Friday, August 25, 2023

Noam Chomsky – Ngôn ngữ và Tự do

Ngôn ngữ và Tự do

(Language and Freedom)

 

Noam Chomsky

 

 



Giới thiệu

 

Noam Chomsky, nay đã hơn 90 tuổi, vốn là Giáo sư Phân khoa Ngôn ngữ và Triết học, Học Viện Kỹ thuật Massachusetts (MIT), U.S. [1] Ông là một nhà trí thức lớn có ảnh hưởng vào bâc nhất thế giới, ít nhất là trong thế giới nói tiếng Anh; trong nửa cuối thế kỷ hiện tại và có lẽ, có lẽ vẫn như vậy, với nhiều người trong nhiều thế kỷ tới. Ông trở nên nổi tiếng ở U.S. với tư cách là nhà bất đồng chính kiến ​​hàng đầu trong giới hàn lâm chống lại chiến tranh Việt Nam vào cuối những năm sáu mươi. Ông nổi tiếng với những bài viết, cả sách và báo, về những vấn đề chính trị xã hội ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới, mới nhất là đảo Đông Timor [2]. Chomsky nổi tiếng với phong cách trình bày của ông, phong cách trình bày không trang trọng, nhưng giản dị và dễ tiếp cận, với rộng rãi tài liệu bằng chứng hỗ trợ, mổ xẻ sắc bén và sâu xa, đôi khi thẳng tay trực tiếp, dẫn người nghe đến những kết luận không thể không thể né tránh hay bỏ qua được. Nằm chìm dưới tất cả những bài viết của ông là ý niệm của ông về bản chất nền tảng của một con người – sáng tạo và tự do – với giả định trước sự hiện hữu của một não thức con người. Những quan điểm của ông, lần lượt bắt nguồn từ tư tưởng của ông về bản chất của ngôn ngữ vốn đã chiếm lĩnh suy nghĩ của ông từ cuối những năm 1940.

 

Chomsky nổi tiếng như một nhà tư tưởng chính trị-xã hội đã hoàn toàn làm lu mờ tư thế chuyên môn của ông như một nhà ngôn ngữ học với giới người đọc thông thường. Quyển sách nhỏ của ông Syntactic Structures (Những Cấu Trúc Cú Pháp ) do một nhà xuất bản (Mouton and Co.) khi đó không nổi tiếng lắm ở Holland, xuất bản năm 1957, đã mở ra những gì ngày nay gọi là Cách mạng Chomsky, không chỉ trong ngôn ngữ học nhưng còn trong những lĩnh vực liên quan, đã phân những nhà khoa học xã hội thành hai nhóm, theo Chomsky và, không-theo Chomsky. Chuyên khảo Aspects of the Theory of Syntax (Những Phương Diện Của Lý Thuyết Cú Pháp) năm 1965 của ông, do nhà xuất bản đại học MIT xuất bản, trình bày quan điểm về ngôn ngữ của ông, nay gọi là Standard Theory (Lý Thuyết Tiêu chuẩn) [3] đã tạo ra một lượng lớn những tranh luận giữa những nhà chuyên môn của nhiều ngành học khác nhau, ngay cả đến nay vẫn còn chưa lắng.

 

Bài viết sau đây đã trình bày trong nội dung của tranh luận sôi nổi nói trên về trí thức và chính trị, như một bài diễn giảng Đại học Loyola, Chicago, January 8-9, 1970, như phần của Hội thảo về Tự do và Khoa học Nhân văn của trường đại học này. Đây là một trong những bài viết hiếm hoi, trong đó Chomsky liên hệ suy nghĩ của ông về bản chất của ngôn ngữ với tự do.

 

Chomsky đi theo nhữngông gọi là ‘thuyết xã hội tự do’ (libertarian socialism), vốnmột một hình thái xã hội tiếp theo trong giai đoạn xã hội kỹ nghệ. Nó sẽ được thành lập dựa trên quyền tự do, lựa chọn và hành động, sự bảo đảm những quyền cá nhân. Chomsky truy ngược về nguồn gốc của suy tưởng như vậy, vốn đã có ảnh hưởng của nó trong gần một trăm năm, cho đến sự xuất hiện của tưởng về hành vi duy nghiệm-duy vật (materialist-empiricist-behavioural) cuối thế kỷ 19, với những nhà triết học như Schelling, Rousseau, Kant, Descartes và người theo ông này là Cordemoy, Wilhelm von Humboldt và những người khác. Yếu tính tổng quát của tư tưởng của họ là bản chất của con người / con người được nhìn như có trí tuệ /lý trí / não thức và tự do, một này có trong một kia, một này không thể hoạt động nếu không có một kia. Ngoài ra, Humboldt nêu lên thuộc tính về sáng tạo đã dựa trên suy tưởng về ngôn ngữ của ông. Với Humboldt, ngôn ngữ con người là một tiến trình sáng tạo tự do, có một hình thức cố định – một tiến trình phát sinh có gốc rễ từ bản chất của não thức con người. Với não thức con người, học tập là một loại của hồi tưởng. Được kinh nghiệm kích thích, nó lấy ra từ những nguồn lực có bên trong của nó và đi theo một con đường vốn tự nó ấn định. Tất yếu và tự do, quy luật và lựa chọn, những hình thức-có sẵn/những giới hạn ràng buộc và tính sáng tạo cùng đều là những phương diện của bản chất con người. Ngôn ngữ cung cấp một thể hiện lấy thí dụ để minh họa đặc tính của hành vi theo quy luật điều chỉnh và sáng tạo tự do, một phương diện điển hình của tổ chức cấu trúc và vận hành của tinh thần con người.

 

Chomsky cảm thấy rằng để hệ thống kiến ​​thức dựa trên yếu tính này của bản chất con người, thì cần phải thoát ra khỏi phần lớn của khoa học xã hội và hành vi hiện tại / thời nay. Ông còn hy vọng vào sự phát triển một khoa học xã hội dựa trên những định đề có cơ sở thực nghiệm liên quan đến bản chất con người, tức là những hình thức biểu đạt nghệ thuật, tri thức khoa học, ngôn ngữ, phạm vi hệ thống đạo đức và cấu trúc xã hội, vv …, con người có thể hình dung và đạt được.

