Saturday, September 10, 2022

Chomsky – Chúng Ta Là Loài Sinh Vật Nào? (02)

Chúng Ta Là Loài Sinh Vật Nào?

(What Kind Of Creatures Are We?)

Noam Chomsky

(← ...  tiếp theo) 

 



 1 | NGÔN NGỮ LÀ GÌ?

 

CÂU HỎI TỔNG QUÁT tôi muốn nói trong quyển sách này là một câu hỏi có đã từ lâu: Chúng ta là loài sinh vật nào? Tôi không đủ hão huyền để nghĩ tôi có thể đem cho một trả lời thỏa đáng, nhưng xem dường hợp để tin rằng trong một số lĩnh vực, đặc biệt về phần bản chất nhận thức của chúng ta, ít nhất có những cái nhìn trực giác sâu xa của một số quan tâm tìm hiểu và mang ý nghĩa quan trọng, một số mới, rằng sẽ là có thể để dẹp đi đươc một số những chướng ngại vốn cản trở việc tìm hiểu sâu thêm, gồm một số học thuyết đã được chấp nhận rộng rãi nhưng với những nền tảng vốn kém vững chắc hơn nhiều so với thường đã giả định.

 

Tôi sẽ suy nghĩ về ba câu hỏi đặc biệt, theo mức độ tối nghĩa khó hiểu tăng dần: Ngôn ngữ là gì? Những giới hạn của sự hiểu biết của con người (nếu có) là gì? Và lợi ích chung chúng ta nên gắng sức đạt đến là gì? Tôi sẽ bắt đầu với câu hỏi thứ nhất và sẽ cố gắng để cho thấy lẽ những gì thoạt đầu phần nào có vẻ những câu hỏi hạn hẹp và chuyên môn, nếu kiên nhẫn theo đuổi, dẫn đến một số những kết luận xa rộng vốn tự thân chúng đều có ý nghĩa quan trọng và khác biệt hẳn với những gì được tin tưởng phổ thông – và thường được xem như nền tảng – trong những ngành học liên hệ : khoa học nhận thức trong một nghĩa rộng rãi, gồm ngôn ngữ học, và triết học của ngôn ngữ và não thức. [1]

 

Trước sau, tôi sẽ thảo luận về những gì có vẻ là những những phát biểu hay tin tưởng hầu như đúng thực hiển nhiên với tôi, nhưng thuộc một loại khác ngược với thông thường [2]. Chúng thường bị phủ nhận. Sự việc đó đăt ra một đilemma, ít nhất với tôi. Và có lẽ bạn cũng sẽ quan tâm trong việc giải quyết nó.

 

Quay sang ngôn ngữ, nó đã được nghiên cứu sâu rộng nhiều thành quả trong 2.500 năm, nhưng không có trả lời rõ ràng cho câu hỏi ngôn ngữ là gì. Một số những trả lời chính yếu đã đưa ra tôi sẽ nhắc đến sau. Chúng ta có thể hỏi để lấp đầy chỉ khoảng trống này thì quan trọng như thế nào. Cho sự nghiên cứu của bất kỳ phương diện nào của ngôn ngữ, trả lời nên rõ ràng. Chỉ trong chừng mức rằng có một trả lời với câu hỏi này, ít nhất là hiểu ngầm, là điều có thể để tiến hành thăm những câu hỏi nghiêm trọng về ngôn ngữ, trong số chúng sự tiếp thu và cách dùng, nguồn gốc, sự biến đổi ngôn ngữ, những thuộc tính có chung và khác loại, ngôn ngữ trong xã hội, những cơ cấu bên trong vốn thực hiện hệ thống, cả tự thân hệ thống tri thức và những cách dùng nhiều loại của nó, phân biệt qua những công việc liên hệ. Không nhà sinh vật học nào sẽ nêu lên một giải thích của sự phát triển hay sự tiến hóa của mắt người, lấy thí dụ, nhưng không bảo cho chúng ta một gì xác định khá rõ ràng về một con mắt là gì, và cùng những đúng thực hầu như hiển nhiên như thế thì cũng đúng cho những thăm dò trong ngôn ngữ. Hay sẽ nên là như thế. Đáng chú ý, đó không là cách những câu hỏi, về tổng quát, đã được nhìn như thế nào, một vấn đề tôi sẽ quay lại với nó.

 

Nhưng có những do nền tảng hơn nhiều để cố gắng xác định rõ ràng ngôn ngữ là gì, những lý do vốn trực tiếp liên hệ với câu hỏi chúng ta là loài sinh vật nào. Darwin đã không là người đầu tiên kết luận rằng “những loài động vật hạ đẳng khác với con người đơn thuần chỉ trong khả năng hầu như vô tận của trong việc liên kết những âm thanh và những ý tưởng đa dạng nhất với nhau”; [3] hầu như vô tận” là một câu nói theo thói quen lâu đời, ngày nay được hiểu như vô hạn. Nhưng Darwin là người đầu tiên đã diễn tả khái niệm theo thói quen lâu đời này bên trong khung cấu trúc của một giải thích ở giai đoạn đầu về sự tiến hóa của loài người.

 

Một quan điểm giải thích khác hiện nay được một trong những nhà khoa học hàng đầu, nghiên cứu về sự tiến hóa của loài người, Ian Tattersall đem cho.Trong một bài viết chuyên môn gần đây, phê bình bằng chứng khoa học hiện có, ông nhận xét rằng đã một thời người ta tin rằng hồ sơ về tiến hóa sẽ mang lại “những dấu hiệu sớm báo trước của bản thân con người chúng ta sau này. Tuy nhiên, thực tế thì ngược lại, vì ngày càng rõ ràng rằng việc có được khả năng cảm thụ độc đáo của [con người] ngày nay, thực ra đã là một biến cố (xảy ra) đột ngột và gần đây…. Và sự biểu hiện của khả năng cảm thụ mới này hầu như chắc chắn đã được tiếp tay chủ yếu bởi sự sáng tạo của những gì có lẽ là sự việc có một không hai đáng ghi nhận về bản thân con người ngày nay của chúng ta: ngôn ngữ”. [4] Nếu thế, khi đó một trả lời cho câu hỏi Ngôn ngữ là gì?”có quan trọng lớn với bất kỳ một ai đã quan tâm với sự hiểu biết về bản thân con người chúng ta ngày nay.

 

Tattersall định năm tháng biến cố bất ngờ và đột ngột, như nằm đâu đó trong khung thời gian rất hạn hẹp, khoảng 50.000 đến 100.000 năm trước. Năm tháng chinh xác thì không rõ ràng và không liên quan với những quan tâm của chúng ta ở đây, nhưng sự đột ngột của việc xuất hiện thì có liên quan. Tôi sẽ trở lại với khối tài liệu lớn rộng đang phát triển của giả định suy đoán trên đề tài này, vốn thường nhận được một lập trường rất khác biệt.

 

Nếu giải thích của Tattersall là chinh xác về cơ bản, như bằng chứng thực nghiệm vốn rất giới hạn cho thấy, khi đó những gì đã xuất hiện trong khung thời gian hạn hẹp đã là một năng lực vô hạn của sự ”liên kết âm thanh đa dạng nhất và những ý tưởng”, trong những lời của Darwin. Năng lực vô hạn đó hiển nhiên nằm trong một bộ óc hữu hạn. Đến giữa thế kỷ 20, khái niệm của hệ thống hữu hạn với năng lực vô hạn đã được hiểu rất rõ. Điều đó khiến có thể cung ứng được một hình thành diễn đạt rõ ràng của những gì tôi nghĩ chúng ta nên nhìn nhận là thuộc tính cơ bản nhất của ngôn ngữ, vốn tôi sẽ nhắc đến, ngắn gọn như Thuộc tính Cơ bản: mỗi ngôn ngữ cung ứng một một chuỗi không giới hạn [5] của những diễn đạt có cấu trúc thứ bậc vốn nhận những diễn giải ở hai mặt giao tiếp, mặt phối hợp cảm giác và vận động cho sự thể hiện cảm xúc (bên ngoài) mặt khái niệm-chủ định cho những tiến trình tâm lý ( bên trong). Điều đó đem cho một công thức diễn đạt thực chất nội dung về năng lực vô hạn của Darwin, hay ngược về xa hơn, về phát biểu cổ điển của Aristotle, rằng ngôn ngữ là âm thanh với ý nghĩa – mặc dù công trình (nghiên cứu) trong những năm gần đây cho thấy rằng âm thanh’ thì quá hạn hẹp, có lý do chính đáng, với nó tôi sẽ quay lại, để nghĩ rằng công thức diễn đạt cổ điển thì sai lạc trong những cách thức quan trọng.

 

Sau đó, ít nhất, mỗi ngôn ngữ kết hợp một tiến trình tính toán thỏa mãn Thuộc tính Cơ bản. [6] Do đó, một lý thuyết của ngôn ngữ, theo định nghĩa, là một ngữ pháp phát sinh, và mỗi ngôn ngữ là những được gọi trong những thuật ngữ kỹ thuật là một ngôn ngữ-I” – “ I” viết tắt cho bên trong, cá nhân hàm ý [7]: chúng ta đã quan tâm trong việc khám phá tiến trình tính toán thực sự, không phải trong một số set gồm những đối tượng nó liệt kê, trong những thuật ngữ kỹ thuật, những gì nó “phát sinh mạnh”, tương tự như những chứng minh được phát sinh. trong một hệ tiên đề (toán học) [8]

 

Cũng có một khái niệm “phát sinh yếu” – set của những diễn đạt được phát sinh, tương tự với set của những định lý được phát sinh. Ngoài ra còn có một khái niệm “ngôn ngữ-E”, viết tắt cho ngôn ngữ bên ngoài, vốn nhiều người – không phải tôi – đồng nhất nó với một kho ngữ liệu hay với một set vô hạn vốn được phát sinh yếu.[9] Những triết gia, những nhà ngôn ngữ học, nhận thức học và khoa học về cômputơ đã thường hiểu ngôn ngữ là những gì đã được phát sinh yếu. Nhưng ngay cả khái niệm phát sinh yếu thì có thể định nghĩa được cho ngôn ngữ con người hay không thì là điều không rõ ràng. Nhiều nhất thì phát sinh từ khái niệm nền tảng hơn của ngôn ngữ-I. [10] Đây là những vấn đã thảo luận sâu rộng trong những năm 1950, mặc dù đã không thực sự được tiêu hóa’, tôi tin thế.[11]

 

Tôi sẽ giới hạn sự chú ý ở đây vào ngôn ngữ-I, một thuộc tính sinh học của con người, thuộc một số thành phần phụ của (phần lớn) bộ óc, một cơ quan của não thức / bộ óc trong ý hướng rộng rãi trong đó từ ngữ “cơ quan” được dùng trong sinh học. Tôi coi não thức ở đây là bộ óc, được nhìn ở một mức độ trừu tượng nhất định. Phương cách giải quyết đôi khi gọi là khung cấu trúc sinh học-ngôn ngữ [12] . Nó được xem như còn tranh luận chưa ngã ngũ, nhưng không có những nền tảng, theo ý kiến của tôi. [13]

 

Trong những năm đầu, Thuộc tính Cơ bản đã cưỡng lại việc tạo công thức diễn đạt rõ ràng. Lấy thí dụ, một số công trình cổ điển. Với Ferdinand de Saussure, ngôn ngữ (theo nghĩa liên hệ) là một kho chứa của những hình ảnh từ ngữ trong những não thức của những thành viên của một cộng đồng, vốn “hiện hữu chỉ nhờ vào một loại của hợp đồng đã do những thành viên của một cộng đồng ký kết”. Với Leonard Bloomfield, ngôn ngữ là một loạt [hay một set đa dạng gồm những thói quen vốn một người có thể có] của những thói quen để đáp ứng với những tình cảnh bằng những âm thanh lời nói theo qui ước, và đáp ứng với những âm thanh này bằng những hành động. Ở những chỗ khác, Bloomfield đã định nghĩa ngôn ngữ như “toàn bộ của những lời nói được làm ra trong một cộng đồng tiếng nói” – một gì giống như khái niệm trước đó về ngôn ngữ của William Dwight Whitney như “khối lượng lớn của những dấu hiệu được thốt ra và nghe hiểu được nhờ đó suy nghĩ chủ yếu được bày tỏ trong xã hội loài người”, thế nên “những dấu hiệu nghe hiểu được cho suy nghĩ– mặc dù đây là một khái niệm có phần nào khác biệt trong những lối tôi sẽ trở lại với nó. Edward Sapir đã định nghĩa ngôn ngữ như “một phương pháp thuần túy con người và không-trực giác của việc truyền thông những ý tưởng, những cảm xúc và những mong ước bằng những phương tiện của một hệ thống gồm những ký hiệu đã được tự nguyện tạo ra”. [14]

 

Với những khái niệm như vậy, không phải trái tự nhiên để theo những gì Martin Joos đã gọi là truyền thống Boas [15], chủ trương rằng những ngôn ngữ có thể khác nhau tùy tiện và mỗi ngôn ngữ mới phải được nghiên cứu với không có những khái niệm sẵn trước. [16] Theo đó, lý thuyết ngữ học gồm những tiến trình phân tích để thu giảm một tổng thể tài liệu viết nói thành hình thức được xếp đặt, cơ bản những kỹ thuật phân chia thành phần và xếp loại. Sự phát triển tinh vi phức tạp nhất của khái niệm này đã Methods của Zellig Harris.[17] Một diễn dịch cụ thể thời nay (của nó) lý thuyết ngôn ngữ là một hệ thống của những phương pháp cho tiến trình giải quyết những diễn đạt.[18]

 

Trong những năm đầu, đã có thể hiểu được rằng câu hỏi “Ngôn ngữ là gì?” đã nhận được chỉ những trả lời mơ hồ, không xác định rõ ràng, loại như những trả lời đã nhắc, bỏ qua không chú ý đến Thuộc tính Cơ bản. Tuy nhiên, là điều ngạc nhiên để thấy rằng những trả lời tương tự vẫn lưu hành trong khoa học nhận thức thời nay. Không phải không điển hình là một nghiên cứu dương thời về sự tiến hóa của ngôn ngữ, trong đó những tác giả đã viết trong mở đầu rằng “chúng ta hiểu ngôn ngữ như một bộ đầy đủ của những khả năng để ghép kết âm thanh với ý nghĩa, gồm cấu trúc cơ sở vốn hỗ trợ nó”, [19] về cơ bản là một lập lại phát biểu của Aristotle, và quá mơ hồ để đặt cơ sở cho tìm hiểu xa hơn. Thêm nữa, không nhà sinh vật học nào sẽ nghiên cứu sự tiến hóa của hệ thống thị giác, nhưng không giả định gì khác hơn về những đặc điểm sinh học có thể quan sát được trong một cá thể [20], ngoài việc nó đem cho một hệ đầy đủ của những khả năng để ghép kết nối [21] những kích thích với những gì nhận hiểu được, cùng với bất cứ gì hỗ trợ nó.

 

Trước đó, sớm hơn nhiều, ở khởi nguồn của khoa học thời nay, đã có những báo hiệu ngầm gián tiếp về một bức tranh có phần giống với của Darwin và của Whitney. Galileo đã tự hỏi trước “sự siêu việt của tinh thần” của cá nhân, người, “đã mơ đến việc tìm những phương tiện để truyền thông những suy nghĩ sâu xa nhất của người ấy cho một người bất kỳ nào khác… bằng những sắp xếp khác nhau của hai mươi chữ cái in trên một trang sách”, một thành tích “vượt qua tất cả những phát minh tuyệt vời”, ngay cả của “một Michelangelo, một Raphael, hay một Titian”. [22] Cùng một nhìn nhận, và sự quan tâm sâu xa hơn cho tính cách sáng tạo của việc dùng thông thường của ngôn ngữ, đã sớm thành một yếu tố cốt lõi của triết học-khoa học phái Descartes, thực sự, là một tiêu chuẩn chủ yếu cho sự hiện hữu của tinh thần như một thực thể riêng biệt. Khá hợp lý, điều đó đã dẫn đến những cố gắng để nghĩ ra những thí nghiệm để xem liệu một sinh vật khác có một não thức giống như của chúng ta hay không, đáng chú ý là của Géraud de Cordemoy.[23] . Những thí nghiệm này có phần nào giống như “thí nghiệm Turing”, mặc dù được quan niệm hoàn toàn khác. Thí nghiệm của De Cordemoy giống như một thí nghiệm tính axit bằng giấy quỳ tím, một cố gắng để lấy ra những kết luận về thế giới thực tại. Trò Chơi Bắt Chước của Turing, như ông đã nói rõ, không có những tham vọng như vậy.[24]

 

Đặt những câu hỏi quan trọng này qua một bên, ngày nay không có lý do gì để nghi ngờ cái nhìn trực giác sâu xa nền tảng của phái Descartes, rằng việc dùng ngôn ngữ có một đặc tính sáng tạo: nó là sáng tạo điển hình không giới hạn, ứng hợp với những hoàn cảnh, nhưng không do những hoàn cảnh gây nên – một sự khác biệt quan trọng – và có thể đánh thức những suy nghĩ trong những người khác khiến họ nhận ra rằng chính họ lẽ ra đã có thể tự bày tỏ. Chúng ta có thể bị những hoàn cảnh và những điều kiện bên trong “thôi thúc hay ngả sang có ý thích” nói trong những cách nhất định này nào đó, nhưng không trong những cách nhất định khác nào đó, nhưng chúng ta không bị “buộc” phải nói như vậy, như những người tiếp sau Descartes đã nói. Chúng ta cũng nên nhớ câu nói ngắn gọn và ý nghĩa thường được trích dẫn hiện nay của Wilhelm von Humboldt rằng ngôn ngữ gồm cách dùng vô hạn của những phương tiện hữu hạn, trỏ đến việc dùng. Đầy đủ hơn, ông viết rằng “Ngôn ngữ thì hầu như đối mặt khác thường bởi một lĩnh vực vô tận và thực sự vô biên, yếu tính của tất cả những gì vốn có thể được suy nghĩ. Do đó, nó phải tạo ra vô hạn việc đem dùng những phương tiện hữu hạn, và có khả năng làm được như thế, qua năng lực vốn tạo nên bản chất định tính của ngôn ngữ và tư tưởng”. [25] Thế nên, ông tự đặt mình trong truyền thống của Galileo và những người khác, những người liên kết chặt chẽ ngôn ngữ với tư tưởng, dù sau khi đi xa hơn thế, trong khi xây dựng một giải thích với cái nhìn khác của một khái niệm truyền thống về ngôn ngữ như “sự việc độc đáo đáng chú ý nhất về những bản thân chúng ta thời nay, trong câu nói gần đây của Tattersall.

 

Đã từng có tiến bộ lớn trong sự hiểu biết những phương tiện hữu hạn vốn làm cho cách dùng vô hạn của ngôn ngữ thành có thể được, nhưng điều kể sau vẫn phần lớn còn là một bí ẩn, dù có những tiến bộ quan trọng đáng ghi nhận trong sự hiểu biết những quy ước vốn hướng dẫn cách dùng thích hợp, một câu hỏi hạn hẹp hơn nhiều. Một ẩn sâu xa đến mức nào là một câu hỏi khó trả lời, tôi sẽ trở lại với trong chương 2.

 

Một thế kỷ trước, Otto Jespersen đã nêu lên câu hỏi – những cấu trúc của ngôn ngữ “đi vào thành là-có trong não thức của một người nói” như thế nào, – trên cơ bản của kinh nghiệm hữu hạn, sau khi đem cho một “ý niệm của cấu trúc” vốn “đủ xác định để hướng dẫn người này trong việc tạo hoặc ghép những câu nói riêng của người ấy [26], quan trọng cốt yếu là những diễn đạt tự do” vốn điển hình là mới với cả người nói lẫn người nghe. [27] Việc làm của nhà ngữ học, sau đó là khám phá những tiến trình đã thiết lập này và chúng nảy sinh thế nào trong não thức, và đi xa hơn nữa để đem ra ánh sáng những nguyên tắc lớn nền tảng cho những ngữ pháp của tất cả những ngôn ngữ, và qua việc đem chúng ra ánh sáng để có được “một cái nhìn trực giác sâu xa hơn vào trong bản chất nằm ở cùng đáy thâm sâu nhất của ngôn ngữ con người và của tư tưởng con người” – những ý tưởng vốn ngày nay nghe có vẻ bớt lạ hơn nhiều so với như đã nghe chúng trong thời đại khoa học của thuyết cấu trúc như một trường phái tâm lý học vốn đã thành thống trị phần lớn lĩnh vực, sau khi loại ra bên lề những quan tâm của Jespersen và truyền thống từ đó chúng bắt nguồn [28]

 

Hình thành lại chương trình của Jespersen, việc làm chính là điều tra bản chất thực của những mặt giao tiếp và những tiến trình phát sinh vốn liên hệ chúng trong những ngôn ngữ-I khác nhau, và để xác định chúng nảy sinh trong não thức và được dùng như thế nào, chú ý tập trung chính của quan tâm đương nhiên là “ những diễn tả tự do”. Và đi xa hơn, để đem ra ánh sáng những thuộc tính sinh học đã chung, vốn xác định bản chất của ngôn ngữ-I có thể dễ dàng nhận hiểu được với con người, đề tài của UG, ngữ pháp phổ quát, trong lối giải thích khác trong thời nay của “những nguyên tắc lớn làm bản cho những ngữ pháp của tất cả những ngôn ngữ” của Jespersen, bây giờ được ‘đóng khung’ lại như một câu hỏi của di truyền được cho sẵn vốn đem lại khả năng ngôn ngữ độc đáo của con người và những thể hiện cụ thể của nó trong những ngôn ngữ-I.

 

Sự chuyển đổi giữa thế kỷ 20 của những gì nhìn từ xa sang ngữ pháp phát sinh bên trong khung cấu trúc sinh học-ngôn ngữ đã mở đường đến sự tìm hiểu xa rộng hơn nhiều vào trong bản thân ngôn ngữ và những đề tài liên quan với ngôn ngữ. Phạm vi của những tài liệu thực nghiệm có sẵn từ những ngôn ngữ của những kiểu hình khác loại xa rộng nhất đã được phát triển hết sức lớn rộng, và chúng được nghiên cứu ở một mức độ của chiều sâu vốn trước đây 60 năm đã không thể tưởng tượng được. Sự chuyển đổi này cũng làm giàu thêm rất nhiều tính khác loại của bằng chứng vốn tác động trên sự nghiên cứu của mỗi ngôn ngữ riêng lẻ, để gồm sự tiếp thu, khoa học thần kinh, những tách rời, và nhiều những khác, và cũng cả những gì học được từ việc nghiên cứu của những ngôn ngữ khác, trên giả định đã khẳng định rõ ràng rằng khả năng cho ngôn ngữ dựa trên vốn chung đã có sẵn về sinh học.

 

Ngay khi những cố gắng ban đầu sớm nhất đã làm để xây dựng rõ ràng những ngữ pháp phát sinh 60 năm trước, đã tìm thấy nhiều hiện tượng gây bối rối khó hiểu, chúng đã không được ghi nhận, cho đến khi nào Thuộc Tính Cơ Bản đã không được hình thành và giải quyết rõ ràng, và cú pháp đã chỉ được xem là “cách dùng của những từ” được xác định bởi quy ước và loại suy. Điều này phần nào gợi nhắc đến những giai đoạn ban đầu của khoa học thời nay. Trong hàng nghìn năm, những nhà khoa học đã hài lòng với những giải thích đơn giản cho những hiện tượng quen thuộc: đá rơi xuống và hơi nước bốc lên vì chúng tìm kiếm vị trí tự nhiên của chúng; những đối tượng tác động lẫn nhau vì những thiện cảm và ác cảm; chúng ta nhận biết một tam giác vì hình dạng của nó di chuyển nhanh và nhẹ trong không khí và tự cấy trồng vào trí óc của chúng ta, v.v. Khi Galileo và những người khác đã để chinh họ bối rối tự hỏi về những hiện tượng của tự nhiên, khoa học thời nay bắt đầu – và đã nhanh chóng tìm ra rằng nhiều những tin tưởng của chúng ta là vô nghĩa và những trực giác của chúng ta thường sai. Sự sẵn lòng để chịu bối rối khó hiểu là một phẩm chất giá trị để vun trồng, từ thơ ấu đến tìm hiểu cao xa.

 

Một khó hiểu về ngôn ngữ vốn đã đưa ra ánh sáng từ 60 năm trước, và vẫn còn sống động, và tôi nghĩ rất có ý nghĩa trong việc đem nó vào đây, có liên hệ với một sự kiện đơn giản nhưng gây tò mò muốn biết. Hãy suy nghi về câu “theo bản năng, những con chim ưng vốn bay bơi [29]. Trạng từ [30] “theo bản năng” thì kết hợp với một động từ, nhưng nó bơi”, không phải “bay”. Không có vấn đề gì với ý tưởng rằng những con chim ưng bay được theo bản năng thì bơi được, nhưng nó không thể được diễn tả cách này. Tương tự với câu hỏi “ phải những con chim ưng vốn bay bơi được không?” là về khả năng bơi, không phải bay. [31]

 

Những gì phải bối rối khó hiểu là sự kết hợp của những yếu tố khởi đầu-mệnh đề “theo bản năng” và “có thể” với động từ thì xa hơn, và dựa trên những thuộc tính về cấu trúc, thay vì gần hơn và dựa trên chỉ những thuộc tính về khoảng cách theo đường thẳng, một hoạt động tính toán đơn giản hơn rất nhiều, và một hoạt động vốn sẽ là tối ưu cho việc tiến hành ngôn ngữ. Ngôn ngữ khai thác một thuộc tính của khoảng cách cấu trúc tối thiểu, không bao giờ dùng hoạt động đơn giản hơn nhiều của khoảng cách tối thiểu theo đường thẳng; trong trường hợp này và nhiều trường hợp khác, sự dễ dàng của việc tiến hành thì bị bỏ qua trong sự thiết kế của ngôn ngữ. Trong những thuật ngữ kỹ thuật, những quy luật đều tùy thuộc-cấu trúc trong mọi trường hợp, bỏ qua trật tự theo đường thẳng. Sự phân vân tự hỏi là điều này tại sao lại như thế – không chỉ cho tiếng England, nhưng cho mọi ngôn ngữ, không chỉ cho những xây dựng này nhưng cũng cho tất cả những xây dựng khác, trên khắp một phạm vi rộng lớn.

