Noam Chomsky
Giới thiệu
Noam
Chomsky, nay đã hơn 90 tuổi, vốn là Giáo sư Phân khoa Ngôn ngữ và
Triết học, Học Viện Kỹ thuật Massachusetts (MIT), U.S. [1] Ông là nhà trí thức nhiều uy tín và có ảnh
hưởng rất lớn, vào bâc nhất thế giới. Ông nổi tiếng
như một trí thức lỗi lạc vào nửa sau thế kỷ 20 và có thể tiếp tục giữ vị trí
này trong nhiều thế kỷ tới. Tên tuổi của ông nổi bật ở U.S. vào cuối những năm
60, khi ông trở thành nhà bất đồng chính kiến hàng đầu trong học giới chống
lại Chiến tranh Việt Nam. Danh tiếng của ông đến từ những bài viết, cả sách lẫn báo, về những vấn đề chính trị xã hội ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới, gần đây nhất là ở đảo Đông Timor [2]. Chomsky được
biết nhiều qua phong cách trình bày đặc biệt của ông: không khô cứng hàn lâm, nhưng
thân mật giản dị, trực tiếp thông tin đối thoại với rất giàu tài liệu khách quan, cùng sự mổ xẻ tinh tế sắc bén và phân tích uyên bác, đôi khi mạnh tay không
khoan nhượng. Tất cả dẫn người đọc đến những kết luận không thể tránh, hay làm ngơ được. Nằm chìm dưới tất cả những bài viết của ông là
ý niệm của
ông về bản chất nền tảng của một con người – sáng tạo và tự do
– với sự hiện
hữu của một não thức con người như được giả định
trước. Những quan điểm
của ông, lần lượt bắt nguồn
từ tư tưởng của ông
về bản chất của ngôn ngữ vốn đã chiếm lĩnh suy nghĩ của ông từ cuối những năm 1940.
Danh tiếng Chomsky như một nhà tư tưởng chính trị-xã hội đã hầu như làm lu mờ tư thế chuyên môn của ông như một nhà ngôn ngữ học lỗi lạc, với
giới người đọc
thông thường. Quyển sách nhỏ của ông Syntactic Structures (Những Cấu Trúc Cú Pháp )
do một nhà xuất bản (Mouton and Co.) khi đó không được biết đến
nhiều ở Holland, xuất bản năm 1957, đã mở ra những gì ngày nay gọi
là Cách mạng
Chomsky, không chỉ trong ngôn ngữ học nhưng còn trong những lĩnh vực liên quan, đã phân những nhà khoa học xã hội thành
hai nhóm, theo Chomsky và, không-theo Chomsky.
Chuyên khảo Aspects
of the Theory of Syntax (Những
Phương Diện Của Lý Thuyết Cú Pháp) năm 1965
của ông, do nhà
xuất bản đại học MIT xuất bản, trình bày quan điểm về ngôn ngữ của ông, nay gọi
là Standard
Theory (Lý Thuyết Tiêu chuẩn) [3] đã tạo ra một lượng lớn những
tranh luận giữa những nhà chuyên môn của nhiều ngành học khác nhau, ngay cả đến nay vẫn còn chưa lắng.
Bài viết
sau đây đã trình bày trong nội dung của tranh luận sôi nổi nói
trên về trí
thức và chính trị, như một bài diễn giảng ở Đại học Loyola, Chicago, January 8-9, 1970, như phần
của Hội thảo
về Tự do và
Khoa học Nhân văn của trường đại
học này. Đây là
một trong những bài viết hiếm hoi, trong đó
Chomsky liên hệ suy nghĩ của ông về bản chất của ngôn ngữ với tự do.
Chomsky đi theo những gì ông gọi là ‘thuyết xã hội tự do’ (libertarian
socialism), vốn là một một hình thái xã hội tiếp
theo trong giai đoạn xã hội kỹ nghệ. Nó sẽ được thành lập dựa trên quyền tự do,
lựa chọn và hành động, sự bảo đảm
những quyền cá nhân. Chomsky truy ngược về nguồn gốc của suy tưởng như vậy, vốn đã có ảnh hưởng của
nó trong gần một trăm năm, cho đến sự xuất hiện của tư tưởng về hành vi duy nghiệm-duy vật (materialist-empiricist-behavioural)
cuối thế
kỷ 19, với những triết gia như Schelling, Rousseau, Kant, Descartes và người theo ông này là Cordemoy, Wilhelm von Humboldt
và những người khác. Yếu tính tổng quát của tư tưởng của họ là bản chất của
con người / con người được nhìn như có trí
tuệ /lý trí / não thức và tự do, một này có trong một kia, một này không thể hoạt động nếu không
có một kia.
