F. Skinner (ở Harward) dẫn đầu. Bác bỏ dứt khoát những giải thích của những người thuyết
tâm lý hành vi về việc học ngôn ngữ, đánh dấu bằng bài Chomsky phê bình (1959) quyển Verbal Behavior (1957) của Skinner. Trong đó Skinner đã cố gắng giải thích khả năng ngôn ngữ dùng những nguyên tắc của tâm lý học hành vi. Skinner nhấn
mạnh trên những liên kết lịch sử giữa
một kích thích và phản ứng của động vật—một
cách dễ dàng nhận hiểu có thể đóng khung như
một loại phân tích thống kê duy nghiệm, tiên đoán những gì sẽ xảy ra dựa trên những gì đã xảy ra (hành vi quá khứ). Chomsky đã đưa ra thuyết Tinh Thần (Mentalism) hay Bẩm sinh (Innatism) về học tập, nhấn mạnh vai trò của não thức trong việc tiếp thu ngôn ngữ,
lập luận rằng con người có khả năng ngôn ngữ bẩm sinh để nói/học ngôn ngữ. điều
này làm cho khả năng ngôn ngữ của con người là vô tận. Chomsky cũng tin rằng
thành phần sinh học này của ngôn ngữ kết nối tất cả những ngôn ngữ. (a) Khả năng Ngôn ngữ: theo
lời Chomsky “...bức tranh nổi bật về ngôn ngữ (khi tôi mới ra trường – University of Pennsylvania.) đã là ngôn ngữ trong yếu tính là một hệ
thống những thói quen hay những kỹ năng hay những khuynh hướng để hoạt động, và ngôn
ngữ có được qua dạy dỗ huấn luyên, qua sự lặp
lại, có lẽ qua quy nạp hay khái quát
hóa hay liên kết.
Và kiến thức của một người, là hệ thống thói
quen của một người, được phát triển chỉ đơn giản qua sự bồi đắp tăng dần theo kinh
nghiệm, tuân theo những tiến trình này của khái quát hóa và loại suy. Và bức tranh rõ ràng là một
giả định về thực tại nhưng được trình bày như là một sự thật tiên nghiệm, điều
vốn chắc chắn là không phải vậy. Ý tôi
là rõ ràng là không tất yếu rằng ngôn ngữ là một hệ thống loại thế đó, rằng nó không được tiếp
thu và là bất cứ sự
việc gì tương tự như vậy”. (b) ... chúng ta có
thể nói rằng ngôn ngữ ngay cả không được học, .... với tôi, có vẻ như nếu chúng ta muốn một đưa ra một ẩn dụ hợp
lý, chúng ta sẽ nói về sự
tăng trưởng. với tôi, ngôn
ngữ dường như phát triển trong não thức thì đúng hơn, theo cách những hệ thống cơ thể phát triển. .. Thực sự .. tôi nghĩ không
phải là không thuận lý để nhìn não thức như một hệ thống
gồm những cơ năng tinh thần, trong đó ngôn ngữ là một. Mỗi cơ năng có cấu trúc được năng khiếu
di truyền về sinh học ấn định, với những
tác động và ảnh tưởng
đối ứng, tổng quát cũng được bản chất bẩm sinh sinh học của
chúng ta ấn định, tăng trưởng qua tác động
của kinh nghiệm, định hình và trau dồi khả năng diễn đạt lưu loát, mạch lạc, khi cá nhân phát triển
qua những giai đoạn
đời sống Nói cách khác,
chúng ta được program sẵn để học một ngôn ngữ, giống như cách chúng ta được program
sẵn để phát triển tay chân và dậy thì ở tuổi thiếu niên, và tất cả những loại tiến
trình tăng trưởng đôi khi xảy ra châm hơn khác? Đúng vậy, ... và tuổi dậy
thì là một thí dụ điển hình, là trường hợp phát triển sinh học của sự
phát triển tự động di truyền vốn đã program sẵn về bản chất nhưng xảy ra sau khi sinh. Và trong thực tế, chúng ta có thể (nói) ... ngay cả cái chết, cũng đã được di truyền ấn định. Đó là
chúng ta được cấu tạo về sinh học để đến một thời điểm nhất định nào đó, những tiến
trình sống của chúng ta dừng lại. Nhưng, sự kiện có những phát triển
diễn ra sau khi sinh vật đã bắt đầu như một hiện hữu độc lập, (thực vẫn) không (xác định) cho chúng
ta biết gì về việc đó, có phải nó là một phát
triển được ấn định về di
truyền hay không. [theo Bryan Magee – phỏng vấn Chomsky (1978)]. Như thế, quan niệm về ngôn ngữ của Chomsky đã nhấn mạnh trên sự phức tạp của những biểu hiện bên trong, đã ‘ghi chép’ trong genome
và sự trưởng thành của chúng dưới ánh sáng của dữ liệu phù hợp trong một hệ thống
tính toán tinh vi, một hệ thống không thể chia nhỏ hữu ích thành một set những liên
kết. Những nguyên tắc liên kết của thuyết hành vi không thể giải thích được sự phong
phú của kiến thức ngôn ngữ, cách chúng ta đem dùng nó một cách
sáng tạo bất tận, hay sự tiếp thu nhanh
chóng của trẻ em với tối thiểu và không hoàn
hảo trong cách dễ dàng nhận hiểu ngôn ngữ, thể hiện qua môi trường
văn hóa của chúng.
“Khả năng ngôn ngữ”, như Chomsky đề cập, là một phần của nguồn gen di truyền trong cơ cấu sinh vật. Chúng ta phải
nghiên cứu nó, không ảo tưởng; thực tiễn và duy thực, như nghiên cứu hệ thống thị
giác, miễn dịch, tuần hoàn, .... những hệ thống
sinh học tương tự khác của con người.
[2] Truisms: những phát biểu
hay tin tưởng vốn thường
được chấp nhận là đúng hay hiển nhiên
[3] [Charles Darwin, The Descent
of Man (London: Murray, 1871), chương 3.]
[4] [Ian Tattersall,
Masters of the Planet: The Search for Our Human Origins (New York: Palgrave
Macmillan, 2012), xi.]
[5] unbounded array: ở đây
hiểu như một chuỗi [hay một sắp xếp với trật tự] vô hạn – (Chomsky dùng khái niệm
array của toán học)
Thuộc tính Cơ bản : những tính chất cơ bản đặc biệt của ngôn ngữ theo Chomsky, Nói một cách đơn giản:
1. Ngôn ngữ có
thể tạo ra vô hạn những câu nói. Thí dụ,
chúng ta có thể tạo ra vô số câu giống như ‘con mèo nằm trên tấm thảm’, ‘tôi
muốn ra công viên’, hay ‘Cô ấy đang đọc một quyển sách …
2. Những câu có một cấu trúc trật tự thứ bậc. Chúng có
thể được chia thành những cụm từ, những cụm từ lại có thể được
chia thành những thành phần
nhỏ hơn. Chẳng hạn, câu ‘con mèo nằm
trên tấm thảm’ có thể được phân tích thành ‘con mèo ‘(cụm danh từ/chủ ngữ) và ‘nằm trên tấm thảm’ (cụm động
từ/thuật ngữ).
3. Ngôn ngữ có
hai mặt giao tiếp: (a) mặt phối hợp cảm giác và vận động cho sự thể hiện cảm
xúc (bên ngoài). Mặt giap tiếp này gồm tạo ra và tiếp nhận ngôn ngữ qua
nói hay viết. Khi nói câu ‘tôi thích ăn
phở’, người nói dùng giap tiếp này để bày tỏ những gì nghĩ cảm chủ quan. (b) mặt khái niệm-chủ
định cho những tiến trình tâm lý ( bên trong): Khi chúng ta hiểu câu ‘Con chó đuổi theo quả bóng’, chúng ta dùng mặt giap tiếp này để diễn
giải quan hệ giữa những từ và những khái niệm.
[6] A computational procedure: một tiến trình tính toán, như định nghĩa của Chomsky, để chỉ những tiến trình tâm lý hay những hoạt động nhận thức khiến chúng ta có khả
năng tạo và hiểu ngôn ngữ.
[7] (a) ‘Bên trong’: ngôn ngữ được tiến hành bên trong não thức và bộ óc của cá nhân người nói hay người
nghe. Đó là một khả năng tâm lý không
quan sát trực tiếp được từ
bên ngoài: (b) ‘Cá
nhân’ nhấn mạnh sự kiện mỗi cá nhân có kiến thức ngữ
pháp hay ngôn ngữ bên trong của
riêng họ, được hình thành bởi kinh nghiệm và tác động qua lại của chính họ với ngôn
ngữ. Mặc dù có những điểm tương đồng giữa ngữ pháp của từng người một thì
khác nhau, nhưng
ngữ pháp của mỗi người cuối cùng là duy nhất. (c) ‘hàm ý’ hiểu như những
quy luật và nguyên tắc của ngôn ngữ không
chỉ mô tả nhưng ý nghĩa có thể giải thích được ngoài những ý nghĩa đã biết. Nói cách khác, I-language
đề cập đến khả năng tạo ra những câu mới lạ và đúng ngữ pháp, không chỉ nhận biết
và lập lại
những câu
đã biết, hiện
có.
[8]
Giả sử chúng
ta có một ngữ pháp đơn giản để tạo ra những cụm danh từ trong tiếng England:
NP –> Det Noun
Det –> “the” | “a”
Noun –> “cat” | “dog” [“mèo” | “chó”]
Phát sinh yếu của ngữ pháp này sẽ là set tất cả những cụm danh từ
tiếng England được hình thành tốt có thể được tạo ra bởi ngữ pháp này, gồm:
“the cat”
“the dog”
“a cat”
“a dog”
Mặt khác, phát sinh mạnh của câu “con
mèo đuổi theo con chó” sẽ là set tất cả những cấu trúc câu có thể được bắt nguồn
từ câu đó, chẳng hạn như:
“the dog chased the cat”
“the cat chased the dog in the park”
“the dog that the cat chased was big”
[“con chó đã đuổi con mèo”/”con mèo đã đuổi theo con chó trong công viên”/”con chó mà con mèo đuổi theo thì lớn”]
Vì vậy, trong khi phát sinh mạnh quan
tâm đến những dẫn xuất cụ thể có thể được tạo ra từ một câu hay cụm từ nhất định,
thì phát sinh yếu quan tâm đến khả năng tổng thể của ngữ pháp để tạo ra
một loạt những diễn đạtđược hình thành tốt trong một ngôn ngữ nhất định.
[9] [Thuật ngữ là của tôi. Xem Noam
Chomsky, Knowledge of Language: Its Nature, Origin, and Use (New York: Praeger,
1986). Nhưng tôi đã định nghĩa nó gần như bỏ trống, như bất kỳ khái niệm ngôn ngữ
nào khác hơn ngôn ngữ-I.]
[10]
Ý tưởng là
ngôn ngữ-I đại diện cho kiến thức ngôn ngữ trừu tượng và bên trong vốn những cá
nhân có được. Nó gồm những nguyên tắc, quy luật và cấu trúc ngữ pháp cho phép người
nói tạo và hiểu vô số những câu đúng ngữ
pháp. Kiến thức bên trong này không thể
quan sát trực tiếp được, nhưng được suy ra qua hành vi và khả năng ngôn ngữ. Mặt khác, ngôn ngữ-E nói đến những biểu hiện có thể quan sát được của ngôn ngữ
trong những nội dung xã hội. Nó gồm những câu nói thực, những phát biểu và ngôn ngữ trong truyền thông. Ngôn ngữ-E
có thể được phân tích qua nghiên cứu về ngữ liệu, diễn ngôn và những thành tố ngôn ngữ xã hội. Mặc dù ngôn ngữ-E cung cấp những
hiểu biết có giá trị về cách ngôn ngữ được đem dùng trong những
nội dung khác nhau,
Chomsky lập luận rằng nó bắt nguồn từ ngôn ngữ-I cơ bản, vốn tạo cơ sở cho khả năng ngôn ngữ. Chomsky nhấn mạnh sự vượt trội quan trọng của những tiến trình biểu
đạt tinh thần và nhận thức liên quan đến ngôn ngữ. Ông muốn nhấn mạnh rằng việc
nghiên cứu ngôn ngữ nên tập trung vào việc hiểu những cơ chế và nguyên tắc bên trong
vốn đem cho con người
khả năng để nhận, nói và hiểu được ngôn ngữ,
thay vì chỉ dựa trên những quan
sát bên ngoài về việc dung ngôn ngữ.
[11] [Một nguồn của
hiểu lầm có thể là trong tác phẩm ban đầu, ‘ngôn ngữ’ đôi khi được định nghĩa trong
những đoạn giới thiệu trong những từ ngữ của sự phát sinh yếu, mặc dù cách dùng
đã nhanh chóng đủ khả năng, vì những lý do đã giải thích].
Trong nội dung trên , “yếu” liên quan với khái
niệm ngôn ngữ được tạo hay giải thích bởi những yếu tố nổi ngoài mặt, như những
cấu trúc và những mẫu thức quan sát được, nhưng không đi sâu vào những tiến trình
nhận thức và khả năng ngôn ngữ bẩm sinh chìm bên dưới, vốn là cơ sở cho việc dùng
ngôn ngữ. “Yếu” để tương phản với sự nắm vững cơ bản và toàn diện hơn về ngôn ngữ,
vốn Chomsky cho rằng khái niệm Ngôn ngữ-I mới thực có. Nhấn mạnh trên quan
trọng của ngôn ngữ-I, Chomsky muốn cho thấy sự hiểu biết ngôn ngữ ở mức bề mặt thì
sơ sài (yếu) nên không đủ để đi đến thấu hiểu toàn vẹn (vững chãi) về bản chất với
những phức tạp của nó.
[12]
the biolinguistic framework: Khung cấu trúc sinh
học-ngôn ngữ là một khung lý thuyết vốn tìm để giải thích cơ bản sinh học của ngôn ngữ và nó được tiếp
thu và giải quyết trong não như thế nào.
Khung nền này
lần đầu tiên được Chomsky nêu lên vào những năm 1950 và đã được phát triển trong
nhiều năm,
qua
một kết
hợp của nghiên cứu ngôn ngữ, sinh học và nhận thức. Nó cho rằng có một mô-đun ngôn
ngữ đặc biệt trong não, có trách nhiệm về khả
năng tiếp thu và tiến trình giải quyết ngôn ngữ của chúng
ta, và mô-đun này đã tiến hóa theo thời gian qua chọn lọc
tự nhiên. Một
số phê bình cho rằng việc khung tập trung vào một mô-đun ngôn ngữ (hay khả năng) cụ thể trong não là
quá đơn giản và không nắm bắt được đầy đủ sự phức tạp của tiến trình giải quyết
ngôn
ngữ. Tuy nhiên, thuyết này đã được hỗ trợ bởi một loạt những bằng chứng thực nghiệm từ lĩnh vực nghiên
cứu ngôn ngữ, nhận thức và khoa học thần kinh.
(1)
Ngôn ngữ đã được coi là đối tượng của ngôn ngữ học.
Nhưng Noam Chomsky nhấn mạnh rằng ngôn ngữ là một khái niệm vô dụng với khoa học ngôn ngữ. Ông lập luận rằng quan tâm của ngôn ngữ học nên là ngữ pháp (grammar). Ông đổi tên gọi ngôn ngữ và ngữ pháp (hay văn phạm – grammar), là ngôn ngữ bên ngoài (ngôn ngữ-E) và ngôn ngữ bên trong
(ngôn ngữ-I). Theo Chomsky, ngôn ngữ-E (ngôn ngữ) là một gì đó trừu tượng hiện ra bên ngoài từ bộ máy thực sự của não thức chúng ta và
Ngôn ngữ-I (ngữ pháp) là cơ chế vật lý của bộ óc chúng ta.
Nếu chúng ta được ban cho Ngữ pháp phổ quát (UG) khi mới sinh và có ngôn
ngữ-I sau khi những nhân số được xây dựng trong UG được thiết lập theo cách này
hay cách khác, và ngôn ngữ-I
phát sinh ra Ngôn
ngữ-E, thì ngôn ngữ-I sẽ là đối tượng của khoa học ngôn ngữ. Nhưng nếu không có
gì ngoài ngôn ngữ (ngôn ngữ-E) nói hay viết quanh chúng ta và nếu xem ngữ pháp (ngôn
ngữ-I) là những quy luật có nguồn từ ngôn ngữ (ngôn ngữ-E), thì chúng ta sẽ có một câu chuyện hoàn toàn khác.
Nói cách khác, ngôn ngữ nói hay viết xung quanh chúng ta khi đó sẽ là đối
tượng của khoa học ngôn ngữ. Theo
lý thuyết ngôn ngữ học của Chomsky,
những đối tượng nghiên cứu thích hợp là
những Ngôn ngữ-I (ngôn
ngữ-bên trong) đến từ sự tự kết hợp bên trong những người
nói tiếng mẹ đẻ, qua học hỏi hay đồng hóa
vô thức, và thành phần bản chất của mỗi người, nhưng không là những ngôn ngữ-E (ngôn ngữ-bên ngoài), hay ngôn ngữ mọi người trong công chúng dùng.
Chomsky phủ nhận rằng những ngôn ngữ-E công cộng là đối tượng thích hợp của
nghiên cứu khoa học. Thật vậy, ông không cho rằng
những ngôn ngữ-E có
thể được xác lập nhất quán, hợp lý,
vì
chúng đơn giản không tồn tại. Những đối tượng nghiên cứu thích
hợp là Ngôn ngữ-I; Một ngôn
ngữ-I là cá nhân,
trong
đó mỗi người nói có một ngôn ngữ-I riêng của mình.
Trọng tâm này đảo ngược truyền thống.
Những ngôn ngữ-E như tiếng England, tiếng Swahili, tiếng Việt v.v.
với Chomsky, (tốt
nhất) đều là
những sự
ý tưởng hóa triệt để, hay (tệ
nhất) là những đối tượng giả tạo không
mạch lạc. Tốt nhất, ngôn ngữ-E là giao điểm của những thuộc tính chung của những
Ngôn ngữ-I khác nhau. Vì vậy, chẳng hạn, không phải những người nói giao tiếp được vì họ có chung một ngôn ngữ; nhưng đúng hơn ở bất cứ
nơi nào có sự trùng lập Ngôn ngữ-I.thì có thể có sự truyền thông. Ngôn
ngữ-I là ‘bên trong’ theo
nghĩa là phần cấu tạo tinh thần của cá
nhân người nói. Nó không phải là một đối tượng của ‘thế giới những thể dạng của Plato’ cũng
không phải là một cấu trúc xã hội. Nhiều
triết gia đã thấy
rằng sự tập trung này của Chomsky vào ngôn ngữ-I đưa đến nhiều vấn đề khó giả quyết
Lý thuyết ngôn ngữ học Chomsky đã thay đổi đường lối nghiên cứu
ngôn ngữ theo truyền thống. Bản chất của
tri thức, trong tổng quát vốn gắn chặt với
tri thức con người, khiến Chomsky khái quát hóa lý thuyết nghiên cứu quan hệ giữa
ngôn ngữ và thế giới của ông là một bước tiến lôgích – cụ thể là sự nghiên cứu về sự dúng thật và quy chiếu.