 

Có một giải thích đơn giản và hợp cho sự kiện rằng đứa trẻ biết câu trả lời đúng theo phản xạ trong những trường giống như những trường hợp này, mặc dù bằng chứng thì rất ít hay hầu như không có, hay không đáng kể: trật tự theo đường thẳng thì chỉ đơn giản không sẵn đó cho người học ngôn ngữ khi chạm mặt với những thí dụ loại như vậy, là người được một nguyên tắc ẩn sâu hướng dẫn, vốn ngăn cấm sự tìm kiếm khoảng cách cấu trúc tối thiểu, sau khi ngăn chặn hoạt động rất đơn giản hơn nhiều của khoảng cách theo đường thẳng tối thiểu. Tôi biết không giải thích nào khác. Và đưa lên giải thích này dĩ nhiên ngay lập tức gọi đến sự giải thích thêm nữa: Tại sao điều này là như thế? Thế còn tính cách đã xác định về di truyền của ngôn ngữ – UG – vốn áp đặt điều kiện cụ thể này là gì ? [32]

 

Nguyên tắc của khoảng cách tối thiểu thì [33] được dùng rất rộng rãi trong thiết kế ngôn ngữ, với giả định như một trường hợp của một nguyên tắc tổng quát hơn, gọi là Tính Toán Tối Thiểu [34], vốn đến lượt được giả định là một trường hợp của một thuộc tính lại còn rất tổng quát hơn nhiều của thế giới hữu cơ, hay ngay cả xa hơn thế nữa. Tuy nhiên, phải có một số thuộc tính đặc biệt của thiết kế ngôn ngữ vốn giới hạn Tính Toán Tối Thiểu với khoảng cách cấu trúc hơn là với khoảng cách theo đường thẳng, bất chấp sự đơn giản hơn rất nhiều của hoạt động kể sau cho sự tính toán và tiến hành ngôn ngữ.[35]

 

Có bằng chứng độc lập từ những nguồn khác, gồm khoa học thần kinh, hỗ trợ cùng một kết luận. Một nhóm khảo cứu ở Milan đã nghiên cứu hoạt động não của những đối tượng đã được trình bày với hai loại kích thích: những ngôn ngữ phù hợp với UG đã đặt ra, và những ngôn ngữ khác không phù hợp với UG; trong trường hợp sau, thí dụ, một quy luật cho sự phủ định vốn đặt thành phần phủ định sau từ thứ ba, một hoạt động tính toán đơn giản hơn nhiều so với những quy luật phủ định trong ngôn ngữ con người. Họ tìm thấy rằng trong trường hợp phù hợp với UG, có sự khởi động bình thường trong những khu vực ngôn ngữ (của não), dù không phải khi trật tự theo đường thẳng được dùng.[36] Trong trường hợp đó, việc làm được hiểu như một vấn đề khó hiểu không thuộc lĩnh vực ngôn ngữ, như hoạt động của não đã cho thấy. Công trình của Neil Smith và Ianthi-Maria Tsimpli với một đối tượng tuy suy kém về nhận thức nhưng có năng khiếu về ngôn ngữ đã đi đến những kết luận tương tự – nhưng đáng chú ý là, đã tìm thấy những người bình thường cũng thế, đã không có khả năng để giải quyết với những vi phạm của UG trong việc dùng trật tự theo đường thẳng. Như Smith kết luận: “dạng ngôn ngữ của thí nghiệm dường như ngăn cản họ với việc tạo ra sự khái quát hóa cấu trúc độc lập phù hợp, mặc dù họ có thể giải quyết dễ dàng. những vấn đề tương đương trong một môi trường không-ngôn ngữ”. [37]

 

Có một nỗ lực hoạt động nhỏ trong khoa học nhận thức điện toán [38] đang cố gắng cho thấy rằng những thuộc tính này của ngôn ngữ có thể học được bằng phân tích thống kê của Data Cực Lớn [39]. Trong thực tế, đây là một trong số rất ít thuộc tính có ý nghĩa của ngôn ngữ đã từng được nhắc đến – không hời hợt, dù với mức độ nào đi nữa – trong những thuật ngữ này. Mọi cố gắng vốn đủ rõ ràng để được điều tra đã cho thấy bị thất bại, không thể khắc phục được.[40] Nhưng quan trọng hơn, những cố gắng đó đầu tiên đã không mục đích chính. Nếu chúng đã được thành công, vốn trông thấy là điều không thể được, chúng sẽ bỏ bỏ lại, không động gì đến câu hỏi nghiêm trọng ban đầu và duy nhất: Tại sao ngôn ngữ luôn luôn dùng thuộc tính tính toán phức tạp của khoảng cách cấu trúc tối thiểu trong những trường hợp liên quan, trong khi luôn luôn bỏ qua lựa chọn đơn giản hơn nhiều của khoảng cách tối thiểu xa gần đường thẳng? Thất bại, không thấu hiểu điểm này là một minh họa cho việc thiếu sẵn sàng để nhận thấy sự khó hiểu phải phân vân vốn tôi đã nhắc ở trước, bước đầu tiên của tiến trình nghiêm chỉnh tìm hiểu khoa học, như đã nhìn nhận trong những ngành khoa học thực nghiệm, ít nhất kể từ Galileo.

 

Một luận đề rộng hơn là trật tự theo đường thẳng thì không bao giờ có sẵn cho sự tính toán trong những phần lõi của ngôn ngữ sau khi gồm cú pháp-ngữ nghĩa [41]. Khi đó, trật tự theo đường thẳng là một phần ngoại vi của ngôn ngữ, một phản chiếu của những thuộc tính của hệ thống phối hợp cảm giác và vận động,vốn đòi hỏi nó: chúng ta không thể nói song song, hay tạo những cấu trúc, nhưng chỉ những chuỗi của những từ. Hệ thống phối hợp cảm giác và vận động thì không đặc biêt thích ứng với ngôn ngữ trong những phương diện nền tảng: những phần thiết yếu cho sự thể hiện bên ngoài và tri giác dường như đã có từ rất lâu trước khi ngôn ngữ xuất hiện. Có bằng chứng rằng hệ thống thính giác của loài chimpanzee có thể là thích nghi được khá tốt cho tiếng nói con người [42] , mặc dù loài ape không thể thực hiện được ngay cả bước đầu tiên trong việc tiếp thu ngôn ngữ, lấy ra những dữ liệu liên quan về ngôn ngữ từ “sự hỗn độn bùng vỡ, ù ù” xung quanh chúng, như trẻ sơ sinh con người làm ngay lập tức theo phản xạ, không phải là một thành tích nhỏ, không đáng kể. Và dù khả năng để điều khiển đường (hệ thống) phát âm cho lời nói phát ra vẻ đặc biệt-con người, nhưng sự kiện đó không thể duy trì quá nhiều sức nặng, sau khi đã biết việc tạo ra ngôn ngữ của con người là độc lập về phương thức, như công trình gần đây về ngôn ngữ ký hiệu đã thiết lập, và có rất ít lý do để hoài nghi rằng loài ape có đủ những khả năng ra dấu hiệu (động tác). Hiển nhiên là những thuộc tính nhận thức nhiều sâu xa hơn đã gồm trong sự tiếp thu và thiết kế ngôn ngữ.

 

Mặc dù vấn đề thì chưa giải quyết xong xuôi, có bằng chứng đáng kể rằng luận đề rộng hơn có thể trong thực tế đúng: thiết kế ngôn ngữ về nền tảng làm ngơ trật tự và những sắp xếp bên ngoài khác. Đặc biệt, sự diễn giải ngữ nghĩa trong những trường hợp cốt lõi tùy thuộc trên thứ bậc, không trên trật tự thấy trong những dạng thức bên ngoài. Nếu thế, khi đó Thuộc tính Cơ bản thì không chính xác như tôi đã hình thành nó trước đó, và như nó đã được hình thành trong tài liệu ngữ học gần đây – những bài viết của tôi, cũng vậy. Đúng hơn, Thuộc tính cơ bản là sự tổng quát hóa của một chuỗi hạn của những diễn đạt có cấu trúc thứ bậc ghép kết nối tới mặt giao tiếp khái niệm-có chủ đích, đem cho một loại của “ngôn ngữ của suy nghĩ” – và hoàn toàn có thể là ngôn ngữ của suy nghĩ ( LOT) [43] duy nhất loại như vậy, mặc dù có những câu hỏi đáng chú ý nảy sinh ở đây. Những câu hỏi đáng chú ý và quan trọng cũng nảy sinh về trạng thái và tính cách của sự ghép kết nối này, vốn tôi sẽ đặt sang một bên.

 

Nếu dòng lý luận này tổng quát thì đúng, khi đó có lý do hợp lý để quay về một khái niệm truyền thống của ngôn ngữ như “một dụng cụ của suy nghĩ “, và chữa lại phát biểu của Aristotle cho thích ứng; ngôn ngữ không là âm thanh với ý nghĩa nhưng ý nghĩa với âm thanh – tổng quát hơn, với một số hình thức của sự thể hiện bên ngoài [44], điển hình là âm thanh mặc dù những phương thức khác đều sẵn: công trình của thế hệ trước về ký hiệu đã cho thấy những điểm tương đồng đáng ghi nhận với ngôn ngữ nói trong cấu trúc, sự tiếp thu, và sự biểu hiện thần kinh., mặc dù phương thức của sự thể hiện bên ngoài dĩ nhiên là hoàn toàn khác nhau. [45]

 

Đáng ghi nhận rằng sự thể hiện bên ngoài thì hiếm khi được dùng. Hầu hết việc đem dùng ngôn ngữ thì phần rất lớn không bao giờ là thể hiện bên ngoài. Nó là một loại của đối thoại bên trong, và khảo cứu ít ỏi trên đề tài, đi ngược về một số những quan sát của Lev Vygotsky, [46] phù hợp với những gì sự quan sát bên trong đưa lên – ít nhất là của tôi: những gì đạt đến ý thức là những mảnh vụn phân tán. Đôi khi, những diễn đạt đã hình thành-đầy đủ ngay lập tức xuất hiện bên trong, quá nhanh khiến những phát âm rõ ràng không thể dự vào, hay ngay cả có thể hướng dẫn chúng. Đây là một đề tài đáng chú ý vốn đã được thăm dò rất ít, nhưng có thể là đối tượng để điều tra và có nhiều hệ quả bất ngờ.

 

Đặt vấn đề vừa nói sang một bên, điều tra của sự thiết kế của ngôn ngữ cho lý do hợp để nghiêm chỉnh đón nhận một khái niệm truyền thống của ngôn ngữ như thiết yếu là một dụng cụ của suy nghĩ. Khi đó sự biểu hiện ra bên ngoài sẽ là một tiến trình phụ trợ, những thuộc tính của nó là một phản xạ – của phần lớn hay hoàn toàn độc lập – của hệ thống phối hợp giác quan-vận động. Điều tra thêm hỗ trợ kết luận này. Theo đó, tiến trình là một tính năng phụ, nằm ở vòng ngoai, của ngôn ngữ, và rằng những cách dùng cụ thể của ngôn ngữ vốn tùy thuộc trên sự thể hiện bên ngoài, trong số chúng là sự truyền thông, đều ngay cả còn nằm ở vòng ngoài nhiều hơn, ngược lại với giáo điều đoán [47] vốn không có hỗ trợ nghiêm chỉnh thật sự. Cũng theo đó, rằng sự suy đoán rộng rãi về sự tiến hóa ngôn ngữ trong những năm gần đây thì đi lạc đường, với sự chú ý của nó tập trung trên sự truyền thông giao tiếp. [48]

 

Thực vậy, đó là giáo diều võ đoán rằng chức năng của ngôn ngữ là truyền thông. Một hình thành điển hình của ý tưởng là như sau: “Là điều quan trọng rằng trong một cộng đồng của những người dùng ngôn ngữ, rằng những từ được dùng với cùng nghĩa. Nếu điều kiện này được đáp ứng, nó dễ dàng giúp cho cứu cánh chính yếu của ngôn ngữ vốn là sự truyền thông. Nếu một người không dùng những từ với nghĩa vốn hầu hết mọi người gắn vào chúng, người này sẽ thất bại để truyền thông hiệu quả với những người khác. Như vậy người ta sẽ đánh bại mục đích chính của ngôn ngữ”. [49]

 

Trước tiên, đó là điều khác lạ, ngược với thông thường để nghĩ rằng ngôn ngữ có một mục đích. Những ngôn ngữ không là những dụng cụ vốn con người thiết kế nhưng là những đối tượng sinh học, giống như hệ thống thị giác, miễn dịch hay tiêu hóa. Những cơ quan loại như thế đôi khi được cho là có những chức năng, là để cho một vài mục đích . Nhưng khái niệm đó thì thiếu xót, không rõ ràng. Lấy thí dụ, như xương cột sống Có phải chức năng của nó là giữ chúng ta cho thẳng lưng, bảo vệ những dây thần kinh, sản xuất những tế bào máu, lưu trữ canxi, hay tất cả những chức năng trên? Những câu hỏi tương tự nảy sinh khi chúng ta hỏi về chức năng và thiết kế của ngôn ngữ. Ở đây, những cân nhắc suy nghĩ về tiến hóa thường được đưa vào, nhưng những điều này thì không phải là tầm thướng, không quan trọng; cũng như với xương cột sống. Với ngôn ngữ, những phỏng đoán khác nhau về sự tiến hóa điển hình thường quay sang những loại hệ thống truyền thông được thấy trong khắp vương quốc động vật, nhưng đó lại nữa, thì chỉ là một phản ảnh của giáo điều thời nay và có nhiều phần xảy ra là một ngõ cụt, vì những lý do đã nhắc, và tôi sẽ trở lại với điều đó..

 

Thêm nữa, ngay cả cho đến mức như ngôn ngữ được dùng cho truyền thông, không cần thiết cho những ý nghĩa để là cùng có chung (hay những âm thanh, hay những cấu trúc). Truyền thông không là một có-hay-không, nhưng đúng hơn là một nhiều-hay-ít. Nếu những tương đồng, có chung thì ít, không đủ, sự truyền thông thất bại đến một mức độ nào đó, như trong đời sống bình thường.

 

Ngay cả nếu thuật ngữ “truyền thông” bị tước đi phần lớn thực chất ý nghĩa và được dùng như một thuật ngữ để chỉ chung cho những giao tiếp xã hội nhiều loại khác nhau, nó vẫn là một phần thứ yếu của việc thực sự dùng ngôn ngữ, cho bất cứ gì vốn quan sát đó thì giá trị.

 

Vắn tắt, không có nền tảng cơ bản cho giáo điều tiêu chuẩn, và bây giờ có bằng chứng với ý nghĩa quan trọng rằng nó thì đơn giản là sai. Không nghi ngờ gì, ngôn ngữ thì đôi khi được dùng cho truyền thông, cũng thế là phơng cách ăn mặc , diễn tả qua nét mặt, và tư thế đi đứng, và nhiều sự việc khác nữa. Nhưng những thuộc tính nền tảng của thiết kế ngôn ngữ cho ấn định rằng một truyền thống giàu thì chính xác trong việc nhìn ngôn ngữ như một dụng cụ thiết yếu của suy nghĩ, ngay cả nếu chúng ta không đi cũng xa như Humboldt trong việc định hai sự việc này.[50]

 

Kết luận trở thành ngay cả sâu chặt vững chắc hơn nếu chúng ta suy nghi về Thuộc tính Cơ bản kỹ lưỡng hơn. Một cách tự nhiên, chúng ta tìm kiếm giải thích đơn giản nhất của Thuộc tính Cơ bản, lý thuyết với ít nhất những quy định tùy tiện – hơn nữa, sau cùng mỗi chúng là một rào cản cho một vài giải thích sau cùng của nguồn gốc của ngôn ngữ. Và chúng ta hỏi việc phải dùng đến phương pháp khoa học tiêu chuẩn này sẽ mang chúng ta đi xa đến đâu.

 

Hoạt động tính toán đơn giản nhất, nằm chìm trong một vài cách thức trong mọi thủ tục tính toán liên quan, lấy những đối tượng đã được xây dựng X và Y và hình thành một đối tượng mới Z. Gọi nó là sự Hợp nhất. [51] Nguyên tắc của Tính toán Tối thiểu ấn định rằng cả X và Y đều không bị sự Hợp Nhất sửa đổi và rằng chúng xuất hiện trong Z không có trật tự. Do đó Hợp Nhất ( X, Y ) = {X, Y}. Dĩ nhiên, điều đó không có nghĩa là bộ óc có chứa những set, như một số cách diễn dịch sai, đang lưu hành, tuyên bố, nhưng đúng hơn rằng bất cứ gì đang xảy ra trong bộ óc có những thuộc tính vốn có thể được mô tả tính chất đặc biệt trong những thuật ngữ thích hợp này – cũng giống đúng như chúng ta không mong đợi để tìm thấy sơ đồ Kekulé [52] cho chất benzen trong một ống nghiệm.

 

Lưu ý rằng nếu ngôn ngữ quả thực thuận hợp theo nguyên tắc của Tính Toán Tối Thiểu về mặt này, chúng ta có một trả lời có phạm vi và ảnh hưởng xa rộng. cho câu hỏi khó trả lời – tại sao trật tự theo đường thẳng chỉ là một thuộc tính phụ trợ của ngôn ngữ, rõ ràng không có sẵn cho những tính toán về cú pháp và về ngữ nghĩa cốt lõi: thiết kế ngôn ngữ thì hoàn hảo về mặt này (và lại nữa, chúng ta có thể hỏi tại sao). Nhìn xa hơn, bằng chứng tăng lên trong sự ủng hộ của kết luận này. [53]

 

Giả định X và Y được hợp nhất và không một nào là phần của một kia, như trong việc kết hợp đọc’ ‘quyển sách đóđể thành hình đối tượng cú pháp tương ứng với đọc quyển sách đó’. [54] Gọi trường hợp đó là Hợp Nhất Bên ngoài. Giả định rằng một này là phần của một kia, như trong kết hợp Y = quyển sách nào, và X = Giáp đọc quyển sách nào, để tạo thành quyển sách nào Giáp đọc quyển sách nào, vốn hiện ra như quyển sách nào Giáp đã đọc” bằng những hoạt động thêm vốn tôi sẽ quay lại với chúng. Đó là một thí dụ của hiện tượng phổ biến của sự chuyển dịch [55] trong ngôn ngữ tự nhiên: những câu được nghe ở một chỗ nhưng được giải thích) cả ở chỗ đó và ở một chỗ khác, do đó câu được hiểu như (nói về mặt ) quyển sách x nào, (thì) Giáp đọc quyển sách x”. Trong trường hợp này, kết quả của Hợp Nhất của X và Y lại là {X, Y}, nhưng với hai sao chép của Y (= quyển sách nào), một bản gốc còn giữ trong X, bản kia là sao chép đã đổi chỗ, đã hợp nhất với X. Gọi đó Hợp Nhất Bên Trong.

 

Điều quan trọng là tránh một cách giải thích sai lầm phổ thông, cũng gặp cả trong những tài liệu chuyên môn. Không có hoạt động Sao chép hay Tái-Hợp-Nhất.[56] Hợp Nhất Bên Trong xảy ra thì tạo ra hai sao chép, nhưng đó là kết quả của Hợp Nhất theo nguyên tắc Tính Toán Tối Thiểu, vốn giữ Hợp Nhất trong dạng đơn giản nhất của nó, không can thiệp với một nào trong những phần tử được Hợp Nhất. Những khái niệm mới về Sao chép hay Tái-Hợp-Nhất không là chỉ thừa thãi; nhưng chúng cũng gây ra những khó khăn đáng kể, trừ khi đã chặt chẽ bó buộc tuân theo những điều kiện đặc biệt mức chính xác rất cao hay chi tiết đòi hỏi đặc biệt của Hợp Nhất Bên Trong, vốn được đáp ứng tự động theo khái niệm đơn giản nhất của Hợp Nhất. [57]

 

Hợp Nhất Bên Ngoài và Hợp Nhất Bên Trong là hai trường hợp duy nhất có thể xảy ra của Hợp Nhất hai phần tử. Cả hai đều thành tự do nếu chúng ta hình thành Hợp Nhất trong lối tối ưu, áp dụng với bất kỳ hai đối tượng nào về cú pháp nào vốn đã được xây dựng xong xuôi, với không thêm những điều kiện nào nữa. Nó sẽ đòi hỏi sự qui định để ngăn chặn, một trong hai trường hợp của Hợp Nhất, hay để làm phức tạp không một nào trong chúng. Đó là một sự kiện quan trọng. Trong nhiều năm, bởi cả chính tôi nữa – đã giả định rằng chuyển dịch là một loại của sự “không toàn hảo” của ngôn ngữ, một thuộc tính khác lạ vốn phải được giải thích cho mất đi, bằng một số phương pháp và những giả định phức tạp hơn về UG. Nhưng điều đó hóa ra là không đúng. Chuyển dịch là những gì chúng ta sẽ mong đợi trên những giả định đơn giản nhất. Sẽ là một không toàn hảo nếu như đã thiếu nó. Đôi khi đã có ý kiến rằng Hợp Nhất Bên Ngoài thì cách nào đó là đơn giản hơn và nên có ưu tiên trong sự thiết kế hay sự tiến hóa. Không có cơ sở cho tin tưởng đó. Nếu có chăng bất cứ một gì, người ta có thể biện luận rằng Hợp Nhất Bên Trong thì đơn giản hơn vì nó liên quan đến ít hơn rất nhiều việc tìm kiếm của không gian hoạt động cho sự tính toán không phải rằng người ta nên chú ý nhiều đến điều đó.

 

Một sự kiện quan trọng khác là Hợp Nhất Bên Trong trong dạng đơn giản nhất của – sau khi làm đúng theo nguyên tắc bao trùm của Tính Toán Tối Thiểu – thường mang lại cấu trúc thích hợp cho sự diễn dịch ngữ nghĩa, như vừa minh họa trong trường hợp đơn giản của quyển sách nào Giáp đã đọc [58]. Tuy nhiên, những trường hợp này là những cấu trúc sai cho hệ thống giác quan-vận động: trong ngôn ngữ về phổ quát, chỉ có sao chép nổi bật nhất về cấu trúc thì được phát âm, như trong trường hợp này: sao chép thấp hơn thì bị xóa. Có một lớp để lộ cho thấy của những ngoại lệ vốn trong thực tế hỗ trợ cho luận điểm tổng quát, nhưng tôi sẽ đặt điều đó sang một bên. [59]

 

Sự xóa bỏ của những sao chép theo đến từ một áp dụng không thể phủ nhận khác của Tính Toán Tối Thiểu : tính toán và phát âm rõ ràng từng tiếng một càng ít càng tốt. Kết quả là những câu đã phát âm rõ ràng có những chỗ trống. Người nghe phải đoán ra xem yếu tố bị thiếu ở chỗ nào. Như đã biết rõ trong sự nghiên cứu của nhận thức và phân tích câu và cú pháp những phần của câu [60] , điều đó đem lại những vấn đề khó khăn cho tiến trinh giải quyết ngôn ngữ, điều-được-gọi là những vấn đề lấp-chỗ-trống. Trong lớp rất rộng này của những trường hợp này cũng thế, thiết kế ngôn ngữ chuộng sự tính toán tối thiểu, bỏ qua những phức tạp trong việc tiến hành và dùng ngôn ngữ.

 

Lưu ý rằng bất kỳ lý thuyết ngôn ngữ nào vốn thay thế Hợp Nhất Bên Trong bằng những cơ chế khác đều có hai gánh nặng của chứng minh để đáp ứng: là cần thiết để biện minh sự quy định ngăn cản Hợp Nhất Bên Trong và cũng cả những cơ chế mới đã dự định để giải thích cho sự chuyển dịch – trong thực tế, sự chuyển dịch với những sao chép, thông thường là những hình thức đúng cho sự diễn dịch ngữ nghĩa. [61]

 

Cùng những kết luận giữ đúng trong những trường hợp phức tạp hơn. Lấy thí dụ, hãy suy nghĩ về câu “[bức nào của những bức tranh của ông ấy] có phải chúng đã thuyết phục nhà bảo tàng rằng [[mọi họa sĩ] thích nhất]?” [62] Nó thì chuyển hóa bởi Hợp Nhất Bên Trong từ cấu trúc cơ bản “[bức nào của những bức tranh của ông ấy] chúng đã thuyết phục nhà bảo tàng rằng [[mọi họa sĩ] thích [bức nào của những bức tranh của ông ấy] nhất ] ?”, đã hình thành trực tiếp bởi Hợp Nhất Bên Trong, với sự chuyển dịch và hai sao chép. Câu đã phát âm “bức nào của những bức tranh của ông ấy” được hiểu là đối tượng của “thích”, trong vị trí của khoảng trống, tương tự như “một của những bức tranh của ông ấy” trong “chúng đã thuyết phục nhà bảo tàng rằng [[mọi họa sĩ] đều thích [một trong số những bức ảnh của ông ấy] nhất]”. Và đó thì đung là cách diễn dịch rằng cấu trúc cơ bản tiềm ẩn với hai sao chép đem cho.

 

Hơn nữa, quan hệ lượng từ-biến số [63] giữa mọi ngườicủa ông ấy mang sang trong “[bức nào của những bức tranh của ông ấy] họ đã thuyết phục nhà bảo tàng rằng [[mọi họa sĩ] thích nhất]?” Trả lời có thể là “bức tranh đầu tiên của ông ấy” – khác biệt cho mọi họa sĩ, như trong một diễn dịch của “họ đã thuyết phục nhà bảo tàng rằng [[mọi họa sĩ] thích [một trong những bức tranh của ông ấy] nhất]”. Ngược lại, không có trả lời giống vậy cho diễn đạt tương tự về cấu trúc “[bức nào của những bức tranh của ông ấy] đã thuyết phục viện bảo tàng rằng [[mọi họa sĩ] thích những bông hoa ]?”, trong trường hợp đó “bức tranh của ông ấy” không rơi vào trong phạm vi của “mọi họa sĩ”. Rõ ràng, đó là sao chép không-phát âm vốn cung cấp cấu trúc đòi hỏi cho việc gán cho lượng từ-biến số cũng như cho việc giải thích động từ-đối tượng. Những kết quả, một lần nữa lại theo sau một cgách đơn giản từ Hợp Nhất Bên Trong và xóa sao chép dưới sự thể hiện ra bên ngoài [64] . Có rất nhiều thí dụ tương tự – cùng với những vấn đề đáng chú ý khi tính phức tạp tăng lên.

 

Cùng mức độ tương tự trong những trường hợp đơn giản hơn, giống như theo bản năng, loài chim ưng vốn bay bơi [65], là điều không tưởng tượng được rằng một số hình thức của tiến trình giải quyết dữ liệu mang lại những kết cục này. Dữ liệu liên quan đều không có sắn với người học ngôn ngữ. Do đó, những kết quả phải lấy được “từ bàn tay nguyên thủy của tự nhiên”, theo câu nói của Hume – trong thuật ngữ của chúng ta, từ bẩm sinh di truyền, cụ thể là kiến trúc của ngôn ngữ như được UG xác định trong tác động lẫn nhau với những nguyên tắc tổng quát như Tính Toán Tối Thiểu. Bằng những lối này, chúng ta có thể lấy ra những kết luận khá sâu rộng và vững chắc về bản chất của UG.