 

Vasant R Khokhle

Cựu giáo sư & trưởng khoa ngôn ngữ học,

University of Mumbai, India

 

 

 

Ngôn ngữ và Tự do [4]

 

Khi tôi được mời nói về đề tài “Ngôn ngữ và tự do”, tôi đã bối rối và bị hiếu kỳ lôi cuốn. Phần lớn sinh hoạt chuyên môn của tôi dành trọn vào nghiên cứu ngôn ngữ. Sẽ không có nhiều khó khăn trong việc tìm một đề tài để bàn luận trong lĩnh vực đó. Và có nhiều để nói về những vấn đề của tự do và giải phóng, chúng tự nêu lên cho chúng ta và những người khác trong giai đoạn giữa thế kỷ XX. Nhưng rắc rối trong tựa đề bài giảng này là sự liên kết. Trong cách thức nào ngôn ngữ và tự do liên kết với nhau?

 

Như một vào đầu, tôi xin nói chỉ một lời về sự nghiên cứu hiện nay của ngôn ngữ, như tôi thấy. Có nhiều phương diện của ngôn ngữ và của việc dùng ngôn ngữ vốn nêu lên những câu hỏi lôi cuốn mò tìm hiểu, nhưng – trong phán đoán của tôi – cho đến nay, chỉ có một số ít đã dẫn đến công trình lý thuyết có giá trị tiến bộ. Đặc biệt, những hiểu biết trực tiếp sâu xa nhất của chúng ta đều thuộc lĩnh vực của cấu trúc ngữ pháp hình thức. Một người biết một ngôn ngữ đã học được một hệ thống của những quy luật và những nguyên tắc – một “ngữ pháp phát sinh”, trong từ ngữ chuyên môn – vốn liên kết âm thanh và ý nghĩa trong một số kiểu thức đặc biệt. Thêm nữa, đã có một sự trở lại với quan tâm về “ngữ pháp phổ quát”, bây giờ hiểu như lý thuyết cố gắng xác định những thuộc tính tổng quát đó của những ngôn ngữ, vốn con người có thể học theo cách bình thường. Ở đây, cũng đã đạt được những tiến bộ ý nghĩa.

 

Đề tài thì thuộc loại quan trọng đặc biệt. Nó là thích hợp để nhìn ngữ pháp phổ quát như sự nghiên cứu của một trong những khả năng thiết yếu của não thức. Do đó, sự việc cực kỳ thú vị, như tôi tin rằng chúng ta thấy, để tìm ra rằng những nguyên tắc của ngữ pháp phổ quát thì phong phú, trừu tượng và hạn chế [5], và có thể được dùng để xây dựng những giải thích dựa trên những nguyên tắc mạch lạc và thuận hợp trước sau. cho nhiều hiện tượng khác nhau. Ở giai đoạn hiện tại của hiểu biết của chúng ta, nếu ngôn ngữ là để cung cấp một bàn đạp cho sự nghiên cứu những vấn đề khác của bản chất con người, thì chúng ta sẽ phải quay sang chú ý đến những phương diện này của ngôn ngữ, vì lý do đơn giản rằng đóchỉ những phương diện này vốn được hiểu biết ở mức độ thỏa đáng.

 

Trong một ý hướng khác, việc nghiên cứu những đặc tính hình thức của ngôn ngữ vén mở lên cho thấy một gì đó về bản chất của con người, trong một cách tiêu cực: nó nhấn mạnh một cách rõ ràng những giới hạn của sự hiểu biết của chúng ta về những thuộc tính tinh thần của não thức, vốn dường như chỉ có ở con người và sự việc đó phải đi vào trong những thành tựu văn hóa của họ, một cách gần gũi mật thiết, mặc dù sự hiểu biết của chúng ta về chúng vẫn còn khá mù mờ.

 

Trong việc đi tìm một điểm khởi hành, người ta tự nhiên quay sang một thời kỳ trong lịch sử tư tưởng phương Tây khi có thể để tin rằng “ý nghĩ của việc làm tự do thành tổng số và thực chất của triết học đã giải thoát tinh thần con người trong tất cả những liên hệ của nó, và . . . đã đem cho khoa học trong tất cả những phần của nó một sự tái định hướng mạnh mẽ hơn bất kỳ cách mạng nào trước đó .[6] Từ “cách mạng” mang nhiều liên tưởng trong đoạn văn này, vì Schelling cũng tuyên bố rằng “con người được sinh ra để hành động chứ không phải để suy đoán”; và khi ông viết rằng “đã đến lúc để tuyên bố cho một loài người cao cả hơn về tự do của tinh thần, và thôi không còn kiên nhẫn với những tiếc nuối đẫm nước mắt của con người vì những xiềng xích đã mất của họ”, chúng ta nghe những tiếng vọng của tư tưởng tự do và hành động cách mạng của cuối thế kỷ XVIII. Schelling viết rằng “khởi đầu và kết thúc của tất cả triết học là – Tự do”. Những từ này thấm nhuần và chứa đựng với ý nghĩa và tính cấp thiết vào một thời điểm khi mọi người đang đấu tranh để cởi bỏ những xiềng xích của họ, để chống lại quyền lực vốn mất tuyên xưng hợp pháp của nó, để xây dựng những thể chế xã hội nhân đạo hơn và dân chủ hơn. Đó là một thời điểm vốn nhà triết học có thể bị thúc đẩy để tìm hiểu bản chất của tự do con người và những giới hạn của nó, và có lẽ để kết luận, với Schelling, rằng với ego con người, “yếu tính của nó là tự do”; và với triết học, “phẩm giá cao nhất của Triết học chính xác là ở đó, nó đặt tất cả trên tự do con người”.