Nhưng lý thuyết của
ông đã vẫn tạo tranh luận và đưa lên của ông về ‘những ý tưởng
bẩm sinh’ đã bị một
số người duy nghiệm chống lại, họ coi ông là người duy lý. Lý thuyết ngôn ngữ học của
Chomsky dựa trên những sự kiện duy nghiệm sau: “đứa trẻ học ngôn ngữ
với những kích thích có giới
hạn”, hay vấn đề về ‘sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích’ (poverty of the stimulus) Những gì đem vào trong
giai
đoạn tiếp thu của một ngôn ngữ tự nhiên thì giới hạn và suy thoái. Nhũng gì đưa ra thì không
thể đơn giản chỉ giải thích bằng động cơ học
tập, như quy nạp và loại suy trên những gì đã đưa vào.
Nhũng gì đưa vào và đưa ra đều khác nhau về cả phẩm lẫn lượng. Một chủ thể biết những sự kiện ngôn ngữ với không hướng dẫn hay ngay không bằng
chứng trực tiếp. Những sự kiện thực nghiệm này, “kiến thức không cơ sở”,
được diễn tả: “Thông thường, kiến
thức của ngôn
ngữ đạt được qua tiếp xúc ngắn và đặc điểm của kiến thức nhận được là phần lớn có
thể được
xác định trước”. Kiến
thức đã xác
định trước này là một số “khái niệm của cấu trúc”, trong não thức của người nói, vốn hướng dẫn người nói trong việc tiếp
thu một ngôn
ngữ tự nhiên (tiếng mẹ đẻ) của
người này. Cho một đối tượng biết
một ngôn ngữ tự nhiên là cho người này có
một ngôn ngữ-I
nhất định nào đó. Việc tiếp thu ngôn ngữ,
trong những thuật ngữ của Ngôn
ngữ-I, tương ứng với sự thay đổi của trạng thái não thức/não bộ của một chủ thể. Để biết ngôn ngữ L là để não
thức/bộ óc của chủ thể H, ban
đầu là trong một trạng thái S0; để được đặt ở một trạng
thái SL nhất định nào đó Một công việc của
khoa học nhận thức sẽ là giải thích về những gì
là bộ óc của H là, (đặc biệt là khả năng ngôn
ngữ của nó) vốn tương ứng với việc chủ thể H
biết ngôn ngữ L. Chomsky đưa một giả thuyết quan trọng là Ngữ Pháp Phổ Quát (UG). UG là một
sự biểu
thị hóa đặc
điểm của những nguyên
tắc bẩm sinh này của chức năng ngôn ngữ, Ngôn ngữ-I..
Nó là một hệ
thống của những điều kiện về ngữ pháp,
những giới hạn về hình thức và sự diễn giải của ngữ pháp ở mọi mức độ, từ những cấu trúc sâu của cú pháp, qua thành phần
chuyển nghĩa, đến những quy luât diễn
giải những cấu
trúc cú pháp về ngữ nghĩa và ngữ âm.
(Chomsky,
Knowledge of Language).
Như thế có thể xem UG như phần riêng
biệt của não thức con người, khiến ngôn ngữ trở nên phát sinh và việc học ngôn ngữ nhanh chóng, dễ dàng. UG như những quy
luật tượng trưng và hệ thống trong não thức chúng ta. Chúng giúp phân loại, phân tích, phân biệt, đồng hóa, hiểu và nhận
ngôn ngữ con người. Theo Steven Pinker
– có một gì đó,
chúng ta có thể gọi là “ngữ pháp phổ
quát” theo nghĩa sau: đứa trẻ thì có một khuynh hướng
có sẵn (thiên kiến) để phân tích lời nói chúng
nghe được theo những cách cụ thể nào đó. Sự việc không
chỉ đơn giản là ghi lại nguyên văn những câu nói.
Nhưng một
nửa là nhớ
lại của
hệ thống ngôn ngữ, nửa kia là algorithm hay quy luật chi phối, tìm kiếm, cố gắng lấy
ra những quy luật tổ hợp từ chuỗi lời
nói. Có một số loại quy luật và yếu tố vốn đứa trẻ tìm kiếm để mở khóa.
Set những khả năng đó là những gì là ngữ pháp phổ quát.
Có những tương đồng giữa những ngôn ngữ trên thế giới đến từ sự kiện là
ngôn ngữ được mỗi thế hệ làm mới, qua não thức của
những đứa trẻ, chúng xây
dựng nó từ dữ liệu chúng nhận được từ
cha mẹ và bạn bè chúng.
Định đề cơ bản của UG là có những hạn chế bẩm
sinh về ngữ pháp ngôn ngữ trong một ngôn ngữ con người có thể có. Khi nhận
được những kích thích ngôn ngữ trong tiến trình tiếp thu ngôn ngữ, trẻ em sẽ áp
dụng những quy luật cú pháp cụ thể vốn thuận hợp
với UG. Thuyết này nhấn mạnh và dựa vào sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích
(POS) và sự hiện hữu của một số những thuộc tính phổ quát ngôn ngữ của ngôn ngữ tự
nhiên của con người. Lập luận POS cho rằng những gì trẻ
em nhận được về ngôn ngữ (học nói tiếng mẹ đẻ) thì không
đủ để giải thích cho sự thành thạo nhanh chóng trong việc dùng ngôn
ngữ của chúng, và do đó chúng phải có sẵn một vốn bẩm
sinh về khả năng ngôn ngữ. Những thuộc tính phổ quát
ở đây là một số tính năng hay quy
luật vốn tất
cả những ngôn ngữ con người có chung, như sự khác biệt giữa những danh từ và những động từ, chen thêm hay nối câu. Thuyết
nêu lên rằng có một khả năng ngôn ngữ bẩm sinh về sinh
học, khiến nhờ biết những quy luật này, trẻ
có thể học nói nhanh chóng. Khả năng này không biết
từ vựng của bất kỳ ngôn ngữ cụ thể nào (vì vậy chúng phải được học những từ và nghĩa trong tiếng mẹ đẻ), và vẫn còn một số
giá trị có thể thay đổi tự
do giữa những ngôn ngữ (chẳng hạn như tính từ đứng trước hay sau danh từ) cũng phải
được học. UG
tách biệt với những giác quan và là một phần của nhận thức con người. Đó là vấn
đề điều tra thực nghiệm để xác định chính xác những thuộc tính nào là phổ biến và
những khả năng ngôn ngữ nào là bẩm sinh.
Một số thí dụ về những thuộc tính phổ quát
của ngôn ngữ : (a) Tất
cả những ngôn ngữ đều có ngữ pháp, một hệ thống những quy luật chi phối cách những
từ và câu được hình thành và giải thích (b) Tất
cả những ngôn ngữ đều là hệ thống biểu tượng, nghĩa là chúng dùng những dấu hiệu
tùy ý (chẳng hạn như âm thanh hay cử chỉ) để biểu thị những đối tượng, hành động,
ý tưởng, v.v. (c) Tất cả những ngôn ngữ đều
có trật tự từ cơ bản của những thành phần, chẳng hạn như chủ ngữ, động từ và tân
ngữ, với những biến thể (d) Tất cả những ngôn ngữ đều
có những phạm trù ngữ pháp cơ bản giống nhau như danh từ và động từ (e) Tất
cả những ngôn ngữ đều có âm vị, đơn vị âm thanh tối thiểu có thể tạo ra sự khác
biệt về ý nghĩa (f) Tất cả những ngôn ngữ đều
có tính năng đối ngẫu của khuôn mẫu, nghĩa là chúng có thể kết hợp những đơn vị
vô nghĩa (chẳng hạn như âm vị) thành những đơn vị có nghĩa (chẳng hạn như hình thái),
rồi kết hợp chúng thành những đơn vị lớn hơn (chẳng hạn như cụm từ và câu). (g) Tất
cả những ngôn ngữ đều hiệu quả và sáng tạo, nghĩa là chúng có thể tạo ra vô số cách
diễn đạt mới từ một set hữu hạn những phần tử
Một số khác biệt giữa những ngôn ngữ
: (a) Những từ và ký hiệu khác nhau
cho cùng một khái niệm, như khi từ ‘dog’ trong tiếng England xuất hiện trong tiếng Spain là perro hay trong tiếng Japan
là inu (b) âm thanh và cách phát âm khác
nhau, chẳng hạn như âm rung mạnh ‘r’ của tiếng Spain perro hay âm bật hơi ‘t’ của tiếng England tea (c) cấu
trúc và quy luật ngữ pháp khác nhau, chẳng hạn như trật tự từ của chủ ngữ, động
từ và tân ngữ, hay cách dùng mạo từ, thì và giới tính (d) ý
nghĩa và hàm ý khác nhau cho cùng một từ hay cách diễn đạt, tùy thuộc vào ngữ cảnh
và văn hóa (e) có nhiều loại và phương ngữ
khác nhau, có thể khác nhau về từ vựng, cách phát âm, ngữ pháp hay cách dùng trong
cùng một ngôn ngữ
(2)
Lý thuyết ngôn ngữ của Noam Chomsky đã là một chủ đề thảo luận lớn với nhiều đề tài tranh luận, kể từ khi nó ra đời vào những năm 1950. Lý
thuyết ngôn ngữ của Noam Chomsky là một set gồm những ý tưởng về cách thức con người tiếp nhận và đem dùng ngôn ngữ như thế nào.
Chomsky đưa lên ý tưởng rằng ngôn ngữ là một khả năng
nhận thức duy nhất của con người, (ông
nhấn mạnh) dựa trên cơ sở sinh học, được những quy luật
ngữ pháp cơ bản phổ
quát trong con người điều chỉnh. Lý thuyết của Chomsky đã cách
mạng lĩnh vực ngôn ngữ học và ảnh hưởng đến những ngành khác như tâm lý học nhận
thức và triết học về não thức.
Trung tâm lý
thuyết ngôn ngữ của Noam Chomsky là thuyết ngữ pháp phổ quát. UG là lý thuyết chủ trương rằng
con người có một thành phần sinh học bẩm sinh của khả năng ngôn ngữ chứa đựng những
nguyên tắc và ràng buộc của ngôn ngữ tự nhiên Theo Chomsky, con người được sinh ra với
môt khả
năng ngữ bẩm sinh để tiếp thu ngôn ngữ.
Khả năng bẩm sinh này, Chomsky gọi là “cơ
chế tiếp nhận ngôn ngữ”
(LAD)
là một cấu trúc tinh thần bẩm sinh giả định đem cho khả năng khiến trẻ học và tạo
ngôn ngữ. Chomsky cho rằng
LAD là một phần của bộ óc con người vốn chứa đựng kiến
thức về những quy luật ngữ
pháp phổ quát làm nền tảng cho tất cả những ngôn ngữ của con người. Thuật ngữ “cơ chế “ trong cụm từ “cơ chế
tiếp nhận ngôn ngữ” có thể gây hiểu nhầm, vì nó không có nghĩa là đề cập đến một
thiết bị hay dụng cụ vật lý như cômputơ hay máy móc. Thay vào đó, nó là
một từ ẩn
dụ dùng để
mô tả một cơ chế hay mô-đun nhận thức dành riêng cho việc tiếp thu ngôn ngữ. Theo quan điểm của Chomsky, LAD đem cho
khả năng khiến trẻ em tiếp thu nhanh chóng và dễ dàng những quy luật và cấu trúc
phức tạp của (các) ngôn ngữ mẹ đẻ mà không cần hướng dẫn hay phản hồi rõ ràng. Ông
lập luận rằng khả năng này chỉ có ở con người và là kết quả của năng lực sinh học
bẩm sinh về ngôn ngữ vốn có ở tất cả mọi người. Chomsky lập luận rằng tất cả những ngôn
ngữ của con người đều có chung những đặc điểm cơ bản nhất định không được học nhưng có sẵn trong bộ óc người. Ông gọi hệ thống
những quy
luật và
nguyên tắc ngôn ngữ con người có chung này
là “ngữ pháp phổ quát”. Điều này có nghĩa là mặc dù có sự khác biệt lớn về cấu trúc
bề mặt của những ngôn ngữ khác nhau, vẫn có những điểm tương đồng cơ bản trong cách
ngôn ngữ được cấu trúc và tiến hanh trong não bộ con người.
Như đã nói ở trên – Lý thuyết ngữ pháp phổ quát của Chomsky cho rằng con người sinh ra với một khả năng bẩm sinh để học và hiểu ngôn ngữ, và khả năng này đã được cài đặt gắn chặt (trong hệ nơrôn) trong óc của chúng
ta. Theo UG có một số nguyên tắc và quy luật cơ bản nền tảng trong tất cả những
ngôn ngữ đều có chung, và chúng hình thành cơ bản cho những khả năng học
hiểu ngôn ngữ của chúng ta. Chomsky nhiều lần nhấn mạnh quan sát thực nghiệm rằng trẻ em có thể học ngôn ngữ nhanh
chóng nhưng không cần
hướng dẫn nhiều và rõ ràng, vì chúng có sẵn một hiểu biết bẩm sinh về ngữ pháp phổ quát. Hiểu biết này cho chúng khả năng nhận ra những
mẫu thức và quy luật
vốn làm nền tảng cho tất cả những ngôn
ngữ và cho chúng khả năng áp dụng những mẫu thức này vào chính ngôn ngữ chúng đang học. Nói đơn giản
hơn, UG là một set
gồm những cấu trúc và những nguyên tắc ngôn ngữ bẩm sinh có trong tất cả mọi người và cho chúng ta khả năng để học và dùng
ngôn ngữ. Nó giống như một software ngôn ngữ có-sẵn khiến chúng ta nhận
ra được những quy
luật và mẫu thức cơ bản của
bất kỳ ngôn ngữ nào chúng ta gặp, và dùng những quy luật này để học và thông tin.
Ngữ pháp phổ quát (UG – generative grammar) này, cũng gọi là ngữ pháp chuyển đổi-phát sinh (transformational-generative
grammar), là một lý thuyết ngôn ngữ đưa lên sự hiện hữu của những nguyên tắc và những
giá trị thay đổi bẩm sinh, phổ quát trong bộ óc con người vốn chi phối cấu trúc của ngôn ngữ con người. UG cho rằng những nguyên tắc và những giá trị thay đổi này là nguyên nhân tạo ra một số vô hạn của những câu vốn người nói có thể tạo ra trong một ngôn ngữ. UG gồm hai loại quy luật: quy luật cấu trúc cụm từ, vốn định rõ cấu trúc của
những câu nói, và những quy luật chuyển đổi, vốn mô tả một câu có thể được chuyển đổi thành câu khác như thế nào. Khái niệm
UG gợi ý rằng trong khi có những thuộc tính phổ quát trong tất cả những ngôn ngữ con người, nhưng những quy luật và những giá trị thay
đổi cụ thể vốn chi phối mỗi ngôn ngữ có thể biến đổi khác nhau, do đó dẫn đến sự đa dạng giàu có của những ngôn ngữ thấy trên thế giới. Hiểu một số khái niệm
và ý tưởng chính trong UG, sẽ giúp chúng
ta hiểu rõ hơn lý thuyết này:
Trước hết, Chomsky đưa lên rằng tất cả con người đều được sinh ra với một khả năng bẩm sinh để học và dùng ngôn ngữ. Chủ trương này đi ngược với quan điểm của những người theo thuyết hành vi trong việc tiếp thu ngôn ngữ, vốn họ cho rằng ngôn ngữ được học, qua việc điều kiện hóa và củng cố môi trường. Chomsky lập luận rằng những cấu trúc
và quy luật phức tạp của ngôn ngữ không thể chỉ được giải thích bằng loại tiến trình
học tập này, và rằng phải có một ngữ pháp phổ quát, bẩm sinh làm nền tảng cho mọi
ngôn ngữ con người.
Ngữ pháp phổ quát này gồm một set của những nguyên tắc và những giá trị thay đổi (parameter) vốn chúng được ‘cài
đặt gắn chặt’ trong bộ óc con người.
Những nguyên tắc là những quy luật cơ bản chi phối cấu trúc của ngôn ngữ, trong
khi những giá trị thay đổi là những đặt định cụ thể bên trong những quy luật đó
vốn khác nhau giữa những ngôn ngữ. Thí dụ, nguyên tắc cấu trúc cụm từ quy định rằng
tất cả những câu đều được tạo thành từ cụm danh từ và cụm động từ, trong khi giá
trị thay đổi về trật tự từ xác định chủ ngữ đứng trước hay đứng sau động từ.
Lý thuyết của Chomsky cũng liên quan đến một phân biệt giữa cấu trúc sâu và cấu trúc bề mặt. Cấu trúc sâu đề cập đến ý
nghĩa cơ bản của một câu, trong khi cấu trúc bề mặt đề cập đến cách câu được diễn
đạt thực sự. Những quy luật biến đổi vận hành trên cấu trúc sâu để sinh ra cấu
trúc bề mặt của câu. Điều này đem cho khả năng khiến tạo ra một số vô hạn của những
câu trong một ngôn ngữ.
Ngoài những khái niệm này, lý thuyết của Chomsky
cũng nêu lên ý tưởng
sự tiếp thu ngôn ngữ như một tiến trình của thử nghiệm giả thuyết. Trẻ em được cho
là phát triển một set những giả thuyết về cấu trúc của ngôn ngữ của chúng, dựa trên dữ liệu input chúng nhận từ môi trường.
Sau đó, chúng kiểm nghiệm những giả thuyết này dựa trên dữ liệu input mới,
qua đó dần bồi đắp tinh tế hơn sự hiểu biết của chúng về những quy luật và những giá trị thay đổi của ngôn
ngữ.