 

Người ta thường đọc những tuyên bố trong văn học (ngôn ngữ học) rằng UG đã bị bác bỏ, hay không hiện hữu. Nhưng đây phải là một sự hiểu lầm. Để phủ nhận sự hiện hữu của UG – đó , của một bẩm sinh có sẵn về sinh học làm khả năng tiềm ẩn nền tảng cho ngôn ngữ – sẽ là để chủ trương rằng đó là một phép lạ, một kỳ diệu, rằng loài người có ngôn ngữ nhưng những loài sinh vật khác không . Tuy nhiên, viện dẫn tham khảo trong những tuyên bố này thì đoán chừng là không với UG; tuy nhiên, đúng hơn, với những mô tả khái quát hóa – thí dụ, những nêu lên rất quan trọng của Joseph Greenberg về những khái quát ngôn ngữ [66] . Lấy thí dụ, trong phần giới thiệu cho bản in mới của Word and Object của Quine, [67] Patricia Churchland, với một trích dẫn không liên quan, viết rằng “những phổ quát về ngôn ngữ, từ lâu là những đứa con cưng của những nhà lý thuyết, đã bị đánh bại tan tác, khi lần lượt mỗi chúng rơi vào (loại) dữ liệu không được xác nhận của những nhà ngôn ngữ học thực địa”. Có lẽ bà coi điều này là sự xác nhận quan điểm của Quine rằng “sự phản ảnh kịp thời về phương pháp và bằng chứng sẽ nghiêng sang giới hạn phần lớn những bàn tán về những phổ quát về ngôn ngữ”, nghĩa là những sự tổng quát hóa về ngôn ngữ. Trong thực tế, chính những nhà ngôn ngữ học thực địa đã tìm ra và xác nhận không chỉ những tổng quát hóa có giá trị tổng quát và rất quan trọng nhưng cũng những thuộc tính bất biến của UG. Thuật ngữ “những nhà ngôn ngữ học thực địa [68] có nghĩa là những nhà ngôn ngữ học quan tâm với dữ liệu, cho dù họ đang làm việc trong rừng rậm Amazon, hay trong những văn phòng của họ ở Belem, hay ở New York.

 

Mảnh vụn của sự đúng thực trong những quan sát như vậy là những tổng quát hóa đều có thể những ngoại lệ, vốn điều này có thể hoàn toàn có giá trị như một kích thích để tìm hiểu – thí dụ, những ngoại lệ với việc xóa những sao chép, vốn tôi vừa nhắc đến. Đó là kinh nghiệm thông thường trong những ngành khoa học. Việc tìm thấy những nhiễu động trong quỹ đạo của Uranus không dẫn đến việc buông bỏ những nguyên lý của Newton và những định luật của Kepler, hay đi đến kết luận rộng hơn rằng không có định luật vật lý nào cả, nhưng đi đến giả định sau này khám phá – về một hành tinh khác, Neptune. Những ngoại lệ với những khái quát mô tả phần lớn có giá trị, đóng một vai trò tương tự khá tổng quát trong khoa học và đã làm như thế, lập lại nhiều lần trong nghiên cứu ngôn ngữ.

 

Khi đó, có bằng chứng thuyết phục và chắc chắn có tác dụng rộng rãi. rằng nếu ngôn ngữ được thiết kế tối ưu, nó sẽ cung cấp những cấu trúc thích hợp cho giải thích ngữ nghĩa nhưng nhường lại những khó khăn cho nhận thức và tiến trình giải quyết ngôn ngữ (do đó là truyền thông). Có nhiều những minh họa khác. Lấy thí dụ, hãy nói, sự thụ động hóa. Người ta đã lập luận rằng sự chuyển sang thể thụ động hỗ trợ tin tưởng rằng ngôn ngữ được thiết kế tốt cho sự truyền thông. Vì vậy, trong câu “the boys took the books [69], nếu chúng ta muốn nói “the books” trước, thì tác động chuyển sang thể thụ động, cho chúng ta làm như thế, bằng cách nói “the books were taken by the boys”. Thực sự, kết luận là điều ngược lại. Thiết kế của ngôn ngữ, theo đến từ Tính Toán Tối thiểu, thường xuyên ngăn chặn chọn lựa này. Giả sử trong câu “the boys took the books from the library, chúng ta muốn đặt “the library đứng trước, tức the library was taken the books from by the boysĐiều đó bị thiết kế ngôn ngữ ngăn cản, thế nhưng một rào cản khác với sự truyền thông.

 

Những trường hợp nên quan tâm chú ý là những trường hợp trong đó có một mâu thuẫn trực tiếp giữa hiệu năng tính toán và truyền thông. Trong mọi trường hợp được biết, hiệu năng tính toán chiếm ưu thế; sự dễ dàng cho truyền thông bị hy sinh. Nhiều trường hợp như vậy rất quen thuộc, trong số đó có sự mơ hồ về cấu trúc và “Những Câu quanh co như Lối Đi Trong Vườn[70] như “the horse raced past the barn fell / con ngựa đã chạy ngang qua chuồng bị ngã”, được hiểu như trái văn phạm trong trình bày đầu tiên [71]. Một trường hợp được quan tâm đặc biệt khác được gọi là những đảo chặn [72]– những xây dựng trong đó việc lấy ra (Hợp nhất Bên Trong) thì bị cấm – trong chừng mực khi chúng có thể được đem cho những giải thích theo nguyên tắc dẫn đến hiệu quả về tính toán. Một minh họa là những câu hỏi liên quan đến câu “they asked if the mechanics fixed the cars /họ hỏi không biết những người thợ máy đã chữa những ô tô?”. Chúng ta có thể hỏi “how many cars, / có bao nhiêu ô ”, kết quả là “how many cars did they ask if the mechanics fixed? / có bao nhiêu ô tô họ đã hỏi nếu những gười thợ máy đã chữa?” Hay chúng ta có thể hỏi “how many mechanics, / có bao nhiêu thợ máy”, đem cho “how many mechanics did they ask if fixed the cars? / họ đã hỏi bao nhiêu thợ máy nếu đã chữa ô tô?” Hai câu hỏi khác nhau rõ rệt về tình trạng: “how many mechanics / có bao nhiêu thợ máy” là một suy nghĩ tốt, nhưng nó phải được diễn đạt bằng một số cách nói nói quanh co luẩn quẩn, một lần nữa cản trở sự truyền thông; về mặt kỹ thuật là vi phạm ECP. Ở đây, cũng vậy, dường như có những thí dụ ngược lại, chẳng hạn trong tiếng Italy. Việc thừa nhận những điều này đã dẫn đến những khám phá về bản chất của những ngôn ngữ chủ ngữ rỗng của Luigi Rizzi, [73] củng cố nguyên tắc ECP [74], một lần nữa minh họa giá trị của những khái quát được nêu lên và những ngoại lệ rõ ràng.

 

Có nhiều những trường hợp tương tự. Trong chừng mức như chúng được hiểu, những cấu trúc là kết quả từ phục vụ hoạt động tự do của những quy luật đơn giản nhất, nhường lại những khó khăn cho nhận thức và tiến trình giải quyết ngôn ngữ. Lại nữa, ở chỗ việc làm dễ dàng tiến trình giải quyết và hiệu quả truyền thông xung đột với hiệu quả về tính toán trong thiết kế ngôn ngữ, trong mọi trường hợp đã biết, việc kể trước sẽ bị hy sinh. Điều đó hỗ trợ thêm cho cái nhìn của ngôn ngữ như một dụng cụ của tư tưởng, trong những phương diện quan tâm chú ý đã thiết kế hoàn hảo, với việc thể hiện bên ngoài một tiến trình phụ, do đó, một sự truyền thông, vì những lý do tương tự nhưng thuyết phục hơn, và những cách dùng khác của ngôn ngữ được thể hiện bên ngoài . Như thường lệ, những gì thực sự quan sát được đem cho một bức tranh khá sai lệch về những nguyên tắc làm nền tảng cho nó. Nghệ thuật thiết yếu của khoa học là sự thu giảm của “những gì nhìn-thấy-được phức tạp thành những không-nhìn-thấy-được đơn giản”, như người đoạt giải Nobel hóa học Jean Baptiste Perrin, đã nói về vấn đề.

 

Để đưa ra rõ ràng hơn những gì đang bị đe dọa, chúng ta hãy đảo ngược lập luận đã nêu ở đây, đặt nó trong một cách nguyên tắc hơn. Chúng ta bắt đầu với Thuộc Tính Cơ Bản của ngôn ngữ và hỏi xem hệ thống tính toán tối ưu sẽ là gì vốn nắm bắt nó, sau khi áp dụng phương pháp khoa học thông thường. Trả lời là sự Hợp Nhất ở dạng đơn giản nhất, của nó, với hai biến thể của nó, Hợp Nhất Bên Ngoài và Hợp Nhất Bên Trong, biến thể sau mang lại “lý thuyết sao chép của chuyển dịch”. Trong một phạm vi lớn rộng và quan trọng của những những trường hợp, vốn mang lại những hình thức thích hợp cho việc giải thích ngữ nghĩa ở mặt giao tiếp khái niệm-có chủ đích, vốn thiếu trật tự hay những sắp xếp khác. Sau đó, một tiến trình phụ trợ của sự thể hiện bên ngoài sẽ chuyển đổi những đối tượng được tạo ra bên trong thành một dạng thích nghi với hệ thống giác quan-vận động, với những sắp xếp vốn thay đổi tùy thuộc trên phương thức cảm giác [75] cho sự thể hiện bên ngoài . Bên ngoài cũng phải tuân theo Tính toán Tối thiểu, do đó những sao chép bị xóa, gây khó khăn cho việc giải quyết và dùng ngôn ngữ (gồm cả trường hợp truyền thông đặc biệt). Một sai sót của những giả định tối ưu là những quy luật luôn tùy thuộc vào cấu trúc, giải quyết câu đố được thảo luận ngay từ đầu và những người khác thích nó.

 

Một dự án nghiên cứu rộng hơn – trong những năm gần đây, gọi là chương trình tối giản [76]– bắt đầu với sự giả định về tối ưu – những gì đã gọi là luận đề tối giản mạnh, SMT – và để hỏi xem nó có thể giữ vững được bao lâu, bao xa trong khi đối mặt với những phức tạp và sự đa dạng được quan sát trong những ngôn ngữ trên thế giới [77]. Khi thấy được một chỗ trống, công việc sẽ là xem liệu dữ liệu có thể được diễn giải lại hay không, hay những nguyên tắc của sự tính toán tối ưu có thể được xem xét lại?, như thế để giải quyết những câu hỏi khó khăn bên trong khuôn khổ của SMT, như thế cung ứng một số hỗ trợ, trong một lĩnh vực nhiều bất ngờ và nhiều quan tâm chú ý, cho châm ngôn của Galileo rằng thiên nhiên thì đơn giản, và công việc của nhà khoa học là chứng minh điều đó. Công việc dĩ nhiên là một thách thức. Công bằng vốn nói, tôi nghĩ, ngày nay có vẻ là một thỏa thuận thực tế hơn so với vài năm trước đây, dù những vấn đề to lớn, dĩ nhiên vẫn còn.

 

Tất cả những điều này đồng thời nêu lên thêm một câu hỏi tiếp: Tại sao ngôn ngữ phải được thiết kế tối ưu, trong chừng mực vốn SMT chủ trương? Câu hỏi này dẫn chúng ta đến cân nhắc suy nghĩ về nguồn gốc của ngôn ngữ. Giả thuyết SMT rất phù hợp với bằng chứng rất giới hạn vốn chúng ta có về sự xuất hiện của ngôn ngữ, rõ ràng là rất mới đây và đột ngột trong thang thời gian tiến hóa, như Tattersall đã thảo luận. Một phỏng đoán thẳng thắn trong ngày nay – và một phỏng đoan vốn mở ra những con đường nghiên cứu và tìm hiểu phong phú – là một số gài đặt móc nối lại mạch nơrôn” nhẹ của bộ óc đã đem lại (hoạt động) Hợp Nhất, một cách tự nhiên trong dạng đơn giản nhất của nó, đem cho cơ sở cho suy nghĩ sáng tạo và vô hạn, “bước nhảy vĩ đại về trước” được vén mở cho thấy trong hồ sơ khảo cổ học, và những khác biệt đáng chú ý ghi nhận tách biệt con người thời nay với những người có trước của họ và phần còn lại của vương quốc động vật. Trong chừng mực như phỏng đoán có thể đứng vững, chúng ta sẽ có một trả lời cho những câu hỏi về sự thiết kế tối ưu hiện thấy rõ của ngôn ngữ: đó là những gì sẽ được mong đợi dưới những trường hợp đã được nêu lên, với không có lựa chọn hay những áp lực khác hoạt động, như thế hệ thống nổi lên sẽ chỉ tuân theo những luật của tự nhiên, trong trường hợp này là những nguyên tắc của Tính Toán Tối Thiểu đúng hơn theo cách một hoa tuyết thành hình thế nào. [78]

 

Những ghi nhận này chỉ như vết cào xước chạm vào mặt ngoài. Có lẽ chúng có thể dùng để minh họa – tại sao trả lời cho câu hỏi “Ngôn ngữ là gì?” thì rất quan trọng, và cũng để minh họa sự chú ý chặt chẽ với câu hỏi cơ bản này có thể mang lại như thế nào – những kết luận có nhiều hệ quả cho sự nghiên cứu của con người là loài sinh vật nào.




 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(Sep/2022)

(Còn tiếp ... )

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com




[1]

(a) Những công trình nghiêm cứu ngữ học của Chomsky đặc biệt đã làm thay đổi bản chất của chính ngành học này, qua đó dẫn đến những kết luận có ý nghĩa triết học lớn lao. Một vấn đề trung tâm đã thống trị phần lớn triết học thế kỷ 20, là câu hỏi về quan hệ giữa ngôn ngữ và thế giới . Wittgenstein, thí du, đã như quị lụy suốt đời ông với vấn đề này. Chomsky, như một nhà ngôn ngữ học, lập luận rằng đường lối chúng ta thực sự có được cách dùng ngôn ngữ và qua đô với quan hệ của nó với kinh nghiệm, và quan hệ của nó với thế giới, tất cả đều hoàn toàn khác với những gì truyền thống triết học Anglo-Saxon đã duy trì. Chomsky giữ vai trò chính trong việc lật đổ thuyết hành vi tâm như giáo điều chính trong nghiên cứu tâm lý học và triết học, phục hồi cách dễ dàng nhận hiểu triết học của chủ nghĩa duy lý, và làm khái niệm về bẩm sinh và mô-đun được tôn trọng trong nghiên cứu về não thức. Chomsky đầu tiên đưa ra ý tưởng của ông vào cuối những năm 1950 như phần của phê bình trường phái Tâm Lý Học Hành Vi (behavioral psychology) của ông. Quan điểm trong thuyết tâm lý học hành vi cho rằng mỗi cá nhân con người bước vào thế giới như một khối vật chất, không có khác nhau, dễ uốn nắn. Sau đó được môi trường của nó nhào nặn và định hình, qua những tiến trình của kích thích và phản ứng. Qua thưởng/phạt, củng cố của những phản ứng và liên kết những ý tưởng khiến cá nhân phát triển và học, gồm việc học ngôn ngữ. Chomsky biện luận rằng điều này không thể giải thích được hiện tượng là hầu như mọi người, bất kể mức độ thông minh, đều làm được một việc cực kỳ khó khăn, dùng một ngôn ngữ thành thạo; ngay cả khi không được chủ ý dạy, như trường hợp của hầu hết chúng ta, và họ làm được điều này trong một thời gian rất ngắn, ngay sau khi ra đời. Ông lập luận rằng để điều này xảy ra như thế, chúng ta phải được program-sẵn trước về di truyền. Do đó, tất cả những ngôn ngữ của con người phải có chung một cấu trúc cơ bản tương ứng với program-sẵn trước này. Điều này cũng có một số ý nghĩa tiêu cực. Quan trọng nhất là bất cứ sự vật việc gì không thể phù hợp với cấu trúc này; bất cứ sự việc vật gì không bị vướng trong ‘mắt lưới’ của mạng lưới cụ thể này, với chúng ta về ngôn ngữ, chúng đều không thể diễn đạt và không thể hiểu được. Như thế, những nguyên tắc chung cho tất cả những ngôn ngữ đã đặt những giới hạn quan trọng với khả năng hiểu biết thế giới và trao đổi, thông tin ý nghĩ của chúng ta. Noam Chomsky (khi còn ở trường MIT) nghiên cứu những gì đã trở thành khoa học nhận thức, một lĩnh vực hướng đến việc khai mở những biểu hiện tinh thần, và những quy luật nền tảng cho những khả năng tri giác và nhận thức của chúng ta. Chomsky và những đồng nghiệp của ông đã lật đổ thuyết hành vi thịnh hành đương thời, do nhà tâm lý học B.F. Skinner (ở Harward) dẫn đầu. Bác bỏ dứt khoát những giải thích của những người thuyết tâm lý hành vi về việc học ngôn ngữ, đánh dấu bằng bài Chomsky phê bình (1959) quyển Verbal Behavior (1957) của Skinner. Trong đó Skinner đã cố gắng giải thích khả năng ngôn ngữ dùng những nguyên tắc của tâm lý học hành vi. Skinner nhấn mạnh trên những liên kết lịch sử giữa một kích thích và phản ứng của động vật—một cách dễ dàng nhận hiểu có thể đóng khung như một loại phân tích thống kê duy nghiệm, tiên đoán những gì sẽ xảy ra dựa trên những gì đã xảy ra (hành vi quá khứ). Chomsky đã đưa ra thuyết Tinh Thần (Mentalism) hay Bẩm sinh (Innatism) về học tập, nhấn mạnh vai trò của não thức trong việc tiếp thu ngôn ngữ, lập luận rằng con người có khả năng ngôn ngữ bẩm sinh để nói/học ngôn ngữ. điều này làm cho khả năng ngôn ngữ của con người là vô tận. Chomsky cũng tin rằng thành phần sinh học này của ngôn ngữ kết nối tất cả những ngôn ngữ. (a) Khả năng Ngôn ngữ: theo lời Chomsky “...bức tranh nổi bật về ngôn ngữ (khi tôi mới ra trường – University of Pennsylvania.) đã là ngôn ngữ trong yếu tính là một hệ thống những thói quen hay những kỹ năng hay những khuynh hướng để hoạt động, và ngôn ngữ có được qua dạy dỗ huấn luyên, qua sự lặp lại, có lẽ qua quy nạp hay khái quát hóa hay liên kết. Và kiến thức của một người, là hệ thống thói quen của một người, được phát triển chỉ đơn giản qua sự bồi đắp tăng dần theo kinh nghiệm, tuân theo những tiến trình này của khái quát hóa và loại suy. Và bức tranh rõ ràng là một giả định về thực tại nhưng được trình bày như là một sự thật tiên nghiệm, điều vốn chắc chắn là không phải vậy. Ý tôi là rõ ràng là không tất yếu rằng ngôn ngữ là một hệ thống loại thế đó, rằng nó không được tiếp thu và là bất cứ sự việc gì tương tự như vậy”. (b) ... chúng ta có thể nói rằng ngôn ngữ ngay cả không được học, .... với tôi, có vẻ như nếu chúng ta muốn một đưa ra một ẩn dụ hợp lý, chúng ta sẽ nói về sự tăng trưởng. với tôi, ngôn ngữ dường như phát triển trong não thức thì đúng hơn, theo cách những hệ thống cơ thể phát triển. .. Thực sự .. tôi nghĩ không phải là không thuận để nhìn não thức như một hệ thống gồm những cơ năng tinh thần, trong đó ngôn ngữ là một. Mỗi năng có cấu trúc được năng khiếu di truyền về sinh học ấn định, với những tác động và ảnh tưởng đối ứng, tổng quát cũng được bản chất bẩm sinh sinh học của chúng ta ấn định, tăng trưởng qua tác động của kinh nghiệm, định hình và trau dồi khả năng diễn đạt lưu loát, mạch lạc, khi cá nhân phát triển qua những giai đoạn đời sống Nói cách khác, chúng ta được program sẵn để học một ngôn ngữ, giống như cách chúng ta được program sẵn để phát triển tay chân và dậy thì ở tuổi thiếu niên, và tất cả những loại tiến trình tăng trưởng đôi khi xảy ra châm hơn khác? Đúng vậy, ... và tuổi dậy thì là một thí dụ điển hình, là trường hợp phát triển sinh học của sự phát triển tự động di truyền vốn đã program sẵn về bản chất nhưng xảy ra sau khi sinh. Và trong thực tế, chúng ta có thể (nói) ... ngay cả cái chết, cũng đã được di truyền ấn định. Đó là chúng ta được cấu tạo về sinh học để đến một thời điểm nhất định nào đó, những tiến trình sống của chúng ta dừng lại. Nhưng, sự kiện những phát triển diễn ra sau khi sinh vật đã bắt đầu như một hiện hữu độc lập, (thực vẫn) không (xác định) cho chúng ta biết gì về việc đó, có phải là một phát triển được ấn định về di truyền hay không. [theo Bryan Magee – phỏng vấn Chomsky (1978)]. Như thế, quan niệm về ngôn ngữ của Chomsky đã nhấn mạnh trên sự phức tạp của những biểu hiện bên trong, đã ghi chép’ trong genome và sự trưởng thành của chúng dưới ánh sáng của dữ liệu phù hợp trong một hệ thống tính toán tinh vi, một hệ thống không thể chia nhỏ hữu ích thành một set những liên kết. Những nguyên tắc liên kết của thuyết hành vi không thể giải thích được sự phong phú của kiến thức ngôn ngữ, cách chúng ta đem dùng nó một cách sáng tạo bất tận, hay sự tiếp thu nhanh chóng của trẻ em với tối thiểu và không hoàn hảo trong cách dễ dàng nhận hiểu ngôn ngữ, thể hiện qua môi trường văn hóa của chúng. “Khả năng ngôn ngữ”, như Chomsky đề cập, là một phần của nguồn gen di truyền trong cấu sinh vật. Chúng ta phải nghiên cứu , không ảo tưởng; thực tiễn và duy thực, như nghiên cứu hệ thống thị giác, miễn dịch, tuần hoàn, .... những hệ thống sinh học tương tự khác của con người.

[2] Truisms: những phát biểu hay tin tưởng vốn thường được chấp nhận là đúng hay hiển nhiên

[3] [Charles Darwin, The Descent of Man (London: Murray, 1871), chương 3.]

[4] [Ian Tattersall, Masters of the Planet: The Search for Our Human Origins (New York: Palgrave Macmillan, 2012), xi.]

[5] unbounded array: ở đây hiểu như một chuỗi [hay một sắp xếp với trật tự] vô hạn – (Chomsky dùng khái niệm array của toán học)

Thuộc tính Cơ bản : những tính chất cơ bản đặc biệt của ngôn ngữ theo Chomsky, Nói một cách đơn giản:

1. Ngôn ngữ có thể tạo ra vô hạn những câu nói. Thí dụ, chúng ta có thể tạo ra vô số câu giống như ‘con mèo nằm trên tấm thảm’, ‘tôi muốn ra công viên’, hay ‘Cô ấy đang đọc một quyển sách …

2. Những câu có một cấu trúc trật tự thứ bậc. Chúng có thể được chia thành những cụm từ, những cụm từ lại có thể được chia thành những thành phần nhỏ hơn. Chẳng hạn, câu ‘con mèo nằm trên tấm thảm’ có thể được phân tích thành ‘con mèo ‘(cụm danh từ/chủ ngữ) và ‘nằm trên tấm thảm’ (cụm động từ/thuật ngữ).

3. Ngôn ngữ có hai mặt giao tiếp: (a) mặt phối hợp cảm giác và vận động cho sự thể hiện cảm xúc (bên ngoài). Mặt giap tiếp này gồm tạo ra và tiếp nhận ngôn ngữ qua nói hay viết. Khi nói câu ‘tôi thích ăn phở’, người nói dùng giap tiếp này để bày tỏ những gì nghĩ cảm chủ quan. (b) mặt khái niệm-chủ định cho những tiến trình tâm lý ( bên trong): Khi chúng ta hiểu câu Con chó đuổi theo quả bóng’, chúng ta dùng mặt giap tiếp này để diễn giải quan hệ giữa những từ và những khái niệm.

[6] A computational procedure: một tiến trình tính toán, như định nghĩa của Chomsky, để chỉ những tiến trình tâm hay những hoạt động nhận thức khiến chúng ta có khả năng tạo và hiểu ngôn ngữ.

[7] (a) ‘Bên trong’: ngôn ngữ được tiến hành bên trong não thức và bộ óc của cá nhân người nói hay người nghe. Đó là một khả năng tâm không quan sát trực tiếp được từ bên ngoài: (b) ‘Cá nhân nhấn mạnh sự kiện mỗi cá nhân có kiến thức ngữ pháp hay ngôn ngữ bên trong của riêng họ, được hình thành bởi kinh nghiệm và tác động qua lại của chính họ với ngôn ngữ. Mặc dù có những điểm tương đồng giữa ngữ pháp của từng người một thì khác nhau, nhưng ngữ pháp của mỗi người cuối cùng là duy nhất. (c) ‘hàm ý’ hiểu như những quy luật và nguyên tắc của ngôn ngữ không chỉ mô tả nhưng ý nghĩa có thể giải thích được ngoài những ý nghĩa đã biết. Nói cách khác, I-language đề cập đến khả năng tạo ra những câu mới lạ và đúng ngữ pháp, không chỉ nhận biết và lập lại những câu đã biết, hiện có.

[8] Giả sử chúng ta có một ngữ pháp đơn giản để tạo ra những cụm danh từ trong tiếng England:

NP –> Det Noun

Det –> “the” | “a”

Noun –> “cat” | “dog”       [“mèo” | “chó”]

Phát sinh yếu của ngữ pháp này sẽ là set tất cả những cụm danh từ tiếng England được hình thành tốt có thể được tạo ra bởi ngữ pháp này, gồm:

“the cat”

“the dog”

“a cat”

“a dog”

Mặt khác, phát sinh mạnh của câu “con mèo đuổi theo con chó” sẽ là set tất cả những cấu trúc câu có thể được bắt nguồn từ câu đó, chẳng hạn như:

“the dog chased the cat”

“the cat chased the dog in the park”

“the dog that the cat chased was big”

[“con chó đã đuổi con mèo”/”con mèo đã đuổi theo con chó trong công viên”/”con chó mà con mèo đuổi theo thì lớn”]

Vì vậy, trong khi phát sinh mạnh quan tâm đến những dẫn xuất cụ thể có thể được tạo ra từ một câu hay cụm từ nhất định, thì phát sinh yếu quan tâm đến khả năng tổng thể của ngữ pháp để tạo ra một loạt những diễn đạtđược hình thành tốt trong một ngôn ngữ nhất định.