 

Chúng ta đang sống, một lần nữa, ở một thời như vậy. Một dậy men cách mạng đang tràn qua Thế Giới Thứ Ba, đánh thức đông đảo dân chúng khỏi sự hôn mê thụ động và sự phục tùng trong uy quyền truyền thống. Có những người cảm thấy rằng những xã hội kỹ nghệ cũng đã chín mùi cho sự thay đổi cách mạng – và tôi không chỉ nói tới những đại diện của phong trào Tả Phái Mới [7] . Sự đe dọa của sự thay đổi mang tính cách mạng gây ra đàn áp và phản ứng. Những dấu hiệu của nó đều hiển nhiên trong nhiều dạng khác nhau, ở France, ở Soviet Union, ở U.S. – ít nhất, không kém quan trọng, ở thành phố chúng ta đang hội họp. Khi đó, là tự nhiên rằng chúng ta nên chúng ta nên xem xét một cách trừu tượng (suy nghĩ trên những khái niệm lý thuyết),những vấn đề của tự do con người và chuyển sự quan tâm và chú ý thực sự sang suy nghĩ của một thời kỳ trước, khi những thể chế xã hội cổ xưa đã là đối tượng cho phân tích phê phán và tấn công liên tục. Điều là tự nhiên và thích hợp, miễn là chúng ta ghi nhớ lời khuyên răn của Schelling rằng con người được sinh ra không để chỉ suy nghĩ, cân nhắc nhưng cũng để hành động. [8]

 

Một trong những điều tra sớm nhất và đáng ghi nhận nhất của thế kỷ thứ mười tám, về tự do và nô lệ, Discourse on Inequality của Rousseau (1755), về nhiều mặt là một luận văn ngắn cách mạng [9] . Trong đó, ông tìm để “nóinguồn gốc và tiến triển của sự bất bình đẳng, sự thiết lập và lạm dụng của những hội đoàn chính trị, trong chừng mức những sự việc này có thể suy ra được từ bản chất của con người chỉ bằng ánh sáng lý trí”. Những kết luận của ông đã gây đã sửng sốt đến mức ban giám khảo giải thưởng của hàn lâm viện thành phố Dijon, nguyênnơi tác phẩm ban đầu được gửi đến, nơi ban đầu gửi bản thảo, đã từ chối xem xét toàn bộ nội dung bản thảo. [10] Trong đó, Rousseau thách đố tính hợp pháp của hầu hết mọi thể chế xã hội, cũng như sự kiểm soát đất cát và tài sản cá nhân. Đây là “những chiếm đoạt. . . đã thành lập chỉ trên một quyền bấp bênh và lạm dụng. . . từng có chỉ bằng vũ lực, vũ lực có thể đoạt lấy chúng, khiến ngay cả (kẻ giàu cũng) không có căn cứ để khiếu nại. [11] Ngay cả tài sản có được nhờ hoạt động sản xuất kinh doanh cá nhân cũng không được coi là có giá trị pháp lý hay cơ sở hợp pháp chính đáng hơn những hình thức tài sản khác”. Chống lại một tuyên bố như vậy, một người có thể phản đối: “Bạn có biết rằng một khối đông đảo những đồng loại của bạn phải chết hay đói khổ vì họ thiếu những gì bạn dư thừa không? Và bạn cần có sự đồng ý toàn thể rõ ràng nói ra của loài người để lấy bất cứ gì quá nhu cầu cơ bản của bạn từ những gì cần thiết có chung duy trì sự sống?”. Đó là ngược với luật của tự nhiên khiến “một số ít người có quá nhiều dư thừa, trong khi đông đảo nhiều người đói khát những nhu cầu cơ bản tối thiếu để sống”.

 

Rousseau biện luận rằng xã hội dân sự, có thể mô tả chủ yếu là một âm mưu của những người giàu có để bảo đảm cho sự cướp bóc của họ. Đạo dức giả, giới giàu có kêu gọi những người xung quanh “thiết lập những quy định về công lý và hòa bình vốn tất cả mọi người buộc phải tuân theo, không trừ một ai và một cách nào đó bù đắp cho những bốc đồng thất thường của số phận bằng đặt ngang bằng nhau, những người quyền lực và những người yếu kém với những bổn phận tương trợ” – những luật đó, như Anatole France đã nói, trong uy nghiêm phủ nhận cho cả người giàu lẫn người nghèo, quyền bình đẳng “ban đêm được ngủ dưới gầm cầu. Bằng những luận chứng như vậy, người nghèo và người yếu bị dụ dỗ: “Tất cả đã chạy háo hức đến nhận xiềng xích của họ, nghĩ rằng họ đã nắm được bảo đảm cho tự do chính họ . . . “ Thế nên, xã hội và luật pháp” đã đem những gông cùm mới cho kẻ yếu nghèo và sức mạnh mới cho kẻ giàu, đã hủy hoại tự do tự nhiên trong mọi thời đại, vĩnh viễn thiết lập luật về tài sản và bất bình đẳng, đã thay đổi một sự chiếm đoạt xảo quyệt khôn ngoan thành một quyền không thể trở ngược, và vì lợi nhuận của một nhóm rất ít người tham vọng, từ đó về sau đặt cả nhân loại vào lao động, nô dịch và khốn khổ. Những chính phủ không thể tránh được khuynh hướng đi đến hình thức quyền lực tùy tiện, không hạn chế., vì “tham nhũng và cực đoan của chúng”. Quyền lực này “về bản chất là bất hợp pháp”, và những cách mạng mới phải giải tán hoàn toàn chính phủ hay đem nó đến gần hơn với những thể chế hợp pháp của nó …. Sự nổi dậy vốn kết thúc bằng việc giết chết hay truất ngôi một vua chúa là một hành động hợp pháp cũng như những hành động vốn ông ta ngày trước đã xử, với sinh mạng và tài sản những thần dân của ông. Sức mạnh là những gì đã một mình duy trì ông, Sức mạnh là những gì một mình lật đổ ông.

 

Những gì đáng chú ý, trong kết nối hiện tại, là con đường vốn Rousseau đi theo để đến được những kết luận này “bằng ánh sáng của chỉ một mình lý trí”, bắt đầu với những ý tưởng của ông về bản chất con người. Ông muốn thấy con người “như tự nhiên đã hình thành nên người ấy”. Đótừ bản chất tự nhiên con người vốn những nguyên lý của quyền tự nhiên và những nền tảng của sự hiện hữu xã hội phải được suy ra.

 

Cùng nghiên cứu này về con người sơ khai, những nhu cầu thực sự của họ và những nguyên tắc cơ bản chi phối trách nhiệm của họ, thì cũng là phương tiện tốt duy nhất người ta có thể dùng để tháo gỡ những đông đảo khó khăn vốn tự chúng hiện ra, liên quan đến nguồn gốc của sự bất bình đẳng đạo đức, nền tảng thực sự của cơ quan chính trị, những quyền hỗ tương của những thành viên và hàng nghìn câu hỏi tương tự khác nhưng đã giải thích không rõ ràng.