Tổng quát, ngữ pháp chuyển đổi-phát sinh trình
bày một lý thuyết ngôn ngữ phức tạp và có ảnh hưởng lớn rộng, có tác động rất quan trọng trong nghiên cứu ngôn ngữ và não thức con người. Lý thuyết này đã trải qua những
sửa đổi trong nhiều năm, và nó vẫn tiếp tục là một lý thuyết được nghiên cứu và tranh luận rộng rãi trong những lĩnh vực liên hệ. Tạm kể một số học giả nổi tiếng có đóng góp quan trọng trong thảo luận:
(a) Steven Pinker: nhà tâm lý học nhận thức, nhà ngôn ngữ học và tác giả khoa
học nổi tiếng. Ông đã viết một số sách có ảnh hưởng về ngôn ngữ, nhận thức và bản
chất con người, gồm The Language Instinct, How the Mind Work, The Blank Slate và Enlightenment Now. Pinker được biết
nhiều với những đóng góp của ông trong nghiên cứu tiến trình tiếp thu ngôn ngữ,
tâm lý học nhận thức, bản chất của suy nghĩ và hành vi con người. Ông thừa nhận vai trò của Chomsky trong việc định
hình sự nghiên cứu ngôn ngữ và nhận thức. Tuy nhiên, Pinker không đồng ý với một
số lý thuyết cốt lõi của
UG, đặc biệt sự nhấn mạnh của nó trên sự hiểu biết bẩm sinh về ngôn ngữ và coi nhẹ vai trò của kinh nghiệm trong sự tiếp thu ngôn ngữ. Những phê bình UG của Pinker đã dẫn đến một sự hiểu biết
đa dạng và nhiều ý nghĩa hơn về ngôn
ngữ và quan hệ của nó với não thức con người. Dưới đây là tóm tắt những phê bình
của ông:
(i) Thiếu bằng chứng thực nghiệm: Pinker lập luận rằng UG là một set giả định gồm những quy luật được cho là “cài mắc chặt”
trong bộ óc, nhưng không có bằng chứng rõ ràng về sự hiện hữu của những quy luật loại giống như thế. Thí dụ,
không có bằng chứng trực tiếp về những phạm trù hay nguyên tắc ngữ pháp bẩm sinh
trong bộ óc. Hơn nữa, khái niệm về sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích (the poverty of the stimulus), vốn là nguyên lý trung tâm của UG, không được hỗ trợ bởi bằng chứng thực
nghiệm. Đây là ý tưởng này cho rằng trẻ em không được tiếp xúc với đủ dữ liệu ngôn ngữ để học những quy
luật phức tạp của ngôn ngữ, và do đó phải có khả năng bẩm sinh để lấp đầy những
khoảng trống.
(ii) Tính đa dạng ngôn ngữ: Pinker lưu ý rằng phần lớn những ngôn ngữ trên thế giới
trưng bày sự biến đổi
và đa dạng đáng kể, vốn rất khó dung hòa với ý tưởng về một UG. Thí dụ: một số ngôn ngữ có trật tự
từ khác nhau, dùng những hệ thống thì (thời gian) khác nhau hay có cấu trúc câu khác với những ngôn ngữ khác.
(iii) Xem nhẹ kinh nghiệm: Pinker biện luận rằng UG không giải thích cách trẻ em học ngôn ngữ như thế nào, vì nó cho
rằng trẻ em chỉ đơn giản được sinh ra với
một set có sẵn gồm những quy luật đem cho khả năng khiến chúng tiếp thu bất kỳ ngôn ngữ nào. Pinker
lập luận rằng quan điểm này đã xcoi nhẹ vai trò quan trọng của kinh
nghiệm và tiếp xúc trong sự tiếp thu ngôn ngữ. Thí dụ, những nghiên cứu đã cho thấy rằng việc
tiếp thu ngôn ngữ của trẻ em chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố như số lượng và chất lượng dữ kiện input trẻ nhận được từ người chăm sóc, bối cảnh xã hội trng đó trẻ học và
mức độ tác động qua lại trẻ có với những người nói ngôn ngữ đó.
(iv) Thiếu linh hoạt: Pinker cho rằng UG không giải thích được việc dùng ngôn
ngữ một cách sáng tạo và linh hoạt. Con người có thể dùng ngôn ngữ theo những cách
mới lạ và sáng tạo, đồng thời điều chỉnh việc dùng ngôn ngữ của họ phù hợp với những
nội dung và hoàn cảnh
khác nhau. Điều này cho thấy ngôn ngữ không chỉ đơn giản là một set gồm những quy
luật có sẵn bẩm sinh t, nhưng là một hệ thống linh hoạt và năng động được những yếu tố xã hội và nhận thức hình thành.
Tông quát, những phê bình của Pinker
về UG cho thấy lý thuyết này không được hỗ trợ tốt bởi bằng chứng thực nghiệm và
nó bỏ qua bản chất phức tạp và năng động của việc dùng và tiếp thu ngôn ngữ. Trong
khi một số nhà ngôn ngữ học và nhà khoa học nhận thức tiếp tục ủng hộ những khía
cạnh của UG, những lời phê bình của Pinker đã dẫn đến sự hiểu biết đa dạng hơn và nhiều sắc thái hơn về ngôn ngữ và sự quan hệ của ngôn ngữ với não thức con người.
(b) Michael Tomasello: nhà tâm lý học phát triển, và ngôn ngữ học, người đã đưa
lên những lý thuyết thay thế về việc tiếp thu ngôn ngữ dựa trên những thành tố xã hội và văn hóa. Ông đã phê bình ý tưởng ngữ pháp phổ quát và lập luận
rằng nó không được chứng thực nghiệm thực nghiệm hỗ trợ Tomasello lập luận rằng
thay vì được sinh ra với ngữ pháp bẩm sinh, trẻ em học ngôn ngữ qua giao tieeps
xã hội và học hỏi văn hóa. Ông nêu ý rằng việc tiếp thu ngôn ngữ của trẻ em có từ ảnh hưởng của môi trường xã hội và ngôn ngữ của chúng, và những đặc điểm cụ thể của ngôn ngữ mẹ đẻ của chúng không được ấn định trước nhưng được kinh nghiệm của chúng định hình
Quan điểm của Tomasello được hỗ trợ bởi nghiên
cứu thực nghiệm trong tâm lý học phát triển và ngôn ngữ học. Thí dụ, những nghiên cứu đã cho thấy việc tiếp thu ngôn ngữ của trẻ em bị ảnh hưởng bởi việc chúng tiếp xúc với
ngôn ngữ bên ngoai và những cấu trúc ngữ pháp của những ngôn ngữ khác nhau có thể rất khác nhau. Ngoài ra, những nhà nghiên cứu đã tìm thấy rằng những loài linh trưởng không-người, chia sẻ nhiều khả năng nhận thức với con người, nhưng không sở hữu khả năng ngôn ngữ bẩm sinh như con người, điều này thách đố
ý tưởng về một ngữ pháp phổ quát.
(c) Mark Johnson: triết gia và nhà khoa học nhận thức, đã phê bình lý thuyết
UG của Chomsky, lập luận rằng UG dựa trên những giả định sai lầm về bản chất của kiến thức và não thức. Johnson
nêu ý rằng lý thuyết của Chomsky dựa
quá nhiều trên ý tưởng rằng
kiến thức là một set gồm những quy luật trừu tượng có thể được lưu trữ trong não hức giống như một program của cômputơ Ông nói rằng cái nhìn về kiến thức này bỏ
qua bản chất nội dung và chìm bên
trong nhận thức con người. Ông nói rằng não thức thì không chỉ
đơn giản là một ‘máy giải quyết chế biến’ thông tin thụ động, nhưng còn tích cực dự vào trong thế giới, liên tục tác động hỗ tương với môi trường và dung những hệ thống cảm
giác và vận động của nó để tạo ý nghĩa. Hơn nữa, Johnson phê bình quan điểm của Chomsky rằng ngôn ngữ là một mô-đun
tự trị của não thức hoạt động độc lập với những tiến trình nhận thức khác. Johnson
cho rằng ngôn ngữ được kết nối chặt chẽ với nhũng phương diện khác của nhận thức, gồm tri giác, hành động
và tương giao với xã hội. Theo Johnson,
ngôn ngữ không phải là một mô-đun tự trị của não thức, nhưng được tích hợp sâu sắc với những tiến trình nhận thức khác và được
những kinh nghiệm của
chúng ta trong thế giới định hình.
(d) Elizabeth Bates: nhà tâm lý học phát triển nổi tiếng, Bates lập luận rằng
UG không được bằng chứng thực nghiệm hỗ trợ và sự tiếp thu ngôn ngữ thì được giải thích
hay hơn bằng những yếu tố xã
hội và nhận thức. Một trong phê binh chính của Bates về UG là nó là một cấu trúc lý thuyết thiếu hỗ trợ thực nghiệm.
Bates lập luận rằng bằng chứng cho UG chủ yếu đến từ những nghiên cứu
của người lớn nói một tiếng mẹ đẻ, không phải từ những nghiên cứu về việc tiếp thu ngôn ngữ của trẻ em. Bà
cũng cho thấy rằng phần
lớn những ngôn ngữ trên thế giới chưa được nghiên cứu chuyên sâu, điều này đặt ra
những câu hỏi về tính khái quát hóa của UG. Một phê bình khác của Bates là UG không tính đến sự đa dạng của ngôn ngữ
và cách thức trong đó trẻ em học
chúng. Bà lập luận rằng trẻ em tiếp xúc với nhiều loại cấu trúc ngôn ngữ và việc
tiếp thu ngôn ngữ của chúng được hình thành bởi những yếu tố nhận thức và xã hội,
chẳng hạn như sự chú ý, trí nhớ, động lực và tác động hỗ tương với người nuôi dạy, chăm sóc.
Bates cũng nêu lên rằng trẻ em là những người học tập tích cực, dùng cách học dự trên thống kê và
những phương lược nhận thức khác để tìm ra những quy luật trong ngôn ngữ chúng tiếp xúc.
Quan điểm khác của Bates cho rằng việc tiếp thu
ngôn ngữ là một tiến trình phức tạp và nhiều mặt liên quan đến tác động qua lại của nhiều
yếu tố nhận thức và xã hội. Bà nói rằng sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em chịu ảnh hưởng của khả năng nhận thức, vận động và nhận thức cũng như môi trường xã hội và văn
hóa của chúng. Bates cũng nhấn mạnh sự quan trọng của nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ giữa những nhóm dân cư và
ngôn ngữ khác nhau để hiểu rõ hơn về tiến trình này. Tổng quát, những phê bình của Bates về UG phản ảnh một thay đổi rộng lớn hơn trong lĩnh vực tâm lý phát triển ngôn ngữ học hướng
tới một cái nhìn nhiều sắc thái và nhiều yếu tố hơn về sự tiếp thu ngôn ngữ. Mặc dù UG vẫn là một khái niệm có ảnh hưởng lớn trong ngôn ngữ học, ngày nay nhiều nhà nghiên cứu đã nhận ra sự quan trọng của việc xem xét những yếu tố nhận thức và xã hội trong việc tìm hiểu cách thức trẻ em học ngôn ngữ.
(e) Morten Christiansen: nhà khoa học nhận thức và giáo sư tâm lý học tại Đại
học Cornell, Christianen cũng lập luận rằng UG không được bằng chứng từ nghiên cứu về việc tiếp thu ngôn
ngữ hỗ trợ. Ông cho rằng trẻ em tiếp thu ngôn ngữ qua một tiến trình học tập dựa trên thống kê,
trong đó chúng xác định những mẫu thức trong input chúng nhận được từ môi trường của chúng, thay vì dựa vào một set những nguyên tắc
bẩm sinh. Ông cũng nêu rằng ngôn ngữ có thể đã phát triển qua một tiến trình tiến hóa văn hóa,
không phải bẩm sinh. Ông đã đưa lên những lý thuyết thay thế về việc tiếp thu ngôn ngữ dựa trên thống kê, và lập luận rằng chúng
có thể giải thích nhiều hiện tượng được gán cho UG. Trong The Biolinguistic Enterprise: New Perspectives on the Evolution
and Nature of the Human Language Faculty, cùng viết với Nick Chater,
Christiansen lập luận rằng UG không là một khái niệm tất yếu hay có ích cho sư hiểu biết tiến trình tiếp thu hay tiến hóa ngôn ngữ. Thay vào đó, chúng đề nghị rằng ngôn
ngữ là một tạo tác văn hóa xuất hiện từ tác động hỗ tương giữa những cá nhân và môi trường của họ.Nhìn chung, những phê binh của Christiansen
về UG thách đố một số những giả định nền tảng của lĩnh vực ngôn ngữ học và đã gây ra tranh luận và thảo luận giữa những nhà ngôn ngữ học và những nhà khoa học nhận thức.
Vắn tắt, lý thuyết ngôn ngữ của Chomsky
vẫn bị thách đố vì nó chủ yếu dựa vào trực giác và nội quan, có thể không tính đến
sự đa dạng của ngôn ngữ, thiếu tính liên tục và bị thách đố bởi những lý thuyết
ngôn ngữ thay thế vốn nêu lên những phương sách khác nhau cho sự tiếp thu và dùng
ngôn ngữ. Có thể kể một số lý do chinh sau:
(a) Bằng chứng thực nghiệm: Một số nhà ngôn ngữ học biện luận rằng lý thuyết
của Chomsky dựa quá nhiều vào nội quan và trực giác, hơn là bằng chứng thực nghiệm.
Họ cho rằng những lý thuyết của Chomsky đều không được đủ dữ liệu thực nghiệm hỗ
trợ, và rằng những tuyên bố của ông thường không kiểm chứng được hay không thể chứng
minh là sai được.
(b) Tính đa dạng của ngôn ngữ: Lý thuyết của Chomsky chủ yếu dựa trên cấu trúc
của tiếng England, một ngôn ngữ có tính phân tích cao với một ngữ pháp tương đối
đơn giản so với nhiều ngôn ngữ khác. Những nhà phê bình cho rằng lý thuyết của ông
không giải thích sự đa dạng của ngôn ngữ và phạm vi rộng lớn của những cấu trúc
ngữ pháp được tìm thấy trong những ngôn ngữ khác nhau.
(c) Thiếu tính liên tục: Lý thuyết của Chomsky đã trải qua một số sửa đổi quan
trọng trong những năm qua, và một số nhà phê bình cho rằng sự thiếu liên tục này
làm suy yếu tính nhất quán và giá trị tổng thể của lý thuyết.
(d) Những lý thuyết thay thế: Có những lý thuyết thay thế về ngôn ngữ, chẳng
hạn như ngôn ngữ học nhận thức và dựa trên-việc-dùng, vốn lập luận rằng ngôn ngữ không dựa trên một set gồm những quy luật
bẩm sinh, mà dựa trên những kiểu thức dùng và kinh nghiệm. Những lý thuyết này thách
đố khái niệm về một “phương sách thu nhận ngôn ngữ” hay “ngữ pháp phổ quát” Chomsky
đưa ra.
[14] [Ferdinand de Saussure, Course
in General Linguistics (1916; repr., New York: Philosophical Library, 1959),
13–14; Leonard Bloomfield, “Philosophical Aspects of Language” (1942), trong A
Leonard Bloomfield Anthology, ed. Charles F. Hockett (Bloomington: Indiana University
Press, 1970), 267–70; Bloomfield, A Set of Postulates for the Science of Language
(Indianapolis: Bobbs-Merrill, 1926); Bloomfield, “A Set of Postulates for the Science
of Language”, Language 2, số 3 (1926): 153–64; William Dwight Whitney, The
Life and Growth of Language: An Outline of Linguistic Science (London: King,
1875); Edward Sapir, Language: An Introduction to the Study of Speech (New
York: Harcourt, Brace, 1921), 8.]
[15] Ferdinand de Saussure (1857–1913): người Switzerland,
sáng lập ngôn
ngữ học và ký hiệu học hiện đại, đồng thời đặt nền móng cho chủ nghĩa cấu trúc và
chủ nghĩa hậu cấu trúc. Lý thuyết của Saussure được coi như đề xướng tư tưởng “ngôn
ngữ không phản ánh thực tại nhưng đúng hơn là tạo dựng nó” vì chúng ta không chỉ
dùng ngôn ngữ hay gán ý nghĩa cho bất cứ sự vật việc gì là-có trong thế giới thực
tại, nhưng cũng cho bất cứ bất cứ sự vật việc gì không là-có trong đó. Saussure cho rằng ngôn ngữ phải được coi là một hiện
tượng xã hội, một hệ thống có cấu trúc có thể được xem xét đồng thời (synchronically – như nó ở một điểm cụ thể
bất kỳ nào trong thời gian) và khác thời (diachronically – như nó thay đổi theo thời gian). Đóng góp chính của Saussure cho thuyết cấu trúc là lý thuyết của ông về thực tại hai tầng (two-tiered reality)
về ngôn ngữ. Ông phân biệt ngôn ngữ (langue),
với lời nói (parole). Ngôn ngữ là lớp trừu tượng và vô hình, trong khi
Lời nói, lớp thứ
hai, là những gì cụ thể chúng ta nhận, nghe được trong đời sống thực tại. Saussure là một trong những nhà ngôn ngữ
học tiên phong đã nghiên cứu sâu về ký hiệu ngôn ngữ và những yếu tố liên quan với
sự truyền thông con người. Ông mô tả ký hiệu và quan hệ tùy tiện của nó với thực tại. Ký hiệu ngôn ngữ không là liên hệ giữa
sự vật việc và tên gọi, nhưng là liên hệ
giữa khái niệm và mô hình âm thanh của nó (le signifié
và le signifiant). Trong lịch sử ngôn ngữ học, cách dễ dàng nhận hiểu
của Saussure, như minh họa trong Cours de linguistique générale (1916) thường được cho là đã phản lại hai quan điểm đương thới có ảnh hưởng về ngôn ngữ. Quan điểm
đầu tiên được những nhà ngữ học Port-Royal,
thành lập vào năm 1660. Arnauld và
Lancelot trong Grammaire générale et raisonnée, ngôn ngữ được coi như một tấm gương soi của những suy tưởng, và dựa trên một lôgích phổ quát. Với Ngữ Pháp Port-Royal (The Port-Royal Grammar), ngôn ngữ về cơ bản là duy lý. Quan điểm thứ hai, là của ngôn
ngữ học thế kỷ 19, trong đó lịch sử của một ngôn ngữ cụ thể được coi như để giải thích tình trạng hiện tại của
ngôn ngữ đó. Trong trường hợp thứ hai, Sanskrit, ngôn ngữ thiêng liêng của India thời cổ, được cho là ngôn ngữ cổ nhất, cũng được cho là có chức năng
như một liên kết, đã kết nối giữa
tất cả những ngôn ngữ Ấn-Âu, như thế khiến cuối
cùng, ngôn ngữ và lịch sử của ngôn ngữ
sẽ thành một. Cách dễ dàng
nhận hiểu lịch sử với ngôn ngữ và, ở một mức độ thấp hơn, cách dễ dàng nhận hiểu
duy lý, giả định rằng ngôn ngữ về cơ bản là một tiến trình đặt tên – gắn những từ với những sự vật việc , cho dù chúng là tưởng
tượng hay không – và rằng có một loại liên kết nội tại nào đó giữa tên gọi và đối tượng của nó. Tại sao một tên
gọi cụ thể lại được gắn với một đối tượng hay ý tưởng cụ thể, người ta tin rằng, có thể được xác định về lịch sử – hay ngay là về thời tiền
sử. Càng đi ngược dòng lịch sử, người ta cho rằng càng đi đến một xảy ra trùng hợp giữa tên gọi và đối tượng của nó. Như Saussure
đã nói, một quan điểm như vậy giả định rằng ngôn ngữ về cơ bản là một việc nghĩ ra
hay lựa chọn tên gọi cho những sự vật việc (nomenclature = the assigning of names/
danh pháp): một set của những tên
gọi cho những đối tượng và ý tưởng. Trong Những
bài giảng về ngôn ngữ học tổng quát nói trên, Saussure coi ngôn ngữ như một
hệ thống của những ký hiệu được xây dựng theo quy ước.