[9] [Thuật ngữ là của tôi. Xem Noam Chomsky, Knowledge of Language: Its Nature, Origin, and Use (New York: Praeger, 1986). Nhưng tôi đã định nghĩa nó gần như bỏ trống, như bất kỳ khái niệm ngôn ngữ nào khác hơn ngôn ngữ-I.]

[10] Ý tưởng là ngôn ngữ-I đại diện cho kiến thức ngôn ngữ trừu tượng và bên trong vốn những cá nhân có được. Nó gồm những nguyên tắc, quy luật và cấu trúc ngữ pháp cho phép người nói tạo và hiểu vô số những câu đúng ngữ pháp. Kiến thức bên trong này không thể quan sát trực tiếp được, nhưng được suy ra qua hành vi và khả năng ngôn ngữ. Mặt khác, ngôn ngữ-E nói đến những biểu hiện có thể quan sát được của ngôn ngữ trong những nội dung xã hội. Nó gồm những câu nói thực, những phát biểu và ngôn ngữ trong truyền thông. Ngôn ngữ-E có thể được phân tích qua nghiên cứu về ngữ liệu, diễn ngôn và những thành tố ngôn ngữ xã hội. Mặc dù ngôn ngữ-E cung cấp những hiểu biết có giá trị về cách ngôn ngữ được đem dùng trong những nội dung khác nhau, Chomsky lập luận rằng nó bắt nguồn từ ngôn ngữ-I cơ bản, vốn tạo cơ sở cho khả năng ngôn ngữ. Chomsky nhấn mạnh sự vượt trội quan trọng của những tiến trình biểu đạt tinh thần và nhận thức liên quan đến ngôn ngữ. Ông muốn nhấn mạnh rằng việc nghiên cứu ngôn ngữ nên tập trung vào việc hiểu những cơ chế và nguyên tắc bên trong vốn đem cho con người khả năng để nhận, nói và hiểu được ngôn ngữ, thay vì chỉ dựa trên những quan sát bên ngoài về việc dung ngôn ngữ.

[11] [Một nguồn của hiểu lầm có thể là trong tác phẩm ban đầu, ‘ngôn ngữ’ đôi khi được định nghĩa trong những đoạn giới thiệu trong những từ ngữ của sự phát sinh yếu, mặc dù cách dùng đã nhanh chóng đủ khả năng, vì những lý do đã giải thích].

Trong nội dung trên , “yếu” liên quan với khái niệm ngôn ngữ được tạo hay giải thích bởi những yếu tố nổi ngoài mặt, như những cấu trúc và những mẫu thức quan sát được, nhưng không đi sâu vào những tiến trình nhận thức và khả năng ngôn ngữ bẩm sinh chìm bên dưới, vốn là cơ sở cho việc dùng ngôn ngữ. “Yếu” để tương phản với sự nắm vững cơ bản và toàn diện hơn về ngôn ngữ, vốn Chomsky cho rằng khái niệm ngôn ngữ I mới thực có. Nhấn mạnh trên quan trọng của ngôn ngữ-I, Chomsky muốn cho thấy sự hiểu biết ngôn ngữ ở mức bề mặt thì sơ sài (yếu) nên không đủ để đi đến thấu hiểu toàn vẹn (vững chãi) về bản chất với những phức tạp của nó.

[12] the biolinguistic framework: Khung cấu trúc sinh học-ngôn ngữ là một khung lý thuyết vốn tìm để giải thích cơ bản sinh học của ngôn ngữ và nó được tiếp thu và giải quyết trong não như thế nào. Khung nền này lần đầu tiên được Chomsky nêu lên vào những năm 1950 và đã được phát triển trong nhiều năm, qua một kết hợp của nghiên cứu ngôn ngữ, sinh học và nhận thức. Nó cho rằng có một mô-đun ngôn ngữ đặc biệt trong não, có trách nhiệm về khả năng tiếp thu và tiến trình giải quyết ngôn ngữ của chúng ta, và mô-đun này đã tiến hóa theo thời gian qua chọn lọc tự nhiên. Một số phê bình cho rằng việc khung tập trung vào một mô-đun ngôn ngữ (hay khả năng) cụ thể trong não là quá đơn giản và không nắm bắt được đầy đủ sự phức tạp của tiến trình giải quyết ngôn ngữ. Tuy nhiên, thuyết này đã được hỗ trợ bởi một loạt những bằng chứng thực nghiệm từ lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ, nhận thức và khoa học thần kinh.

[13]

(1)

Ngôn ngữ đã được coi là đối tượng của ngôn ngữ học. Nhưng Noam Chomsky nhấn mạnh rằng ngôn ngữ là một khái niệm vô dụng với khoa học ngôn ngữ. Ông lập luận rằng quan tâm của ngôn ngữ học nên là ngữ pháp (grammar). Ông đổi tên gọi ngôn ngữ và ngữ pháp (hay văn phạm – grammar), là ngôn ngữ bên ngoài (ngôn ngữ-E) và ngôn ngữ bên trong (ngôn ngữ-I). Theo Chomsky, ngôn ngữ-E (ngôn ngữ) là một gì đó trừu tượng hiện ra bên ngoài từ bộ máy thực sự của não thức chúng ta và Ngôn ngữ-I (ngữ pháp) là cơ chế vật lý của bộ óc chúng ta. Nếu chúng ta được ban cho Ngữ pháp phổ quát (UG) khi mới sinh và có ngôn ngữ-I sau khi những nhân số được xây dựng trong UG được thiết lập theo cách này hay cách khác, và ngôn ngữ-I phát sinh ra ngôn ngữ E, thì ngôn ngữ-I sẽ là đối tượng của khoa học ngôn ngữ. Nhưng nếu không có gì ngoài ngôn ngữ (ngôn ngữ-E) nói hay viết quanh chúng ta và nếu xem ngữ pháp (ngôn ngữ-I) là những quy luật có nguồn từ ngôn ngữ (ngôn ngữ-E), thì chúng ta sẽ có một câu chuyện hoàn toàn khác. Nói cách khác, ngôn ngữ nói hay viết xung quanh chúng ta khi đó sẽ là đối tượng của khoa học ngôn ngữ. Theo lý thuyết ngôn ngữ học của Chomsky, những đối tượng nghiên cứu thích hợp những ngôn ngữ I (ngôn ngữ-bên trong) đến từ sự tự kết hợp bên trong những người nói tiếng mẹ đẻ, qua học hỏi hay đồng hóa vô thức, và thành phần bản chất của mỗi người, nhưng không là những ngôn ngữ-E (ngôn ngữ-bên ngoài), hay ngôn ngữ mọi người trong công chúng dùng. Chomsky phủ nhận rằng những ngôn ngữ-E công cộng là đối tượng thích hợp của nghiên cứu khoa học. Thật vậy, ông không cho rằng những ngôn ngữ-E có thể được xác lập nhất quán, hợp lý, vì chúng đơn giản không tồn tại. Những đối tượng nghiên cứu thích hợp là Ngôn ngữ-I; Một ngôn ngữ-I là cá nhân, trong đó mỗi người nói có một ngôn ngữ-I riêng của mình. Trọng tâm này đảo ngược truyền thống. Những ngôn ngữ-E như tiếng England, tiếng Swahili, tiếng Việt v.v. với Chomsky, (tốt nhất) đều là những sự ý tưởng hóa triệt để, hay (tệ nhất) là những đối tượng giả tạo không mạch lạc. Tốt nhất, ngôn ngữ-E là giao điểm của những thuộc tính chung của những ngôn ngữ I khác nhau. Vì vậy, chẳng hạn, không phải những người nói giao tiếp được vì họ có chung một ngôn ngữ; nhưng đúng hơn ở bất cứ nơi nào có sự trùng lập ngôn ngữ I.thì có thể có sự truyền thông. Ngôn ngữ-I là ‘bên trong’ theo nghĩa là phần cấu tạo tinh thần của cá nhân người nói. Nó không phải là một đối tượng của ‘thế giới những thể dạng của Plato cũng không phải là một cấu trúc xã hội. Nhiều triết gia đã thấy rằng sự tập trung này của Chomsky vào ngôn ngữ-I đưa đến nhiều vấn đề khó giả quyết

Lý thuyết ngôn ngữ học Chomsky đã thay đổi đường lối nghiên cứu ngôn ngữ theo truyền thống. Bản chất của tri thức, trong tổng quát vốn gắn chặt với tri thức con người, khiến Chomsky khái quát hóa lý thuyết nghiên cứu quan hệ giữa ngôn ngữ và thế giới của ông một bước tiến lôgích – cụ thể là sự nghiên cứu về sự dúng thật và quy chiếu. Nhưng lý thuyết của ông đã vẫn tạo tranh luận và đưa lên của ông về ‘những ý tưởng bẩm sinhđã bị một số người duy nghiệm chống lại, họ coi ông là người duy lý. Lý thuyết ngôn ngữ học của Chomsky dựa trên những sự kiện duy nghiệm sau: “đứa trẻ học ngôn ngữ với những kích thích có giới hạn”, hay vấn đề về ‘sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích’ (poverty of the stimulus) Những gì đem vào trong giai đoạn tiếp thu của một ngôn ngữ tự nhiên thì giới hạn và suy thoái. Nhũng gì đưa ra thì không thể đơn giản chỉ giải thích bằng động học tập, như quy nạp và loại suy trên những gì đã đưa vào. Nhũng gì đưa vào và đưa ra đều khác nhau về cả phẩm lẫn lượng. Một chủ thể biết những sự kiện ngôn ngữ với không hướng dẫn hay ngay không bằng chứng trực tiếp. Những sự kiện thực nghiệm này, “kiến thức không cơ sở”, được diễn tả: “Thông thường, kiến thức của ngôn ngữ đạt được qua tiếp xúc ngắn và đặc điểm của kiến thức nhận được là phần lớn có thể được xác định trước”. Kiến thức đã xác định trước này là một số “khái niệm của cấu trúc”, trong não thức của người nói, vốn hướng dẫn người nói trong việc tiếp thu một ngôn ngữ tự nhiên (tiếng mẹ đẻ) của người này. Cho một đối tượng biết một ngôn ngữ tự nhiên là cho người này một ngôn ngữ-I nhất định nào đó. Việc tiếp thu ngôn ngữ, trong những thuật ngữ của ngôn ngữ I, tương ứng với sự thay đổi của trạng thái não thức/não bộ của một chủ thể. Để biết ngôn ngữ L là để não thức/bộ óc của chủ thể H, ban đầu là trong một trạng thái S0; để được đặt một trạng thái SL nhất định nào đó Một công việc của khoa học nhận thức sẽ là giải thích về những gì bộ óc của H là, (đặc biệt là khả năng ngôn ngữ của nó) vốn tương ứng với việc chủ thể H biết ngôn ngữ L. Chomsky đưa một giả thuyết quan trọng là Ngữ Pháp Phổ Quát (UG). UG là một sự biểu thị hóa đặc điểm của những nguyên tắc bẩm sinh này của chức năng ngôn ngữ, Ngôn ngữ-I.. Nó là một hệ thống của những điều kiện về ngữ pháp, những giới hạn về hình thức và sự diễn giải của ngữ pháp ở mọi mức độ, từ những cấu trúc sâu của cú pháp, qua thành phần chuyển nghĩa, đến những quy luât diễn giải những cấu trúc cú pháp về ngữ nghĩa và ngữ âm. (Chomsky, Knowledge of Language).

Như thế có thể xem UG như phần riêng biệt của não thức con người, khiến ngôn ngữ trở nên phát sinh và việc học ngôn ngữ nhanh chóng, dễ dàng. UG như những quy luật tượng trưng và hệ thống trong não thức chúng ta. Chúng giúp phân loại, phân tích, phân biệt, đồng hóa, hiểu và nhận ngôn ngữ con người. Theo Steven Pinker có một gì đó, chúng ta có thể gọi là “ngữ pháp phổ quát” theo nghĩa sau: đứa trẻ thì có một khuynh hướng có sẵn (thiên kiến) để phân tích lời nói chúng nghe được theo những cách cụ thể nào đó. Sự việc không chỉ đơn giản là ghi lại nguyên văn những câu nói. Nhưng một nửa là nhớ lại của hệ thống ngôn ngữ, nửa kia algorithm hay quy luật chi phối, tìm kiếm, cố gắng lấy ra những quy luật tổ hợp từ chuỗi lời nói. Có một số loại quy luật và yếu tố vốn đứa trẻ tìm kiếm để mở khóa. Set những khả năng đó là những ngữ pháp phổ quát. Có những tương đồng giữa những ngôn ngữ trên thế giới đến từ sự kiện là ngôn ngữ được mỗi thế hệ làm mới, qua não thức của những đứa trẻ, chúng xây dựng nó từ dữ liệu chúng nhận được từ cha mẹ và bạn bè chúng.

Định đề cơ bản của UG là có những hạn chế bẩm sinh về ngữ pháp ngôn ngữ trong một ngôn ngữ con người có thể có. Khi nhận được những kích thích ngôn ngữ trong tiến trình tiếp thu ngôn ngữ, trẻ em sẽ áp dụng những quy luật cú pháp cụ thể vốn thuận hợp với UG. Thuyết này nhấn mạnh và dựa vào sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích (POS) và sự hiện hữu của một số những thuộc tính phổ quát ngôn ngữ của ngôn ngữ tự nhiên của con người. Lập luận POS cho rằng những trẻ em nhận được về ngôn ngữ (học nói tiếng mẹ đẻ) thì không đủ để giải thích cho sự thành thạo nhanh chóng trong việc dùng ngôn ngữ của chúng, và do đó chúng phải có sẵn một vốn bẩm sinh về khả năng ngôn ngữ. Những thuộc tính phổ quát ở đây là một số tính năng hay quy luật vốn tất cả những ngôn ngữ con người có chung, như sự khác biệt giữa những danh từ và những động từ, chen thêm hay nối câu. Thuyết nêu lên rằng có một khả năng ngôn ngữ bẩm sinh về sinh học, khiến nhờ biết những quy luật này, trẻ có thể học nói nhanh chóng. Khả năng này không biết từ vựng của bất kỳ ngôn ngữ cụ thể nào (vì vậy chúng phải được học những từ và nghĩa trong tiếng mẹ đẻ), và vẫn còn một số giá trị có thể thay đổi tự do giữa những ngôn ngữ (chẳng hạn như tính từ đứng trước hay sau danh từ) cũng phải được học. UG tách biệt với những giác quan và là một phần của nhận thức con người. Đó là vấn đề điều tra thực nghiệm để xác định chính xác những thuộc tính nào là phổ biến và những khả năng ngôn ngữ nào là bẩm sinh.

Một số thí dụ về những thuộc tính phổ quát của ngôn ngữ : (a) Tất cả những ngôn ngữ đều có ngữ pháp, một hệ thống những quy luật chi phối cách những từ và câu được hình thành và giải thích (b) Tất cả những ngôn ngữ đều là hệ thống biểu tượng, nghĩa là chúng dùng những dấu hiệu tùy ý (chẳng hạn như âm thanh hay cử chỉ) để biểu thị những đối tượng, hành động, ý tưởng, v.v. (c) Tất cả những ngôn ngữ đều có trật tự từ cơ bản của những thành phần, chẳng hạn như chủ ngữ, động từ và tân ngữ, với những biến thể (d) Tất cả những ngôn ngữ đều có những phạm trù ngữ pháp cơ bản giống nhau như danh từ và động từ (e) Tất cả những ngôn ngữ đều có âm vị, đơn vị âm thanh tối thiểu có thể tạo ra sự khác biệt về ý nghĩa (f) Tất cả những ngôn ngữ đều có tính năng đối ngẫu của khuôn mẫu, nghĩa là chúng có thể kết hợp những đơn vị vô nghĩa (chẳng hạn như âm vị) thành những đơn vị có nghĩa (chẳng hạn như hình thái), rồi kết hợp chúng thành những đơn vị lớn hơn (chẳng hạn như cụm từ và câu). (g) Tất cả những ngôn ngữ đều hiệu quả và sáng tạo, nghĩa là chúng có thể tạo ra vô số cách diễn đạt mới từ một set hữu hạn những phần tử

Một số khác biệt giữa những ngôn ngữ : (a) Những từ và ký hiệu khác nhau cho cùng một khái niệm, như khi từ ‘dog’ trong tiếng England xuất hiện trong tiếng Spain perro hay trong tiếng Japan là inu (b) âm thanh và cách phát âm khác nhau, chẳng hạn như âm rung mạnh ‘r’ của tiếng Spain perro hay âm bật hơi ‘t’ của tiếng England tea (c) cấu trúc và quy luật ngữ pháp khác nhau, chẳng hạn như trật tự từ của chủ ngữ, động từ và tân ngữ, hay cách dùng mạo từ, thì và giới tính (d) ý nghĩa và hàm ý khác nhau cho cùng một từ hay cách diễn đạt, tùy thuộc vào ngữ cảnh và văn hóa (e) có nhiều loại và phương ngữ khác nhau, có thể khác nhau về từ vựng, cách phát âm, ngữ pháp hay cách dùng trong cùng một ngôn ngữ

(2)

Lý thuyết ngôn ngữ của Noam Chomsky đã là một chủ đề thảo luận lớn với nhiều đề tài tranh luận, kể từ khi nó ra đời vào những năm 1950. Lý thuyết ngôn ngữ của Noam Chomsky là một set gồm những ý tưởng về cách thức con người tiếp nhận và đem dùng ngôn ngữ như thế nào. Chomsky đưa lên ý tưởng rằng ngôn ngữ là một khả năng nhận thức duy nhất của con người, (ông nhấn mạnh) dựa trên cơ sở sinh học, được những quy luật ngữ pháp cơ bản phổ quát trong con người điều chỉnh. Lý thuyết của Chomsky đã cách mạng lĩnh vực ngôn ngữ học và ảnh hưởng đến những ngành khác như tâm lý học nhận thức và triết học về não thức.

Trung tâm lý thuyết ngôn ngữ của Noam Chomsky là thuyết ngữ pháp phổ quát. UG là lý thuyết chủ trương rằng con người có một thành phần sinh học bẩm sinh của khả năng ngôn ngữ chứa đựng những nguyên tắc và ràng buộc của ngôn ngữ tự nhiên Theo Chomsky, con người được sinh ra với môt khả năng ngữ bẩm sinh để tiếp thu ngôn ngữ. Khả năng bẩm sinh này, Chomsky gọi là “cơ chế tiếp nhận ngôn ngữ (LAD) là một cấu trúc tinh thần bẩm sinh giả định đem cho khả năng khiến trẻ học và tạo ngôn ngữ. Chomsky cho rằng LAD là một phần của bộ óc con người vốn chứa đựng kiến thức về những quy luật ngữ pháp phổ quát làm nền tảng cho tất cả những ngôn ngữ của con người. Thuật ngữ “cơ chế “ trong cụm từ “cơ chế tiếp nhận ngôn ngữ” có thể gây hiểu nhầm, vì nó không có nghĩa là đề cập đến một thiết bị hay dụng cụ vật lý như cômputơ hay máy móc. Thay vào đó, nó là một từ ẩn dụ dùng để mô tả một cơ chế hay mô-đun nhận thức dành riêng cho việc tiếp thu ngôn ngữ. Theo quan điểm của Chomsky, LAD đem cho khả năng khiến trẻ em tiếp thu nhanh chóng và dễ dàng những quy luật và cấu trúc phức tạp của (các) ngôn ngữ mẹ đẻ mà không cần hướng dẫn hay phản hồi rõ ràng. Ông lập luận rằng khả năng này chỉ có ở con người và là kết quả của năng lực sinh học bẩm sinh về ngôn ngữ vốn có ở tất cả mọi người. Chomsky lập luận rằng tất cả những ngôn ngữ của con người đều có chung những đặc điểm cơ bản nhất định không được học nhưng sẵn trong bộ óc người. Ông gọi hệ thống những quy luật và nguyên tắc ngôn ngữ con người chung này là “ngữ pháp phổ quát”. Điều này có nghĩa là mặc dù có sự khác biệt lớn về cấu trúc bề mặt của những ngôn ngữ khác nhau, vẫn có những điểm tương đồng cơ bản trong cách ngôn ngữ được cấu trúc và tiến hanh trong não bộ con người.

Như đã nói ở trên – Lý thuyết ngữ pháp phổ quát của Chomsky cho rằng con người sinh ra với một khả năng bẩm sinh để học và hiểu ngôn ngữ, và khả năng này đã được cài đặt gắn chặt (trong hệ nơrôn) trong óc của chúng ta. Theo UG có một số nguyên tắc và quy luật cơ bản nền tảng trong tất cả những ngôn ngữ đều chung, và chúng hình thành cơ bản cho những khả năng học hiểu ngôn ngữ của chúng ta. Chomsky nhiều lần nhấn mạnh quan sát thực nghiệm rằng trẻ em có thể học ngôn ngữ nhanh chóng nhưng không cần hướng dẫn nhiều rõ ràng, vì chúng có sẵn một hiểu biết bẩm sinh về ngữ pháp phổ quát. Hiểu biết này cho chúng khả năng nhận ra những mẫu thức và quy luật vốn làm nền tảng cho tất cả những ngôn ngữ và cho chúng khả năng áp dụng những mẫu thức này vào chính ngôn ngữ chúng đang học. Nói đơn giản hơn, UG là một set gồm những cấu trúc và những nguyên tắc ngôn ngữ bẩm sinh có trong tất cả mọi người và cho chúng ta khả năng để học và dùng ngôn ngữ. Nó giống như một software ngôn ngữ có-sẵn khiến chúng ta nhận ra được những quy luật và mẫu thức cơ bản của bất kỳ ngôn ngữ nào chúng ta gặp, và dùng những quy luật này để học và thông tin.

Ngữ pháp phổ quát (UG – generative grammar) này, cũng gọi là ngữ pháp chuyển đổi-phát sinh (transformational-generative grammar), là một lý thuyết ngôn ngữ đưa lên sự hiện hữu của những nguyên tắc và những giá trị thay đổi bẩm sinh, phổ quát trong bộ óc con người vốn chi phối cấu trúc của ngôn ngữ con người. UG cho rằng những nguyên tắc và những giá trị thay đổi này là nguyên nhân tạo ra một số vô hạn của những câu vốn người nói có thể tạo ra trong một ngôn ngữ. UG gồm hai loại quy luật: quy luật cấu trúc cụm từ, vốn định rõ cấu trúc của những câu nói, và những quy luật chuyển đổi, vốn mô tả một câu có thể được chuyển đổi thành câu khác như thế nào. Khái niệm UG gợi ý rằng trong khi có những thuộc tính phổ quát trong tất cả những ngôn ngữ con người, nhưng những quy luật và những giá trị thay đổi cụ thể vốn chi phối mỗi ngôn ngữ có thể biến đổi khác nhau, do đó dẫn đến sự đa dạng giàu của những ngôn ngữ thấy trên thế giới. Hiểu một số khái niệm và ý tưởng chính trong UG, sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn lý thuyết này:

Trước hết, Chomsky đưa lên rằng tất cả con người đều được sinh ra với một khả năng bẩm sinh để học và dùng ngôn ngữ. Chủ trương này đi ngược với quan điểm của những người theo thuyết hành vi trong việc tiếp thu ngôn ngữ, vốn họ cho rằng ngôn ngữ được học, qua việc điều kiện hóa và củng cố môi trường. Chomsky lập luận rằng những cấu trúc và quy luật phức tạp của ngôn ngữ không thể chỉ được giải thích bằng loại tiến trình học tập này, và rằng phải có một ngữ pháp phổ quát, bẩm sinh làm nền tảng cho mọi ngôn ngữ con người.

Ngữ pháp phổ quát này gồm một set của những nguyên tắc và những giá trị thay đổi (parameter) vốn chúng được ‘cài đặt gắn chặttrong bộ óc con người. Những nguyên tắc là những quy luật cơ bản chi phối cấu trúc của ngôn ngữ, trong khi những giá trị thay đổi là những đặt định cụ thể bên trong những quy luật đó vốn khác nhau giữa những ngôn ngữ. Thí dụ, nguyên tắc cấu trúc cụm từ quy định rằng tất cả những câu đều được tạo thành từ cụm danh từ và cụm động từ, trong khi giá trị thay đổi về trật tự từ xác định chủ ngữ đứng trước hay đứng sau động từ.

Lý thuyết của Chomsky cũng liên quan đến một phân biệt giữa cấu trúc sâu và cấu trúc bề mặt. Cấu trúc sâu đề cập đến ý nghĩa cơ bản của một câu, trong khi cấu trúc bề mặt đề cập đến cách câu được diễn đạt thực sự. Những quy luật biến đổi vận hành trên cấu trúc sâu để sinh ra cấu trúc bề mặt của câu. Điều này đem cho khả năng khiến tạo ra một số vô hạn của những câu trong một ngôn ngữ.

Ngoài những khái niệm này, lý thuyết của Chomsky cũng nêu lên ý tưởng sự tiếp thu ngôn ngữ như một tiến trình của thử nghiệm giả thuyết. Trẻ em được cho là phát triển một set những giả thuyết về cấu trúc của ngôn ngữ của chúng, dựa trên dữ liệu input chúng nhận từ môi trường. Sau đó, chúng kiểm nghiệm những giả thuyết này dựa trên dữ liệu input mới, qua đó dần bồi đắp tinh tế hơn sự hiểu biết của chúng về những quy luật và những giá trị thay đổi của ngôn ngữ.

Tổng quát, ngữ pháp chuyển đổi-phát sinh trình bày một lý thuyết ngôn ngữ phức tạp và có ảnh hưởng lớn rộng, có tác động rất quan trọng trong nghiên cứu ngôn ngữ và não thức con người. Lý thuyết này đã trải qua những sửa đổi trong nhiều năm, và nó vẫn tiếp tục là một lý thuyết được nghiên cứu và tranh luận rộng rãi trong những lĩnh vực liên hệ. Tạm kể một số học giả nổi tiếng có đóng góp quan trọng trong thảo luận:

(a) Steven Pinker: nhà tâm lý học nhận thức, nhà ngôn ngữ học và tác giả khoa học nổi tiếng. Ông đã viết một số sách có ảnh hưởng về ngôn ngữ, nhận thức và bản chất con người, gồm The Language Instinct, How the Mind Work, The Blank Slate Enlightenment Now. Pinker được biết nhiều với những đóng góp của ông trong nghiên cứu tiến trình tiếp thu ngôn ngữ, tâm lý học nhận thức, bản chất của suy nghĩ và hành vi con người. Ông thừa nhận vai trò của Chomsky trong việc định hình sự nghiên cứu ngôn ngữ và nhận thức. Tuy nhiên, Pinker không đồng ý với một số lý thuyết cốt lõi của UG, đặc biệt sự nhấn mạnh của trên sự hiểu biết bẩm sinh về ngôn ngữ và coi nhẹ vai trò của kinh nghiệm trong sự tiếp thu ngôn ngữ. Những phê bình UG của Pinker đã dẫn đến một sự hiểu biết đa dạng và nhiều ý nghĩa hơn về ngôn ngữ và quan hệ của nó với não thức con người. Dưới đây là tóm tắt những phê bình của ông:

(i) Thiếu bằng chứng thực nghiệm: Pinker lập luận rằng UG là một set giả định gồm những quy luật được cho là “cài mắc chặt” trong bộ óc, nhưng không có bằng chứng rõ ràng về sự hiện hữu của những quy luật loại giống như thế. Thí dụ, không có bằng chứng trực tiếp về những phạm trù hay nguyên tắc ngữ pháp bẩm sinh trong bộ óc. Hơn nữa, khái niệm về sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích (the poverty of the stimulus), vốn là nguyên lý trung tâm của UG, không được hỗ trợ bởi bằng chứng thực nghiệm. Đây là ý tưởng này cho rằng trẻ em không được tiếp xúc với đủ dữ liệu ngôn ngữ để học những quy luật phức tạp của ngôn ngữ, và do đó phải có khả năng bẩm sinh để lấp đầy những khoảng trống.