 

Để xác định bản chất của con người, Rousseau đi đến so sánh con người và con vật. Con người thì “thông minh, tự do. . . loài vật duy nhất được ban tặng cho lý trí”. Những loài động vật khác thì “thiếu thông minh lẫn tự do”.

 

Trong mỗi động vật, tôi thấy chỉ một cỗ máy tài tình vốn thiên nhiên đã ban cho nó những giác quan để tự phục hoạt sức sống và tự bảo đảm an toàn, đến một điểm nhất định, tránh khỏi tất cả những gì có khuynh hướng phá hủy hay làm xáo trộn nó. Tôi nhận biết đúng cùng những sự việc tương tự trong cỗ máy con người, với khác biệt rằng chỉ một mình thiên nhiên làm mọi sự việc trong những hoạt động của một con thú, trong khi con người đóng góp vào sự hoạt động của nó, với cách là một tác nhân tự do. Con thú trước chọn lựa hay từ chối bằng bản năng, và con vật sau bằng một hành động của tự do, như thế khiến một con thú không thể chống lại quy luật được quy định cho nó, ngay cả nếu làm thế sẽ có lợi cho nó, và một con người thường tránh quy luật gây tổn hại cho nó. . . . Không là do quá nhiều hiểu biết khiến tạo nên sự khác biệt của con người giữa những động vật, như cách của nó là một tác nhân tự do. Thiên nhiên ra lệnh cho mọi con vật, và con vật tuân theo. Con người cảm nhận cùng động lực, nhưng nó nhận ra rằng nó thì tự do để chấp nhận hay chống lại; và sau cùng, trong ý thức của sự tự do này, vốn cho thấy nhận thức về tự do lựa chọn và khả năng quyết định độc lập với bản năng của. Với vật lý giải thích một cách nào đó cơ năng hoạt động của những giác quan và sự hình thành những ý tưởng; nhưng trong sức mạnh của ý chí, hay đúng hơn của sự lựa chọn, và trong xúc cảm của sức mạnh này, người ta chỉ tìm thấy những hành vi thuần túy tinh thần vốn những định luật cơ học không giải thích được gì về chúng

 

Thế nên yếu tính của bản chất con người là tự do con người và ý thức về tự do này. Do đó, Rousseau có thể nói rằng “Những luật gia, những người đã nghiêm trọng tuyên bố rằng đứa con của một người nô lệ sẽ sinh ra là một người nô lệ, đã quyết định trong những từ ngữ khác, rằng một con người sẽ không được sinh ra là một con người”. [12]

 

Những chính trị gia và trí thức khôn ngoan, tìm những đường lối để che khuất sự kiện rằng thuộc tính thiết yếu và xác định của con người là tự do của người ấy: “Họ gán cho con người một khuynh hướng tự nhiên để phục tùng, không nghĩ rằng tự do cũng như thật thà tội và đức hạnh – giá trị của chúng chỉ được nhận biết chừng nào người ta được vui hưởng chúng và khao khát dành cho chúng sẽ mất đi ngay khi chúng bị lấy mất. Ngược lại, Rousseau vặn hỏi một cách văn vẻ: “tự do với tư cách là cao quí nhất trong những khả năng của con người, liệu không phải là làm bản chất của con người hèn hạ đi, khi đặt chính con người trên mức độ của những con thú sống nô lệ với bản năng, ngay cả xúc phạm nguồn sáng tạo của sự tồn tại một người, để từ bỏ không ngại ngần món quà quí giá nhất trong tất cả qà tặng đã ban cho người ấy, và đặt chúng ta vào việc vi phạm tất cả những tội ác nguồn sáng tạo ấy ngăn cấm chúng ta, để làm theo ý một người chủ hung bạo hay mất trí một câu hỏi đã được nhiều người chống chế độ quân dịch của U.S. trong ít năm vừa qua đặt ra, và cũng bởi nhiều người khác, những người đang bắt đầu hồi phục sau thảm họa của văn minh phương Tây thế kỷ XX, vốnđã chứng thực nhận định rất bi thảm của Rousseau:

 

Do đó nổi lên chiến tranh giữa những quốc gia, những trận chiến, những giết người và những trừng phạt trả thù vốn làm thiên nhiên rúng động lý trí kinh hoàng, và tất cả những tiên kiến kinh tởm đó vốn đặt việc gây đổ máu con người lên hàng vinh dự giữa những phẩm hạnh. Những người tử tế nhất đã học để coi việc giết chết những đồng loại như một trong những nhiệm vụ của họ; lâu dài, con người được thấy tàn sát lẫn nhau hàng ngàn, với lý do không biết; nhiều những giết người hơn đã xảy ra trong chỉ một ngày chiến trận, và nhiều kinh hoàng hơn đã xảy ra khi chỉ một thành phố thất thủ, so với những gì đã xảy ra trong tình trạng của tự nhiên trong suốt nhiều thế kỷ trên toàn bộ trái đất.

 

Bằng chứng của học thuyết của ông, rằng đấu tranh cho tự do là một thuộc tính thiết yếu của con người, rằng giá trị của tự do được cảm nhận chỉ đến chừng nào người ta vui hưởng nó, Rousseau thấy trong “những kỳ công được tất cả những dân tộc tự do đã làm để bảo vệ chính họ khỏi sự áp bức”. Đúng, đónhững người đã buông bỏ đời sống của một người tự do, không làm gì ngoài không ngừng lớn tiếng khoe khoang sự bình yên và an vui họ vui hưởng trong những xiềng xích của họ . . . . Nhưng khi tôi thấy những người khác hy sinh những lạc thú, an vui, của cải, quyền lực, và chính mạng sống cho sự bảo tồn của sự việc tốt lành duy nhất này, vốn những người đã bị mất nó khinh miệt; khi tôi nhìn thấy những loài thú sinh ra trong tự do và khinh miệt sự giam cầm, lao vỡ đầu vào những song sắt của chuồng nhốt chúng; Khi tôi nhìn thấy rất nhiều những giống dân tuy còn sống man dã hoàn toàn trần truồng, nhưng coi thường lối sống buông thả phóng đãng của những dân châu Âu, và họ chịu đói khát, hỏa hoạn, binh đao và cái chết chỉ để bảo vệ độc lập của họ, tôi cảm thấy rằng những người nô lệ không cần phải lý luận về tự do.