Lý thuyết của Chomsky, ngữ pháp
phát sinh ,
nhấn mạnh khả năng bẩm sinh của con người để tiếp
thu ngôn ngữ. Theo Chomsky, bộ óc con người được ‘mắc dây cài đặt’ sẵn để học ngôn ngữ
và tất cả những ngôn ngữ của con người đều có chung một cấu trúc tiềm ẩn cơ
bản. Chomsky lập luận rằng trẻ em học ngôn ngữ qua một tiến trình của sự tiếp
thu ngôn ngữ bẩm
sinh, được hỗ trợ bởi một ngữ pháp phổ quát vốn được kết dựng sẵn
trong bộ óc người.
Mặt khác, lý thuyết của Saussure, được gọi
là ngôn ngữ học cấu trúc, quan tâm với những quan hệ giữa những dấu hiệu và ý nghĩa của chúng. Saussure
lập luận rằng ngôn ngữ là một hệ thống những dấu hiệu và rằng ý nghĩa được xác định bởi những quan hệ giữa những dấu hiệu này. Lý thuyết của Saussure tập
trung vào phân tích đồng đại của ngôn ngữ, tức là cách ngôn ngữ được dùng tại một
thời điểm nhất định, hơn là sự phát triển lịch sử của nó. Những khác biệt chủ yếu Chomsky
và Saussure:
(i) Chomsky
cho rằng ngôn ngữ là một gì vốn chúng ta sinh ra đã có và tất cả những ngôn ngữ
đều có một số điểm chung. Saussure cho rằng ngôn ngữ là một gì vốn chúng ta học
được từ người khác và mỗi ngôn ngữ đều có những quy luật và ký hiệu riêng.
(ii) Chomsky
tạo một sự
khác biệt giữa những gì chúng ta biết về ngôn ngữ và những gì chúng ta làm với ngôn
ngữ. Ông gọi điều thứ nhất là năng lực (về lý thuyết) của một người, và điều thứ hai là hiệu
năng (về thực hành) của một người.
Saussure cũng tạo một sự
khác biệt giữa hai phương diện của ngôn ngữ. Ông gọi gọi điều thứ nhất là ‘langue’ và
thứ hai là ‘parole’.
Langue là hệ thống những quy luật và ký hiệu tạo nên một ngôn ngữ. Parole
là cách chúng ta dùng ngôn ngữ để thông tin với người khác.
(iii) Chomsky
có một lý thuyết giải thích cách chúng ta có thể tạo và hiểu những câu trong bất
kỳ ngôn ngữ nào. Ông nói rằng chúng ta có một set gồm những quy
luật trong
đầu để có thể kết hợp những từ theo những cách khác nhau để tạo thành câu mới. Ông
gọi lý thuyết này là ngữ pháp phổ quát. Saussure cũng có một lý thuyết mô
tả cách hoạt động của ngôn ngữ. Ông nói rằng ngôn ngữ được tạo thành từ những dấu
hiệu có hai phần: âm thanh hay hình dạng (signifiant) và ý nghĩa (signifié).
Ông gọi lý thuyết này là ngữ pháp cấu trúc.
(iv) Chomsky
tin rằng ngôn ngữ là phần của bộ óc chúng ta và nó khác với những loài động vật
khác. Ông nói rằng ngôn ngữ là một sự vật việc về sinh học vốn chúng ta có thể
nghiên cứu một cách khoa học. Saussure tin rằng ngôn ngữ là phần của văn hóa của
chúng ta và nó thay đổi theo thời gian và địa điểm. Ông nói rằng ngôn ngữ là một
sự vật việc xã hội vốn chúng ta có thể nghiên cứu bằng cách xem cách mọi người dùng
nó.
(v) Chomsky
nghiên cứu ngôn ngữ bằng cách xem xét cách những từ được ghép lại với nhau để tạo
thành câu và cách những câu diễn đạt ý nghĩa. Ông gọi những phần này là cú pháp
ngôn ngữ và ngữ nghĩa. Saussure nghiên cứu ngôn ngữ bằng cách xem xét cách âm thanh
hay hình dạng được dùng để tạo nên từ và cách từ có ý nghĩa. Ông gọi những phần
này là âm vị học và hình thái học của ngôn ngữ.
(vi) Chomsky
có cách suy nghĩ về ngôn ngữ dựa trên lôgíchh và lý trí. Ông cho rằng chúng ta có
thể khám phá ra sự thật về ngôn ngữ bằng cách dùng trí óc và những thí nghiệm của
chúng ta. Ông theo một lối suy nghĩ gọi là chủ nghĩa
tinh thần và chủ nghĩa duy lý. Saussure có cách suy nghĩ về ngôn ngữ dựa trên sự
kiện và bằng chứng. Ông nghĩ rằng chúng ta có thể học về ngôn ngữ bằng cách quan
sát những gì mọi người nói và viết. Ông theo một lối suy nghĩ gọi là chủ nghĩa thực
chứng và chủ nghĩa kinh nghiệm.
(vii) Ngôn
ngữ-E và Ngôn ngữ-I là hai thuật ngữ vốn Chomsky dùng để nói về hai phương diện
của ngôn ngữ. Ngôn ngữ-E là phương diện của ngôn ngữ vốn chúng ta có thể thấy và
nghe khi mọi người nói hay viết. Đó là kết quả của việc dùng Ngôn ngữ-I. Ngôn ngữ-I
là phương diện của ngôn ngữ vốn chúng ta có trong đầu và chúng ta dùng để tạo và
hiểu những câu. Đó là những gì chúng ta nghiên cứu khi chúng ta nghiên cứu ngữ pháp
phổ quát.
(vii) ‘Langue’
và ‘parole’ là hai thuật ngữ vốn Saussure dùng để nói về hai phương diện của ngôn
ngữ. ‘Langue’ là phương diện của ngôn ngữ là hệ thống những quy luật và ký hiệu
tạo nên một ngôn ngữ. Đó là những gì chúng ta nghiên cứu khi chúng ta nghiên cứu
ngữ pháp cấu trúc. ‘Parole’ là phương diện của ngôn ngữ là cách chúng ta dùng ngôn
ngữ để thông tin với người khác. Nó phụ thuộc vào nhiều sự việc như
ý định, hoàn cảnh, phong cách và sự sáng tạo của chúng ta.
(viii) Parole và Ngôn ngữ-E giống nhau vì cả hai đều
nói về cách chúng ta dùng ngôn ngữ để thông tin với người khác, nhưng không về hệ thống những quy luật và ký
hiệu tạo nên một ngôn ngữ. Nhưng chúng khác nhau vì parole và Ngôn ngữ-E không giống
như ngôn ngữ và Ngôn ngữ-I, nhưng chúng là kết quả của việc dùng chúng. Ngoài ra,
parole và Ngôn ngữ-E có những tác động khác nhau với cách chúng ta học ngôn ngữ
so với ngôn ngữ và Ngôn ngữ-I.
(j) Langue
và Ngôn ngữ-I giống nhau vì cả hai đều nói về hệ thống những quy luật và ký hiệu
tạo nên một ngôn ngữ chứ không nói về cách chúng ta dùng ngôn ngữ để thông tin với
người khác. Nhưng chúng khác nhau vì ngôn ngữ và Ngôn ngữ-I không phải là phần của
những dấu
hiệu, nhưng chúng
là những phương diện toàn bộ của ngôn ngữ. Ngoài
ra, langue và Ngôn ngữ-I có những tác động khác nhau với cách chúng ta học ngôn
ngữ so với parole và Ngôn ngữ-E.
‘le signifié’ và ‘le signifiant’
không giống với Ngôn ngữ-E và Ngôn ngữ-I. ‘Le signifié’ và ‘le signifiant’ là những
thuật ngữ vốn Saussure dùng để chỉ hai thành phần của một dấu hiệu ngôn ngữ: khái
niệm hay ý nghĩa (signifié) và âm thanh hay hình thức (signifiant). Một dấu hiệu
ngôn ngữ là sự kết hợp của một dấu hiệu và một dấu hiệu tùy tiện, và
qui ước trong một ngôn ngữ. Thí dụ,
từ ‘cat/mèo’
là một ký hiệu ngôn ngữ gồm khái niệm về một con vật nhỏ có lông (signifié) và âm
/kæt/ hay dạng viết mèo (signifiant). ‘Le signifié’ và ‘le signifiant’ là
một phần trong cách dễ dàng nhận hiểu ngôn ngữ học theo chủ nghĩa cấu trúc của Saussure,
vốn phân tích ngôn ngữ như một hệ thống những dấu hiệu có hình thức và ý nghĩa.
Ngôn ngữ-E và Ngôn ngữ-I là những thuật ngữ vốn Chomsky dùng để chỉ hai phương diện
của ngôn ngữ: phương diện được ngoại hiện và quan sát được (Ngôn ngữ-E) và phương
diện được nội quan hóa
và tâm lý (Ngôn ngữ-I). Ngôn ngữ-E
là output của Ngôn ngữ-I, là kiến thức và năng lực ngôn ngữ của người nói. Ngôn
ngữ-E và Ngôn ngữ-I là một phần trong cách dễ dàng nhận hiểu tổng quát của Chomsky
với ngôn ngữ học, phân tích ngôn ngữ như một hiện tượng sinh học là một phần của
não thức/bộ óc con người. Ngôn ngữ-E và Ngôn ngữ-I không liên quan trực tiếp đến
‘le signifié’ và ‘le signifiant’, nhưng chúng có thể được so sánh theo một số cách.
Thí dụ, người ta có thể nói rằng Ngôn ngữ-E tương ứng với ‘le signifiant’, vì cả
hai đều đề cập đến hình thức bên ngoài của ngôn ngữ. Tương tự, người ta có thể nói
rằng Ngôn ngữ-I tương ứng với ‘le signifié’, vì cả hai đều đề cập đến nội hàm của
ngôn ngữ. Tuy nhiên, những so sánh này không chính xác, vì Ngôn ngữ-E và Ngôn ngữ-I
không phải là thành phần của dấu hiệu ngôn ngữ, vốn là những phương diện của ngôn
ngữ nói chung. Ngoài ra, Ngôn ngữ-E và Ngôn ngữ-I có ý nghĩa lý thuyết và thực nghiệm
khác với ‘le signifié’ và ‘le signifiant’.
William Dwight Whitney, (1827 – 1894): nhà ngôn ngữ
học người US và là một trong những học giả Sanskrit lỗi lạc nhất thời bấy giờ, đặc
biệt được chú ý nhờ công trình cổ điển của ông, Ngữ pháp Sanskrit (1879).
Franz Boas (1858-1942): Một trong những người sáng lập ngành
nhân chủng học US. Kinh nghiệm
sống của ông giữa những người Eskimo và người Kwakiutl ở vùng Bờ biển Tây Bắc nước US, đã lôi
quyển ông vào nghiên cứu
ngôn ngữ. Ông lập luận rằng người ta không thể
thực sự hiểu một văn hóa khác, nếu không trực tiếp đi sâu vào ngôn ngữ của nó. Ông nhấn mạnh, nhu cầu nghiên cứu
ngôn ngữ như vậy không chỉ là một nhu cầu thực tiễn, nhưng còn là một nhu
cầu lý thuyết, do sự liên hệ mật
thiết giữa văn hóa và ngôn ngữ:
“Trong tất cả những chủ đề được nhắc đến từ trước đến
nay, một kiến thức
về ngôn ngữ của những người bản địa America,
dùng như một bổ sung quan
trọng cho sự hiểu biết đầy đủ của những phong tục và những tín ngưỡng
của dân tộc vốn chúng ta đang nghiên cứu. Nhưng trong tất cả những trường
hợp này, dịch vụ vốn ngôn ngữ thêm vào cho chúng
ta trước hết là một dịch vụ thực tiễn – một phương tiện đi đến một hiểu biết rõ ràng hơn của những hiện tượng
dân tộc học vốn trong tự thân chúng
không có liên quan
gì vói những vấn đề ngôn ngữ ... Tuy nhiên, có vẻ rằng một nghiên cứu lý thuyết ngôn ngữ của những dân bản địa thì không kém
phần quan trọng so với một kiến thức
thực tiễn của chúng; rằng thuần túy điều tra ngôn ngữ là một phần
không thể thiếu của điều tra kỹ lưỡng của tâm lý của
những dân tộc trên thế giới. Nếu dân tộc
học được hiểu như khoa học giải quyết nghiên cứu
những hiện tượng tinh thần của đời sống của những dân tộc trên thế giới, thì ngôn ngữ loài người, một
trong những biểu hiện quan trọng nhất của đời sống tinh thần, sẽ như tự nhiên thuộc
lĩnh vực công việc của dân tộc học”.
Edward Sapir (1884-1939.): một trong những nhà ngôn ngữ học và nhân chủng học America hàng đầu, trong
thời của ông. Sapir nổi tiếng do những đóng góp của ông trong nghiên cứu những ngôn
ngữ của người bản địa Bắc America. Là người sáng lập ngôn ngữ học dân tộc học (ethnolinguistics),
nghiên cứu tương quan hệ của văn hóa và ngôn ngữ, Sapir cũng là người phát triển
chính của trường ngôn ngữ học cấu trúc (mô tả) của US. Ông từng là sinh viên của
Boas ở Columbia.
Sapir lập luận rằng ngôn ngữ
không tĩnh nhưng động, nó thay đổi liên tục. Sapir gọi sự thay đổi đó là sự
“Trôi dạt ngôn ngữ”( Language Drift). Một phần của ngôn ngữ thay đổi nhanh chóng trong khi một
phần khác chậm hơn nhiều. Khi thực tại thay đổi, ngôn ngữ cũng thay đổi. Ngược lại,
do ngôn ngữ thay đổi nên thực tại cũng thay đổi theo. Chúng ta nghĩ, nghe, nhìn
và cư xử qua ngôn ngữ của mình. Ngôn ngữ phục vụ như một ‘sàng lọc’ nhất định,
qua đó chúng ta kinh nghiệm và giải thích thực tại. Mỗi văn hóa đều có ngôn ngữ
riêng của nó, hay một set gồm những sàng lọc’, qua đó nó đặt đinh sẵn những đưa
dẫn những thành viên của nó đến với những loại kinh nghiệm và suy nghĩ nhất định.
Không có ngôn ngữ, thật khó để tưởng tượng đời sống con người. Một số những ý tưởng
của Sapir về ảnh hưởng của ngôn ngữ với những cách thức trong đó người ta suy nghĩ
đã được Benjamin Whorf tiếp nhận và mở rộng, Sự phát triển của những ý tưởng này
của Whorf sau này được gọi là “Giả thuyết Sapir-Whorf” và đã đặt nền móng phát triển
cho ngành ngôn ngữ học dân tộc.
Leonard Bloomfield (1887 – 1949): nhà ngôn ngữ
học người US, người có ảnh hưởng chi phối sự phát triển của ngôn ngữ học cấu trúc
ở US những năm 1930 -1950. Ông đặc biệt được biết đến với Language
(1933), một công trình có ảnh hưởng
lớn đến tiến trình tiếp
theo của ngôn ngữ học ở US, trong nửa
đầu thế kỷ 20. Công việc của ông đã giúp thiết lập ngôn ngữ học như một ngành khoa
học độc lập.
1.
Trong Language (1933), Bloomfield lập luận rằng ngôn ngữ học cần phải khách
quan hơn nếu nó trở thành một khoa học thực sự. Ông tin rằng mục tiêu chính của
tìm hiểu ngôn ngữ nên là những hiện tượng có thể quan sát được, hơn là những tiến
trình nhận thức trừu tượng. Tránh những tiến trình nhận thức và những tiến trình không quan sát được khác, Bloomfield đã áp dụng
những nguyên tắc của thuyết hành vi trong tâm lý học vào lĩnh vực ngôn ngữ, bác bỏ cái nhìn rằng cấu trúc
của ngôn ngữ phản ánh cấu trúc của tư tưởng. (Thuyết hành vi trong tâm lý học
dựa trên chủ trương rằng hành vi, của con người cũng như loài vật, có thể được nghiên
cứu một cách khoa học và hiểu được nhưng không cần viện dẫn những trạng thái tinh
thần bên trong. Ba nhân vật chính đã dẫn đến sự phát triển của phương pháp này:
Ivan Pavlov, John B. Watson và B.F. Skinner) Thế nên, ông ủng
hộ việc thiết lập những phương pháp mô tả chính xác thông qua đó cách dùng ngôn
ngữ học có thể được nâng lên mức độ của một ngành học tích cực. Để tách ngôn ngữ học khỏi bất kỳ lý thuyết tâm lý học nào,
Trong tác phẩm của mình, Bloomfield đã áp dụng khái
niệm cấu trúc ngôn ngữ từ Ferdinand de Saussure. Tương tự như Saussure, Bloomfield
chủ trương rằng những
ngôn ngữ ở mọi thời đại đều gồm những hệ thống của những yếu tố có tương quan với nhau: từ vựng, ngữ pháp và âm vị học. Bloomfield
cũng tiếp nhận sự phân biệt của Saussure
giữa cách dễ dàng nhận hiểu “đồng thời” (trong đó thời gian là một biến số) và cách
dễ dàng nhận hiểu “khác thời” (trong đó thời gian là một hằng số). Bloomfield chú tâm đến cả hai, lập luận rằng ngôn ngữ thay đổi qua tiến trình lịch sử, cũng như tại một thời điểm cụ thể. Bloomfield đã bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng cấu
trúc của ngôn ngữ phản ánh cấu trúc của suy tưởng. Ông tin rằng ngôn ngữ nói là
đối tượng duy nhất của nghiên cứu
và áp dụng những tiến trình phân tích khác nhau để nghiên cứu ngôn ngữ. Ông cho
thấy cách phân tích
ngôn ngữ nói bằng chia nó thành những đơn vị nhỏ nhất – những âm vị
(phonemes), những hình thái
(morphemes) và những kết hợp của những đơn vị đó tạo thành những cấu trúc từ
vựng cao hơn.Bloomfield cũng nhấn mạnh rằng những nhà ngôn ngữ học cần nghiên cứu
ngôn ngữ nói hơn là ngôn ngữ viết (qua những tài liệu viết trong một ngôn ngữ), vì ngôn
ngữ thay đổi theo thời gian và nghĩa của một gì ngày nay có thể khác với những gì nó có nghĩa trong
quá khứ. Do đó, những tài liệu viết không thể
là đại diện đầy đủ của một ngôn ngữ nói. Mặc dù cách
giải quyết của ông đã
thiết lập ngôn ngữ học như một bộ môn khoa học, nhưng việc ông tách biệt những hiện
tượng ngôn ngữ khỏi môi trường xã hội và tinh thần không-ngôn ngữ của chúng là một sự giới hạn nghiêm
trọng, vì con người là những sinh vật xã hội và ngôn ngữ là một dụng cụ thiết yếu.của truyền thông.