Ngoài ra, Humboldt nêu lên thuộc
tính về sáng tạo
đã dựa trên
suy tưởng về ngôn ngữ của ông. Với Humboldt,
ngôn ngữ con người
là một tiến trình sáng tạo tự do, có một hình thức cố định – một tiến trình
phát sinh có gốc rễ từ bản
chất của não thức con người. Với não thức con người, học tập là
một loại của hồi
tưởng. Được kinh nghiệm kích
thích, nó lấy ra từ
những nguồn lực có bên trong của nó và đi theo một con đường vốn tự nó ấn định. Tất yếu và tự do, quy luật và lựa chọn, những hình thức-có sẵn/những giới
hạn ràng buộc và tính sáng tạo cùng đều là những phương diện của bản chất
con người. Ngôn ngữ cung cấp một thể hiện lấy thí dụ để minh họa đặc tính của hành vi theo quy luật điều chỉnh và sáng tạo tự do, một
phương diện điển hình của tổ chức cấu trúc và vận hành của tinh thần con người.
Chomsky
cảm thấy rằng để hệ thống kiến thức dựa trên yếu tính này của bản chất con người, thì cần
phải phá vỡ để ra khỏi phần lớn những gì của
khoa học
xã hội và hành vi hiện tại (tâm lý học, xã hội học, nhân chủng học, kinh tế và khoa học thần kinh) thời nay. Ông còn hy vọng vào sự phát triển một khoa học xã hội
dựa trên những định đề có cơ sở thực nghiệm liên quan đến bản chất con người, tức là những hình thức biểu đạt
nghệ thuật, tri thức khoa học, ngôn ngữ, phạm vi hệ thống đạo đức và cấu trúc
xã hội, vv …, con người có thể hình dung và đạt được.
Vasant R
Khokhle
Cựu giáo
sư & trưởng khoa ngôn ngữ học,
University
of Mumbai, India
Ngôn ngữ và Tự do [4]
Khi tôi được mời nói về đề tài “Ngôn ngữ và tự do”, tôi đã bối rối và đã bị thu hút với tò mò tìm hiểu. Phần lớn sinh
hoạt chuyên môn của tôi đã dành cho sự nghiên cứu ngôn ngữ. Sẽ không có khó
khăn gì lớn trong việc tìm một đề tài để bàn
luận trong lĩnh vực đó. Và có nhiều để nói về
những vấn đề của tự do và giải phóng, như chúng tự nêu lên cho chúng ta và những người khác trong
khoảng giữa thế kỷ XX. Nhưng
rắc rối trong tựa đề của bài giảng này là sự liên kết. Trong cách thức nào ngôn ngữ và tự do được liên kết với nhau? [5]
Như một vào đầu, tôi xin nói chỉ
một lời về sự nghiên cứu hiện nay của ngôn ngữ, như tôi thấy. Có
nhiều phương diện của ngôn ngữ và của việc dùng ngôn ngữ vốn
nêu lên những câu hỏi thu
hút tò mò muốn tìm hiểu, nhưng – trong
phán đoán của tôi – cho đến nay, chỉ có một ít đã dẫn đến công trình lý thuyết có giá trị đóng góp vào sự tiến bộ của ngôn ngữ học. Đặc biệt, những hiểu
biết trực tiếp sâu xa nhất của chúng ta đều thuộc lĩnh vực của
cấu trúc ngữ pháp hình thức. Một người biết một ngôn ngữ đã học được một hệ thống của những quy luật và những nguyên tắc – một “ngữ pháp phát sinh”, trong
từ ngữ chuyên môn – vốn liên kết âm thanh và ý nghĩa trong một số kiểu
thức đặc biệt. Thêm
nữa, đã có một sự trở lại với quan
tâm về “ngữ pháp phổ quát”, bây giờ hiểu như lý thuyết cố gắng xác định những thuộc tính tổng
quát đó của những ngôn ngữ, vốn con người có thể học theo cách bình thường. Ở đây,
cũng đã đạt được những tiến bộ ý nghĩa.