 

Những suy nghĩ có nhiều phần tương tự đã được Kant diễn tả, bốn mươi năm sau đó. Ông nói, ông không thể chấp nhận ý kiến nêu lên rằng một số người “chưa đủ chín cho tự do”, lấy thí dụ, những nông nô của một số địa chủ:

 

Nếu một người chấp nhận giả định này, tự do sẽ không bao giờ đạt được; vì người ta không thể đạt đến sự trưởng thành cho tự do với không đã có được nó; người ta phải là tự do để học cách dùng sức mạnh của mình một cách tự do và có ích. Những cố gắng đầu tiên chắc chắn sẽ khốc liệt và sẽ dẫn đến một tình trạng đau đớn và nguy hiểm hơn tình trạng trước đây dưới sự thống trị nhưng cũng có sự bảo vệ của một quyền lực bên ngoài. Tuy nhiên, người ta có thể đạt được lý trí chỉ qua kinh nghiệm của chính mình và người ta phải được tự do để có thể thực hiện chúng . . . . Để chấp nhận nguyên lý rằng tự do thì không đáng gì cả cho những aingười dưới sự kiểm soát của một người và rằng người ta có quyền từ chối nó với họ mãi mãi, là một xâm phạm trên những quyền của chính Gót, đấng đã tạo ra con người để được tự do.[13]

 

Nhận xét đặc biệt đáng chú ý vì bối cảnh của nó. Kant đã bảo vệ Cách mạng Pháp, trong thời Khủng bố, chống lại những người tuyên bố rằng nó cho thấy khối đông dân chúng chưa sẵn sàng cho đặc quyền của tự do. Nhận xét của Kant có liên quan đến thời nay. Không một người có lý trí nào sẽ tán thành bạo lực và khủng bố. Đặc biệt, sự khủng bố của nhà nước thời hậu cách mạng, rơi vào tay một chế độ chuyên quyền tàn ác, đã hơn một lần đạt đến mức độ dã man không thể diễn tả được. Tuy nhiên, không một người hiểu biết hay nhân đạo nào sẽ nhanh chóng lên án bạo lực thường xảy ra khi khối đông dân chúng không khuất phục từ lâu nổi lên chống lại những kẻ áp bức họ, hay thực hiện những bước đầu tiên hướng tới tự do và tái thiết xã hội.

 

Bây giờ, để tôi quay lại biện luận của Rousseau chống lại tính hợp pháp của quyền lực đã thiết lập, cho dù đó là quyền lực chính trị hay quyền lực của cải. Sự việc nổi bật là biện luận của ông, cho đến thời điểm này, tuân theo một mô hình Descartes quen thuộc. Con người là duy nhất vượt ngoài những giới hạn của sự giải thích vật lý; mặt khác, con thú chỉ là một cỗ máy tài tình, điều khiển bởi luật tự nhiên. Tự do của con người và ý thức của nó về tự do này phân biệt nó với cỗ máy thú vật. Những nguyên lý của học không có khả năng để giải thích những thuộc tính con người này, mặc dù chúng có thể giải thích cho cảm giác và ngay cả là sự kết hợp của những ý tưởng, về mặt “con người chỉ khác con thú ở mức độ”.

 

Với Descartes và những người theo ông, như Cordemoy, dấu hiệu chắc chắn duy nhất rằng một sinh vật khác có một não thức, và do đó cũng nằm ngoài những giới hạn của giải thích máy móc, đó là việc dùng ngôn ngữ trong cách bình thường, sáng tạo của con người, không bị kiểm soát bởi những kích thích có thể nhận dạng, mới lạ và sáng tạo, phù hợp với những hoàn cảnh, mạch lạc và khơi gợi trong não thức chúng ta những suy nghĩ và những ý tưởng mới. [14] Với Những người theo Descartes, có thể thấy rõ ràng bằng quan sát bên trong rằng mỗi người con người đều sở hữu một não thức, một thực thể vốn yếu tính của nó là suy tưởng; cách dùng ngôn ngữ sáng tạo của nó phản ảnh tự do trong suy tưởng và khái niệm. Khi chúng ta có bằng chứng rằng một sinh vật khác, cũng thế, dùng ngôn ngữ trong cách tự do và sáng tạo này, dẫn chúng ta đến việc gán cho nó một não thức giống như của chúng ta. Từ những giả định tương tự liên quan đến những giới hạn nội tại của sự giải thích máy móc, không có khả năng để giải thích cho tự do của con người và ý thức về tự do của nó, Rousseau tiếp tục phát triển sự phê phán của ông với những thể chế độc tài, vốn phủ nhận với con người thuộc tính tự do cốt yếu của mình, ở mức độ khác nhau.

 

Nếu chúng ta kết hợp những ức đoán này, chúng ta có thể phát triển một liên hệ thú vị giữa ngôn ngữ và tự do. Ngôn ngữ, trong những thuộc tính thiết yếu và cách thức dùng của nó, cung cấp tiêu chuẩn cơ bản cho việc xác định rằng một sinh vật khác là một hữu thể với một não thức con người và khả năng con người cho suy nghĩ tự do và tự thể hiện tự do, và với nhu cầu thiết yếu của con người là được tự do, tránh những ràng buộc bên ngoài của quyền lực đàn áp. Hơn nữa, chúng ta có thể cố gắng tiến hành điều tra chi tiết về ngôn ngữ và việc dùng nó để hiểu sâu hơn và cụ thể hơn về não thức con người. Tiếp tục trên mô hình này, chúng ta có thể tiếp tục cố gắng xa hơn để nghiên cứu những phương diện khác của bản chất con người, như Rousseau đã nhận xét đúng, phải được hình dung một cách chính xác nếu chúng ta có thể phát triển, về mặt lý thuyết, những nền tảng cho một trật tự xã hội hợp lý.