2.
Noam Chomsky và Leonard Bloomfield có một số
điểm tương đồng giữa những lý thuyết ngôn ngữ của họ, nhưng cũng có những khác biệt
đáng chú ý.
Tương đồng: Cả Chomsky và Bloomfield đều gắn liền
với truyền thống cấu trúc luận trong ngôn ngữ học. Cả hai đều tin rằng việc nghiên cứu ngôn
ngữ nên dựa trên quan sát thực nghiệm và phân tích dữ liệu. Cả hai đều bác bỏ ý tưởng về những ý tưởng
hay khái niệm bẩm sinh có trong não thức khi mới sinh quyết định việc tiếp thu ngôn
ngữ. Cả
hai đều tin rằng ngôn ngữ là một hệ thống những quy luật có thể được mô tả và phân
tích.
Khác biệt: Lý thuyết ngôn ngữ của Chomsky, UG , tập trung vào nghiên cứu não thức con
người và tiếp thu ngôn ngữ. Bloomfield,
ngược lại, tập trung nhiều hơn vào việc mô tả và phân tích cấu trúc ngôn ngữ. Chomsky tin rằng ngôn ngữ là một khả năng
bẩm sinh của não thức con người, trong khi Bloomfield coi nó là một hiện tượng văn
hóa. Lý
thuyết của Chomsky nêu lên rằng cấu trúc của ngôn ngữ dựa trên một set những quy
luật hay nguyên tắc phổ quát, bẩm sinh với não thức con người. Bloomfield, ngược
lại, tin rằng cấu trúc ngôn ngữ dựa trên sự phân bổ những yếu tố ngôn ngữ và sự
kết hợp của chúng. Lý
thuyết của Chomsky nhấn mạnh trên sự quan trọng của cú pháp trong
cấu trúc ngôn ngữ, trong khi lý thuyết của Bloomfield tập trung nhiều hơn vào âm
vị học và hình thái học của ngôn ngữ. Lý thuyết của Chomsky cho rằng ngôn ngữ gồm một set những mức độ gián đoạn rời
rạc và có sự vật thứ bậc, trong khi lý thuyết của Bloomfield coi ngôn ngữ là một
hệ thống liên tục và liên kết với nhau.
Tổng quát, Chomsky
và Bloomfield cùng có chung một số điểm trong cách dễ dàng nhận hiểu với nghiên cứu ngôn ngữ, nhưng lý thuyết khác nhau trong những giả
định, trọng tâm và phạm vi.
[16] [Martin Joos, bình
luận trong Readings in Linguistics: The Development of Descriptive Linguistics
in America Since 1925 , ed. Martin Joos (Washington, D.C.: American Council
of Learned Societies, 1958).]
[17] [Zellig Harris, Methods in Structural
Linguistics (Chicago:University of Chicago Press, 1951).]
[18] [Một sự thụt lùi, Tôi nghĩ thế,
vì nó lẫn lộn những ý niệm khác biệt nền tảng: năng lực và hiệu năng làm việc –
đại khái là những gì chúng ta biết và những gì chúng ta làm – không giống như hệ
thống của Harris, vốn không có điều đó.]
= Những lý thuyết
ngôn ngữ cung cấp những khung nền và mô hình nhằm mô tả và giải thích cấu trúc,
ý nghĩa và cách dùng ngôn ngữ.
[19] [Dan Dediu và Stephen C. Levinson,
“On the Antiquity of Language: The Reinterpretation of Neandertal Linguistic Capacities
and Its Consequences”, Frontiers in Psychology 4, số 397 (2013): 1–17, doi:10.3389/fpsyg.2013.00397.]
[20] phenotype
[21] map/mapping: vẫn
dịch là ánh xạ (toán) , tôi muốn dùng ‘ghép kết nối’ – theo ý trong định nghĩ của
mapping [Một cách kết nối nhũng đối tượng duy nhất đến mọi điểm trong một set nhất
định đã cho . Hàm số f:A|->B từ A sang B là một hàm số f, sao cho mỗi a trong
A , chỉ có một đối số f(a) trong B)].
[22] [Galileo Galilei,
Dialogue Concerning the Two Chief World Systems (1632), end of “The First
Day”.]
[23] [Cho những tham
khảo và thảo luận, xem Noam Chomsky, Cartesian Linguistics: A Chapter in the
History of Rationalist Thought, 3rd ed., ed., với lời giớ thiệu, James McGilvray
(Cambridge: Cambridge University Press, 2009).]
[24] Turing Test (Thử nghiệm
Turing) nổi tiếng ngày nay, là tên gọi sau này của ‘trò chơi bắt chước’ (the
imitation game) Turing đưa ra trong bài viết “Computing Machinery and Intelligence”,
Mind, 1950). Bài viết cân nhắc trên câu hỏi ‘những máy móc có thể suy
nghĩ hay không?, suy ngẫm rất nhiều trên sự khó khăn trong việc trả lời câu
hỏi này, qua tính hàm hồ trong những từ ‘máy móc’ và ‘suy nghĩ’. Turing đưa lên
ý tưởng thay thế sự suy nghĩ hay trí thông minh của con người bằng sự bắt chước.
Ông đưa ra “trò chơi bắt chước”, trong đó một người sẽ được yêu cầu đối thoại qua
máy viễn ký với hai đối tượng ẩn sau những cửa đóng kín. Đối tượng thứ nhất là
một người khác, đối tượng thứ hai là một máy computer. Mỗi bên cố gắng thuyết phục
người khách quan phán xét rằng mình thực sự là một con người. Như thế, có trí
thông minh là có hành động như một con người hơn là có một bộ óc hoạt động như một
con người. Hoặc, thậm chí đúng hơn, trí thông minh – bất kể đó là gì, một gì
vốn diễn ra bên trong một con người hay một bộ máy – là một đề tài trò chuyện kém
thú vị và hữu hiệu hơn so với tác động của một tiến trình loại giống như vậy,
Chomsky lập luận rằng thử nghiệm Turing, vốn thử nghiệm khả năng thể hiện hành vi thông minh của một cỗ máy xem nếu không thể
phân biệt được với hành vi của con người, thì không là một thước đo đầy
đủ về trí thông minh hay sự hiểu biết
thực sự. Theo Chomsky,
thử nghiệm Turing chỉ tập trung vào hành vi mặt ngoài của một cỗ máy trong
việc bắt chước những phản ứng của
con người, nhưng không xem
xét những cơ năng hiểu biết và sáng tạo sâu hơn. Ông lập luận rằng trí
thông minh thực gồm trạng thái
tinh thần phong phú bên trong vốn máy móc hiện
đang thiếu. Chomsky đặt
câu hỏi về giá trị thực của thử nghiệm Turing vì ông tin rằng nó không nắm bắt được yếu tính của thông minh con người, vốn gồm nhiều hơn những hành vi bắt
chước bên ngoài.
[25] [Wilhelm von Humboldt, On Language:
On the Diversity of Human Language Construction and Its Influence on the Mental
Development of the Human Species, trans. Peter Heath (1836; New York: Cambridge
University Press, 1988), 91.]
Wilhelm von Humboldt (1767-1835): nhà ngôn ngữ học người Germany, nhân viên chính phủ,
nhà ngoại giao, triết gia; người sáng lập Đại học Humboldt ở Berlin. Humboldt cũng
là một triết gia nổi tiếng. Tác giả của
On the Limits of State Action, 1810, một bảo vệ táo bạo nhất cho những quyền tự do trong Thời Khai sáng Europe. Nó đã báo trước luận thuyết nổi tiếng
Essay on Liberty của John Stuart Mill. Wilhelm von Humboldt nổi tiếng với công trình
của ông về triết học
ngôn ngữ, khám phá quan hệ giữa ngôn ngữ, tư tưởng và văn hóa. Ông tin rằng con
người vốn thừa hưởng tinh đã sáng tạo và ngôn ngữ là biểu hiện quan trọng nhất
của sự sáng tạo này. Đóng góp quan trọng nhất của Humboldt cho triết học là lý thuyết
về ngôn ngữ mà ông đã phát triển trong On Language (1836) (1836). Ông cho
rằng ngôn ngữ không chỉ là phương tiện truyền đạt thông tin nhưng còn là phương tiện thể hiện sự sáng tạo và hiểu biết
thế giới của con người. Ông tin rằng ngôn ngữ định hình nhận thức của chúng ta về
thực tại và rằng những ngôn ngữ khác nhau tạo ra những cách suy nghĩ khác nhau.
Triết lý của Humboldt cũng nhấn mạnh sự quan trọng
của giáo dục trong việc phát triển khả năng sáng tạo và tự thể hiện cá nhân. Ông
tin rằng giáo dục nên tập trung vào việc phát triển toàn bộ tiềm năng của cá nhân
hơn là chỉ truyền đạt kiến thức và kỹ năng. Tổng quát, riết lý của
Humboldt đặc trưng bởi tin tưởng của ông vào sự quan trọng của tính cá nhân, tính sáng tạo và sự tự-thể hiện. Những ý tưởng của ông đã có tác động quan trọng đến sự phát
triển của ngôn ngữ học, triết học và giáo dục hiện đại, và tác phẩm của ông vẫn
tiếp tục được những học giả ngày nay nghiên cứu và tranh luận.
Những ý tưởng của Humboldt về ngôn ngữ và quan hệ của
nó với suy tưởng và văn hóa đã có tác động quan trọng với Chomsky, đặc biệt trong lĩnh vực ngữ pháp phát sinh (generative grammar). Có thể kể một số ý tưởng
và khái niệm cụ thể trong Chomsky bắt
nguồn từ Humboldt:
Quan điểm cho rằng ngôn ngữ là một tiến trình sáng tạo:
Humboldt tin rằng ngôn ngữ không chỉ đơn giản là một dụng cụ để truyền đạt thông
tin nhưng là một biểu
hiện của tính sáng tạo của
con người. Ông coi ngôn ngữ như một phương
tiện để khám phá và hiểu thế giới và tin rằng mọi hành vi truyền đạt thông tin đều
là một hành động sáng tạo độc đáo.
Khái niệm về tính tương đối của ngôn ngữ: Humboldt đưa
lên rằng ngôn ngữ định hình cách chúng ta suy nghĩ và nhận thức thế giới xung
quanh. Ý tưởng này, được biết như thuyết tương đối về ngôn ngữ (ý tưởng cho rằng ngôn ngữ không là sự phản ánh khách quan của thực tịa,
nhưng là một cấu trúc chủ quan được những yếu tố văn hóa và cá nhân. định hình.
Con người hiểu thế giới qua lăng kính ngôn ngữ của chính họ); hay giả thuyết
Sapir-Whorf, (đã có ảnh
hưởng trong những lĩnh vực ngôn ngữ học, tâm lý học và nhân chủng học.
Ý tưởng về những phổ quát ngôn ngữ: Humboldt tin rằng có những nguyên
tắc phổ quát làm cơ sở cho tất cả những ngôn ngữ của con người và những nguyên tắc
này phản ảnh những phương diện bẩm sinh trong
nhận thức con người. Chomsky đã mở rộng ý tưởng này, nêu lên sự hiện hữu của một ngữ
pháp phổ quát được cài đặt gắn chặt trong bộ óc người và hướng dẫn sự tiếp thu và dung ngôn ngữ.
Sự quan trọng
của ngôn ngữ trong việc định hình văn hóa: Humboldt tin rằng ngôn ngữ và văn hóa
gắn bó sâu xa với nhau,
và ngôn ngữ đó đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình sự hiểu biết của
chúng ta về thế giới và vị trí của chúng ta trong đó. Chomsky cũng đã nhấn mạnh
trên sự quan trọng
của ngôn ngữ trong việc hình thành những giá trị văn hóa và tin tưởng
[26] Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ “đóng khung câu” chỉ cách thức thông tin được cấu trúc và trình bày bên trong một câu. Nó gồm việc sắp xếp những từ và cụm từ để truyền đạt một ý nghĩa
hay cái nhìn cụ thể. Cách
thức một câu được đóng khung có thể ảnh
hưởng đáng kể đến cách người nghe hay người đọc diễn giải thông tin truyền đạt
[27] [Otto Jespersen, The Philosophy
of Grammar (New York: Holt, 1924).]
[28]
Otto Jespersen (1860–1943): nguòi
Denmark – Trong những năm 1890, Jespersen được biết đến nhiều nhất như nhà cải cách
giảng dạy ngôn ngữ và là nhà ngữ âm học. Ngày nay ông được nhớ đến chủ yếu như người
tiên phong trong lĩnh vực cú pháp và phát triển ngôn ngữ. Trong The
Philosophy of Grammar (1924)), Jespersen
tập trung vào phân tích mô tả cấu trúc ngôn ngữ, nhằm mục đích thiết lập một lý thuyết tổng quát về ngữ pháp.
Ông nhấn mạnh sự quan trọng
của nghiên cứu ngôn ngữ như một hiện tượng sống và bác bỏ quan niệm về những quy luật ngữ pháp khô cứng áp đặt từ bên trên. Thay vào đó, ông ủng hộ một
cách giải quyết thực nghiệm nhằm kiểm tra những khuôn mẫu và cấu trúc xuất hiện tự nhiên trong việc
dùng ngôn ngữ. Giải quyết của Jespersen với ngữ pháp đã ảnh hưởng đến những lý thuyết và phương pháp ngôn ngữ học sau này, gồm ngữ pháp chuyển đổi-phát sinh của Chomsky
[29]
‘instinctively, eagles that fly swim’ – cho thấy ngôn ngữ có cấu trúc theo sự vật thứ bậc không
theo đường thẳng: eagles + (1) swim & (2) fly. (Tương tự ? : Cô ấy thi
đỗ đại học làm cả nhà vui mừng. Cô ấy + (1) làm & (2) thi đỗ), hay:
Bà già (2) đi chợ cầu Đông (1) bói xem một quẻ
lấy chồng lợi chăng? Thầy bói (2) xem quẻ (1) nói rằng, lợi thì có
lợi, nhưng răng không còn.
[30] adverb: trạng
từ/phó từ/trạng ngữ,…
[31] ‘Can eagles that fly swim?’
[32]
Chomsky đã đưa vào thành
ngữ “sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích” trong Rules and Representations
(1980). Khái niệm này còn được gọi là luận chứng
từ sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích
(POS),
hay vấn
đề lôgích về tiếp thu ngôn ngữ, hay vấn
đề dự đoán và vấn đề của Plato [“làm thế nào con người, những người có tiếp xúc ngắn
ngủi, cá
nhân và giới hạn
với thế giới, nhưng có khả năng để biết
nhiều như họ biết?” (Bertrand Russell, Human Knowledge: Its Scope and Limits,
1948)]. Sự
nghèo nàn của những tác nhân kích thích dựa trên ý tưởng rằng input vốn trẻ
em nhận được thì rất không đủ, và không nhất quán và rất thay đổi, cho thấy không thể giải
thích được cho cách chúng tiếp thu ngôn ngữ
một cách nhanh chóng và có hệ thống. Sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích
được dùng để hỗ trợ cho
UG.
[33] The principle of minimal distance
[34]
Minimal Computation: Nguyên tắc
khoảng cách tối thiểu là một khái niệm phản ảnh ý tưởng rằng những hoạt động hay phép biến đổi ngôn
ngữ nên giữ tối thiểu số lượng của di chuyển hay thay đổi chỗ cần thiết
trong việc tạo câu. Nói cách khác, thuyết này cho rằng những cấu trúc ngôn ngữ được hình thành theo
cách giảm thiểu khoảng cách vốn những yếu
tố cần di chuyển khỏi vị trí cơ sở của chúng.Nguyên tắc này có thể được coi là một
trường hợp cụ thể của nguyên tắc tổng quát hơn do Chomsky đưa ra, là Tính toán
tối thiểu. Tính toán
tối thiểu chi phối cấu trúctổng thể của khả năng ngôn ngữ.
Nó cho rằng những tính
toán và hoạt động ngôn ngữ nên cố gắng để đạt hiệu quả
cao nhất có thể được, giảm thiểu nỗ lực tính toán cần thiết để tạo hay hiểu
ngôn ngữ. Nói thêm rằng nguyên
tắc khoảng cách tối thiểu có thể vượt ra ngoài ngôn ngữ và có khả năng ứng dụng
rộng rãi hơn, Chomsky muốn nói rằng tính hiệu quả và tính tiết kiệm quan sát được
trong ngôn ngữ có thể có nền tảng trên những nguyên tắc tổng quát hơn của tiến trình nhận thức hay ngay cả là những nguyên
tắc nền tảng của thế giới tự nhiên.