(ii) Tính đa dạng ngôn ngữ: Pinker lưu ý rằng phần lớn những ngôn ngữ trên thế giới trưng bày sự biến đổi và đa dạng đáng kể, vốn rất khó dung hòa với ý tưởng về một UG. Thí dụ: một số ngôn ngữ có trật tự từ khác nhau, dùng những hệ thống thì (thời gian) khác nhau hay có cấu trúc câu khác với những ngôn ngữ khác.

(iii) Xem nhẹ kinh nghiệm: Pinker biện luận rằng UG không giải thích cách trẻ em học ngôn ngữ như thế nào, vì nó cho rằng trẻ em chỉ đơn giản được sinh ra với một set có sẵn gồm những quy luật đem cho khả năng khiến chúng tiếp thu bất kỳ ngôn ngữ nào. Pinker lập luận rằng quan điểm này đã xcoi nhẹ vai trò quan trọng của kinh nghiệm và tiếp xúc trong sự tiếp thu ngôn ngữ. Thí dụ, những nghiên cứu đã cho thấy rằng việc tiếp thu ngôn ngữ của trẻ em chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố như số lượng và chất lượng dữ kiện input trẻ nhận được từ người chăm sóc, bối cảnh xã hội trng đó trẻ học và mức độ tác động qua lại trẻ có với những người nói ngôn ngữ đó.

(iv) Thiếu linh hoạt: Pinker cho rằng UG không giải thích được việc dùng ngôn ngữ một cách sáng tạo và linh hoạt. Con người có thể dùng ngôn ngữ theo những cách mới lạ và sáng tạo, đồng thời điều chỉnh việc dùng ngôn ngữ của họ phù hợp với những nội dung và hoàn cảnh khác nhau. Điều này cho thấy ngôn ngữ không chỉ đơn giản là một set gồm những quy luật có sẵn bẩm sinh t, nhưng là một hệ thống linh hoạt và năng động được những yếu tố xã hội và nhận thức hình thành

Tông quát, những phê bình của Pinker về UG cho thấy lý thuyết này không được hỗ trợ tốt bởi bằng chứng thực nghiệm và nó bỏ qua bản chất phức tạp và năng động của việc dùng và tiếp thu ngôn ngữ. Trong khi một số nhà ngôn ngữ học và nhà khoa học nhận thức tiếp tục ủng hộ những khía cạnh của UG, những lời phê bình của Pinker đã dẫn đến sự hiểu biết đa dạng hơn và nhiều sắc thái hơn về ngôn ngữ và sự quan hệ của ngôn ngữ với não thức con người.

(b) Michael Tomasello: nhà tâm lý học phát triển, và ngôn ngữ học, người đã đưa lên những lý thuyết thay thế về việc tiếp thu ngôn ngữ dựa trên những thành tố xã hội và văn hóa. Ông đã phê bình ý tưởng ngữ pháp phổ quát và lập luận rằng nó không được chứng thực nghiệm thực nghiệm hỗ trợ Tomasello lập luận rằng thay vì được sinh ra với ngữ pháp bẩm sinh, trẻ em học ngôn ngữ qua giao tieeps xã hội và học hỏi văn hóa. Ông nêu ý rằng việc tiếp thu ngôn ngữ của trẻ em có từ ảnh hưởng của môi trường xã hội và ngôn ngữ của chúng, và những đặc điểm cụ thể của ngôn ngữ mẹ đẻ của chúng không được ấn định trước nhưng được kinh nghiệm của chúng định hình

Quan điểm của Tomasello được hỗ trợ bởi nghiên cứu thực nghiệm trong tâm lý học phát triển và ngôn ngữ học. Thí dụ, những nghiên cứu đã cho thấy việc tiếp thu ngôn ngữ của trẻ em bị ảnh hưởng bởi việc chúng tiếp xúc với ngôn ngữ bên ngoai và những cấu trúc ngữ pháp của những ngôn ngữ khác nhau có thể rất khác nhau. Ngoài ra, những nhà nghiên cứu đã tìm thấy rằng những loài linh trưởng không-người, chia sẻ nhiều khả năng nhận thức với con người, nhưng không sở hữu khả năng ngôn ngữ bẩm sinh như con người, điều này thách đố ý tưởng về một ngữ pháp phổ quát.

(c) Mark Johnson: triết gia và nhà khoa học nhận thức, đã phê bình lý thuyết UG của Chomsky, lập luận rằng UG dựa trên những giả định sai lầm về bản chất của kiến thức và não thức. Johnson nêu ý rằng lý thuyết của Chomsky dựa quá nhiều trên ý tưởng rằng kiến thức là một set gồm những quy luật trừu tượng có thể được lưu trữ trong não hức giống như một program của cômputơ Ông nói rằng cái nhìn về kiến thức này bỏ qua bản chất nội dung và chìm bên trong nhận thức con người. Ông nói rằng não thức thì không chỉ đơn giản là một ‘máy giải quyết chế biến’ thông tin thụ động, nhưng còn tích cực dự vào trong thế giới, liên tục tác động hỗ tương với môi trường và dung những hệ thống cảm giác và vận động của nó để tạo ý nghĩa. Hơn nữa, Johnson phê bình quan điểm của Chomsky rằng ngôn ngữ là một mô-đun tự trị của não thức hoạt động độc lập với những tiến trình nhận thức khác. Johnson cho rằng ngôn ngữ được kết nối chặt chẽ với nhũng phương diện khác của nhận thức, gồm tri giác, hành động và tương giao với xã hội. Theo Johnson, ngôn ngữ không phải là một mô-đun tự trị của não thức, nhưng được tích hợp sâu sắc với những tiến trình nhận thức khác và được những kinh nghiệm của chúng ta trong thế giới định hình.

(d) Elizabeth Bates: nhà tâm lý học phát triển nổi tiếng, Bates lập luận rằng UG không được bằng chứng thực nghiệm hỗ trợ và sự tiếp thu ngôn ngữ thì được giải thích hay hơn bằng những yếu tố xã hội và nhận thức. Một trong phê binh chính của Bates về UG là nó là một cấu trúc lý thuyết thiếu hỗ trợ thực nghiệm. Bates lập luận rằng bằng chứng cho UG chủ yếu đến từ những nghiên cứu của người lớn nói một tiếng mẹ đẻ, không phải từ những nghiên cứu về việc tiếp thu ngôn ngữ của trẻ em. Bà cũng cho thấy rằng phần lớn những ngôn ngữ trên thế giới chưa được nghiên cứu chuyên sâu, điều này đặt ra những câu hỏi về tính khái quát hóa của UG. Một phê bình khác của Bates là UG không tính đến sự đa dạng của ngôn ngữ và cách thức trong đó trẻ em học chúng. Bà lập luận rằng trẻ em tiếp xúc với nhiều loại cấu trúc ngôn ngữ và việc tiếp thu ngôn ngữ của chúng được hình thành bởi những yếu tố nhận thức và xã hội, chẳng hạn như sự chú ý, trí nhớ, động lực và tác động hỗ tương với người nuôi dạy, chăm sóc. Bates cũng nêu lên rằng trẻ em là những người học tập tích cực, dùng cách học dự trên thống kê và những phương lược nhận thức khác để tìm ra những quy luật trong ngôn ngữ chúng tiếp xúc.

Quan điểm khác của Bates cho rằng việc tiếp thu ngôn ngữ là một tiến trình phức tạp và nhiều mặt liên quan đến tác động qua lại của nhiều yếu tố nhận thức và xã hội. Bà nói rằng sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em chịu ảnh hưởng của khả năng nhận thức, vận động và nhận thức cũng như môi trường xã hội và văn hóa của chúng. Bates cũng nhấn mạnh sự quan trọng của nghiên cứu sự phát triển ngôn ngữ giữa những nhóm dân cư và ngôn ngữ khác nhau để hiểu rõ hơn về tiến trình này. Tổng quát, những phê bình của Bates về UG phản ảnh một thay đổi rộng lớn hơn trong lĩnh vực tâm lý phát triển ngôn ngữ học hướng tới một cái nhìn nhiều sắc thái và nhiều yếu tố hơn về sự tiếp thu ngôn ngữ. Mặc dù UG vẫn là một khái niệm có ảnh hưởng lớn trong ngôn ngữ học, ngày nay nhiều nhà nghiên cứu đã nhận ra sự quan trọng của việc xem xét những yếu tố nhận thức và xã hội trong việc tìm hiểu cách thức trẻ em học ngôn ngữ.

(e) Morten Christiansen: nhà khoa học nhận thức và giáo sư tâm lý học tại Đại học Cornell, Christianen cũng lập luận rằng UG không được bằng chứng từ nghiên cứu về việc tiếp thu ngôn ngữ hỗ trợ. Ông cho rằng trẻ em tiếp thu ngôn ngữ qua một tiến trình học tập dựa trên thống kê, trong đó chúng xác định những mẫu thức trong input chúng nhận được từ môi trường của chúng, thay vì dựa vào một set những nguyên tắc bẩm sinh. Ông cũng nêu rằng ngôn ngữ có thể đã phát triển qua một tiến trình tiến hóa văn hóa, không phải bẩm sinh. Ông đã đưa lên những lý thuyết thay thế về việc tiếp thu ngôn ngữ dựa trên thống kê, và lập luận rằng chúng có thể giải thích nhiều hiện tượng được gán cho UG. Trong The Biolinguistic Enterprise: New Perspectives on the Evolution and Nature of the Human Language Faculty, cùng viết với Nick Chater, Christiansen lập luận rằng UG không là một khái niệm tất yếu hay ích cho hiểu biết tiến trình tiếp thu hay tiến hóa ngôn ngữ. Thay vào đó, chúng đề nghị rằng ngôn ngữ là một tạo tác văn hóa xuất hiện từ tác động hỗ tương giữa những cá nhân và môi trường của họ.Nhìn chung, những phê binh của Christiansen về UG thách đố một số những giả định nền tảng của lĩnh vực ngôn ngữ học và đã gây ra tranh luận và thảo luận giữa những nhà ngôn ngữ học và những nhà khoa học nhận thức.

Vắn tắt, lý thuyết ngôn ngữ của Chomsky vẫn bị thách đố vì nó chủ yếu dựa vào trực giác và nội quan, có thể không tính đến sự đa dạng của ngôn ngữ, thiếu tính liên tục và bị thách đố bởi những lý thuyết ngôn ngữ thay thế vốn nêu lên những phương sách khác nhau cho sự tiếp thu và dùng ngôn ngữ. Có thể kể một số lý do chinh sau:

(a) Bằng chứng thực nghiệm: Một số nhà ngôn ngữ học biện luận rằng lý thuyết của Chomsky dựa quá nhiều vào nội quan và trực giác, hơn là bằng chứng thực nghiệm. Họ cho rằng những lý thuyết của Chomsky đều không được đủ dữ liệu thực nghiệm hỗ trợ, và rằng những tuyên bố của ông thường không kiểm chứng được hay không thể chứng minh là sai được.

(b) Tính đa dạng của ngôn ngữ: Lý thuyết của Chomsky chủ yếu dựa trên cấu trúc của tiếng England, một ngôn ngữ có tính phân tích cao với một ngữ pháp tương đối đơn giản so với nhiều ngôn ngữ khác. Những nhà phê bình cho rằng lý thuyết của ông không giải thích sự đa dạng của ngôn ngữ và phạm vi rộng lớn của những cấu trúc ngữ pháp được tìm thấy trong những ngôn ngữ khác nhau.

(c) Thiếu tính liên tục: Lý thuyết của Chomsky đã trải qua một số sửa đổi quan trọng trong những năm qua, và một số nhà phê bình cho rằng sự thiếu liên tục này làm suy yếu tính nhất quán và giá trị tổng thể của lý thuyết.

(d) Những lý thuyết thay thế: Có những lý thuyết thay thế về ngôn ngữ, chẳng hạn như ngôn ngữ học nhận thức và dựa trên-việc-dùng, vốn lập luận rằng ngôn ngữ không dựa trên một set gồm những quy luật bẩm sinh, mà dựa trên những kiểu thức dùng và kinh nghiệm. Những lý thuyết này thách đố khái niệm về một “phương sách thu nhận ngôn ngữ” hay “ngữ pháp phổ quát” Chomsky đưa ra.

[14] [Ferdinand de Saussure, Course in General Linguistics (1916; repr., New York: Philosophical Library, 1959), 13–14; Leonard Bloomfield, “Philosophical Aspects of Language” (1942), trong A Leonard Bloomfield Anthology, ed. Charles F. Hockett (Bloomington: Indiana University Press, 1970), 267–70; Bloomfield, A Set of Postulates for the Science of Language (Indianapolis: Bobbs-Merrill, 1926); Bloomfield, “A Set of Postulates for the Science of Language”, Language 2, số 3 (1926): 153–64; William Dwight Whitney, The Life and Growth of Language: An Outline of Linguistic Science (London: King, 1875); Edward Sapir, Language: An Introduction to the Study of Speech (New York: Harcourt, Brace, 1921), 8.]

[15] Ferdinand de Saussure (1857–1913): người Switzerland, sáng lập ngôn ngữ học và ký hiệu học hiện đại, đồng thời đặt nền móng cho chủ nghĩa cấu trúc và chủ nghĩa hậu cấu trúc. Lý thuyết của Saussure được coi như đề xướng tư tưởng “ngôn ngữ không phản ánh thực tại nhưng đúng hơn là tạo dựng nó” vì chúng ta không chỉ dùng ngôn ngữ hay gán ý nghĩa cho bất cứ sự vật việc gì là-có trong thế giới thực tại, nhưng cũng cho bất cứ bất cứ sự vật việc gì không là-có trong đó. Saussure cho rằng ngôn ngữ phải được coi là một hiện tượng xã hội, một hệ thống có cấu trúc có thể được xem xét đồng thời (synchronically như nó ở một điểm cụ thể bất kỳ nào trong thời gian) và khác thời (diachronically như nó thay đổi theo thời gian). Đóng góp chính của Saussure cho thuyết cấu trúc là lý thuyết của ông về thực tại hai tầng (two-tiered reality) về ngôn ngữ. Ông phân biệt ngôn ngữ (langue), với lời nói (parole). Ngôn ngữ lớp trừu tượng và vô hình, trong khi Lời nói, lớp sự vật việchai, là những gì cụ thể chúng ta nhận, nghe được trong đời sống thực tại. Saussure là một trong những nhà ngôn ngữ học tiên phong đã nghiên cứu sâu về ký hiệu ngôn ngữ và những yếu tố liên quan với sự truyền thông con người. Ông mô tả ký hiệu và quan hệ tùy tiện của nó với thực tại. Ký hiệu ngôn ngữ không là liên hệ giữa sự vật việc và tên gọi, nhưng là liên hệ giữa khái niệm và mô hình âm thanh của nó (le signifié le signifiant). Trong lịch sử ngôn ngữ học, cách dễ dàng nhận hiểu của Saussure, như minh họa trong Cours de linguistique générale (1916) thường được cho là đã phản lại hai quan điểm đương thới có ảnh hưởng về ngôn ngữ. Quan điểm đầu tiên được những nhà ngữ học Port-Royal, thành lập vào năm 1660. Arnauld và Lancelot trong Grammaire générale et raisonnée, ngôn ngữ được coi như một tấm gương soi của những suy tưởng, và dựa trên một lôgích phổ quát. Với Ngữ Pháp Port-Royal (The Port-Royal Grammar), ngôn ngữ về cơ bản là duy lý. Quan điểm sự vật việchai, là của ngôn ngữ học thế kỷ 19, trong đó lịch sử của một ngôn ngữ cụ thể được coi như để giải thích tình trạng hiện tại của ngôn ngữ đó. Trong trường hợp sự vật việchai, Sanskrit, ngôn ngữ thiêng liêng của India thời cổ, được cho là ngôn ngữ cổ nhất, cũng được cho là có chức năng như một liên kết, đã kết nối giữa tất cả những ngôn ngữ Ấn-Âu, như thế khiến cuối cùng, ngôn ngữ và lịch sử của ngôn ngữ sẽ thành một. Cách dễ dàng nhận hiểu lịch sử với ngôn ngữ và, ở một mức độ thấp hơn, cách dễ dàng nhận hiểu duy lý, giả định rằng ngôn ngữ về cơ bản là một tiến trình đặt tên – gắn những từ với những sự vật việc, cho dù chúng là tưởng tượng hay không – và rằng có một loại liên kết nội tại nào đó giữa tên gọi và đối tượng của nó. Tại sao một tên gọi cụ thể lại được gắn với một đối tượng hay ý tưởng cụ thể, người ta tin rằng, có thể được xác định về lịch sử – hay ngay là về thời tiền sử. Càng đi ngược dòng lịch sử, người ta cho rằng càng đi đến một xảy ra trùng hợp giữa tên gọi và đối tượng của nó. Như Saussure đã nói, một quan điểm như vậy giả định rằng ngôn ngữ về cơ bản là một việc nghĩ ra hay lựa chọn tên gọi cho những sự vật việc (nomenclature = the assigning of names/ danh pháp): một set của những tên gọi cho những đối tượng và ý tưởng. Trong Những bài giảng về ngôn ngữ học tổng quát nói trên, Saussure coi ngôn ngữ như một hệ thống của những ký hiệu được xây dựng theo quy ước.

Lý thuyết của Chomsky, ngữ pháp phát sinh , nhấn mạnh khả năng bẩm sinh của con người để tiếp thu ngôn ngữ. Theo Chomsky, bộ óc con người được ‘mắc dây cài đặt’ sẵn để học ngôn ngữ và tất cả những ngôn ngữ của con người đều có chung một cấu trúc tiềm ẩn cơ bản. Chomsky lập luận rằng trẻ em học ngôn ngữ qua một tiến trình của sự tiếp thu ngôn ngữ bẩm sinh, được hỗ trợ bởi một ngữ pháp phổ quát vốn được kết dựng sẵn trong bộ óc người.

Mặt khác, lý thuyết của Saussure, được gọi là ngôn ngữ học cấu trúc, quan tâm với những quan hệ giữa những dấu hiệu và ý nghĩa của chúng. Saussure lập luận rằng ngôn ngữ là một hệ thống những dấu hiệu và rằng ý nghĩa được xác định bởi những quan hệ giữa những dấu hiệu này. Lý thuyết của Saussure tập trung vào phân tích đồng đại của ngôn ngữ, tức là cách ngôn ngữ được dùng tại một thời điểm nhất định, hơn là sự phát triển lịch sử của nó. Những khác biệt chủ yếu Chomsky và Saussure:

(i) Chomsky cho rằng ngôn ngữ là một gì vốn chúng ta sinh ra đã có và tất cả những ngôn ngữ đều có một số điểm chung. Saussure cho rằng ngôn ngữ là một gì vốn chúng ta học được từ người khác và mỗi ngôn ngữ đều có những quy luật và ký hiệu riêng.

(ii) Chomsky tạo một sự khác biệt giữa những gì chúng ta biết về ngôn ngữ và những gì chúng ta làm với ngôn ngữ. Ông gọi điều sự vật việcnhất là năng lực (về lý thuyết) của một người, điều sự vật việchai là hiệu năng (về thực hành) của một người. Saussure cũng tạo một sự khác biệt giữa hai phương diện của ngôn ngữ. Ông gọi gọi điều sự vật việcnhất ‘langue’ và sự vật việchai là ‘parole’. Langue là hệ thống những quy luật và ký hiệu tạo nên một ngôn ngữ. Parole là cách chúng ta dùng ngôn ngữ để thông tin với người khác.

(iii) Chomsky có một lý thuyết giải thích cách chúng ta có thể tạo và hiểu những câu trong bất kỳ ngôn ngữ nào. Ông nói rằng chúng ta có một set gồm những quy luật trong đầu để có thể kết hợp những từ theo những cách khác nhau để tạo thành câu mới. Ông gọi lý thuyết này là ngữ pháp phổ quát. Saussure cũng có một lý thuyết mô tả cách hoạt động của ngôn ngữ. Ông nói rằng ngôn ngữ được tạo thành từ những dấu hiệu có hai phần: âm thanh hay hình dạng (signifiant) và ý nghĩa (signifié). Ông gọi lý thuyết này là ngữ pháp cấu trúc.

(iv) Chomsky tin rằng ngôn ngữ là phần của bộ óc chúng ta và nó khác với những loài động vật khác. Ông nói rằng ngôn ngữ là một sự vật việc về sinh học vốn chúng ta có thể nghiên cứu một cách khoa học. Saussure tin rằng ngôn ngữ là phần của văn hóa của chúng ta và nó thay đổi theo thời gian và địa điểm. Ông nói rằng ngôn ngữ là một sự vật việcxã hội vốn chúng ta có thể nghiên cứu bằng cách xem cách mọi người dùng nó.

(v) Chomsky nghiên cứu ngôn ngữ bằng cách xem xét cách những từ được ghép lại với nhau để tạo thành câu và cách những câu diễn đạt ý nghĩa. Ông gọi những phần này là cú pháp ngôn ngữ và ngữ nghĩa. Saussure nghiên cứu ngôn ngữ bằng cách xem xét cách âm thanh hay hình dạng được dùng để tạo nên từ và cách từ có ý nghĩa. Ông gọi những phần này là âm vị học và hình thái học của ngôn ngữ.

(vi) Chomsky có cách suy nghĩ về ngôn ngữ dựa trên lôgíchh và lý trí. Ông cho rằng chúng ta có thể khám phá ra sự thật về ngôn ngữ bằng cách dùng trí óc và những thí nghiệm của chúng ta. Ông theo một lối suy nghĩ gọi là chủ nghĩa tinh thần và chủ nghĩa duy lý. Saussure có cách suy nghĩ về ngôn ngữ dựa trên sự kiện và bằng chứng. Ông nghĩ rằng chúng ta có thể học về ngôn ngữ bằng cách quan sát những gì mọi người nói và viết. Ông theo một lối suy nghĩ gọi là chủ nghĩa thực chứng và chủ nghĩa kinh nghiệm.

(vii) Ngôn ngữ-E và Ngôn ngữ-I là hai thuật ngữ vốn Chomsky dùng để nói về hai phương diện của ngôn ngữ. Ngôn ngữ-E là phương diện của ngôn ngữ vốn chúng ta có thể thấy và nghe khi mọi người nói hay viết. Đó là kết quả của việc dùng Ngôn ngữ-I. Ngôn ngữ-I là phương diện của ngôn ngữ vốn chúng ta có trong đầu và chúng ta dùng để tạo và hiểu những câu. Đó là những gì chúng ta nghiên cứu khi chúng ta nghiên cứu ngữ pháp phổ quát.

(vii) ‘Langue’ và ‘parole’ là hai thuật ngữ vốn Saussure dùng để nói về hai phương diện của ngôn ngữ. ‘Langue’ là phương diện của ngôn ngữ là hệ thống những quy luật và ký hiệu tạo nên một ngôn ngữ. Đó là những gì chúng ta nghiên cứu khi chúng ta nghiên cứu ngữ pháp cấu trúc. ‘Parole’ là phương diện của ngôn ngữ là cách chúng ta dùng ngôn ngữ để thông tin với người khác. Nó phụ thuộc vào nhiều sự việc như ý định, hoàn cảnh, phong cách và sự sáng tạo của chúng ta.

(viii) Parole và Ngôn ngữ-E giống nhau vì cả hai đều nói về cách chúng ta dùng ngôn ngữ để thông tin với người khác, nhưng không về hệ thống những quy luật và ký hiệu tạo nên một ngôn ngữ. Nhưng chúng khác nhau vì parole và Ngôn ngữ-E không giống như ngôn ngữ và Ngôn ngữ-I, nhưng chúng là kết quả của việc dùng chúng. Ngoài ra, parole và Ngôn ngữ-E có những tác động khác nhau với cách chúng ta học ngôn ngữ so với ngôn ngữ và Ngôn ngữ-I.

(j) Langue và Ngôn ngữ-I giống nhau vì cả hai đều nói về hệ thống những quy luật và ký hiệu tạo nên một ngôn ngữ chứ không nói về cách chúng ta dùng ngôn ngữ để thông tin với người khác. Nhưng chúng khác nhau vì ngôn ngữ và Ngôn ngữ-I không phải là phần của những dấu hiệu, nhưng chúng là những phương diện toàn bộ của ngôn ngữ. Ngoài ra, langue và Ngôn ngữ-I có những tác động khác nhau với cách chúng ta học ngôn ngữ so với parole và Ngôn ngữ-E.

le signifié’ và ‘le signifiant’ không giống với Ngôn ngữ-E và Ngôn ngữ-I. ‘Le signifié’ và ‘le signifiant’ là những thuật ngữ vốn Saussure dùng để chỉ hai thành phần của một dấu hiệu ngôn ngữ: khái niệm hay ý nghĩa (signifié) và âm thanh hay hình thức (signifiant). Một dấu hiệu ngôn ngữ là sự kết hợp của một dấu hiệu và một dấu hiệu tùy tiện, và qui ước trong một ngôn ngữ. Thí dụ, từ ‘cat/mèo’ là một ký hiệu ngôn ngữ gồm khái niệm về một con vật nhỏ có lông (signifié) và âm /kæt/ hay dạng viết mèo (signifiant). ‘Le signifié’ và ‘le signifiant’ là một phần trong cách dễ dàng nhận hiểu ngôn ngữ học theo chủ nghĩa cấu trúc của Saussure, vốn phân tích ngôn ngữ như một hệ thống những dấu hiệu có hình thức và ý nghĩa. Ngôn ngữ-E và Ngôn ngữ-I là những thuật ngữ vốn Chomsky dùng để chỉ hai phương diện của ngôn ngữ: phương diện được ngoại hiện và quan sát được (Ngôn ngữ-E) và phương diện được nội quan hóa và tâm (Ngôn ngữ-I). Ngôn ngữ-E là output của Ngôn ngữ-I, là kiến thức và năng lực ngôn ngữ của người nói. Ngôn ngữ-E và Ngôn ngữ-I là một phần trong cách dễ dàng nhận hiểu tổng quát của Chomsky với ngôn ngữ học, phân tích ngôn ngữ như một hiện tượng sinh học là một phần của não thức/bộ óc con người. Ngôn ngữ-E và Ngôn ngữ-I không liên quan trực tiếp đến ‘le signifié’ và ‘le signifiant’, nhưng chúng có thể được so sánh theo một số cách. Thí dụ, người ta có thể nói rằng Ngôn ngữ-E tương ứng với ‘le signifiant’, vì cả hai đều đề cập đến hình thức bên ngoài của ngôn ngữ. Tương tự, người ta có thể nói rằng Ngôn ngữ-I tương ứng với ‘le signifié’, vì cả hai đều đề cập đến nội hàm của ngôn ngữ. Tuy nhiên, những so sánh này không chính xác, vì Ngôn ngữ-E và Ngôn ngữ-I không phải là thành phần của dấu hiệu ngôn ngữ, vốn là những phương diện của ngôn ngữ nói chung. Ngoài ra, Ngôn ngữ-E và Ngôn ngữ-I có ý nghĩa lý thuyết và thực nghiệm khác với ‘le signifié’ và ‘le signifiant’.