 

Tôi sẽ quay lại vấn đề này, nhưng trước tiên, tôi muốn truy tìm thêm suy nghĩ của Rousseau về vấn đề. Rousseau đi ra khỏi truyền thống Descartes trong nhiều phương diện. Ông định nghĩa “đặc tính cụ thể của loài người” là “khả năng tự hoàn thiện “, vốn “với sự trợ giúp của những hoàn cảnh, liên tiếp phát triển tất cả những khả năng khác, và cư ngụ giữa chúng ta cũng nhiều như trong chủng loại, như trong cá nhân”. Theo hiểu biết của tôi, khả năng tự hoàn thiện và sự hoàn thiện của loài người qua việc truyền tải văn hóa không được những người theo Descartes thảo luận trong bất kỳ thuật ngữ tương tự nào. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng những nhận xét của Rousseau có thể được hiểu như một khai triển của truyền thống Descartes trong một hướng chưa được thăm dò, hơn là một phủ nhận và bác bỏ nó. Không có mâu thuẫn trong quan điểm cho rằng những thuộc tính giới hạn của não thức làm nền tảng cho bản chất con người tiến hóa về mặt lịch sử, phát triển trong những giới hạn vốn họ đặt ra; hay những thuộc tính này của não thức cung cấp khả năng tự hoàn thiện; hay rằng, bằng cung cấp ý thức về tự do, những thuộc tính thiết yếu này của bản chất con người mang lại cho con người cơ hội tạo ra những sự kiện xã hội và những hình thái xã hội để tối đa hóa khả năng tự do, đa dạng và tự nhận thức cá nhân. Để dùng phép loại suy trong số học, những số nguyên không phải là một set vô hạn chỉ vì chúng không làm cạn kiệt những số hữu tỉ. Tương tự, không thể phủ nhận khả năng “tự hoàn thiện” vô hạn của con người khi cho rằng có những đặc tính nội tại của não thức kìm hãm sự phát triển của nó. Tôi muốn biện luận rằng theo một nghĩa nào đó thì ngược lại, rằng không có hệ thống ràng buộc chính thức thì không có hành vi sáng tạo; cụ thể là, trong trường hợp không có những thuộc tính nội tại và giới hạn của não thức, thì chỉ có thể có “sự đinh dạng hành vi” nhưng không có những hành động sáng tạo của sự tự hoàn thiện. Hơn nữa, quan tâm của Rousseau với đặc tính tiến hóa của sự tự hoàn thiện đưa chúng ta trở lại, từ một quan điểm khác, đến một quan tâm cho ngôn ngữ của con người, vốn nó hiện ra như một tiên quyết cho sự tiến hóa như thế của xã hội và văn hóa, cho sự hoàn thiện của chủng loại của Rousseau., vượt xa khỏi những hình thức thô sơ nhất.

 

Rousseau chủ trương rằng “mặc dù cơ quan của tiếng nói, thì tự nhiên với con người, nhưng bản thân tiếng nói thì dù sao đi nữa thì không tự nhiên có với con người”. Lại nữa, tôi thấy không có mâu thuẫn nào giữa quan sát này và cái nhìn điển hình của Descartes rằng những khả năng bẩm sinh đều là những khả năng “có tính cách thiên phú”, vốn dẫn chúng ta đến tạo ra những ý tưởng (cụ thể là những ý tưởng bẩm sinh) trong một cách thức cụ thể dưới những điều kiện của sự kích thích nhất định từ ngoài vào, nhưng sự việc đó cũng cung cấp chúng ta với khả năng để tiến hành trong suy nghĩ của chúng ta với không cần những yếu tố bên ngoài như vậy. Khi đó, ngôn ngữ cũng vậy, là tự nhiên với con người trong một cách thức đặc biệt. Đây là một nhận thức có ý nghĩa và hoàn toàn nền tảng quan trọng, tôi tin, vốn đã bị những nhà ngôn ngữ học duy lý coi thường, dưới tác động phần lớn của tâm lý học duy nghiệm trong thế kỷ thứ mười tám và sau đó. [15]

 

Rousseau bàn luận về nguồn gốc của ngôn ngữ, khá dài, dù ông thú nhận chính ông không có khả năng để thỏa đáng nắm vững vấn đề. Thế nên

 

nếu con người cần khả năng nói để học để suy nghĩ, họ lại còn có nhu cầu lớn hơn của việc biết suy nghĩ thế nào để tìm ra nghệ thuật nói [16] . . . . Vì vậy, người ta khó có thể hình thành những phỏng đoán biện luận được về việc truyền đạt những suy nghĩ và việc thiết lập sự giao tiếp giữa những đầu óc; một nghệ thuật cao siêu vốn bây giờ rất xa so với so với hình thức ban đầu của nó.. . . .

 

Ông chủ trương rằng “ những ý tưởng tổng quát chỉ có thể đi vào não thức với sự trợ giúp của lời nói, và sự hiểu biết chỉ nắm bắt chúng được qua những mệnh đề” – một sự kiện vốn nó ngăn cản động vật, không có lý trí, với việc hình thành những ý tưởng như vậy, hay không bao giờ có được “sự hoàn hảo vốn tùy thuộc trên chúng. “ Vì vậy, ông không thể hình dung được phương tiện vốn “những nhà ngữ pháp mới của chúng ta bắt đầu mở rộng những ý tưởng và khái quát hóa những từ ngữ của họ”, hay khai triển những phương tiện “để diễn đạt mọi suy nghĩ của con người”: “số, từ trừu tượng, những thì động từ bất định [17], và tất cả những thì của động từ, tiểu từ, cú pháp, sự liên kết của những mệnh đề, lý luận và sự hình thành của tất cả logic của diễn ngôn. Ông ức đoán về những giai đoạn sau của sự hoàn thiện của chúng loại, “khi những ý tưởng của loài người đã bắt đầu lan truyền và nhân rộng, và khi sự giao tiếp gần gũi hơn giữa họ được thiết lập, [và] họ tìm kiếm nhiều những dấu hiệu hơn và một ngôn ngữ rộng rãi hơn”. Nhưng ông không vui, phải buông bỏ “vấn đề khó khăn sau đây: gì thiết yếu nhất, xã hội đã hình thành trước, dẫn đến sự điển chế phát triển của ngôn ngữ, hay ngôn ngữ đã phát minh trước, đóng vai trò trong việc hình thành xã hội?