[35]
Trong Chomsky,
cụ thể là trong khuôn khổ ngữ pháp tạo sinh biến đổi, có sự phân biệt giữa khoảng
cách cấu trúc (structural
distance)
và khoảng cách theo đường thẳng (linear
distance).Khoảng cách
cấu trúc nói về con số của những tiến trình hoạt động cú pháp hay những biến đổi cần thiết để lấy được một cấu trúc
ngôn ngữ từ một cấu trúc ngôn ngữ khác. Nó đo lường mức độ phức tạp của những phép biến đổi cần thiết để di chuyển từ một điểm này sang môt điểm khác trong
cấu trúc. Khái niệm về khoảng cách này liên quan đến những quan hệ sự vật thứ bậc và những hoạt động chuyển dịch trong một
câu. Mặt khác, khoảng cách theo đường thẳng nói về số lượng đơn vị đường thẳng (chẳng hạn như những từ hay những morphemes) xen giữa hai yếu tố ngôn ngữ trong một câu. Nó đo
khoảng cách vật lý hay khoảng cách theo đường thẳng của những từ hay những thành phần trong chuỗi đường thẳng của câu. Sự khác biệt giữa khoảng cách cấu trúc và khoảng cách
theo đường thẳng, rất quan trọng
vì nó phản ánh thực tế là cấu trúc cú pháp có thể liên quan đến sự di chuyển hay
chuyển vị của những thành phần
từ vị trí này sang vị trí khác, điều này có thể tạo ra sự khác biệt giữa trật tự
đường thẳng và cấu trúc trật tự thứ bậc của câu. Nói cách khác, trật tự đường thẳng
của những từ trong câu có thể không nhất thiết phản ánh quan hệ sự vật thứ bậc cơ
bản của chúng. Theo Chomsky, cấu trúc ngôn ngữ không bị giới hạn trong một chuỗi của những
từ theo đường thẳng nhưng theo xếp đặt cấu trúc trật tự thứ bậc, với những hoạt
động chen vào giữa và di chuyển trong nhiều mức độ khác nhau.
[36] [Mariacristina
Musso et al., “Broca’s Area and the Language Instinct”, Nature Neuroscience 4
(2003): 774–81, doi:10.1038/nn1077]
[37] [Neil Smith, Chomsky: Ideas and
Ideals, 2nd ed. (Cambridge: Cambridge University Press, 2004), 136. cũng xem
Neil Smith và Ianthi-Maria Tsimpli, The Mind of a Savant: Language Learning and
Modularity (Cambridge: Blackwell, 1995)]
[38]
computational cognitive science (khoa học nhận thức điện toán), hay computational psychology
(tâm lý học điện toán): Tâm lý học điện toán là một nhành phụ của tâm lý học
dùng những mô hình, algorithm và kỹ thuật điện toán để hiểu và mô phỏng những tiến
trình và hành vi nhận thức khác nhau. Nó kết hợp những tành phần của tâm lý
học, khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo để nghiên cứu não thức hoạt động
thế nào và những tiến
trình nhận thức có thể được biểu diễn và mô phỏng bằng máy tính như thế nào. Khoa học nhận thức điện toán là một lĩnh vực liên ngành gồm những yếu tố của khoa học nhận thức, tâm
lý học, khoa học thần kinh, khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo để nghiên cứu
và hiểu nhận thức của con người bằng những mô hình và kỹ thuật điện toán. Khoa học
nhận thức điện toán dùng để nêu những giả thuyết, đưa những dự đoán vàcos được hiểu
biết sâu hơn trong những hiện tượng nhận thức
[39] Big Data: chỉ những
dữ liệu cực lớn, nhanh & phức tạp, có thể định nghĩa với ba chữ V: Volume,
Velocity, Variety ( Khối lượng, Vận tốc, Đa dạng)
[40] [Robert C. Berwick, Paul Pietroski,
Beracah Yankama, và Noam Chomsky, “Poverty of the Stimulus Revisited”, Cognitive
Science 35, số 7 (2011): 1207–42, doi:10.1111/j.1551–6709.2011.01189. x.]
[41]
syntax-semantics:
cú pháp-ngữ nghĩa : chỉ quan hệ giữa cấu trúc cú pháp của một câu và sự giải
thích ngữ nghĩa của nó. Theo Chomsky, thành phần cú pháp của
ngôn ngữ tạo cấu trúc mặt ngoài của câu qua một set những quy luật xác định trật
tự và cách sắp xếp của những từ. Cấu trúc mặt ngoài này sau đó được chuyển thành
một cấu trúc trong sâu, thể hiện ý nghĩa
cơ bản của câu. Tiến trình biến đổi cấu trúc mặt ngoài thành cấu trúc trong sâu
gọi là “sự băt nguồn cấu trúc trong sâu”. Cấu trúc trong sâu thể hiện sự giải thích ngữ nghĩa
hay ý nghĩa của một câu. Nó nắm giữ những quan hệ giữa những từ và những khái niệm chúng
đại diện. Chomsky cho
rằng cấu trúc trong sâu là sự thể hiện cơ bản hơn của ý nghĩa, trong khi cấu trúc
mặt ngoài bắt nguồn từ nó qua những phép biến đổi cú pháp.
[42] [W. Tecumseh
Fitch, “Speech Perception: A Language-Trained Chimpanzee Weighs In”, Current
Biology 21, số 14 (2011): R543–46, doi:10.1016/j.cub.2011.06.035.]
[43] language of thought:
[44] externalization: tiến
trình diễn tả hay thể hiện những suy nghĩ, cảm xúc hay ý tưởng ra ngoài.
[45]
Trong De
Interpretatione, Aristotle thảo luận về bản chất của ngôn ngữ và quan hệ của
nó với suy nghĩ và thực tại. Ông nhấn mạnh trên sự quan trọng
của liên hệ giữa âm thanh của ngôn ngữ và những ý nghĩa chúng truyền tải. Mặc dù câu ‘âm thanh với ý nghĩa’ có thể không
được nói ra rõ ràng trong những tác phẩm của Aristotle, nhưng khái niệm cơ bản của nó
xuất hiện trong những bàn luận về ngôn ngữ của ông. Trong những tác phẩm của
ông, Aristotle khám phá nhiều phương diện khác nhau của ngôn ngữ, gồm vai trò của
nó trong truyền thông, lôgích và
hiểu biết. Ông lập luận rằng ngôn ngữ không chỉ là một set những âm thanh ngẫu nhiên
nhưng là một thể hiện có hệ thống và ý nghĩa của những suy nghĩ và
khái niệm.
[46] [Charles Fernyhough, “The Voices
Within: The Power of Talking to Yourself”, New Scientist, June 3, 2013, 32–35.]
[47] virtual dogma
(a)
Theo Chomsky, ngôn ngữ gắn bó chặt chẽ với tiến trình
nhận thức của chúng ta và định hình cách chúng ta nhận thức, khái niệm hóa và sắp
xếp suy nghĩ của mình. Theo truyền thống, ngôn ngữ được xem như một dụng cụ để truyền
thông giao tiếp, một hệ thống những ký hiệu và quy luật được dùng để truyền đạt
thông tin và diễn đạt ý tưởng cho người khác. Ông thừa nhận chức năng truyền thông giao
tiếp của ngôn ngữ, ông vượt xa quan điểm này bằng nhấn mạnh liên hệ nội tại giữa
ngôn ngữ và suy nghĩ. Ông lập luận rằng
ngôn ngữ là một phần không thể thiếu trong bộ máy nhận thức của chúng ta, phục vụ
như một phương tiện để biểu đạt và vận dụng suy nghĩ của chúng ta. Ông nêu lên rằng khả năng
tạo và hiểu ngôn ngữ của chúng ta không chỉ nhằm mục đích truyền thông giao tiếp
với người khác nhưng còn cho xếp đặt bên trong
và cấu trúc những tiến trình tâm lý của chúng ta.Theo quan điểm này, ngôn ngữ hoạt động
như một dụng cụ hay phương tiện
qua đó chúng ta suy nghĩ, lập luận, hình thành những khái niệm và hiểu thế giới.
Nó không chỉ là một phương tiện truyền thông giao tiếp, nhưng còn là một phương diện cơ bản trong nhận thức và sự
thể hiện tinh thần của chúng ta. Ông thách đố quan
điểm cho rằng ngôn ngữ chỉ là một hiện tượng xã hội hay truyền thông giao tiếp. Thay vào đó, ông cho rằng ngôn
ngữ đã ăn sâu vào cấu trúc nhận thức của chúng ta và đóng vai trò trung tâm trong
việc định hình suy nghĩ, nhận thức và hiểu biết của chúng ta về thế giới.
(b)
Chomsky nói ở trước, ngôn ngữ là một khả năng bẩm sinh, không chỉ là dụng
cụ truyền thông giao tiếp nhưng cũng là một dụng cụ cho suy nghĩ. Nói cách khác, ngôn ngữ không chỉ
đơn giản là một phương tiện
của việc diễn đạt suy
nghĩ của chúng ta những cũng là một cách thức của việc tạo ra và xếp đặt những suy nghĩ của chúng ta. Tiến trình thể
hiện suy nghĩ của chúng ta thành ngôn ngữ là một tiến trình sự vật việc cấp, dựa trên hệ thống phối hợp giác quan-vận
động của chúng ta. Hệ thống này liên quan
đến những tiến trình vật lý để tạo ra và nhận biết lời nói, và nó được
môi trường và kinh nghiệm của
chúng ta định hình.
Do đó, những thuộc tính
của ngôn ngữ có liên quan đến thể hiện bên ngoai của nó, hạn như phát âm và ngữ pháp, phần lớn độc lập
với những tiến trình nhận thức nền tảng của ngôn ngữ. Hiểu như khi nói, chúng ta dùng cơ thể của mình để tạo ra âm thanh và ghép
những từ với nhau theo một cách nhất định. Đây là sự thể hiện
bên ngoài, nhưng cách chúng ta nói chịu
ảnh hưởng của kinh nghiệm và môi trường sống, nhưng nó không tác động vào khả năng
bẩm sinh sáng tạo ngôn ngữ của chúng ta. Khả năng sáng tạo ngôn ngữ và những quy
luật chi phối ngôn ngữ (ngữ pháp) không chịu ảnh hưởng của hệ thống cảm giác vận
động, những của khả năng sinh học di truyền của bộ óc con người.
[49] [William Uzgalis, “John Locke”,
trong The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Fall 2012 ed.), ed. Edward
N. Zalta, http://plato.stanford.edu/archives/fall2012/entries/locke/ .]
[50]
Tuyên bố của
Chomsky phản ảnh quan điểm
của ông rằng truyền thông là một phần thứ yếu của việc dùng ngôn ngữ thực sự , vì ông tập trung vào những tiến trình nhận thức bên
trong liên quan đến ngôn ngữ hơn là chức năng truyền thông thuần túy của nó. Ông
nhấn mạnh rằng ngôn ngữ chủ yếu là một khả năng tinh thần dùng để diễn
đạt và tạo ra những suy nghĩ, ý tưởng và khái niệm. Chomsky nêu lên rằng những
sáng tạo và phát sinh của ngôn
ngữ, chẳng hạn như tạo ra những câu mới lạ và những tiến trình suy nghĩ bên trong,
là trọng tâm để hiểu ngôn ngữ hơn là vai trò của nó trong truyền thông giữa những
cá nhân. Quan điểm này thách đố quan niệm phổ biến rằng ngôn ngữ chủ yếu phục vụ
như một dụng cụ truyền
thông.
[51]
Ở đây, Chomsky định nghĩa Hợp Nhất (Merge): như một hoạt động
cơ bản trong ngôn ngữ. Hợp Nhất là việc gắn vào hay gộp chung những yếu
tố ngôn ngữ vào với nhau để có một cấu trúc ngôn ngữ mới. Nó đặt vào với nhau những từ,
cụm từ hay những đơn vị ngôn ngữ khác để tạo những diễn đạt (những câu) có ý nghĩa.. Nói đơn giản, Hợp nhất có thể được hiểu như việc ghép những
từ, cụm từ hay những yếu tố ngôn ngữ khác lại với nhau để có được những cấu
trúc ngôn ngữ lớn hơn, như câu hay mệnh đề. Nó kết hợp những đơn vị ngôn ngữ nhỏ
hơn để tạo ra những diễn đạtphức tạp và có ý nghĩa hơn. Nó lấy hai đối tượng đã có hay đã thành lập trước đó,
X và Y, và kết hợp chúng thành một đối tượng mới, Z Thí dụ: chúng ta hãy xem xét những
yếu tố ngôn ngữ sau:
Đối tượng X: từ ‘tôi’
Đối tượng Y: Cụm từ ‘đang ăn một quả táo’
đối tượng Z mới, là câu ‘Tôi đang ăn một quả táo’
Hợp nhất đóng vai trò rất quan trọng quyết định trong Chomsky,
đặc biệt là trong khung cấu trúc ngữ pháp phổ quát. Nó được
coi là một hoạt động trung tâm trong tiến trình xây dựng cấu trúc cú pháp, cho phép
tạo ra một loạt những câu đúng ngữ pháp trong
một ngôn ngữ.
[52] Kekulé diagram
[53] ngôn ngữ như một dụng cụ chủ yếu
của suy nghĩ
1.
Ở đây, Chomsky đi đến trình bày
giả thuyết quan trọng (nhất, theo tôi) của ông về ngôn ngữ – ngôn ngữ như một
dụng cụ chủ yếu của suy nghĩ. Những cơ chế tiềm ẩn của ngôn ngữ, gồm những diễn
đạt cấu trúc theo
sự vật thứ bậc và lập đi lập lại trở ngược (structured hierarchically và recursive)
cung cấp một viễn tượng (dưới dạng một cấu trúc khái niệm) về thế giới, vì chỉ qua
ngôn ngữ vốn những viễn tượng nhất định thành có sẵn cho chúng ta và với những tiến
trình suy nghĩ của chúng ta. Những cơ chế này cung cấp cho chúng ta một cách suy
nghĩ và nói chuyện độc nhất con người về thế giới, vốn khác biệt với loại suy nghĩ
chúng ta cùng có với những loài động vật khác. Nếu chức năng chính của ngôn ngữ
là giao tiếp thì người ta sẽ mong đợi rằng những cơ chế cơ bản của ngôn ngữ sẽ được
cấu trúc theo cách hỗ trợ giao tiếp thành công. nhưng những cơ chế cơ bản của ngôn
ngữ trong thực tế được cấu trúc theo cách tối đa hóa hiệu quả tính toán, dù điều
này làm suy yếu chính khả năng truyền thông giao tiếp.
1a.
Tôi tìm thấy một nói chuyện
với sinh viên, Chomsky nói về - ngôn ngữ và tư tưởng – ‘nó không phải là vật lý quantum. Nửa giờ chắc chắn là đủ,… “
– như sau:
Có một số những giáo điều
về ngôn ngữ vốn tôi nghĩ đang bị bác bỏ một cách có hệ thống, và tôi nên nói rằng
chúng cũng được những nhà ngôn ngữ học chủ trương, không chỉ bởi công chúng nói
chung, vốn có lẽ rơi vào những gì vốn tôi nghĩ đang bị những nghiên cứu hiện tại
làm suy yếu. Đây là quan điểm thiểu số và tôi không nói thay cho giới chuyên môn,
vốn tôi đã vẫn được cho là người giữ lập trường trái ngược, vậy tôi sẽ gắng giữ
điều đó). Lấy thí dụ, một giả định tổng quát về ngôn ngữ, gần như một giáo điều
trong triết học, hiểu biết thông thường, ngôn ngữ học và tâm lý học, đó là ngôn
ngữ chủ yếu là một phương tiện truyền thông và nó phát triển như một phương tiện
truyền thông. Có lẽ, điều đó hoàn toàn sai. Có vẻ như những ngôn ngữ đã tiến
hóa và đã có mục đích cấu trúcnhư một phương thức của sáng tạo và diễn giải suy
nghĩ. Về cơ bản, nó là một hệ thống suy nghĩ. Nó có thể được dùng để truyền
đạt mọi việc mọi người làm, cũng như bạn có thể truyền thông bằng kiểu tóc,
phong cách đi đứng và mọi sự vật việc khác. Đúng, ngôn ngữ có thể được dùng để truyền
thông, nhưng nó dường như không phải là phần trong mục đích cấu trúccủa nó. Mục
đích cấu trúccủa nó dường như hoàn toàn khác biệt và trong thực tế, nó thậm chí
còn có vẻ làm suy yếu khả năng truyền thông. Nếu bạn xem xét kỹ cấu trúc của
ngôn ngữ, bạn sẽ thấy từng trường hợp ngay tại cốt lõi của mục đích cấu trúcngôn
ngữ, nơi có những mâu thuẫn giữa những gì là hiệu quả cho truyền thông và những
gì là hiệu quả cho mục đích cấu trúcsinh học cụ thể của ngôn ngữ. Trong mọi trường
hợp đã biết, hiệu quả truyền thông đều bị hy sinh; nó không chỉ là một sự cân
nhắc. Tôi nghĩ đó là một kết luận có ý nghĩa rất rộng rãi. Để thiết lập nó, bạn
phải xem xét công việc kỹ thuật; đó không phải là điều bạn có thể giải thích
trong hai phút trình bày. Nhưng nó không sâu xa; nó không phải là vật lý quantum.
Nửa giờ chắc chắn là đủ, và tôi nghĩ đó là một hậu quả tác động khá sâu rộng.
Một tin tưởng tổng
quát khác về ngôn ngữ, gần như là một giáo điều trong tất cả những lĩnh vực
liên quan – triết học, ngôn ngữ học, v.v. – là những yếu tố có ý nghĩa tối thiểu
trong ngôn ngữ, những thứ giống như từ, chọn ra những thực thể trong thế giới
ngoài tinh thần. Lấy thí dụ, từ "sông" được cho là để chỉ sông
Charles, v.v. – thứ vốn một nhà vật lý có thể xác định được. Tuy nhiên, điều đó
hóa ra lại đúng với hệ thống động vật. Hệ thống truyền thông của động vật có những
biểu tượng dường như có tương quan 1-1 với những sự kiện không phụ thuộc vào não
thức. Lấy thí dụ, một số tiếng kêu cụ thể của một con khỉ sẽ liên quan đến tiếng
lá rung rinh hoặc những kẻ săn mồi đang đến, kiểu như "Tôi đói" hoặc
một số thay đổi nội tiết tố (trong cơ thể). Nhưng điều này không đúng với ngôn
ngữ. Những yếu tố ngôn ngữ không có tính chất đó. Trong thực tế, điều này
Aristotle đã hiểu và đã hiểu trong thế kỷ 17 và 18, với nhiều nghiên cứu thú vị
về nó. Những thực thể vốn chúng ta xây dựng trong diễn ngôn, cách diễn đạt và
diễn giải truyền thông của mình phần lớn là những đối tượng tinh thần, hay một
phần tinh thần. Có nhiều cách vốn chúng là những phương thức vốn chúng ta giải
thích những hiện tượng, nhưng chúng không chọn ra những thực thể trên thế giới
vốn một nhà khoa học tự nhiên có thể xác định nhưng không cần nhìn vào não thức
chúng ta. Điều này cho chúng ta biết rất nhiều về bản chất của ngôn ngữ và bản
chất của chính chúng ta. Ngôn ngữ là thuộc tính cốt lõi của con người; điều này
đã được Darwin và một truyền thống lâu đời trước ông hiểu rõ. Nó rất khác với
cách nó thường được hình thành. Tôi nghĩ đó là một trong những kết luận có ý
nghĩa khá phổ biến. Cho phép tôi nhấn mạnh một lần nữa rằng quan điểm này được
nắm giữ bởi thiểu số; rất ít nhà ngôn ngữ học đồng tình với nó. Tuy nhiên, tôi
dự đoán rằng theo thời gian, một số nhà ngôn ngữ học có thể đồng ý với những ý
tưởng này.