William Dwight Whitney, (1827 1894): nhà ngôn ngữ học người US và là một trong những học giả Sanskrit lỗi lạc nhất thời bấy giờ, đặc biệt được chú ý nhờ công trình cổ điển của ông, Ngữ pháp Sanskrit (1879).

Franz Boas (1858-1942): Một trong những người sáng lập ngành nhân chủng học US. Kinh nghiệm sống của ông giữa những người Eskimo và người Kwakiutl ở vùng Bờ biển Tây Bắc nước US, đã lôi quyển ông vào nghiên cứu ngôn ngữ. Ông lập luận rằng người ta không thể thực sự hiểu một văn hóa khác, nếu không trực tiếp đi sâu vào ngôn ngữ của nó. Ông nhấn mạnh, nhu cầu nghiên cứu ngôn ngữ như vậy không chỉ là một nhu cầu thực tiễn, nhưng còn là một nhu cầu lý thuyết, do sự liên hệ mật thiết giữa văn hóa và ngôn ngữ:

“Trong tất cả những chủ đề được nhắc đến từ trước đến nay, một kiến thức về ngôn ngữ của những người bản địa America, dùng như một bổ sung quan trọng cho sự hiểu biết đầy đủ của những phong tục và những tín ngưỡng của dân tộc vốn chúng ta đang nghiên cứu. Nhưng trong tất cả những trường hợp này, dịch vụ vốn ngôn ngữ thêm vào cho chúng ta trước hết là một dịch vụ thực tiễn một phương tiện đi đến một hiểu biết rõ ràng hơn của những hiện tượng dân tộc học vốn trong tự thân chúng không có liên quan gì vói những vấn đề ngôn ngữ ... Tuy nhiên, có vẻ rằng một nghiên cứu lý thuyết ngôn ngữ của những dân bản địa thì không kém phần quan trọng so với một kiến thức thực tiễn của chúng; rằng thuần túy điều tra ngôn ngữ là một phần không thể thiếu của điều tra kỹ lưỡng của tâm lý của những dân tộc trên thế giới. Nếu dân tộc học được hiểu như khoa học giải quyết nghiên cứu những hiện tượng tinh thần của đời sống của những dân tộc trên thế giới, thì ngôn ngữ loài người, một trong những biểu hiện quan trọng nhất của đời sống tinh thần, sẽ như tự nhiên thuộc lĩnh vực công việc của dân tộc học”.

Edward Sapir (1884-1939.): một trong những nhà ngôn ngữ học và nhân chủng học America hàng đầu, trong thời của ông. Sapir nổi tiếng do những đóng góp của ông trong nghiên cứu những ngôn ngữ của người bản địa Bắc America. Là người sáng lập ngôn ngữ học dân tộc học (ethnolinguistics), nghiên cứu tương quan hệ của văn hóa và ngôn ngữ, Sapir cũng là người phát triển chính của trường ngôn ngữ học cấu trúc (mô tả) của US. Ông từng là sinh viên của Boas ở Columbia.

Sapir lập luận rằng ngôn ngữ không tĩnh nhưng động, nó thay đổi liên tục. Sapir gọi sự thay đổi đó là sự “Trôi dạt ngôn ngữ”( Language Drift). Một phần của ngôn ngữ thay đổi nhanh chóng trong khi một phần khác chậm hơn nhiều. Khi thực tại thay đổi, ngôn ngữ cũng thay đổi. Ngược lại, do ngôn ngữ thay đổi nên thực tại cũng thay đổi theo. Chúng ta nghĩ, nghe, nhìn và cư xử qua ngôn ngữ của mình. Ngôn ngữ phục vụ như một ‘sàng lọc’ nhất định, qua đó chúng ta kinh nghiệm và giải thích thực tại. Mỗi văn hóa đều có ngôn ngữ riêng của nó, hay một set gồm những sàng lọc’, qua đó nó đặt đinh sẵn những đưa dẫn những thành viên của nó đến với những loại kinh nghiệm và suy nghĩ nhất định. Không có ngôn ngữ, thật khó để tưởng tượng đời sống con người. Một số những ý tưởng của Sapir về ảnh hưởng của ngôn ngữ với những cách thức trong đó người ta suy nghĩ đã được Benjamin Whorf tiếp nhận và mở rộng, Sự phát triển của những ý tưởng này của Whorf sau này được gọi là “Giả thuyết Sapir-Whorf” và đã đặt nền móng phát triển cho ngành ngôn ngữ học dân tộc.

Leonard Bloomfield (1887 – 1949): nhà ngôn ngữ học người US, người có ảnh hưởng chi phối sự phát triển của ngôn ngữ học cấu trúc ở US những năm 1930 -1950. Ông đặc biệt được biết đến với Language (1933), một công trình có ảnh hưởng lớn đến tiến trình tiếp theo của ngôn ngữ học ở US, trong nửa đầu thế kỷ 20. Công việc của ông đã giúp thiết lập ngôn ngữ học như một ngành khoa học độc lập.

1.

Trong Language (1933), Bloomfield lập luận rằng ngôn ngữ học cần phải khách quan hơn nếu nó trở thành một khoa học thực sự. Ông tin rằng mục tiêu chính của tìm hiểu ngôn ngữ nên là những hiện tượng có thể quan sát được, hơn là những tiến trình nhận thức trừu tượng. Tránh những tiến trình nhận thức và những tiến trình không quan sát được khác, Bloomfield đã áp dụng những nguyên tắc của thuyết hành vi trong tâm lý học vào lĩnh vực ngôn ngữ, bác bỏ cái nhìn rằng cấu trúc của ngôn ngữ phản ánh cấu trúc của tư tưởng. (Thuyết hành vi trong tâm lý học dựa trên chủ trương rằng hành vi, của con người cũng như loài vật, có thể được nghiên cứu một cách khoa học và hiểu được nhưng không cần viện dẫn những trạng thái tinh thần bên trong. Ba nhân vật chính đã dẫn đến sự phát triển của phương pháp này: Ivan Pavlov, John B. Watson và B.F. Skinner) Thế nên, ông ủng hộ việc thiết lập những phương pháp mô tả chính xác thông qua đó cách dùng ngôn ngữ học có thể được nâng lên mức độ của một ngành học tích cực. Để tách ngôn ngữ học khỏi bất kỳ lý thuyết tâm lý học nào,

Trong tác phẩm của mình, Bloomfield đã áp dụng khái niệm cấu trúc ngôn ngữ từ Ferdinand de Saussure. Tương tự như Saussure, Bloomfield chủ trương rằng những ngôn ngữ ở mọi thời đại đều gồm những hệ thống của những yếu tố có tương quan với nhau: từ vựng, ngữ pháp và âm vị học. Bloomfield cũng tiếp nhận sự phân biệt của Saussure giữa cách dễ dàng nhận hiểu “đồng thời” (trong đó thời gian là một biến số) và cách dễ dàng nhận hiểu “khác thời” (trong đó thời gian là một hằng số). Bloomfield chú tâm đến cả hai, lập luận rằng ngôn ngữ thay đổi qua tiến trình lịch sử, cũng như tại một thời điểm cụ thể. Bloomfield đã bác bỏ quan điểm cổ điển cho rằng cấu trúc của ngôn ngữ phản ánh cấu trúc của suy tưởng. Ông tin rằng ngôn ngữ nói là đối tượng duy nhất của nghiên cứu và áp dụng những tiến trình phân tích khác nhau để nghiên cứu ngôn ngữ. Ông cho thấy cách phân tích ngôn ngữ nói bằng chia nó thành những đơn vị nhỏ nhất – những âm vị (phonemes), những hình thái (morphemes) và những kết hợp của những đơn vị đó tạo thành những cấu trúc từ vựng cao hơn.Bloomfield cũng nhấn mạnh rằng những nhà ngôn ngữ học cần nghiên cứu ngôn ngữ nói hơn là ngôn ngữ viết (qua những tài liệu viết trong một ngôn ngữ), vì ngôn ngữ thay đổi theo thời gian và nghĩa của một gì ngày nay có thể khác với những gì nó có nghĩa trong quá khứ. Do đó, những tài liệu viết không thể là đại diện đầy đủ của một ngôn ngữ nói. Mặc dù cách giải quyết của ông đã thiết lập ngôn ngữ học như một bộ môn khoa học, nhưng việc ông tách biệt những hiện tượng ngôn ngữ khỏi môi trường xã hội và tinh thần không-ngôn ngữ của chúng là một sự giới hạn nghiêm trọng, vì con người là những sinh vật xã hội và ngôn ngữ là một dụng cụ thiết yếu.của truyền thông.

2.

Noam Chomsky và Leonard Bloomfield có một số điểm tương đồng giữa những lý thuyết ngôn ngữ của họ, nhưng cũng có những khác biệt đáng chú ý.

Tương đồng: Cả Chomsky và Bloomfield đều gắn liền với truyền thống cấu trúc luận trong ngôn ngữ học. Cả hai đều tin rằng việc nghiên cứu ngôn ngữ nên dựa trên quan sát thực nghiệm và phân tích dữ liệu. Cả hai đều bác bỏ ý tưởng về những ý tưởng hay khái niệm bẩm sinh có trong não thức khi mới sinh quyết định việc tiếp thu ngôn ngữ. Cả hai đều tin rằng ngôn ngữ là một hệ thống những quy luật có thể được mô tả và phân tích.

Khác biệt: Lý thuyết ngôn ngữ của Chomsky, UG , tập trung vào nghiên cứu não thức con người và tiếp thu ngôn ngữ. Bloomfield, ngược lại, tập trung nhiều hơn vào việc mô tả và phân tích cấu trúc ngôn ngữ. Chomsky tin rằng ngôn ngữ là một khả năng bẩm sinh của não thức con người, trong khi Bloomfield coi nó là một hiện tượng văn hóa. Lý thuyết của Chomsky nêu lên rằng cấu trúc của ngôn ngữ dựa trên một set những quy luật hay nguyên tắc phổ quát, bẩm sinh với não thức con người. Bloomfield, ngược lại, tin rằng cấu trúc ngôn ngữ dựa trên sự phân bổ những yếu tố ngôn ngữ và sự kết hợp của chúng. Lý thuyết của Chomsky nhấn mạnh trên sự quan trọng của cú pháp trong cấu trúc ngôn ngữ, trong khi lý thuyết của Bloomfield tập trung nhiều hơn vào âm vị học và hình thái học của ngôn ngữ. Lý thuyết của Chomsky cho rằng ngôn ngữ gồm một set những mức độ gián đoạn rời rạc và có sự vật thứ bậc, trong khi lý thuyết của Bloomfield coi ngôn ngữ là một hệ thống liên tục và liên kết với nhau.

Tổng quát, Chomsky và Bloomfield cùng có chung một số điểm trong cách dễ dàng nhận hiểu với nghiên cứu ngôn ngữ, nhưng lý thuyết khác nhau trong những giả định, trọng tâm và phạm vi.

[16] [Martin Joos, bình luận trong Readings in Linguistics: The Development of Descriptive Linguistics in America Since 1925 , ed. Martin Joos (Washington, D.C.: American Council of Learned Societies, 1958).]

[17] [Zellig Harris, Methods in Structural Linguistics (Chicago:University of Chicago Press, 1951).]

[18] [Một sự thụt lùi, Tôi nghĩ thế, vì nó lẫn lộn những ý niệm khác biệt nền tảng: năng lực và hiệu năng làm việc – đại khái là những gì chúng ta biết và những gì chúng ta làm – không giống như hệ thống của Harris, vốn không có điều đó.]

= Những lý thuyết ngôn ngữ cung cấp những khung nền và mô hình nhằm mô tả và giải thích cấu trúc, ý nghĩa và cách dùng ngôn ngữ.

[19] [Dan Dediu và Stephen C. Levinson, “On the Antiquity of Language: The Reinterpretation of Neandertal Linguistic Capacities and Its Consequences”, Frontiers in Psychology 4, số 397 (2013): 1–17, doi:10.3389/fpsyg.2013.00397.]

[20] phenotype

[21] map/mapping: vẫn dịch là ánh xạ (toán) , tôi muốn dùng ‘ghép kết nối’ – theo ý trong định nghĩ của mapping [Một cách kết nối nhũng đối tượng duy nhất đến mọi điểm trong một set nhất định đã cho . Hàm số f:A|->B từ A sang B là một hàm số f, sao cho mỗi a trong A , chỉ có một đối số f(a) trong B)].

[22] [Galileo Galilei, Dialogue Concerning the Two Chief World Systems (1632), end of “The First Day”.]

[23] [Cho những tham khảo và thảo luận, xem Noam Chomsky, Cartesian Linguistics: A Chapter in the History of Rationalist Thought, 3rd ed., ed., với lời giớ thiệu, James McGilvray (Cambridge: Cambridge University Press, 2009).]

[24] Turing Test (Thử nghiệm Turing) nổi tiếng ngày nay, là tên gọi sau này của ‘trò chơi bắt chước’ (the imitation game) Turing đưa ra trong bài viết “Computing Machinery and Intelligence”, Mind, 1950). Bài viết cân nhắc trên câu hỏi ‘những máy móc có thể suy nghĩ hay không?, suy ngẫm rất nhiều trên sự khó khăn trong việc trả lời câu hỏi này, qua tính hàm hồ trong những từ ‘máy móc’ và ‘suy nghĩ’. Turing đưa lên ý tưởng thay thế sự suy nghĩ hay trí thông minh của con người bằng sự bắt chước. Ông đưa ra “trò chơi bắt chước”, trong đó một người sẽ được yêu cầu đối thoại qua máy viễn ký với hai đối tượng ẩn sau những cửa đóng kín. Đối tượng sự vật việcnhất là một người khác, đối tượng sự vật việchai là một máy computer. Mỗi bên cố gắng thuyết phục người khách quan phán xét rằng mình thực sự là một con người. Như thế, có trí thông minh là có hành động như một con người hơn là có một bộ óc hoạt động như một con người. Hoặc, thậm chí đúng hơn, trí thông minh – bất kể đó là gì, một gì vốn diễn ra bên trong một con người hay một bộ máy – là một đề tài trò chuyện kém thú vị và hữu hiệu hơn so với tác động của một tiến trình loại giống như vậy,

Chomsky lập luận rằng thử nghiệm Turing, vốn thử nghiệm khả năng thể hiện hành vi thông minh của một cỗ máy xem nếu không thể phân biệt được với hành vi của con người, thì không là một thước đo đầy đủ về trí thông minh hay sự hiểu biết thực sự. Theo Chomsky, thử nghiệm Turing chỉ tập trung vào hành vi mặt ngoài của một cỗ máy trong việc bắt chước những phản ứng của con người, nhưng không xem xét những cơ năng hiểu biết và sáng tạo sâu hơn. Ông lập luận rằng trí thông minh thực gồm trạng thái tinh thần phong phú bên trong vốn máy móc hiện đang thiếu. Chomsky đặt câu hỏi về giá trị thực của thử nghiệm Turing vì ông tin rằng nó không nắm bắt được yếu tính của thông minh con người, vốn gồm nhiều hơn những hành vi bắt chước bên ngoài.

[25] [Wilhelm von Humboldt, On Language: On the Diversity of Human Language Construction and Its Influence on the Mental Development of the Human Species, trans. Peter Heath (1836; New York: Cambridge University Press, 1988), 91.]

Wilhelm von Humboldt (1767-1835): nhà ngôn ngữ học người Germany, nhân viên chính phủ, nhà ngoại giao, triết gia; người sáng lập Đại học Humboldt ở Berlin. Humboldt cũng là một triết gia nổi tiếng. Tác giả của On the Limits of State Action, 1810, một bảo vệ táo bạo nhất cho những quyền tự do trong Thời Khai sáng Europe. Nó đã báo trước luận thuyết nổi tiếng Essay on Liberty của John Stuart Mill. Wilhelm von Humboldt nổi tiếng với công trình của ông về triết học ngôn ngữ, khám phá quan hệ giữa ngôn ngữ, tư tưởng và văn hóa. Ông tin rằng con người vốn thừa hưởng tinh đã sáng tạo và ngôn ngữ là biểu hiện quan trọng nhất của sự sáng tạo này. Đóng góp quan trọng nhất của Humboldt cho triết học là lý thuyết về ngôn ngữ mà ông đã phát triển trong On Language (1836) (1836). Ông cho rằng ngôn ngữ không chỉ là phương tiện truyền đạt thông tin nhưng còn là phương tiện thể hiện sự sáng tạo và hiểu biết thế giới của con người. Ông tin rằng ngôn ngữ định hình nhận thức của chúng ta về thực tại và rằng những ngôn ngữ khác nhau tạo ra những cách suy nghĩ khác nhau. Triết lý của Humboldt cũng nhấn mạnh sự quan trọng của giáo dục trong việc phát triển khả năng sáng tạo và tự thể hiện cá nhân. Ông tin rằng giáo dục nên tập trung vào việc phát triển toàn bộ tiềm năng của cá nhân hơn là chỉ truyền đạt kiến thức và kỹ năng. Tổng quát, riết lý của Humboldt đặc trưng bởi tin tưởng của ông vào sự quan trọng của tính cá nhân, tính sáng tạo và sự tự-thể hiện. Những ý tưởng của ông đã có tác động quan trọng đến sự phát triển của ngôn ngữ học, triết học và giáo dục hiện đại, và tác phẩm của ông vẫn tiếp tục được những học giả ngày nay nghiên cứu và tranh luận.

Những ý tưởng của Humboldt về ngôn ngữ và quan hệ của nó với suy tưởng và văn hóa đã có tác động quan trọng với Chomsky, đặc biệt trong lĩnh vực ngữ pháp phát sinh (generative grammar). Có thể kể một số ý tưởng và khái niệm cụ thể trong Chomsky bắt nguồn từ Humboldt:

Quan điểm cho rằng ngôn ngữ là một tiến trình sáng tạo: Humboldt tin rằng ngôn ngữ không chỉ đơn giản là một dụng cụ để truyền đạt thông tin nhưng là một biểu hiện của tính sáng tạo của con người. Ông coi ngôn ngữ như một phương tiện để khám phá và hiểu thế giới và tin rằng mọi hành vi truyền đạt thông tin đều là một hành động sáng tạo độc đáo.

Khái niệm về tính tương đối của ngôn ngữ: Humboldt đưa lên rằng ngôn ngữ định hình cách chúng ta suy nghĩ và nhận thức thế giới xung quanh. Ý tưởng này, được biết như thuyết tương đối về ngôn ngữ (ý tưởng cho rằng ngôn ngữ không là sự phản ánh khách quan của thực tịa, nhưng là một cấu trúc chủ quan được những yếu tố văn hóa và cá nhân. định hình. Con người hiểu thế giới qua lăng kính ngôn ngữ của chính họ); hay giả thuyết Sapir-Whorf, (đã có ảnh hưởng trong những lĩnh vực ngôn ngữ học, tâm lý học và nhân chủng học.

Ý tưởng về những phổ quát ngôn ngữ: Humboldt tin rằng có những nguyên tắc phổ quát làm cơ sở cho tất cả những ngôn ngữ của con người và những nguyên tắc này phản ảnh những phương diện bẩm sinh trong nhận thức con người. Chomsky đã mở rộng ý tưởng này, nêu lên sự hiện hữu của một ngữ pháp phổ quát được cài đặt gắn chặt trong bộ óc người và hướng dẫn sự tiếp thu và dung ngôn ngữ.

Sự quan trọng của ngôn ngữ trong việc định hình văn hóa: Humboldt tin rằng ngôn ngữ và văn hóa gắn bó sâu xa với nhau, và ngôn ngữ đó đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình sự hiểu biết của chúng ta về thế giới và vị trí của chúng ta trong đó. Chomsky cũng đã nhấn mạnh trên sự quan trọng của ngôn ngữ trong việc hình thành những giá trị văn hóa và tin tưởng

[26] Trong ngôn ngữ học, thuật ngữ “đóng khung câu” chỉ cách thức thông tin được cấu trúc và trình bày bên trong một câu. Nó gồm việc sắp xếp những từ và cụm từ để truyền đạt một ý nghĩa hay cái nhìn cụ thể. Cách thức một câu được đóng khung có thể ảnh hưởng đáng kể đến cách người nghe hay người đọc diễn giải thông tin truyền đạt

[27] [Otto Jespersen, The Philosophy of Grammar (New York: Holt, 1924).]

[28] Otto Jespersen (1860–1943): nguòi Denmark – Trong những năm 1890, Jespersen được biết đến nhiều nhất như nhà cải cách giảng dạy ngôn ngữ và là nhà ngữ âm học. Ngày nay ông được nhớ đến chủ yếu như người tiên phong trong lĩnh vực cú pháp và phát triển ngôn ngữ. Trong The Philosophy of Grammar (1924)), Jespersen tập trung vào phân tích mô tả cấu trúc ngôn ngữ, nhằm mục đích thiết lập một lý thuyết tổng quát về ngữ pháp. Ông nhấn mạnh sự quan trọng của nghiên cứu ngôn ngữ như một hiện tượng sống và bác bỏ quan niệm về những quy luật ngữ pháp khô cứng áp đặt từ bên trên. Thay vào đó, ông ủng hộ một cách giải quyết thực nghiệm nhằm kiểm tra những khuôn mẫu và cấu trúc xuất hiện tự nhiên trong việc dùng ngôn ngữ. Giải quyết của Jespersen với ngữ pháp đã ảnh hưởng đến những lý thuyết và phương pháp ngôn ngữ học sau này, gồm ngữ pháp chuyển đổi-phát sinh của Chomsky

[29] instinctively, eagles that fly swim’ – cho thấy ngôn ngữ có cấu trúc theo sự vật thứ bậc không theo đường thẳng: eagles + (1) swim & (2) fly. (Tương tự ? : ấy thi đỗ đại học làm cả nhà vui mừng. ấy + (1) làm & (2) thi đỗ), hay: Bà già (2) đi chợ cầu Đông (1) bói xem một quẻ lấy chồng lợi chăng? Thầy bói (2) xem quẻ (1) nói rằng, lợi thì có lợi, nhưng răng không còn.

[30] adverb: trạng từ/phó từ/trạng ngữ,…

[31] Can eagles that fly swim?

[32] Chomsky đã đưa vào thành ngữ “sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích” trong Rules and Representations (1980). Khái niệm này còn được gọi là luận chứng từ sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích (POS), hay vấn đề lôgích về tiếp thu ngôn ngữ, hay vấn đề dự đoán và vấn đề của Plato [“làm thế nào con người, những người có tiếp xúc ngắn ngủi, cá nhân và giới hạn với thế giới, nhưng có khả năng để biết nhiều như họ biết?” (Bertrand Russell, Human Knowledge: Its Scope and Limits, 1948)]. Sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích dựa trên ý tưởng rằng input vốn trẻ em nhận được thì rất không đủ, và không nhất quán và rất thay đổi, cho thấy không thể giải thích được cho cách chúng tiếp thu ngôn ngữ một cách nhanh chóng và có hệ thống. Sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích được dùng để hỗ trợ cho UG.

[33] The principle of minimal distance

[34] Minimal Computation: Nguyên tắc khoảng cách tối thiểu là một khái niệm phản ảnh ý tưởng rằng những hoạt động hay phép biến đổi ngôn ngữ nên giữ tối thiểu số lượng của di chuyển hay thay đổi chỗ cần thiết trong việc tạo câu. Nói cách khác, thuyết này cho rằng những cấu trúc ngôn ngữ được hình thành theo cách giảm thiểu khoảng cách vốn những yếu tố cần di chuyển khỏi vị trí cơ sở của chúng.Nguyên tắc này có thể được coi là một trường hợp cụ thể của nguyên tắc tổng quát hơn do Chomsky đưa ra, là Tính toán tối thiểu. Tính toán tối thiểu chi phối kiến trúc tổng thể của khả năng ngôn ngữ. Nó cho rằng những tính toán và hoạt động ngôn ngữ nên cố gắng để đạt hiệu quả cao nhất có thể được, giảm thiểu nỗ lực tính toán cần thiết để tạo hay hiểu ngôn ngữ. Nói thêm rằng nguyên tắc khoảng cách tối thiểu có thể vượt ra ngoài ngôn ngữ và có khả năng ứng dụng rộng rãi hơn, Chomsky muốn nói rằng tính hiệu quả và tính tiết kiệm quan sát được trong ngôn ngữ có thể có nền tảng trên những nguyên tắc tổng quát hơn của tiến trình nhận thức hay ngay cả là những nguyên tắc nền tảng của thế giới tự nhiên.

[35] Trong Chomsky, cụ thể là trong khuôn khổ ngữ pháp tạo sinh biến đổi, có sự phân biệt giữa khoảng cách cấu trúc (structural distance) khoảng cách theo đường thẳng (linear distance).Khoảng cách cấu trúc nói về con số của những tiến trình hoạt động cú pháp hay những biến đổi cần thiết để lấy được một cấu trúc ngôn ngữ từ một cấu trúc ngôn ngữ khác. Nó đo lường mức độ phức tạp của những phép biến đổi cần thiết để di chuyển từ một điểm này sang môt điểm khác trong cấu trúc. Khái niệm về khoảng cách này liên quan đến những quan hệ sự vật thứ bậc và những hoạt động chuyển dịch trong một câu. Mặt khác, khoảng cách theo đường thẳng nói về số lượng đơn vị đường thẳng (chẳng hạn như những từ hay những morphemes) xen giữa hai yếu tố ngôn ngữ trong một câu. Nó đo khoảng cách vật lý hay khoảng cách theo đường thẳng của những từ hay những thành phần trong chuỗi đường thẳng của câu. Sự khác biệt giữa khoảng cách cấu trúc và khoảng cách theo đường thẳng, rất quan trọng vì nó phản ánh thực tế là cấu trúc cú pháp có thể liên quan đến sự di chuyển hay chuyển vị của những thành phần từ vị trí này sang vị trí khác, điều này có thể tạo ra sự khác biệt giữa trật tự đường thẳng và cấu trúc trật tự thứ bậc của câu. Nói cách khác, trật tự đường thẳng của những từ trong câu có thể không nhất thiết phản ánh quan hệ sự vật thứ bậc cơ bản của chúng. Theo Chomsky, cấu trúc ngôn ngữ không bị giới hạn trong một chuỗi của những từ theo đường thẳng nhưng theo xếp đặt cấu trúc trật tự thứ bậc, với những hoạt động chen vào giữa và di chuyển trong nhiều mức độ khác nhau.