 

Những người theo Descartes đã đã giải quyết vấn đề phức tạp [18] bằng đưa lên sự hiện hữu của một đặc tính dành riêng cho chủng loại, một thực thể thứ hai vốn dùng như những gì chúng ta có thể gọi là “nguyên lý sáng tạo” cùng với “nguyên lý cơ học” quyết định hoàn toàn hành vi của động vật. Với họ, đã không có sự cần thiết để giải thích nguồn gốc của ngôn ngữ trong tiến trình của tiến hóa lịch sử. Đúng hơn, bản chất của con người là khác biệt về phẩm chất: không có sự chuyển giao từ cơ thể đến não thức. Chúng ta có thể diễn giải lại ý tưởng này trong những từ ngữ hiện tại hơn bằng ức đoán những đột biến khá đột ngột và mạnh mẽ có thể đã dẫn đến những phẩm chất của trí thông minh, theo như chúng ta biết, vốn chúng là duy nhất với con người, sở hữu ngôn ngữ theo nghĩa của con người là chỉ số đặc biệt, dấu hiệu dễ thấy nhất của những phẩm chất này. [19] Nếu sự việc này là đúng, ít nhất là một sự gần đúng đầu tiên với những sự kiện, thì việc nghiên cứu ngôn ngữ có thể được kỳ vọng sẽ cung cấp một bước khởi đầu mở đường, hay có thể là một mô hình, cho một điều tra về bản chất con người vốn sẽ cung cấp nền tảng cho một lý thuyết toàn diện hơn về bản chất con người.

 

Để kết thúc những nhận xét lịch sử này, tôi muốn quay sang, như tôi đã nói  ở những chỗ khác,[20] đến Wilhelm von Humboldt, một trong những nhà tư tưởng cuốn hút và khích động suy nghĩ nhất trong thời kỳ này. Humboldt, một mặt, là một trong những nhà lý thuyết thâm sâu nhất của ngôn ngữ học tổng quát, và mặt khác, một người sớm  mạnh mẽ ủng hộ những giá trị của tự do. Khái niệm cơ bản trong triết lý của ông là Bildung, vốn , như J.W. Burrow diễn đạt, “ông muốn nói đến sự phát triển đầy đủ nhất, phong phú nhất và hài hòa nhất của những tiềm năng của cá nhân, cộng đồng hay loài người”. [21] Suy nghĩ của riêng ông có thể lấy làm một thí dụ điển hình. Theo hiểu biết của tôi, mặc dù ông không liên hệ rõ ràng những ý tưởng của ông về ngôn ngữ với tư tưởng xã hội tự do của ông, nhưng có một nền đứng chung khá rõ ràng vốn từ đó chúng phát triển, một khái niệm về bản chất con người vốn gây cảm hứng cho mỗi người.



Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(Sep/2023)

(Còn tiếp ... )

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com





[1] Đến năm nay, 2023 – ông 94 tuổi, vốn là giáo sự học viện (Institute Professor) và giáo sư hưu trí ở MIT (1955-2002), hiện là giáo sư khoa Ngôn ngữ học, và giữ ghế giáo sư Agnese Nelms Haury trong Chương trình Agnese Nelms Haury về Môi trường và Công bằng Xã hội, Đại học Arizona. Ông vẫn tiếp tục giảng dạy nhiều khóa học, gồm ngôn ngữ học, triết học, lịch sử tư tưởng và những vấn đề xã hội và chính trị ở cả hai trường đại học, đặc biệt ở trường Arizona, trong nhiều hội thảo, ông đóng vai trò của một ‘trí thức của công chúng’, chia sẻ kiến thức chuyên môn về ngữ học và về những lĩnh vực khác. của ông với đông đảo những người xem-nghe, khắp thế giới,

[2] Khi dịch bài này là chiến tranh giữa Mỹ và Nga ở Ukraine.

[3] The Standard Theory / Lý Thuyết Tiêu Chuẩn (Standard Theory of Transformational-Generative Grammar) là thành phần then chốt trong khung khuôn khổ ngữ pháp phát sinh của Noam Chomsky, ông khai triển khoảng giữa thế kỷ 20. Mục đích chính của nó là mô tả tỉ mỉ và hệ thống hóa cấu trúc ngữ pháp của những ngôn ngữ cụ thể như tiếng Anh hoặc tiếng Pháp. Khi làm như vậy, Lý thuyết Tiêu chuẩn mở cố gắng khai mở cho thấy liên hệ giữa ngữ pháp cụ thể của một ngôn ngữ với những nguyên tắc phổ quát của Ngữ Pháp Phổ Quát (UG).

[4] Trích từ For Reasons of State, New York: Pantheon Books, 1973.

Luận văn này đã được trình bày như một bài diễn thuyết trong Hội thảo Tự do và Khoa học Nhân văn, Đại Học Loyola, Chicago, 8-9 tháng 1, 1970. In lại, từ The Chomsky Reader, James Peck biên tập. New York: Knopf Doubleday Publishing Group,1987

Dịch từ: 

THE NOAM CHOMSKY WEBSITE – CHOMSKY.INFO

https://chomsky.info/language-and-freedom/

Những chú thích trong ngoặc vuông [... ] dịch theo nguyên bản.

Những chú thích khác, với những sai lầm nếu có, là của tôi, sẽ tìm chữa sau. Tôi đặt trọng tâm trên những khái niệm trong ngữ học, tri thức học của Chomsky

 

 

[5] Hạn chế”: những nguyên tắc của ngữ pháp phổ quát áp đặt những hạn chế hay ràng buộc trên những cách qua đó xây dựng những cấu trúc ngôn ngữ. Những nguyên tắc này đặt những ranh giới, quy luật cụ thể hướng dẫn việc hình thành cấu trúc ngữ pháp trong nhiều ngôn ngữ khác nhau.