(Noam Chomsky
- Language and Thought
https://www.youtube.com/watch?v=KEmpRtj34xg)
1b.
Nói thêm, language as essentially
an instrument of thought – vẫn dịch là ngôn ngữ như một dụng cụ của suy nghĩ
– tôi tạm dịch đơn giản như trên (‘ngôn ngữ như một dụng cụ chủ yếu của suy nghĩ’).
(a) Nhấn mạnh từ ‘chủ yếu & (b) từ ‘dụng cụ’. Đặc biệt , dịch ‘instrument’=‘dụng
cụ’, theo tôi, cũng không rõ hết được ý tưởng của Chomsky – đúng hơn instrument
ở đây hiểu như ‘một phương tiện để hoàn thành một gì đó’(a means of getting
something done). Vậy ‘language as essentially an instrument of thought’ = ngôn
ngữ như một như một phương tiện để hoàn thành suy nghĩ. Từ ‘instrument’ khi
dịch là dụng cu, gợi nhắc đến từ Organon (Tool) trong Aristotle và Bacon
– trong quan
niệm rằng ‘lôgích là dụng cụ của tư tưởng’ và ở đó cũng vẫn hiểu lôgích như ‘phương
tiện’ để hoàn thiện suy nghĩ.
Có xảy ra là đôi khi chúng ta có
những ý tưởng, suy nghĩ nhưng khi ấy không tìm được từ ngữ sẵn có nào trong ngôn
ngữ của chúng ta để nói ra, diễn tả chúng (truyền thông) cho người khác. Sau đó
hay (a) phải mượn từ nước ngoài nào đó, hay (b) phải tạo từ mới. Nếu thế, khi nói
đến làm giàu ngôn ngữ, một trong những gì chúng ta nên thực tế nghĩ đến là
(a) làm giàu tư tưởng cho chính chúng ta (phải suy nghĩ sáng tao) , sau đó tạo từ
ngữ mới tương ứng, đừng vay mượn tương đương. Tôi nêu lên đây, như một thí dụ ngẫu
nhiên trong vội vàng, để cho thấy lý thuyết ngữ học của Chomsky có những hàm ý rất
xa rộng. Tôi khai triển sau đây
2.
Chomsky thường dẫn Descartes, nhưng họ khác nhau ở một số điểm.
(a) Kiến thức bẩm sinh: Descartes tin vào ý tưởng về kiến thức bẩm sinh, nghĩa
là một số khái niệm và ý tưởng là bẩm sinh trong não thức con người, trong khi lý
thuyết về ngữ pháp phổ quát của Chomsky cho rằng có những cấu trúc ngôn ngữ bẩm
sinh khiến phép trẻ em học ngôn ngữ nhanh chóng.
(b) Thuyết nhị nguyên não thức-cơ thể: Descartes được biết đến với thuyết nhị
nguyên não thức-cơ thể, lập luận rằng não thức và cơ thể là những thực thể riêng
biệt. Mặt khác, Chomsky tập trung vào những tiến trình nhận thức liên quan đến việc
tiếp thu và dùng ngôn ngữ mà không tách rời não thức và cơ thể.
(c) Sự Tiếp thu ngôn ngữ: Descartes không đưa ra lý thuyết về tiếp thu ngôn ngữ,
trong khi lý thuyết ngữ pháp phổ quát của Chomsky đưa lên rằng có những cấu trúc
ngôn ngữ bẩm sinh.
(d) Phương pháp luận: Descartes là một nhà duy lý dựa vào lý luận suy diễn để
đi đến chân lý về thế giới, trong khi Chomsky được biết đến với sự nhấn mạnh vào
bằng chứng thực nghiệm và phương pháp khoa học trong nghiên cứu của ông.
Tóm lại, Chomsky khác Descartes
ở điểm nhấn mạnh vào cấu trúc ngôn ngữ bẩm sinh, tập trung vào những tiến trình
nhận thức liên quan đến việc tiếp thu và dùng ngôn ngữ, cũng như sự tin cậy của
ông vào bằng chứng thực nghiệm và phương pháp luận khoa học. Trong khi Descartes
tập trung vào kiến thức bẩm sinh và thuyết nhị nguyên não thức-cơ thể, ông không đưa
ra một lý thuyết cụ thể nào về việc tiếp thu ngôn ngữ.
3.
Noam Chomsky tin rằng ngôn
ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn là dụng cụ để suy nghĩ và hiểu biết
về thế giới xung quanh chúng ta. Ông lập luận rằng ngôn ngữ là một khả năng
nhận thức gắn bó sâu xa với tiến trình suy nghĩ của chúng ta và nó là một thành phần thiết yếu trong
đời sống tinh thần của chúng ta.
Chomsky cũng lập luận rằng ngôn
ngữ không chỉ là dụng cụ để giao tiếp mà còn là dụng cụ để suy nghĩ. Ông cho rằng cấu trúc của ngôn ngữ phản ảnh cấu trúc của suy nghĩ, và rằng ngôn ngữ đem cho khả năng khiến chúng ta thể hiện và vận dụng những khái
niệm và ý tưởng trừu tượng. Thí dụ, ông lập luận rằng cấu trúc lập đi lập lại trở ngược của ngôn ngữ (khả năng chen những mệnh đề vào giữa mệnh đề) phản ảnh khả năng suy nghĩ và diễn đạt những ý tưởng phức tạp của chúng ta. Tổng quát, tuyên bố của Chomsky
rằng ngôn ngữ là về suy nghĩ chứ không chỉ là truyền thông giao tiếp dựa trên tin tưởng của ông rằng ngôn ngữ là một khả năng nhận thức bẩm sinh
gắn bó sâu xa với đời sống tinh thần của chúng ta. Ông tin rằng ngôn ngữ cần thiết cho
khả năng hiểu và trình bày những khái niệm và ý tưởng trừu tượng của chúng ta, đồng
thời ngôn ngữ là một thành phần quan trọng trong tiến trình suy nghĩ của chúng ta.
4.
Ngôn ngữ và nhận thức của con
người có liên quan chặt chẽ với nhau như thế, nhưng bản chất và mức độ chính
xác của quan hệ này là một vấn đề tranh luận và nghiên cứu vẫn đang diễn ra. Một số cách có
thể dễ dàng nhận hiểu câu hỏi này là:
(a) Ngôn ngữ như một dụng cụ cho sự nhận thức: Ngôn ngữ có thể được coi như một dụng cụ nâng cao và mở rộng những khả năng nhận thức của con người như trí
nhớ, suy luận, giải quyết vấn đề và giao tiếp. Ngôn ngữ đem cho khả năng khiến con
người lưu trữ, vận dụng và chia sẻ thông tin mà nếu không có nó sẽ không thể dễ
dàng nhận hiểu hay bị lãng quên
(b) Ngôn ngữ như một sự phản ánh của nhận thức: Có
thể coi ngôn ngữ là sự phản ánh những tiến trình nhận thức của con người như phân
loại, khái niệm hóa, suy luận. Ngôn ngữ tiết lộ cách con người nhận thức, tổ chức
và hiểu thế giới xung quanh
(c) Ngôn ngữ như một yếu tố quyết định nhận thức:
Ngôn ngữ có thể được coi là yếu tố quyết định kết quả nhận thức của con người, chẳng
hạn như sự chú ý, nhận thức, trí nhớ và suy nghĩ. Ngôn ngữ ảnh hưởng đến cách con
người quan tâm, nhận thức, ghi nhớ và suy nghĩ về thực tế
(d) Ngôn ngữ như một sản phẩm của nhận thức: Có thể
coi ngôn ngữ là sản phẩm của tiến trình tiến hóa, thích ứng và phát triển nhận thức
của con người. Ngôn ngữ xuất hiện từ sự tác động qua lại của những yếu tố sinh học,
nhận thức, xã hội và môi trường hình thành nhận thức của con người
5.
Quan điểm của Chomsky về ngôn
ngữ và suy nghĩ: Sau khi đưa ra UG lập luận rằng
ngôn ngữ được điều chỉnh bởi một ngữ pháp phổ quát bẩm sinh và đặc trưng cho ngôn
ngữ, và ngữ pháp này xác định những hình thức và cấu trúc có thể có của ngôn ngữ
tự nhiên, Chomsky tuyên bố rằng ngôn ngữ là suy nghĩ, vì ông tin rằng ngôn ngữ là
một khả năng độc đáo của con người, phản ánh cấu trúc lôgíchh cơ
bản của suy nghĩ con người. Ông cũng tuyên bố rằng ngôn ngữ là nguồn gốc chính của
sự sáng tạo và sản suất của con người, và nếu không có ngôn ngữ, suy nghĩ sẽ không thể tồn tại. Chomsky bác bỏ ý kiến cho rằng
ngôn ngữ chịu ảnh hưởng từ cách dùng, tần suất, phép loại suy hay ngữ dụng, và khẳng định rằng ngôn
ngữ độc lập với ý nghĩa và giao tiếp. Ông cũng bác bỏ sự liên quan của bằng chứng
thực nghiệm từ diễn ngôn tự nhiên, dữ liệu ngữ liệu, thí nghiệm tâm lý ngôn ngữ
và so sánh ngôn ngữ học với lý thuyết ngôn ngữ, đồng thời ủng hộ cách dễ dàng nhận
hiểu nội tại và duy lý dựa trên nội quan và suy diễn lôgíchh Theo Chomsky, ngôn ngữ là sự hiện thực hóa của tư tưởng. Ông tin rằng ngôn
ngữ là một hệ thống những quy luật tạo ra một số vô hạn những câu thể hiện suy nghĩ của người
nói. Ông cũng tin rằng ngôn ngữ là sự phản ánh cấu trúc lôgích của suy nghĩ con
người, và nếu không có ngôn ngữ thì suy nghĩ sẽ không thể thực hiện được. Ông coi
ngôn ngữ là một phương diện của nhận thức, và là một khoa duy nhất của con người
không thể thu giảm về thành những phương diện khác của nhận thức hay tác động qua
lại xã hội.
Ý tưởng của Chomsky khi nói “ngôn ngữ
là sự phản ánh cấu trúc lôgích của suy nghĩ con người” là cách chúng ta dùng ngôn
ngữ để tạo thành câu và truyền đạt ý tưởng là “và”, “hoặc”, “nếu”, “thì”,
v.v., chúng ta đang tuân theo những quy luật lôgích nhất định giúp chúng ta hiểu
thế giới và lập luận về nó. Chomsky tin rằng những quy luật lôgíchh này là phần
của khả năng ngôn ngữ bẩm sinh của chúng ta và chúng có chung cho tất cả những ngôn
ngữ của loài người. Điều mà Chomsky muốn nói khi “không có ngôn ngữ, suy nghĩ sẽ
không thể thực hiện được” là chúng ta cần ngôn ngữ để diễn đạt và khai triển suy nghĩ của mình. Ông
cho rằng nếu không có ngôn ngữ, chúng ta sẽ không thể suy nghĩ một cách sáng tạo
và hiệu quả, hay không thể truyền đạt suy nghĩ của mình cho người khác. Ông cho
rằng ngôn ngữ là cội nguồn chủ yếu của trí tuệ và sự sáng tạo của con người, nếu
không có ngôn ngữ thì chúng ta không thể đạt được bất cứ điều gì trong khoa học,
nghệ thuật, văn hóa, v.v. Ông coi ngôn ngữ là đặc điểm bản chất của nhận thức con
người, là đặc điểm độc đáo phân biệt con người với những loài động vật khác. Như thế, nó dựa trên lý thuyết ngữ pháp phổ quát của ông. Lý thuyết cho rằng có những đặc tính vốn tất cả những ngôn ngữ tự nhiên
của con người có thể có, chẳng hạn như phạm trù cú pháp, trật tự từ và phủ định.
Những thuộc tính này là phần của ngữ pháp phổ quát có bẩm sinh. Lý thuyết của Chomsky nhằm mục đích giải thích tại sao con người có thể tiếp thu và nhanh chông dùng ngôn ngữ bất chấp sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích, sự việc đó có nghĩa là input ngôn ngữ mà họ nhận được không đủ để giải thích cho
năng lực ngôn ngữ của họ.
Theo Chomsky, ngôn ngữ không chỉ là một trong
nhiều hình thức giao tiếp của con người. Chomsky phân biệt giữa ngôn ngữ và giao
tiếp, và lập luận rằng ngôn ngữ chủ yếu không phải là phương tiện giao tiếp,
mà là phương tiện suy nghĩ. Ông cho rằng ngôn ngữ độc lập với ý nghĩa và giao
tiếp, và chức năng chính của nó là tạo ra vô số câu thể hiện suy nghĩ của người
nói. Ông cũng cho rằng giao tiếp không phải là đặc điểm riêng của con người mà là
đặc điểm chung của loài động vật. Ông không phủ nhận rằng con người dùng ngôn ngữ để giao tiếp, nhưng
ông không cho rằng đây là mục đích thiết yếu hay chủ yếu của ngôn ngữ. Ông coi ngôn ngữ là một khả năng duy nhất của con người không
thể thu giảm về thành những phương diện khác của nhận thức hay giao tiếp xã hội. Nhưng, ông cũng khẳng định con người có ngôn ngữ nhưng động vật không có ‘ngôn ngữ’, chúng chỉ có thông tin giao tiếp. Ông cho rằng ngôn
ngữ là một hệ thống những quy luật tạo ra vô số câu thể hiện suy nghĩ của người
nói và hệ thống này bẩm sinh và đặc trưng con người. Ông cũng lập luận rằng giao
tiếp là một hệ thống những tín hiệu truyền đạt thông tin hay thể hiện cảm xúc, và
hệ thống này không phải bẩm sinh hay đặc trưng cho con người, nhưng là phổ biến cho mọi loài động vật. Ông không phủ nhận rằng động vật có một số hình thức nhận thức
hay suy nghĩ, nhưng ông không nghĩ rằng chúng có ‘ngôn ngữ’ theo nghĩa giống như của con người.
Chú ý là lý thuyết ngôn ngữ của Chomsky không dựa trên thuyết tiến hóa tổng quát. Chomsky không phủ nhận rằng ngôn ngữ có nguồn gốc tiến hóa, nhưng ông không
cho rằng thuyết tiến hóa có thể giải thích những thuộc tính và cấu trúc cụ thể của
ngôn ngữ. Ông lập luận rằng ngôn ngữ là một khả năng độc đáo của con người mới xuất
hiện đột ngột và gần đây trong lịch sử loài người, và nó không phải là kết quả của
tiến trình thích nghi dần dần hay chọn lọc tự nhiên. Ông cũng lập luận rằng ngôn
ngữ không phải là sản phẩm của tiến trình tiến hóa nhận thức của con người, mà là
nguyên nhân của nó. Ông cho rằng ngôn ngữ là nguồn gốc chính của trí tuệ và sự sáng
tạo của con người, đồng thời nó đem cho khả năng khiến con người phát triển những
năng lực nhận thức và thành tựu văn hóa khác. Chomsky coi ngôn ngữ là một khả năng
độc đáo của con người không thể thu giảm về thành những phương diện khác của nhận
thức hay tác động qua lại xã hội.
[54] {read} + {that book} = {read that book}
[55] Displacement: sự chuyển dịch là một hiện tượng phổ biến trong những ngôn
ngữ tự nhiên. Những nhà ngữ pháp thường nói về sự chuyển dịch trong những
trường hợp ở đó những quy luật cho trật tự c ủa từ ngữ theo đúng qui tắc tiêu chuẩn
dẫn đến việc trông đợi sẽ tìm thấy một từ hay cụm từ ở một vị trí cụ thể trong câu,
trong khi thay vào đó, nó xuất hiện ở một vị trí khác, và vị trí theo với đúng quy
luật tiêu chuẩn thì còn bỏ trống: Thí dụ: ‘quyên sách nào bạn đã mua?’ ‘which book
did you buy?’ minh họa một chuyển dịch, vì cụm danh từ ‘quyển sách nào’/’which book),
đóng vai trò là chủ ngữ trong câu hỏi, không xảy ra ở vị trí chủ ngữ theo qui tắc
tiêu chuẩn, trong tiếng England là sau động từ. Thay vào đó, nó xuất
hiện ở đầu câu (hỏi) và vị trí đối tượng (như một túc từ) vẫn trống.
[56]
Copy & Remerge: Sao chép hay Tái-Hợp-Nhất: chỉ việc sao chép hay sao chép lại những yếu tố hay cấu trúc ngôn ngữ. Tuy nhiên, theo
Chomsky, những hoạt động cụ thể này không cần thiết hay không hiện diện trong
ngôn ngữ. Thay vào đó, Hợp nhất là hoạt động chính chịu trách nhiệm xây dựng những
đối tượng mới bằng kết hợp những yếu tố ngôn ngữ hiện có. Chomsky nói rõ ở trên với mục đích ngăn ngừa việc giải thích sai lầm, cho rằng sự có mặt của Sao chép
hay Tái-Hợp-Nhất như những hoạt động riêng biệt trong khuôn khổ ngôn ngữ
của ông. Ông nhấn mạnh rằng chỉ có Hợp nhất là hoạt động thiết yếu và bất kỳ ý tưởng nào về sao chép hay
lập lại những yếu tố ngôn ngữ đều thì không là một hoạt động cơ bản hay riêng biệt trong lý thuyết của
ông. Hợp nhất là hoạt động trung tâm
trong việc kết hợp những
yếu tố ngôn ngữ, Sao chép hay Tái-Hợp-Nhất thì không được nhìn nhận hay không cần thiết trong khung cấu trức lý thuyết của ông.