[36] [Mariacristina Musso et al., “Broca’s Area and the Language Instinct”, Nature Neuroscience 4 (2003): 774–81, doi:10.1038/nn1077]

[37] [Neil Smith, Chomsky: Ideas and Ideals, 2nd ed. (Cambridge: Cambridge University Press, 2004), 136. cũng xem Neil Smith và Ianthi-Maria Tsimpli, The Mind of a Savant: Language Learning and Modularity (Cambridge: Blackwell, 1995)]

[38] computational cognitive science (khoa học nhận thức điện toán), hay computational psychology (tâm lý học điện toán): Tâm lý học điện toán là một nhành phụ của tâm lý học dùng những mô hình, algorithm và kỹ thuật điện toán để hiểu và mô phỏng những tiến trình và hành vi nhận thức khác nhau. Nó kết hợp những tành phần của tâm lý học, khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo để nghiên cứu não thức hoạt động thế nào và những tiến trình nhận thức có thể được biểu diễn và mô phỏng bằng máy tính như thế nào. Khoa học nhận thức điện toán là một lĩnh vực liên ngành gồm những yếu tố của khoa học nhận thức, tâm lý học, khoa học thần kinh, khoa học máy tính và trí tuệ nhân tạo để nghiên cứu và hiểu nhận thức của con người bằng những mô hình và kỹ thuật điện toán. Khoa học nhận thức điện toán dùng để nêu những giả thuyết, đưa những dự đoán vàcos được hiểu biết sâu hơn trong những hiện tượng nhận thức

[39] Big Data: chỉ những dữ liệu cực lớn, nhanh & phức tạp, có thể định nghĩa với ba chữ V: Volume, Velocity, Variety ( Khối lượng, Vận tốc, Đa dạng)

[40] [Robert C. Berwick, Paul Pietroski, Beracah Yankama, và Noam Chomsky, “Poverty of the Stimulus Revisited”, Cognitive Science 35, số 7 (2011): 1207–42, doi:10.1111/j.1551–6709.2011.01189. x.]

[41] syntax-semantics: cú pháp-ngữ nghĩa : chỉ quan hệ giữa cấu trúc cú pháp của một câu và sự giải thích ngữ nghĩa của nó. Theo Chomsky, thành phần cú pháp của ngôn ngữ tạo cấu trúc mặt ngoài của câu qua một set những quy luật xác định trật tự và cách sắp xếp của những từ. Cấu trúc mặt ngoài này sau đó được chuyển thành một cấu trúc trong sâu, thể hiện ý nghĩa cơ bản của câu. Tiến trình biến đổi cấu trúc mặt ngoài thành cấu trúc trong sâu gọi là “sự băt nguồn cấu trúc trong sâu”. Cấu trúc trong sâu thể hiện sự giải thích ngữ nghĩa hay ý nghĩa của một câu. Nó nắm giữ những quan hệ giữa những từ và những khái niệm chúng đại diện. Chomsky cho rằng cấu trúc trong sâu là sự thể hiện cơ bản hơn của ý nghĩa, trong khi cấu trúc mặt ngoài bắt nguồn từ nó qua những phép biến đổi cú pháp.

[42] [W. Tecumseh Fitch, “Speech Perception: A Language-Trained Chimpanzee Weighs In”, Current Biology 21, số 14 (2011): R543–46, doi:10.1016/j.cub.2011.06.035.]

[43] language of thought:

[44] externalization: tiến trình diễn tả hay thể hiện những suy nghĩ, cảm xúc hay ý tưởng ra ngoài.

[45] Trong De Interpretatione, Aristotle thảo luận về bản chất của ngôn ngữ và quan hệ của nó với suy nghĩ và thực tại. Ông nhấn mạnh trên sự quan trọng của liên hệ giữa âm thanh của ngôn ngữ và những ý nghĩa chúng truyền tải. Mặc dù câu âm thanh với ý nghĩa có thể không được nói ra rõ ràng trong những tác phẩm của Aristotle, nhưng khái niệm cơ bản của nó xuất hiện trong những bàn luận về ngôn ngữ của ông. Trong những tác phẩm của ông, Aristotle khám phá nhiều phương diện khác nhau của ngôn ngữ, gồm vai trò của nó trong truyền thông, lôgích và hiểu biết. Ông lập luận rằng ngôn ngữ không chỉ là một set những âm thanh ngẫu nhiên nhưng là một thể hiện có hệ thống và ý nghĩa của những suy nghĩ và khái niệm.

[46] [Charles Fernyhough, “The Voices Within: The Power of Talking to Yourself”, New Scientist, June 3, 2013, 32–35.]

[47] virtual dogma

[48]

(a)

Theo Chomsky, ngôn ngữ gắn bó chặt chẽ với tiến trình nhận thức của chúng ta và định hình cách chúng ta nhận thức, khái niệm hóa và sắp xếp suy nghĩ của mình. Theo truyền thống, ngôn ngữ được xem như một dụng cụ để truyền thông giao tiếp, một hệ thống những ký hiệu và quy luật được dùng để truyền đạt thông tin và diễn đạt ý tưởng cho người khác. Ông thừa nhận chức năng truyền thông giao tiếp của ngôn ngữ, ông vượt xa quan điểm này bằng nhấn mạnh liên hệ nội tại giữa ngôn ngữ và suy nghĩ. Ông lập luận rằng ngôn ngữ là một phần không thể thiếu trong bộ máy nhận thức của chúng ta, phục vụ như một phương tiện để biểu đạt và vận dụng suy nghĩ của chúng ta. Ông nêu lên rằng khả năng tạo và hiểu ngôn ngữ của chúng ta không chỉ nhằm mục đích truyền thông giao tiếp với người khác nhưng còn cho xếp đặt bên trong và cấu trúc những tiến trình tâm của chúng ta.Theo quan điểm này, ngôn ngữ hoạt động như một dụng cụ hay phương tiện qua đó chúng ta suy nghĩ, lập luận, hình thành những khái niệm và hiểu thế giới. Nó không chỉ là một phương tiện truyền thông giao tiếp, nhưng còn là một phương diện cơ bản trong nhận thức và sự thể hiện tinh thần của chúng ta. Ông thách đố quan điểm cho rằng ngôn ngữ chỉ là một hiện tượng xã hội hay truyền thông giao tiếp. Thay vào đó, ông cho rằng ngôn ngữ đã ăn sâu vào cấu trúc nhận thức của chúng ta và đóng vai trò trung tâm trong việc định hình suy nghĩ, nhận thức và hiểu biết của chúng ta về thế giới.

(b)

Chomsky nói ở trước, ngôn ngữ là một khả năng bẩm sinh, không chỉ là dụng cụ truyền thông giao tiếp nhưng cũng là một dụng cụ cho suy nghĩ. Nói cách khác, ngôn ngữ không chỉ đơn giản là một phương tiện của việc diễn đạt suy nghĩ của chúng ta những cũng là một cách thức của việc tạo ra và xếp đặt những suy nghĩ của chúng ta. Tiến trình thể hiện suy nghĩ của chúng ta thành ngôn ngữ là một tiến trình sự vật việccấp, dựa trên hệ thống phối hợp giác quan-vận động của chúng ta. Hệ thống này liên quan đến những tiến trình vật lý để tạo ra và nhận biết lời nói, và nó được môi trường và kinh nghiệm của chúng ta định hình. Do đó, những thuộc tính của ngôn ngữ có liên quan đến thể hiện bên ngoai của nó, hạn như phát âm và ngữ pháp, phần lớn độc lập với những tiến trình nhận thức nền tảng của ngôn ngữ. Hiểu như khi nói, chúng ta dùng cơ thể của mình để tạo ra âm thanh và ghép những từ với nhau theo một cách nhất định. Đây là sự thể hiện bên ngoài, nhưng cách chúng ta nói chịu ảnh hưởng của kinh nghiệm và môi trường sống, nhưng nó không tác động vào khả năng bẩm sinh sáng tạo ngôn ngữ của chúng ta. Khả năng sáng tạo ngôn ngữ và những quy luật chi phối ngôn ngữ (ngữ pháp) không chịu ảnh hưởng của hệ thống cảm giác vận động, những của khả năng sinh học di truyền của bộ óc con người.

[49] [William Uzgalis, “John Locke”, trong The Stanford Encyclopedia of Philosophy (Fall 2012 ed.), ed. Edward N. Zalta, http://plato.stanford.edu/archives/fall2012/entries/locke/ .]

[50] Tuyên bố của Chomsky phản ảnh quan điểm của ông rằng truyền thông là một phần sự vật việcyếu của việc dùng ngôn ngữ thực sự , vì ông tập trung vào những tiến trình nhận thức bên trong liên quan đến ngôn ngữ hơn là chức năng truyền thông thuần túy của nó. Ông nhấn mạnh rằng ngôn ngữ chủ yếu là một khả năng tinh thần dùng để diễn đạt và tạo ra những suy nghĩ, ý tưởng và khái niệm. Chomsky nêu lên rằng những sáng tạo và phát sinh của ngôn ngữ, chẳng hạn như tạo ra những câu mới lạ và những tiến trình suy nghĩ bên trong, là trọng tâm để hiểu ngôn ngữ hơn là vai trò của nó trong truyền thông giữa những cá nhân. Quan điểm này thách đố quan niệm phổ biến rằng ngôn ngữ chủ yếu phục vụ như một dụng cụ truyền thông.

[51] đây, Chomsky định nghĩa Hợp Nhất (Merge): như một hoạt động cơ bản trong ngôn ngữ. Hợp Nhất là việc gắn vào hay gộp chung những yếu tố ngôn ngữ vào với nhau để có một cấu trúc ngôn ngữ mới. đặt vào với nhau những từ, cụm từ hay những đơn vị ngôn ngữ khác để tạo những diễn đạt (những câu) có ý nghĩa.. Nói đơn giản, Hợp nhất có thể được hiểu như việc ghép những từ, cụm từ hay những yếu tố ngôn ngữ khác lại với nhau để có được những cấu trúc ngôn ngữ lớn hơn, như câu hay mệnh đề. Nó kết hợp những đơn vị ngôn ngữ nhỏ hơn để tạo ra những diễn đạtphức tạp và có ý nghĩa hơn. Nó lấy hai đối tượng đã có hay đã thành lập trước đó, X và Y, và kết hợp chúng thành một đối tượng mới, Z Thí dụ: chúng ta hãy xem xét những yếu tố ngôn ngữ sau:

Đối tượng X: từ ‘tôi

Đối tượng Y: Cụm từ đang ăn một quả táo

đối tượng Z mới, là câu Tôi đang ăn một quả táo

Hợp nhất đóng vai trò rất quan trọng quyết định trong Chomsky, đặc biệt là trong khung cấu trúc ngữ pháp phổ quát. Nó được coi là một hoạt động trung tâm trong tiến trình xây dựng cấu trúc cú pháp, cho phép tạo ra một loạt những câu đúng ngữ pháp trong một ngôn ngữ.

[52] Kekulé diagram

[53] ngôn ngữ như một dụng cụ chủ yếu của suy nghĩ

1.

Ở đây, Chomsky đi đến trình bày giả thuyết quan trọng (nhất, theo tôi) của ông về ngôn ngữ – ngôn ngữ như một dụng cụ chủ yếu của suy nghĩ. Những cơ chế tiềm ẩn của ngôn ngữ, gồm những diễn đạt cấu trúc theo sự vật thứ bậc và lập đi lập lại trở ngược (structured hierarchically và recursive) cung cấp một viễn tượng (dưới dạng một cấu trúc khái niệm) về thế giới, vì chỉ qua ngôn ngữ vốn những viễn tượng nhất định thành có sẵn cho chúng ta và với những tiến trình suy nghĩ của chúng ta. Những cơ chế này cung cấp cho chúng ta một cách suy nghĩ và nói chuyện độc nhất con người về thế giới, vốn khác biệt với loại suy nghĩ chúng ta cùng có với những loài động vật khác. Nếu chức năng chính của ngôn ngữ là giao tiếp thì người ta sẽ mong đợi rằng những cơ chế cơ bản của ngôn ngữ sẽ được cấu trúc theo cách hỗ trợ giao tiếp thành công. nhưng những cơ chế cơ bản của ngôn ngữ trong thực tế được cấu trúc theo cách tối đa hóa hiệu quả tính toán, dù điều này làm suy yếu chính khả năng truyền thông giao tiếp.

 

1a.

Tôi tìm thấy một nói chuyện với sinh viên, Chomsky nói về - ngôn ngữ và tư tưởng – ‘nó không phải là vật lý quantum. Nửa giờ chắc chắn là đủ,… “ – như sau:

Có một số những giáo điều về ngôn ngữ vốn tôi nghĩ đang bị bác bỏ một cách có hệ thống, và tôi nên nói rằng chúng cũng được những nhà ngôn ngữ học chủ trương, không chỉ bởi công chúng nói chung, vốn có lẽ rơi vào những gì vốn tôi nghĩ đang bị những nghiên cứu hiện tại làm suy yếu. Đây là quan điểm thiểu số và tôi không nói thay cho giới chuyên môn, vốn tôi đã vẫn được cho là người giữ lập trường trái ngược, vậy tôi sẽ gắng giữ điều đó). Lấy thí dụ, một giả định tổng quát về ngôn ngữ, gần như một giáo điều trong triết học, hiểu biết thông thường, ngôn ngữ học và tâm lý học, đó là ngôn ngữ chủ yếu là một phương tiện truyền thông và nó phát triển như một phương tiện truyền thông. Có lẽ, điều đó hoàn toàn sai. Có vẻ như những ngôn ngữ đã tiến hóa và đã có mục đích kiến trúc như một phương thức của sáng tạo và diễn giải suy nghĩ. Về cơ bản, nó là một hệ thống suy nghĩ. Nó có thể được dùng để truyền đạt mọi việc mọi người làm, cũng như bạn có thể truyền thông bằng kiểu tóc, phong cách đi đứng và mọi sự vật việc khác. Đúng, ngôn ngữ có thể được dùng để truyền thông, nhưng nó dường như không phải là phần trong mục đích kiến trúc của nó. Mục đích kiến trúc của nó dường như hoàn toàn khác biệt và trong thực tế, nó thậm chí còn có vẻ làm suy yếu khả năng truyền thông. Nếu bạn xem xét kỹ cấu trúc của ngôn ngữ, bạn sẽ thấy từng trường hợp ngay tại cốt lõi của mục đích kiến trúc ngôn ngữ, nơi có những mâu thuẫn giữa những gì là hiệu quả cho truyền thông và những gì là hiệu quả cho mục đích kiến trúc sinh học cụ thể của ngôn ngữ. Trong mọi trường hợp đã biết, hiệu quả truyền thông đều bị hy sinh; nó không chỉ là một sự cân nhắc. Tôi nghĩ đó là một kết luận có ý nghĩa rất rộng rãi. Để thiết lập nó, bạn phải xem xét công việc kỹ thuật; đó không phải là điều bạn có thể giải thích trong hai phút trình bày. Nhưng nó không sâu xa; nó không phải là vật lý quantum. Nửa giờ chắc chắn là đủ, và tôi nghĩ đó là một hậu quả tác động khá sâu rộng.

Một tin tưởng tổng quát khác về ngôn ngữ, gần như là một giáo điều trong tất cả những lĩnh vực liên quan – triết học, ngôn ngữ học, v.v. – là những yếu tố có ý nghĩa tối thiểu trong ngôn ngữ, những thứ giống như từ, chọn ra những thực thể trong thế giới ngoài tinh thần. Lấy thí dụ, từ "sông" được cho là để chỉ sông Charles, v.v. – thứ vốn một nhà vật lý có thể xác định được. Tuy nhiên, điều đó hóa ra lại đúng với hệ thống động vật. Hệ thống truyền thông của động vật có những biểu tượng dường như có tương quan 1-1 với những sự kiện không phụ thuộc vào não thức. Lấy thí dụ, một số tiếng kêu cụ thể của một con khỉ sẽ liên quan đến tiếng lá rung rinh hoặc những kẻ săn mồi đang đến, kiểu như "Tôi đói" hoặc một số thay đổi nội tiết tố (trong cơ thể). Nhưng điều này không đúng với ngôn ngữ. Những yếu tố ngôn ngữ không có tính chất đó. Trong thực tế, điều này Aristotle đã hiểu và đã hiểu trong thế kỷ 17 và 18, với nhiều nghiên cứu thú vị về nó. Những thực thể vốn chúng ta xây dựng trong diễn ngôn, cách diễn đạt và diễn giải truyền thông của mình phần lớn là những đối tượng tinh thần, hay một phần tinh thần. Có nhiều cách vốn chúng là những phương thức vốn chúng ta giải thích những hiện tượng, nhưng chúng không chọn ra những thực thể trên thế giới vốn một nhà khoa học tự nhiên có thể xác định nhưng không cần nhìn vào não thức chúng ta. Điều này cho chúng ta biết rất nhiều về bản chất của ngôn ngữ và bản chất của chính chúng ta. Ngôn ngữ là thuộc tính cốt lõi của con người; điều này đã được Darwin và một truyền thống lâu đời trước ông hiểu rõ. Nó rất khác với cách nó thường được hình thành. Tôi nghĩ đó là một trong những kết luận có ý nghĩa khá phổ biến. Cho phép tôi nhấn mạnh một lần nữa rằng quan điểm này được nắm giữ bởi thiểu số; rất ít nhà ngôn ngữ học đồng tình với nó. Tuy nhiên, tôi dự đoán rằng theo thời gian, một số nhà ngôn ngữ học có thể đồng ý với những ý tưởng này.

(Noam Chomsky - Language and Thought

 https://www.youtube.com/watch?v=KEmpRtj34xg)

1b.

Nói thêm, language as essentially an instrument of thought – vẫn dịch là ngôn ngữ như một dụng cụ của suy nghĩ – tôi tạm dịch đơn giản như trên (‘ngôn ngữ như một dụng cụ chủ yếu của suy nghĩ’). (a) Nhấn mạnh từ ‘chủ yếu & (b) từ ‘dụng cụ’. Đặc biệt , dịch ‘instrument’=‘dụng cụ’, theo tôi, cũng không rõ hết được ý tưởng của Chomsky – đúng hơn instrument ở đây hiểu như ‘một phương tiện để hoàn thành một gì đó’(a means of getting something done). Vậy ‘language as essentially an instrument of thought’ = ngôn ngữ như một như một phương tiện để hoàn thành suy nghĩ. Từ ‘instrument’ khi dịch là dụng cu, gợi nhắc đến từ Organon (Tool) trong Aristotle và Bacon – trong quan niệm rằng ‘lôgích là dụng cụ của tư tưởng’ và ở đó cũng vẫn hiểu lôgích như ‘phương tiện’ để hoàn thiện suy nghĩ.

Có xảy ra là đôi khi chúng ta có những ý tưởng, suy nghĩ nhưng khi ấy không tìm được từ ngữ sẵn có nào trong ngôn ngữ của chúng ta để nói ra, diễn tả chúng (truyền thông) cho người khác. Sau đó hay (a) phải mượn từ nước ngoài nào đó, hay (b) phải tạo từ mới. Nếu thế, khi nói đến làm giàu ngôn ngữ, một trong những gì chúng ta nên thực tế nghĩ đến là (a) làm giàu tư tưởng cho chính chúng ta (phải suy nghĩ sáng tao) , sau đó tạo từ ngữ mới tương ứng, đừng vay mượn tương đương. Tôi nêu lên đây, như một thí dụ ngẫu nhiên trong vội vàng, để cho thấy lý thuyết ngữ học của Chomsky có những hàm ý rất xa rộng. Tôi khai triển sau đây

2.

Chomsky thường dẫn Descartes, nhưng họ khác nhau ở một số điểm.

(a) Kiến thức bẩm sinh: Descartes tin vào ý tưởng về kiến thức bẩm sinh, nghĩa là một số khái niệm và ý tưởng là bẩm sinh trong não thức con người, trong khi lý thuyết về ngữ pháp phổ quát của Chomsky cho rằng có những cấu trúc ngôn ngữ bẩm sinh khiến phép trẻ em học ngôn ngữ nhanh chóng.

(b) Thuyết nhị nguyên não thức-cơ thể: Descartes được biết đến với thuyết nhị nguyên não thức-cơ thể, lập luận rằng não thức và cơ thể là những thực thể riêng biệt. Mặt khác, Chomsky tập trung vào những tiến trình nhận thức liên quan đến việc tiếp thu và dùng ngôn ngữ mà không tách rời não thức và cơ thể.

(c) Sự Tiếp thu ngôn ngữ: Descartes không đưa ra lý thuyết về tiếp thu ngôn ngữ, trong khi lý thuyết ngữ pháp phổ quát của Chomsky đưa lên rằng có những cấu trúc ngôn ngữ bẩm sinh.

(d) Phương pháp luận: Descartes là một nhà duy lý dựa vào lý luận suy diễn để đi đến chân lý về thế giới, trong khi Chomsky được biết đến với sự nhấn mạnh vào bằng chứng thực nghiệm và phương pháp khoa học trong nghiên cứu của ông.

Tóm lại, Chomsky khác Descartes ở điểm nhấn mạnh vào cấu trúc ngôn ngữ bẩm sinh, tập trung vào những tiến trình nhận thức liên quan đến việc tiếp thu và dùng ngôn ngữ, cũng như sự tin cậy của ông vào bằng chứng thực nghiệm và phương pháp luận khoa học. Trong khi Descartes tập trung vào kiến thức bẩm sinh và thuyết nhị nguyên não thức-cơ thể, ông không đưa ra một lý thuyết cụ thể nào về việc tiếp thu ngôn ngữ.

3.

Noam Chomsky tin rằng ngôn ngữ không chỉ là phương tiện giao tiếp mà còn là dụng cụ để suy nghĩ và hiểu biết về thế giới xung quanh chúng ta. Ông lập luận rằng ngôn ngữ là một khả năng nhận thức gắn bó sâu xa với tiến trình suy nghĩ của chúng ta và nó là một thành phần thiết yếu trong đời sống tinh thần của chúng ta.

Chomsky cũng lập luận rằng ngôn ngữ không chỉ là dụng cụ để giao tiếp mà còn là dụng cụ để suy nghĩ. Ông cho rằng cấu trúc của ngôn ngữ phản ảnh cấu trúc của suy nghĩ, và rằng ngôn ngữ đem cho khả năng khiến chúng ta thể hiện và vận dụng những khái niệm và ý tưởng trừu tượng. Thí dụ, ông lập luận rằng cấu trúc lập đi lập lại trở ngược của ngôn ngữ (khả năng chen những mệnh đề vào giữa mệnh đề) phản ảnh khả năng suy nghĩ và diễn đạt những ý tưởng phức tạp của chúng ta. Tổng quát, tuyên bố của Chomsky rằng ngôn ngữ là về suy nghĩ chứ không chỉ là truyền thông giao tiếp dựa trên tin tưởng của ông rằng ngôn ngữ là một khả năng nhận thức bẩm sinh gắn bó sâu xa với đời sống tinh thần của chúng ta. Ông tin rằng ngôn ngữ cần thiết cho khả năng hiểu và trình bày những khái niệm và ý tưởng trừu tượng của chúng ta, đồng thời ngôn ngữ là một thành phần quan trọng trong tiến trình suy nghĩ của chúng ta.

4.

Ngôn ngữ và nhận thức của con người có liên quan chặt chẽ với nhau như thế, nhưng bản chất và mức độ chính xác của quan hệ này là một vấn đề tranh luận và nghiên cứu vẫn đang diễn ra. Một số cách có thể dễ dàng nhận hiểu câu hỏi này là:

(a) Ngôn ngữ như một dụng cụ cho sự nhận thức: Ngôn ngữ có thể được coi như một dụng cụ nâng cao và mở rộng những khả năng nhận thức của con người như trí nhớ, suy luận, giải quyết vấn đề và giao tiếp. Ngôn ngữ đem cho khả năng khiến con người lưu trữ, vận dụng và chia sẻ thông tin mà nếu không có nó sẽ không thể dễ dàng nhận hiểu hay bị lãng quên

(b) Ngôn ngữ như một sự phản ánh của nhận thức: Có thể coi ngôn ngữ là sự phản ánh những tiến trình nhận thức của con người như phân loại, khái niệm hóa, suy luận. Ngôn ngữ tiết lộ cách con người nhận thức, tổ chức và hiểu thế giới xung quanh

(c) Ngôn ngữ như một yếu tố quyết định nhận thức: Ngôn ngữ có thể được coi là yếu tố quyết định kết quả nhận thức của con người, chẳng hạn như sự chú ý, nhận thức, trí nhớ và suy nghĩ. Ngôn ngữ ảnh hưởng đến cách con người quan tâm, nhận thức, ghi nhớ và suy nghĩ về thực tế

(d) Ngôn ngữ như một sản phẩm của nhận thức: Có thể coi ngôn ngữ là sản phẩm của tiến trình tiến hóa, thích ứng và phát triển nhận thức của con người. Ngôn ngữ xuất hiện từ sự tác động qua lại của những yếu tố sinh học, nhận thức, xã hội và môi trường hình thành nhận thức của con người

5.