[6] [F.W. J. Schelling, Philosophical Inquiries into the Nature of Human Freedom, trans. and ed. James Gutmann (Chicago: Open Court Publishing Co., 1936)]

[7] Tả Phái Mới (New Left): từ chỉ một phong trào chính trị và xã hội nổi bật trong những năm 1960 và 1970, chủ yếu ở những nước phương Tây, gồm U.S. và Europe.. Phong trào này đặc biệt chỉ trích những khuôn khổ chính trị và xã hội đã thiết lập, lên tiếng phản đối Chiến tranh (US-)Việt Nam, đè cao dân quyền và nhiệt tình thúc đẩy những vận động cấp tiến như nam nữ bình quyền, bảo vệ môi trường và phản--đế quốc. Những nhân vật nổi bật của Tả Phái Mới gồm Tom Hayden, Abbie Hoffman, Angela Davis, Bernardine Dohrn, Bill Ayers, Stokely Carmichael (Kwame Ture) và những trí thức như Noam Chomsky. Bắt nguồn từ tinh thần phản đối, đi ngược lại văn hóa chính thống,thống trị của thời đại. Cánh tả Mới được thúc đẩy bởi mong muốn chuyển hóa xã hội và thách thức những chuẩn mực và những cơ cấu uy quyền đã thiết lập.

[8] speculate: suy nghĩ, cân nhắc. – con người sinh ra không chỉ để suy nghĩ, cân nhắc nhưng còn để hành động. Karl Marx cũng cùng quan điểm tương tự trong câu nói nổi tiếng của ông: “Những triết gia cho đến nay chỉ giải thích thế giới theo nhiều cách khác nhau; nhưng vấn đề là thay đổi nó”. Cả hai đều phản ánh ý tưởng rằng sự suy ngẫm và phân tích tri thức sẽ phải dẫn đến hành động thực tiễn thay đổi thế giới, thay vì chỉ dừng lại ở ‘suy nghĩ, cân nhắclý thuyết thuần túy

[9] Trong Nói chuyện về bất bình đẳng / Discourse on Inequality (1755), Rousseau thămnhững ý tưởng chính sau:

(a)    Trạng thái tự nhiên: Con người vốn là tốt lành và tự cung tự cấp trong một trạng thái của tự nhiên.

(b)    Nguồn gốc của bất bình đẳng: Bất bình đẳng xã hội xuất hiện cùng với sở hữu tư nhân và sự phát triển của xã hội.

(c)    Khế ước xã hội: Rousseau cổ vuc cho một xã hội được quản lý bởi ý chí chung, trong đó những cá nhân sẵn sàng từ bỏ một số quyền tự do vì lợi ích chung.

(d)    Phê phán nền văn minh: Ông chỉ trích văn minh hiện đại vì cấy trồng và nuôi dưỡng sự bất bình đẳng và làm suy thoái đạo đức.

(e)    Giáo dục và đạo đức: Giáo dục nên tập trung vào phát triển nhân cách đạo đức và đức hạnh

Tác phẩm của Rousseau cuối cùng đặt câu hỏi về tác động của xã hội hiện đại đối với bản chất con người và đề nghị quay trở lại một hình thức tổ chức xã hội công bằng và có ý thức đạo đức hơn.

[10] [R.D. Masters, giới thiệu về ấn bản của ông về Jean-Jacques Rousseau, First and Second Discourses, (New York: St. Martin's Press, 1964).]

[11] “usurpations” cho thấy Rousseau tin rằng những cấu trúc xã hội và tài sản cá nhân này đã bị chiếm đoạt sai trái và bất hợp pháp. Ông tiếp tục lập luận rằng chúng có được qua vũ lực và ép buộc, không qua những phương tiện chính đáng hay công chính. Do đó, theo quan điểm của Rousseau, nếu vũ lực được dùng để tước đoạt những tài sản này khỏi những cá nhân giàu có đang nắm giữ chúng, họ sẽ không có cơ sở chính đáng để khiếu nại vì chính họ giành được của cải và tài sản này dựa trên những gì ông coi là bất công và lạm dụng, ngược đãi.

[12] [So sánh với Proudhon, một thế kỷ sau: “Không cần thảo luận dài dòng để chứng minh rằng quyền lực của việc phủ nhận một người suy nghĩ, ý chí, nhân cách của người ấy, là một quyền lực của sống và chết, và rằng làm một con người thành một nô lệ, là sát hại con người ấy”]

[13] [Trích dẫn trong A Lehning , ed., Bakunin, Etatisme et anarchie (Leiden: EJ Brill, 1967), ghi chú của biên tập viên số 50, từ P Schrecker , “Kant et la révolution francaise , Revue Philosophique , tháng 9 – tháng 12 năm 1939.]

[14] [Tôi đã thảo luận vấn đề này trong Cartesian Linguistics (New York: Harper & Row, 1966) và Language and Mind (New York: Harcourt Brace Jovanovich, ấn bản mở rộng, 1972).]

[15] [Xem những tài liệu tham khảo của chú thích 5, và cũng Aspects of the Theory of Syntax (Cambridge, Mass: MIT Press, 1969) của tôi, (Cambridge, Mass.: MIT Press, 1969), chap. 1, sec. 8]

[16] nghệ thuật nói: khả năng dùng lời nói một cách thông thạo để giao tiếp, thể hiện suy nghĩ, ý tưởng và cảm xúc.

[17] aorists

[18] the Gordian knot.

[19] [Tôi không cần phải nói thêm rằng đây không phải là quan điểm phổ biến. Để thảo luận, xem, see E.H. Lenneberg, Biological Foundations of Language (New York: John Wiley & Sons, 1967); Language and Mind của tôi; E.A. Drewe et al., “A Comparative Review of the Results of Behavioural Research on Man and Monkey,” (London; Institute of Psychiatry, bản thảo chưa xuất bản, 1969); P.H. Lieberman, D.H. Klatt, and W.H. Wilson, “Vocal Tract Limitations on the Vowel Repertoires of Rhesus Monkeys and other Nonhuman Primates,” Science, June 6, 1969; and P.H. Lieberman, “Primate Vocalizations and Human Linguistic Ability,” Journal of the Acoustical Society of America, vol. 44, no. 6 (1968).

[20] [Trong những quyển sách được trích dẫn ở trên, và trong Current Issues in Linguistic Theory (New York: Humanities Press, 1964)]

[21] [JW Burrow, phần giới thiệu về ấn bản của ông về Wilhelm von Humboldt, Limits of State Action (London: Cambridge University Press, 1969), từ nó, hầu hết những trích dẫn tiếp sau đã được lấy.