[57]
Một trong những kỹ năng
cơ bản nhất của người dùng thành
thạo ngôn ngữ là có khả
năng kết hợp những đơn vị nhỏ hơn (thí dụ: những từ) thành những đơn vị lớn hơn
(thí dụ: những cụm từ). Hợp nhất (Merge) là một hoạt động kết hợp đơn giản và nguyên thủy, lấy
n đối tượng (thường là hai, trong trường hợp ngôn ngữ của con người), chẳng
hạn như X và Y, và tạo thành một set những đối tượng
không-trật tự (Chomsky). Những tài liệu về ngôn ngữ học lý thuyết đã hội tụ trên giả
thuyết rằng ngôn ngữ loài người ở lõi của nó là một hệ thống chỉ con người mới có của sự Hợp nhất vô hạn, và hoạt động đơn giản này là động cơ phát sinh duy nhất làm cơ sở cho vô hạn những diễn tả ngôn ngữ.
Hợp nhất không là một hoạt động đơn lẻ, nhưng một gia đình của những
hoạt động. Để thuộc ‘họ/gia đình’ hợp
nhất, một hoạt động (tính toán) phải
có khả năng tạo ra một set vô hạn của những đối tượng từ một cơ sở hữu hạn. Loại hoạt động hợp
nhất nào phù hợp với cú pháp hẹp tùy thuộc
trên bản
chất của những set
vô hạn của những đối tượng nó đòi hỏi để tạo ra.
Chomsky xác định hình thức đơn giản nhất vốn sự Hợp nhất có
thể có là
sự hình thành của những set chỉ gồm
hai
phần tử:
Áp dụng cho hai đối tượng α và b, Hợp nhất
tạo thành đối tượng mới γ. γ là gì? γ phải được cấu thành bằng cách nào đó từ hai
phần tử α và β …. Đối tượng đơn giản nhất được xây dựng từ α và β là set {α, β},
vì vậy chúng ta coi γ ít nhất là set này. Hợp nhất lấy hai phần tử α, β đã tạo sẵn
và tạo một phần tử mới gồm hai phần tử đó; trong trường hợp đơn giản nhất {α, β}.
Chomsky gọi hình thức này của hợp nhất là “hợp nhất set (set merge)”. Thêm nữa, hợp nhất set là “bên ngoài”
nếu α và β là những đối tượng riêng biệt và “bên trong” (về cơ bản là “di chuyển”)
nếu một này
là phần của một kia,
thí dụ: nếu β
là phần của α, trong trường hợp đó β được gọi là một “sao chép” của những xuất hiện của nó trong α.
[58] “which book did John read”
Theo nguyên tắc
Tính Toán Tối Thiểu, bộ óc dùng một set nhỏ những hoạt động đơn giản để kết hợp
những yếu tố ngôn ngữ (chẳng hạn như từ hay cụm từ) thành những cấu trúc lớn hơn.
Những hoạt động Hợp nhất bên trong và Hợp nhất bên ngoài. là những hoạt động nền
tảng dùng trong tiến trình xây dựng những cấu trúc ngôn ngữ phức tạp. Hợp nhất bên
trong liên quan đến kết hợp hai hay nhiều yếu tố ngôn ngữ trong một cụm từ. Thí
dụ: trong câu “which
book did John read /John đã đọc quyển sách nào”, Hợp nhất bên
trong kết hợp những từ “quyển sách nào” để tạo thành cụm danh từ “quyển sách
nào”. Tương tự, nó kết hợp những từ “did John read” để tạo thành cụm động từ
“did John read”. Hợp nhất bên trong cho phép bộ óc tạo ra những cấu trúc
ngôn ngữ phức tạp bằng cách dùng một set nhỏ những quy luật đơn giản. Mặt khác,
Hợp nhất bên ngoài liên quan đến kết hợp của hai hay nhiều cụm từ hay mệnh đề. Thí
dụ: trong câu “John đã đọc quyển sách nào”, Hợp nhất bên ngoài kết hợp cụm
danh từ “quyển sách nào” với cụm động từ “John đã đọc” để tạo thành một câu lớn
hơn. Cấu trúc lớn hơn này sau đó có thể được kết hợp thêm với những yếu tố ngôn
ngữ khác để tạo ra những cấu trúc thậm chí còn phức tạp hơn. Tiến trình Hợp nhất
bên ngoài liên quan đến việc chọn một phần tử đầu (trong trường hợp này là động
từ “đọc”) và hợp nhất nó với một túc/bổ từ (trong trường hợp này là cụm danh từ
“quyển sách nào”) để tạo thành một cấu trúc lớn hơn. Cấu trúc kết quả gọi là một
cấu trúc theo sự vật thứ bậc đại diện cho cấu trúc cú pháp của một câu (phrase marker)
và biểu thị cấu trúc cú pháp của câu.Như thế, Hợp nhất (Merge) là hoạt động mền
tảng kết hợp hai yếu tố ngôn ngữ thành một cấu trúc duy nhất. Hợp nhất bên trong
kết hợp những yếu tố trong một cụm từ duy nhất, trong khi Hợp nhất bên ngoài kết
hợp những cụm từ hay mệnh đề để tạo thành những cấu trúc lớn hơn.
Dùng những hoạt
động này, bộ óc có thể tạo ra những cấu trúc ngôn ngữ phức tạp qua việc dùng một
lượng nỗ lực tính toán tối thiểu. Điều này rất quan trọng vì bộ óc có nguồn lực
giới hạn và cần giải quyết ngôn ngữ (những hoạt động tinh thần bộ óc con người thực
hiện khi tiếp nhận và tạo ra ngôn ngữ; những hoạt động tinh thần này gồm nhận biết
và hiểu lời nói hay ngôn ngữ viết, tạo câu và diễn giải ý nghĩa) một cách nhanh
chóng và hiệu quả).Tính toán tối thiểu có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu
cách não bộ giải quyết ngôn ngữ và để phát triển những lý thuyết về tiếp thu ngôn
ngữ.
[59] [Tuệ Trịnh, “A Constraint on Copy
Deletion”, Theoretical Linguistics 35, nos. 2–3 (2009): 183–227. . Tôi cũng đặt ra ngoài ở đây một số đề tài vốn nêu lên thêm
nhiều câu hỏi khác nhau, trong số đó có “hoạt động
ngầm”, trong đó chỉ sao chép được hợp nhất
đầu tiên thì được thể hiện
bên ngoài.]
[60] parsing
[61]
Hợp Nhất Bên
Trong là hoạt động kết hợp những thành phần cú pháp bên trong một cấu trúc, tạo những quan hệ sự vật thứ
bậc giữa chúng. Nó tạo thành nền tảng để xây dựng những cấu trúc câu. Mặt khác,
Chuyển Dịch liên quan đến sự chuyển động của những thành phần bên trong những cấu
trúc này. Sự chuyển dịch xảy ra sau khi Hợp Nhất Bên Trong đã diễn ra, cho phép
những thành phần được định chỗ lại hầu thỏa mãn những điều kiện ngữ pháp hay ngữ nghĩa. Hợp nhất bên
trong và chuyển dịch góp phần để có được sự Tính toán
tối thiểu. Hợp Nhất Bên Trong đảm bảo rằng những cấu trúc cú pháp được xây dựng
hiệu quả, kết hợp những thành phần với không phức
tạp không cần thiết. Sự chuyển dịch , mặc dù nó liên quan đến hoán chuyền vị trí , được biện luạn là một hoạt
động ở mức thấp nhất, đem cho năng lực về diễn tả lớn hơn nhưng giữ gánh nặng của tính toán không tăng lên mức đáng kể
[62] “[which of his pictures] did
they persuade the
museum that [[every painter] likes best]?”
[63] quantifier-variable : ‘every’
và ‘his’ , ở đây ‘his’ giới hạn lượng từ ‘mọi người’ (∀)
[64]
copy deletion under externalization: Trong tiến
trình ghép kết nối nhữn cấu trúc cú pháp trừu tượng với dạng thực sự của lời nói hay viết; một số những (dấu vết)
những bản sao không phát âm vốn tồn tại trong cấu trúc sâu của một câu có thể bị
xóa. Thí dụ:
Cấu trúc sâu: John has
read the book, and Mary has read __ (John
đã đọc quyển sách và Mary đã đọc __).
Cấu trúc ngoài mặt: John has read the book, and Mary has read it
(John đã đọc quyển sách và Mary đã đọc nó)
Trong thí dụ này, đại
từ “it/nó” đã dùng thay
thế cho sao chép không phát âm (hay dấu vết không phát âm). Cụm từ gốc
“quyển sách” không lập lại trong
cấu trúc ngoài mặt. Thay
vào đó, đại từ “it” được dùng để trỏ về quyến sách đã nhắc đến trước đó.
[65] Câu “instinctively, eagles that fly swim/ theo bản năng, loài chim ưng vốn bay bơi” thuận hợp với nguyên
tắc khoảng cách tối thiểu và tính toán tối thiểu trong Chomsky. Nguyên
tắc về khoảng cách tối thiểu cho thấy rằng người nói có khuynh hướng sắp xếp những
từ và cụm từ theo cách giảm thiểu khoảng cách giữa những yếu tố liên quan, khiến
việc giải quyết tiến trình ngôn ngữ dễ dàng hơn. Trong câu này, những từ “chim ưng
bay” được đặt gần động từ “bơi”, giúp dễ hiểu tương quan giữa hai yếu tố. Điều này
phù hợp với nguyên tắc khoảng cách tối thiểu. Mặt khác, Tính toán tối thiểu đề cập
đến ý tưởng rằng bộ óc giải quyết tiến trinh ngôn ngữ bằng những quy luật đơn giản
và hiệu quả. Trong câu này, bộ óc có thể dễ dàng giải quyết ý nghĩa của câu bằng
cách dùng quy luật đơn giản rằng chim ưng, giống như loài chim, thường không bơi
và do đó việc dùng từ “theo bản năng” được dùng để truyền đạt một hành vi ngạc nhiên.
Điều này phù hợp với nguyên tắc tính toán tối thiểu.
[66]
Language universals: Những phổ quát ngôn ngữ là những mẫu thức xảy ra có hệ thống trong những ngôn ngữ tự nhiên, thường đúng cho tất cả chúng, Những phổ quát trong ngôn ngữ này
được tìm thấy qua quan sát thực nghiệm. Thí dụ, tất cả những ngôn ngữ đều có những danh từ (chủ ngữ) và những động
từ (thuật ngữ/vị
ngữ), hay nếu là một ngôn ngữ
nói, nó có những phụ âm và những nguyên âm.
Trong khi những phổ
quát trong UG là lý thuyết dựa trên thành phần
sinh học bẩm sinh của “language faculty” của con người, Định đề cơ bản của UG là có những hạn chế bẩm sinh về ngữ pháp của một ngôn
ngữ loài người có thể có. Như thế, Những phổ
quát trong ngôn ngữ dựa
trên những quan sát thực nghiệm trong nhiều những ngôn ngữ, trong khi UG là một khung lý thuyết vốn nhằm giải thích
những nguyên tắc và những giá trị thay đổi bẩm sinh vốn hình thành nên sự tiếp thu và cấu trúc của ngôn ngữ
con người. Những phổ quát ngôn ngữ có thể là tuyệt đối hay tương đối, hàm ý hay không hàm ý, trong khi
ngữ pháp phổ quát được coi là một set của những quy luật hay nguyên tắc
trừu tượng phổ biến với tất cả những ngôn ngữ. Những phổ quát ngôn ngữ cũng có thể
bị thách đố hay sửa đổi dựa trên dữ liệu hay bằng chứng mới, trong khi ngữ pháp
phổ quát được thiết lập vững chắc chống lại những đề nghị thay đổi hay những phản chứng
[67] [Patricia S. Churchland, lời nói
đầu cho W. V. O. Quine, Word and Object (1960; repr., Cambridge, Mass.: MIT
Press, 2013), xiii.]
[68] field linguist: Nhà ngôn ngữ học
thực địa nghiên cứu và ghi lại những ngôn ngữ trong môi trường tự nhiên của chúng.
Họ thu thập dữ liệu, phân tích cấu trúc ngôn ngữ và đóng góp vào những nỗ lực bảo
tồn và phục hồi ngôn ngữ..
[69] Câu “the library
was taken the books from by the boys” trái văn phạm, không theo những quy luật
tạo câu tiêu chuẩn tiếng England.
[70]
Garden Path Sentences: Những Câu
quanh co như Lối Đi Trong Vườn là những câu dẫn người đọc hay người nghe
đi đến diễn giải
chúng theo một lối nhất định
nào đó khi bắt đầu,
nhưng sau
đó, đọc tiếp câu làm họ ngạc nhiên
với một ý nghĩa khác. Thuật ngữ “lối đi trong vườn” chỉ ý tưởng bị
lạc lối hay đi vào một con đường khó hiểu, tương tự như đi theo một con đường quanh
co trong một khu vườn, dẫn đến những
bất ngờ. Những câu loại này tạo ra sự
mơ hồ tạm thời và đòi hỏi người đọc hay nghe phải quay lại và diễn giải lại. Chúng dùng trong ngôn ngữ học để nghiên cứu tiến trinh giải quyết và nhận hiểu ngôn ngữ. Đây là thí dụ một câu cổ
điển của những câu
quanh co như lối đi trong vườn: “The
old man the boats / Ông lão những chiếc thuyền”. Ban đầu, người đọc có thể hiểu ‘the old man/ông lão/người già’ là chủ ngữ của câu và mong đợi một
động từ theo sau. Tuy nhiên, khi gặp “the boats /những chiếc
thuyền”, rõ ràng là “man” thực sự là
động từ “lái” (to man = run, hay operate), và ‘old’ “và ‘the
boats/những chiếc
thuyền’ tạo thành một cụm danh từ bổ nghĩa
cho chủ ngữ (người già lái những con thuyền).
[71] Theo văn phạm >
‘The horse that raced past the
barn fell’.
Trong câu sai ngữ pháp, ‘The horse raced past the
barn fell’, thật
khó để xác định ý nghĩa chính xác nếu không có ngữ cảnh bổ túc. Tuy nhiên, một cách
giải thích có thể là con ngựa khi đang chạy qua chuồng ngựa thì bất ngờ bị ngã.
Một cách giải thích khác có thể là hành động của con ngựa chạy qua chuồng ngựa đã
khiến một gì đó khác rơi xuống. Tuy nhiên, cả hai giải thích đều là suy đoán vì
câu thiếu cấu trúc cú pháp rõ ràng.
[72] islands:
những đảo (chặn): một khái niệm dùng để mô tả hiện tượng hạn chế chuyển dịch
trong một câu. Nó xác định những cấu hình cấu trúc cụ thể hay ngữ cảnh ngôn ngữ
gây trở ngại cho những hoạt động chuyển dịch trong một ngôn ngữ.
[73] [Luigi Rizzi, Issues
trong Italian Syntax (Dordrecht: Foris,1982).]
null subject languages: Ngôn ngữ
không chủ ngữ, còn gọi là ngôn ngữ pro-drop, là một nhóm ngôn ngữ trong đó
chủ ngữ của câu có thể được bỏ hay không được diễn đạt khi nó có thể được suy ra
từ ngữ cảnh hay dạng động từ. Trong những ngôn ngữ này, chủ ngữ có thể không là
gì cả (null) hay rỗng, do đó có thuật ngữ “chủ ngữ rỗng”. Thí dụ: Tiếng Italy: Mango
la pizza. (Tôi ăn pizza); Corriamo. (Chúng ta chạy)
[74]
The Empty Category Principle (ECP): một
nguyên tắc trong Chomsky
chi phối việc phân phối và diễn giải của những yếu
tố trống hay “dấu vết” trong
cấu trúc câu. Nó nói rằng một phân loại (category) trống phải được quản lý đúng
cách bởi một tiền lệ thích hợp, vốn phải là một phân loại cục
bộ và không trống với một vai trò chủ đề (thematic
role).
ECP giúp giải thích những hiện tượng liên quan đến cấu trúc câu, hạn như lý thuyết
liên kết và phân phối những đại
từ và những từ phản thân (reflexives)
[75] sensory modality
[76]
The Minimalist
Program: một khung
nền cấu trúc ngôn ngữ Chomsky đưa ra và khai triển với mục đích khám phá những nguyên tắc và cấu trúc cơ bản
nằm chìm bên dưới ngôn
ngữ của con người. Nó tìm trả lời cho câu hỏi – Cách đơn giản nhất và hiệu quả nhất để tạo và hiểu ngôn
ngữ là gì? Chương Trình
Tối Giản nêu lên rằng ngôn ngữ hoạt động qua một set nhỏ gồm những nguyên
tắc phổ quát, thay vì dựa vào những quy luật dành riêng cho mỗi ngôn ngữ. Chương trình
tối giản trình bày trong The Minimalist Program (1995)
như một sàng lọc và đơn giản hóa lý thuyết trước đây của Chomsky về ngữ pháp phát
sinh biến đổi. Nó nhằm mục đích cung cấp một giải thích hợp lý và tối giản hơn về
những hoạt động cơ bản và nguyên tắc cơ bản của ngôn ngữ. Nó có ảnh hưởng
rất lớn rộng trong ngôn
ngữ học và từ đó đã mở ra nhiều nghiên cứu và tranh luận giữa những nhà ngôn ngữ
học trên thế giới.
[77]
The Strong Minimalist Thesis (SMT) luận đề tối giản mạnh, là ý tưởng cốt lõi trong Chương
Trình Tối Giản. Nó nói rằng ngôn ngữ con người được hình thành bởi những nguyên tắc của tính hiệu quả và của sự tối ưu hóa. Theo SMT, việc nói/viết và hiểu ngôn ngữ liên quan đến những hoạt động tính toán tối thiểu tạo
ra một chuỗi vô hạn của những câu nói theo ngữ pháp. Sự đơn giản và tiết kiệm đến mức tối thiểu
trong những quy luật và những biểu hiện ngôn ngữ, nhấn mạnh trên hoạt động Hợp nhất là cơ chế cơ bản để kết hợp những từ và cụm từ. SMT nói rằng ngôn ngữ được sắp xếp hợp lý và tối
giản bên trong lõi của nó, còn sự phức tạp phát sinh từ những yếu tố bên ngoài. Thế nên, SMT nhấn mạnh trên cấu trúc bên trong và những nguyên tắc phổ quát của ngôn ngữ hơn là trên những nguồn gốc tiến hóa của nó.
[78] So sánh sự xuất hiện của ngôn
ngữ với sự hình thành của một hoa tuyết
có thể là một ẩn dụ để
làm nổi bật bản chất phức tạp và độc đáo của ngôn ngữ. Giống như mỗi hoa tuyết thì khác biệt và được những điều kiện môi trường cụ thể trong tự
nhiên định
hình, ngôn ngữ cũng được coi là một hiện tượng phức tạp và độc đáo phát sinh từ
những yếu
tố nhận thức và văn hóa xã hội cụ thể trong thế giới
tự nhiên của con người sinh sống.