Quan điểm của Chomsky về ngôn ngữ và suy nghĩ: Sau khi đưa ra UG lập luận rằng ngôn ngữ được điều chỉnh bởi một ngữ pháp phổ quát bẩm sinh và đặc trưng cho ngôn ngữ, và ngữ pháp này xác định những hình thức và cấu trúc có thể có của ngôn ngữ tự nhiên, Chomsky tuyên bố rằng ngôn ngữ là suy nghĩ, vì ông tin rằng ngôn ngữ là một khả năng độc đáo của con người, phản ánh cấu trúc lôgíchh cơ bản của suy nghĩ con người. Ông cũng tuyên bố rằng ngôn ngữ là nguồn gốc chính của sự sáng tạo và sản suất của con người, và nếu không có ngôn ngữ, suy nghĩ sẽ không thể tồn tại. Chomsky bác bỏ ý kiến cho rằng ngôn ngữ chịu ảnh hưởng từ cách dùng, tần suất, phép loại suy hay ngữ dụng, và khẳng định rằng ngôn ngữ độc lập với ý nghĩa và giao tiếp. Ông cũng bác bỏ sự liên quan của bằng chứng thực nghiệm từ diễn ngôn tự nhiên, dữ liệu ngữ liệu, thí nghiệm tâm lý ngôn ngữ và so sánh ngôn ngữ học với lý thuyết ngôn ngữ, đồng thời ủng hộ cách dễ dàng nhận hiểu nội tại và duy lý dựa trên nội quan và suy diễn lôgíchh Theo Chomsky, ngôn ngữ là sự hiện thực hóa của tư tưởng. Ông tin rằng ngôn ngữ là một hệ thống những quy luật tạo ra một số vô hạn những câu thể hiện suy nghĩ của người nói. Ông cũng tin rằng ngôn ngữ là sự phản ánh cấu trúc lôgích của suy nghĩ con người, và nếu không có ngôn ngữ thì suy nghĩ sẽ không thể thực hiện được. Ông coi ngôn ngữ là một phương diện của nhận thức, và là một khoa duy nhất của con người không thể thu giảm về thành những phương diện khác của nhận thức hay tác động qua lại xã hội.

Ý tưởng của Chomsky khi nói “ngôn ngữ là sự phản ánh cấu trúc lôgích của suy nghĩ con người” là cách chúng ta dùng ngôn ngữ để tạo thành câu và truyền đạt ý tưởng là “và”, “hoặc”, “nếu”, “thì”, v.v., chúng ta đang tuân theo những quy luật lôgích nhất định giúp chúng ta hiểu thế giới và lập luận về nó. Chomsky tin rằng những quy luật lôgíchh này là phần của khả năng ngôn ngữ bẩm sinh của chúng ta và chúng có chung cho tất cả những ngôn ngữ của loài người. Điều mà Chomsky muốn nói khi “không có ngôn ngữ, suy nghĩ sẽ không thể thực hiện được” là chúng ta cần ngôn ngữ để diễn đạt và khai triển suy nghĩ của mình. Ông cho rằng nếu không có ngôn ngữ, chúng ta sẽ không thể suy nghĩ một cách sáng tạo và hiệu quả, hay không thể truyền đạt suy nghĩ của mình cho người khác. Ông cho rằng ngôn ngữ là cội nguồn chủ yếu của trí tuệ và sự sáng tạo của con người, nếu không có ngôn ngữ thì chúng ta không thể đạt được bất cứ điều gì trong khoa học, nghệ thuật, văn hóa, v.v. Ông coi ngôn ngữ là đặc điểm bản chất của nhận thức con người, là đặc điểm độc đáo phân biệt con người với những loài động vật khác. Như thế, nó dựa trên lý thuyết ngữ pháp phổ quát của ông. Lý thuyết cho rằng có những đặc tính vốn tất cả những ngôn ngữ tự nhiên của con người có thể có, chẳng hạn như phạm trù cú pháp, trật tự từ và phủ định. Những thuộc tính này là phần của ngữ pháp phổ quát có bẩm sinh. Lý thuyết của Chomsky nhằm mục đích giải thích tại sao con người có thể tiếp thu và nhanh chông dùng ngôn ngữ bất chấp sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích, sự việc đó có nghĩa là input ngôn ngữ mà họ nhận được không đủ để giải thích cho năng lực ngôn ngữ của họ.

Theo Chomsky, ngôn ngữ không chỉ là một trong nhiều hình thức giao tiếp của con người. Chomsky phân biệt giữa ngôn ngữ và giao tiếp, và lập luận rằng ngôn ngữ chủ yếu không phải là phương tiện giao tiếp, mà là phương tiện suy nghĩ. Ông cho rằng ngôn ngữ độc lập với ý nghĩa và giao tiếp, và chức năng chính của nó là tạo ra vô số câu thể hiện suy nghĩ của người nói. Ông cũng cho rằng giao tiếp không phải là đặc điểm riêng của con người mà là đặc điểm chung của loài động vật. Ông không phủ nhận rằng con người dùng ngôn ngữ để giao tiếp, nhưng ông không cho rằng đây là mục đích thiết yếu hay chủ yếu của ngôn ngữ. Ông coi ngôn ngữ là một khả năng duy nhất của con người không thể thu giảm về thành những phương diện khác của nhận thức hay giao tiếp xã hội. Nhưng, ông cũng khẳng định con người có ngôn ngữ nhưng động vật không có ngôn ngữ’, chúng chỉ có thông tin giao tiếp. Ông cho rằng ngôn ngữ là một hệ thống những quy luật tạo ra vô số câu thể hiện suy nghĩ của người nói và hệ thống này bẩm sinh và đặc trưng con người. Ông cũng lập luận rằng giao tiếp là một hệ thống những tín hiệu truyền đạt thông tin hay thể hiện cảm xúc, và hệ thống này không phải bẩm sinh hay đặc trưng cho con người, nhưng là phổ biến cho mọi loài động vật. Ông không phủ nhận rằng động vật có một số hình thức nhận thức hay suy nghĩ, nhưng ông không nghĩ rằng chúng có ngôn ngữ theo nghĩa giống như của con người.

Chú ý là lý thuyết ngôn ngữ của Chomsky không dựa trên thuyết tiến hóa tổng quát. Chomsky không phủ nhận rằng ngôn ngữ có nguồn gốc tiến hóa, nhưng ông không cho rằng thuyết tiến hóa có thể giải thích những thuộc tính và cấu trúc cụ thể của ngôn ngữ. Ông lập luận rằng ngôn ngữ là một khả năng độc đáo của con người mới xuất hiện đột ngột và gần đây trong lịch sử loài người, và nó không phải là kết quả của tiến trình thích nghi dần dần hay chọn lọc tự nhiên. Ông cũng lập luận rằng ngôn ngữ không phải là sản phẩm của tiến trình tiến hóa nhận thức của con người, mà là nguyên nhân của nó. Ông cho rằng ngôn ngữ là nguồn gốc chính của trí tuệ và sự sáng tạo của con người, đồng thời nó đem cho khả năng khiến con người phát triển những năng lực nhận thức và thành tựu văn hóa khác. Chomsky coi ngôn ngữ là một khả năng độc đáo của con người không thể thu giảm về thành những phương diện khác của nhận thức hay tác động qua lại xã hội.

[54] {read} + {that book} = {read that book}

[55] Displacement: sự chuyển dịch là một hiện tượng phổ biến trong những ngôn ngữ tự nhiên. Những nhà ngữ pháp thường nói về sự chuyển dịch trong những trường hợp ở đó những quy luật cho trật tự c ủa từ ngữ theo đúng qui tắc tiêu chuẩn dẫn đến việc trông đợi sẽ tìm thấy một từ hay cụm từ ở một vị trí cụ thể trong câu, trong khi thay vào đó, nó xuất hiện ở một vị trí khác, và vị trí theo với đúng quy luật tiêu chuẩn thì còn bỏ trống: Thí dụ: ‘quyên sách nào bạn đã mua?’ ‘which book did you buy?’ minh họa một chuyển dịch, vì cụm danh từ ‘quyển sách nào’/’which book), đóng vai trò là chủ ngữ trong câu hỏi, không xảy ra ở vị trí chủ ngữ theo qui tắc tiêu chuẩn, trong tiếng England là sau động từ. Thay vào đó, nó xuất hiện ở đầu câu (hỏi) và vị trí đối tượng (như một túc từ) vẫn trống.

[56] Copy & Remerge: Sao chép hay Tái-Hợp-Nhất: chỉ việc sao chép hay sao chép lại những yếu tố hay cấu trúc ngôn ngữ. Tuy nhiên, theo Chomsky, những hoạt động cụ thể này không cần thiết hay không hiện diện trong ngôn ngữ. Thay vào đó, Hợp nhất là hoạt động chính chịu trách nhiệm xây dựng những đối tượng mới bằng kết hợp những yếu tố ngôn ngữ hiện có. Chomsky nói rõ ở trên với mục đích ngăn ngừa việc giải thích sai lầm, cho rằng sự có mặt của Sao chép hay Tái-Hợp-Nhất như những hoạt động riêng biệt trong khuôn khổ ngôn ngữ của ông. Ông nhấn mạnh rằng chỉ Hợp nhất là hoạt động thiết yếu và bất kỳ ý tưởng nào về sao chép hay lập lại những yếu tố ngôn ngữ đều thì không là một hoạt động cơ bản hay riêng biệt trong lý thuyết của ông. Hợp nhất là hoạt động trung tâm trong việc kết hợp những yếu tố ngôn ngữ, Sao chép hay Tái-Hợp-Nhất thì không được nhìn nhận hay không cần thiết trong khung cấu trức lý thuyết của ông.

[57] Một trong những kỹ năng cơ bản nhất của người dùng thành thạo ngôn ngữ là có khả năng kết hợp những đơn vị nhỏ hơn (thí dụ: những từ) thành những đơn vị lớn hơn (thí dụ: những cụm từ). Hợp nhất (Merge) là một hoạt động kết hợp đơn giản và nguyên thủy, lấy n đối tượng (thường là hai, trong trường hợp ngôn ngữ của con người), chẳng hạn như X và Y, và tạo thành một set những đối tượng không-trật tự (Chomsky). Những tài liệu về ngôn ngữ học lý thuyết đã hội tụ trên giả thuyết rằng ngôn ngữ loài người ở lõi của nó là một hệ thống chỉ con người mới có của sự Hợp nhất hạn, và hoạt động đơn giản này là động cơ phát sinh duy nhất làm cơ sở cho vô hạn những diễn tả ngôn ngữ.

Hợp nhất không là một hoạt động đơn lẻ, nhưng một gia đình của những hoạt động. Để thuộc ‘họ/gia đình’ hợp nhất, một hoạt động (tính toán) phải có khả năng tạo ra một set vô hạn của những đối tượng từ một cơ sở hữu hạn. Loại hoạt động hợp nhất nào phù hợp với cú pháp hẹp tùy thuộc trên bản chất của những set vô hạn của những đối tượng nó đòi hỏi để tạo ra. Chomsky xác định hình thức đơn giản nhất vốn sự Hợp nhất có thể có là sự hình thành của những set chỉ gồm hai phần tử:

Áp dụng cho hai đối tượng α và b, Hợp nhất tạo thành đối tượng mới γ. γ là gì? γ phải được cấu thành bằng cách nào đó từ hai phần tử α và β …. Đối tượng đơn giản nhất được xây dựng từ α và β là set {α, β}, vì vậy chúng ta coi γ ít nhất là set này. Hợp nhất lấy hai phần tử α, β đã tạo sẵn và tạo một phần tử mới gồm hai phần tử đó; trong trường hợp đơn giản nhất {α, β}.

Chomsky gọi hình thức này của hợp nhất là “hợp nhất set (set merge)”. Thêm nữa, hợp nhất set là “bên ngoài” nếu α và β là những đối tượng riêng biệt và “bên trong” (về cơ bản là “di chuyển”) nếu một này là phần của một kia, thí dụ: nếu β là phần của α, trong trường hợp đó β được gọi là một “sao chép” của những xuất hiện của nó trong α.

[58]which book did John read

Theo nguyên tắc Tính Toán Tối Thiểu, bộ óc dùng một set nhỏ những hoạt động đơn giản để kết hợp những yếu tố ngôn ngữ (chẳng hạn như từ hay cụm từ) thành những cấu trúc lớn hơn. Những hoạt động Hợp nhất bên trong và Hợp nhất bên ngoài. là những hoạt động nền tảng dùng trong tiến trình xây dựng những cấu trúc ngôn ngữ phức tạp. Hợp nhất bên trong liên quan đến kết hợp hai hay nhiều yếu tố ngôn ngữ trong một cụm từ. Thí dụ: trong câu “which book did John read /John đã đọc quyển sách nào”, Hợp nhất bên trong kết hợp những từ “quyển sách nào” để tạo thành cụm danh từ “quyển sách nào”. Tương tự, nó kết hợp những từ “did John read” để tạo thành cụm động từ “did John read”. Hợp nhất bên trong cho phép bộ óc tạo ra những cấu trúc ngôn ngữ phức tạp bằng cách dùng một set nhỏ những quy luật đơn giản. Mặt khác, Hợp nhất bên ngoài liên quan đến kết hợp của hai hay nhiều cụm từ hay mệnh đề. Thí dụ: trong câu “John đã đọc quyển sách nào”, Hợp nhất bên ngoài kết hợp cụm danh từ “quyển sách nào” với cụm động từ “John đã đọc” để tạo thành một câu lớn hơn. Cấu trúc lớn hơn này sau đó có thể được kết hợp thêm với những yếu tố ngôn ngữ khác để tạo ra những cấu trúc thậm chí còn phức tạp hơn. Tiến trình Hợp nhất bên ngoài liên quan đến việc chọn một phần tử đầu (trong trường hợp này là động từ “đọc”) và hợp nhất nó với một túc/bổ từ (trong trường hợp này là cụm danh từ “quyển sách nào”) để tạo thành một cấu trúc lớn hơn. Cấu trúc kết quả gọi là một cấu trúc theo sự vật thứ bậc đại diện cho cấu trúc cú pháp của một câu (phrase marker) và biểu thị cấu trúc cú pháp của câu.Như thế, Hợp nhất (Merge) là hoạt động mền tảng kết hợp hai yếu tố ngôn ngữ thành một cấu trúc duy nhất. Hợp nhất bên trong kết hợp những yếu tố trong một cụm từ duy nhất, trong khi Hợp nhất bên ngoài kết hợp những cụm từ hay mệnh đề để tạo thành những cấu trúc lớn hơn.

Dùng những hoạt động này, bộ óc có thể tạo ra những cấu trúc ngôn ngữ phức tạp qua việc dùng một lượng nỗ lực tính toán tối thiểu. Điều này rất quan trọng vì bộ óc có nguồn lực giới hạn và cần giải quyết ngôn ngữ (những hoạt động tinh thần bộ óc con người thực hiện khi tiếp nhận và tạo ra ngôn ngữ; những hoạt động tinh thần này gồm nhận biết và hiểu lời nói hay ngôn ngữ viết, tạo câu và diễn giải ý nghĩa) một cách nhanh chóng và hiệu quả).Tính toán tối thiểu có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm hiểu cách não bộ giải quyết ngôn ngữ và để phát triển những lý thuyết về tiếp thu ngôn ngữ.

[59] [Tuệ Trịnh, “A Constraint on Copy Deletion”, Theoretical Linguistics 35, nos. 2–3 (2009): 183–227. . Tôi cũng đặt ra ngoài ở đây một số đề tài vốn nêu lên thêm nhiều câu hỏi khác nhau, trong số đó có “hoạt động ngầm”, trong đó chỉ sao chép được hợp nhất đầu tiên thì được thể hiện bên ngoài.]

[60] parsing

[61] Hợp Nhất Bên Trong là hoạt động kết hợp những thành phần cú pháp bên trong một cấu trúc, tạo những quan hệ sự vật thứ bậc giữa chúng. Nó tạo thành nền tảng để xây dựng những cấu trúc câu. Mặt khác, Chuyển Dịch liên quan đến sự chuyển động của những thành phần bên trong những cấu trúc này. Sự chuyển dịch xảy ra sau khi Hợp Nhất Bên Trong đã diễn ra, cho phép những thành phần được định chỗ lại hầu thỏa mãn những điều kiện ngữ pháp hay ngữ nghĩa. Hợp nhất bên trong và chuyển dịch góp phần để được sự Tính toán tối thiểu. Hợp Nhất Bên Trong đảm bảo rằng những cấu trúc cú pháp được xây dựng hiệu quả, kết hợp những thành phần với không phức tạp không cần thiết. Sự chuyển dịch , mặc dù nó liên quan đến hoán chuyền vị trí , được biện luạn là một hoạt động ở mức thấp nhất, đem cho năng lực về diễn tả lớn hơn nhưng giữ gánh nặng của tính toán không tăng lên mức đáng kể

[62] “[which of his pictures] did they persuade the museum that [[every painter] likes best]?”

[63] quantifier-variable : ‘every’ và ‘his’ , ở đây ‘his’ giới hạn lượng từ ‘mọi người’ ()

[64] copy deletion under externalization: Trong tiến trình ghép kết nối nhữn cấu trúc cú pháp trừu tượng với dạng thực sự của lời nói hay viết; một số những (dấu vết) những bản sao không phát âm vốn tồn tại trong cấu trúc sâu của một câu có thể bị xóa. Thí dụ:

Cấu trúc sâu: John has read the book, and Mary has read __    (John đã đọc quyển sách và Mary đã đọc __).

Cấu trúc ngoài mặt: John has read the book, and Mary has read it (John đã đọc quyển sách và Mary đã đọc nó)

Trong thí dụ này, đại từ “it/nó” đã dùng thay thế cho sao chép không phát âm (hay dấu vết không phát âm). Cụm từ gốc “quyển sách” không lập lại trong cấu trúc ngoài mặt. Thay vào đó, đại từ “it” được dùng để trỏ về quyến sách đã nhắc đến trước đó.

[65] Câu “instinctively, eagles that fly swim/ theo bản năng, loài chim ưng vốn bay bơithuận hợp với nguyên tắc khoảng cách tối thiểutính toán tối thiểu trong Chomsky. Nguyên tắc về khoảng cách tối thiểu cho thấy rằng người nói có khuynh hướng sắp xếp những từ và cụm từ theo cách giảm thiểu khoảng cách giữa những yếu tố liên quan, khiến việc giải quyết tiến trình ngôn ngữ dễ dàng hơn. Trong câu này, những từ “chim ưng bay” được đặt gần động từ “bơi”, giúp dễ hiểu tương quan giữa hai yếu tố. Điều này phù hợp với nguyên tắc khoảng cách tối thiểu. Mặt khác, Tính toán tối thiểu đề cập đến ý tưởng rằng bộ óc giải quyết tiến trinh ngôn ngữ bằng những quy luật đơn giản và hiệu quả. Trong câu này, bộ óc có thể dễ dàng giải quyết ý nghĩa của câu bằng cách dùng quy luật đơn giản rằng chim ưng, giống như loài chim, thường không bơi và do đó việc dùng từ “theo bản năng” được dùng để truyền đạt một hành vi ngạc nhiên. Điều này phù hợp với nguyên tắc tính toán tối thiểu.

[66] Language universals: Những phổ quát ngôn ngữ là những mẫu thức xảy ra có hệ thống trong những ngôn ngữ tự nhiên, thường đúng cho tất cả chúng, Những phổ quát trong ngôn ngữ này được tìm thấy qua quan sát thực nghiệm. Thí dụ, tất cả những ngôn ngữ đều có những danh từ (chủ ngữ) và những động từ (thuật ngữ/vị ngữ), hay nếu là một ngôn ngữ nói, nó có những phụ âm và những nguyên âm. Trong khi những phổ quát trong UG là lý thuyết dựa trên thành phần sinh học bẩm sinh của language faculty” của con người, Định đề cơ bản của UG là có những hạn chế bẩm sinh về ngữ pháp của một ngôn ngữ loài người có thể có. Như thế, Những phổ quát trong ngôn ngữ dựa trên những quan sát thực nghiệm trong nhiều những ngôn ngữ, trong khi UG là một khung lý thuyết vốn nhằm giải thích những nguyên tắc và những giá trị thay đổi bẩm sinh vốn hình thành nên sự tiếp thu và cấu trúc của ngôn ngữ con người. Những phổ quát ngôn ngữ có thể là tuyệt đối hay tương đối, hàm ý hay không hàm ý, trong khi ngữ pháp phổ quát được coi là một set của những quy luật hay nguyên tắc trừu tượng phổ biến với tất cả những ngôn ngữ. Những phổ quát ngôn ngữ cũng có thể bị thách đố hay sửa đổi dựa trên dữ liệu hay bằng chứng mới, trong khi ngữ pháp phổ quát được thiết lập vững chắc chống lại những đề nghị thay đổi hay những phản chứng

[67] [Patricia S. Churchland, lời nói đầu cho W. V. O. Quine, Word and Object (1960; repr., Cambridge, Mass.: MIT Press, 2013), xiii.]

[68] field linguist: Nhà ngôn ngữ học thực địa nghiên cứu và ghi lại những ngôn ngữ trong môi trường tự nhiên của chúng. Họ thu thập dữ liệu, phân tích cấu trúc ngôn ngữ và đóng góp vào những nỗ lực bảo tồn và phục hồi ngôn ngữ..

[69] Câu “the library was taken the books from by the boys” trái văn phạm, không theo những quy luật tạo câu tiêu chuẩn tiếng England.

[70] Garden Path Sentences: Những Câu quanh co như Lối Đi Trong Vườn là những câu dẫn người đọc hay người nghe đi đến diễn giải chúng theo một lối nhất định nào đó khi bắt đầu, nhưng sau đó, đọc tiếp câu làm họ ngạc nhiên với một ý nghĩa khác. Thuật ngữ “lối đi trong vườn” chỉ ý tưởng bị lạc lối hay đi vào một con đường khó hiểu, tương tự như đi theo một con đường quanh co trong một khu vườn, dẫn đến những bất ngờ. Những câu loại này tạo ra sự mơ hồ tạm thời và đòi hỏi người đọc hay nghe phải quay lại và diễn giải lại. Chúng dùng trong ngôn ngữ học để nghiên cứu tiến trinh giải quyết và nhận hiểu ngôn ngữ. Đây là thí dụ một câu cổ điển của những câu quanh co như lối đi trong vườn: “The old man the boats / Ông lão những chiếc thuyền”. Ban đầu, người đọc có thể hiểu the old man/ông lão/người già’ là chủ ngữ của câu và mong đợi một động từ theo sau. Tuy nhiên, khi gặp “the boats /những chiếc thuyền”, rõ ràng là “manthực sự là động từ “lái” (to man = run, hay operate), và ‘old’ “và the boats/những chiếc thuyềntạo thành một cụm danh từ bổ nghĩa cho chủ ngữ (người già lái những con thuyền).

[71] Theo văn phạm > ‘The horse that raced past the barn fell’. Trong câu sai ngữ pháp, ‘The horse raced past the barn fell, thật khó để xác định ý nghĩa chính xác nếu không có ngữ cảnh bổ túc. Tuy nhiên, một cách giải thích có thể là con ngựa khi đang chạy qua chuồng ngựa thì bất ngờ bị ngã. Một cách giải thích khác có thể là hành động của con ngựa chạy qua chuồng ngựa đã khiến một gì đó khác rơi xuống. Tuy nhiên, cả hai giải thích đều là suy đoán vì câu thiếu cấu trúc cú pháp rõ ràng.

[72] islands: những đảo (chặn): một khái niệm dùng để mô tả hiện tượng hạn chế chuyển dịch trong một câu. Nó xác định những cấu hình cấu trúc cụ thể hay ngữ cảnh ngôn ngữ gây trở ngại cho những hoạt động chuyển dịch trong một ngôn ngữ.

[73] [Luigi Rizzi, Issues trong Italian Syntax (Dordrecht: Foris,1982).]

null subject languages: Ngôn ngữ không chủ ngữ, còn gọi là ngôn ngữ pro-drop, là một nhóm ngôn ngữ trong đó chủ ngữ của câu có thể được bỏ hay không được diễn đạt khi nó có thể được suy ra từ ngữ cảnh hay dạng động từ. Trong những ngôn ngữ này, chủ ngữ có thể không là gì cả (null) hay rỗng, do đó có thuật ngữ “chủ ngữ rỗng”. Thí dụ: Tiếng Italy: Mango la pizza. (Tôi ăn pizza); Corriamo. (Chúng ta chạy)

[74] The Empty Category Principle (ECP): một nguyên tắc trong Chomsky chi phối việc phân phối và diễn giải của những yếu tố trống hay dấu vết trong cấu trúc câu. Nó nói rằng một phân loại (category) trống phải được quản lý đúng cách bởi một tiền lệ thích hợp, vốn phải là một phân loại cục bộ và không trống với một vai trò chủ đề (thematic role). ECP giúp giải thích những hiện tượng liên quan đến cấu trúc câu, hạn như lý thuyết liên kết và phân phối những đại từ và những từ phản thân (reflexives)

[75] sensory modality

[76] The Minimalist Program: một khung nền cấu trúc ngôn ngữ Chomsky đưa ra và khai triển với mục đích khám phá những nguyên tắc và cấu trúc cơ bản nằm chìm bên dưới ngôn ngữ của con người. Nó tìm trả lời cho câu hỏi Cách đơn giản nhất và hiệu quả nhất để tạo và hiểu ngôn ngữ là gì? Chương Trình Tối Giản nêu lên rằng ngôn ngữ hoạt động qua một set nhỏ gồm những nguyên tắc phổ quát, thay vì dựa vào những quy luật dành riêng cho mỗi ngôn ngữ. Chương trình tối giản trình bày trong The Minimalist Program (1995) như một sàng lọc và đơn giản hóa lý thuyết trước đây của Chomsky về ngữ pháp phát sinh biến đổi. Nó nhằm mục đích cung cấp một giải thích hợp lý và tối giản hơn về những hoạt động cơ bản và nguyên tắc cơ bản của ngôn ngữ. Nó có ảnh hưởng rất lớn rộng trong ngôn ngữ học và từ đó đã mở ra nhiều nghiên cứu và tranh luận giữa những nhà ngôn ngữ học trên thế giới.

[77] The Strong Minimalist Thesis (SMT) luận đề tối giản mạnh, là ý tưởng cốt lõi trong Chương Trình Tối Giản. Nó nói rằng ngôn ngữ con người được hình thành bởi những nguyên tắc của tính hiệu quả và của sự tối ưu hóa. Theo SMT, việc nói/viết và hiểu ngôn ngữ liên quan đến những hoạt động tính toán tối thiểu tạo ra một chuỗi vô hạn của những câu nói theo ngữ pháp. Sự đơn giản và tiết kiệm đến mức tối thiểu trong những quy luật và những biểu hiện ngôn ngữ, nhấn mạnh trên hoạt động Hợp nhất là cơ chế cơ bản để kết hợp những từ và cụm từ. SMT nói rằng ngôn ngữ được sắp xếp hợp lý và tối giản bên trong lõi của nó, còn sự phức tạp phát sinh từ những yếu tố bên ngoài. Thế nên, SMT nhấn mạnh trên cấu trúc bên trong và những nguyên tắc phổ quát của ngôn ngữ hơn là trên những nguồn gốc tiến hóa của nó.

[78] So sánh sự xuất hiện của ngôn ngữ với sự hình thành của một hoa tuyết có thể là một ẩn dụ để làm nổi bật bản chất phức tạp và độc đáo của ngôn ngữ. Giống như mỗi hoa tuyết thì khác biệt và được những điều kiện môi trường cụ thể trong tự nhiên định hình, ngôn ngữ cũng được coi là một hiện tượng phức tạp và độc đáo phát sinh từ những yếu tố nhận thức và văn hóa xã hội cụ thể trong thế giới tự nhiên của con người sinh sống.