Đề tài thì thuộc
loại quan trọng đặc biệt. Nó là thích hợp để nhìn ngữ pháp phổ quát như sự nghiên cứu một trong những khả năng thiết yếu của não thức.
Do đó, chúng ta thì rất thích thú,
như tôi tin tưởng, để tìm ra rằng những nguyên tắc của ngữ pháp phổ quát thì
giàu có, trừu tượng và hạn chế [6], và trên nguyên tắc có thể dùng để xây dựng những giải thích cho nhiều hiện tượng khác nhau.
Ở giai đoạn hiện nay của hiểu biết của chúng ta, nếu ngôn ngữ là
để cung cấp một bàn đạp cho sự nghiên cứu những vấn đề khác của bản chất con người, thì chúng ta sẽ
phải quay chú ý sang những phương diện này của ngôn ngữ, vì lý do đơn giản rằng đó
là chỉ những phương diện này vốn được hiểu biết ở mức độ thỏa đáng. Trong
một ý hướng khác, việc nghiên cứu những thuộc tính hình thức của
ngôn ngữ vén mở lên cho thấy một gì đó của bản chất của con người, trong một cách tiêu cực: nó nhấn mạnh rất rõ ràng những giới
hạn của sự hiểu biết của chúng ta về những thuộc tính đó
của não thức, vốn có vẻ như chỉ riêng con người mới
có, và sự việc đó phải đi vào trong những thành tựu văn
hóa của họ, trong một phương cách gần gũi mật thiết, dù sự hiểu biết của chúng ta về bản chất chính xác
của quan hệ này vẫn còn mù mờ, chưa sáng tỏ hoàn toàn.
Trong việc đi tìm một điểm khởi hành, người ta tự nhiên quay
về một thời kỳ trong lịch sử tư tưởng phương Tây khi nó
đã là có thể để tin rằng “ý nghĩ của việc làm cho tự do thành tổng thể
và bản chất của triết học đã giải thoát tinh thần con người
trong tất cả những liên hệ của nó, và . . . đã đem
cho khoa học, trong tất cả những phần của nó, một sự tái định hướng mạnh mẽ hơn bất kỳ cách mạng nào trước đó” .[7]
Từ “cách mạng” mang nhiều liên kết trong đoạn văn này,
vì Schelling cũng tuyên bố rằng “con người được sinh ra để hành động chứ không
phải để suy đoán”; và khi ông viết rằng “đã đến lúc
để tuyên xưng một tự do của tinh thần cho một loài người cao quí hơn, và thôi không còn nhẫn nại nữa với những tiếc nuối đẫm
nước mắt của những người khóc than cho những xiềng xích đã mất của họ”, chúng
ta nghe những vang vọng của tư tưởng tự do và những hành động cách mạng
của cuối thế kỷ XVIII. Schelling viết rằng “khởi đầu và cứu
cánh của tất cả triết học là – Tự do”. Những từ này đều
thấm nhuần ý nghĩa và tính cấp thiết ở
một thời điểm khi mọi người đang tranh đấu để thoát khỏi những
xiềng xích của họ, để chống lại uy quyền vốn đã mất tuyên xưng giá trị pháp lý của
nó, để xây dựng những thể chế xã hội nhân đạo và dân chủ hơn. Đó là một
thời điểm khiến triết gia có thể được thúc đẩy để tìm hiểu vào bản chất của tự do con người và những giới hạn của nó, và có lẽ để kết
luận, với Schelling, rằng nhìn theo hướng ego
con người, “yếu tính của nó là tự do”; và theo hướng triết học, “vinh
dự cao nhất của Triết học là đúng ở chỗ
đó, là nó đặt tất cả trên sự tự do con người”.
Chúng ta đang sống, một lần nữa, ở một thời như vậy. Một dậy men cách mạng đang tràn qua Thế Giới Thứ Ba, đánh thức đông
đảo dân chúng khỏi sự hôn mê thụ động và sự phục tùng trong uy quyền truyền thống. Có những người cảm thấy
rằng những xã hội kỹ nghệ cũng đã chín mùi
cho sự thay đổi cách mạng – và tôi không chỉ
nói tới những đại diện của phong
trào Tả Phái Mới [8]
. Sự đe dọa của sự thay đổi mang tính cách mạng gây ra áp bức và phản
ứng. Những dấu hiệu của nó đều hiển nhiên trong
nhiều dạng khác nhau, ở France, ở Soviet Union, ở U.S.
– ít nhất, không
kém quan trọng, ở thành phố chúng ta đang hội họp. Khi đó, là
tự nhiên rằng chúng ta chúng ta nên xem xét một cách trừu tượng
(suy nghĩ trên những khái niệm lý thuyết),
những vấn đề của tự do con người và chuyển sự quan tâm và chú ý thực
sự sang suy nghĩ của một thời kỳ trước, khi những thể chế xã
hội cổ xưa đã là đối tượng của phân tích phê phán và
tấn công liên tục. Điều là tự nhiên và thích hợp, miễn là chúng ta ghi
nhớ nhắc nhở của Schelling rằng con người được sinh ra không để
chỉ cân nhắc suy nghĩ, nhưng cũng để hành động. [9]
Một trong những điều tra sớm nhất và đáng ghi
nhận nhất của thế kỷ thứ mười tám, về tự do và nô lệ, là Discourse on Inequality của Rousseau (1755), về
nhiều mặt, nó là một luận văn ngắn cách mạng
[10]
. Trong đó, ông tìm để “nói rõ nguồn gốc và tiến triển của sự bất bình đẳng, sự thiết
lập và lạm dụng của những hội đoàn chính trị, trong chừng mức những sự việc này có thể suy ra được từ bản chất của
con người chỉ bằng ánh sáng lý trí”. Những kết luận của ông đã đủ gây sốc khiến
những giám khảo chấm giải của hàn lâm viện thành
phố Dijon, vốn ban đầu tác phẩm đã được gửi đến, đều gạt bỏ, không nghe đọc trọn bản thảo. [11]
Trong nó, Rousseau thách đố tính cách hợp pháp của hầu như mọi thể chế xã hội,
cũng như quyền kiểm soát đất đai và tài sản cá nhân. Đây là “những chiếm đoạt. . . đã dựng lên chỉ trên một quyền bấp
bênh và lạm dụng. . . sau khi có được chỉ bằng
sức mạnh, sức mạnh có thể chiếm lấy chúng, khiến ngay cả (kẻ
giàu cũng) không có căn cứ để khiếu nại”.
[12] Ngay cả tài sản nhờ
hoạt động sản xuất kinh doanh cá nhân mà có, cũng không được coi
là có giá trị pháp lý hay cơ sở đạo đức chính đáng hơn so với những hình thức sở hữu tài sản khác”. Chống lại một tuyên
bố loại như vậy, một người có thể phản đối: “Bạn có biết rằng
một đông đảo đồng loại của bạn chết hay khổ sở vì cần những gì bạn có thừa thãi
không? Và rằng bạn cần có sự đồng ý và nhất trí nói ra rõ ràng của loài người
để chiếm lấy cho chính bạn bất gì từ những cần thiết duy trì sự sống cơ bản vốn
vượt quá mức thông thường của bạn?”. Đó là ngược với luật của tự nhiên rằng “một
nhúm người thì tràn ngập những dư thừa trong khi đông đảo đang đói khát thiếu
những thiết yếu để sống”.
Rousseau biện luận rằng xã hội dân sự, thì
khó có thể xem không gì khác hơn một âm mưu của giới giàu có để bảo đảm sự cướp bóc của họ. Lên mặt đạo dức giả, giới giàu có kêu gọi
những người xung quanh “thiết lập những quy định về công lý và hòa bình vốn tất cả mọi
người đều phải tuân theo, vốn chúng không trừ một ai, và một cách nào đó bù đắp cho những
bốc đồng thất thường của số phận bằng việc đặt những người có quyền lực ngang với những người yếu kém trong những bổn phận tương trợ ” – những luật
đó, như Anatole France đã nói, với sự uy nghiêm của chúng, không cho cả
người giàu và người nghèo quyền bình đẳng được nằm ngủ dưới gầm cầu vào
ban đêm [13]. Bằng những luận
chứng như vậy, người nghèo và người yếu bị dụ dỗ: “Tất cả
đã háo hức chạy đến nhận xiềng xích
của họ, nghĩ rằng họ đã nắm được bảo đảm cho tự do
của chính họ . . . “
Thế nên, xã hội và luật pháp” đã đem những gông cùm mới
cho kẻ yếu nghèo và sức mạnh mới cho kẻ giàu có, đã hủy hoại tự do tự nhiên trong mọi thời đại, vĩnh viễn thiết lập luật về tài sản và bất bình đẳng, đã hoán đổi một sự chiếm đoạt
xảo quyệt khôn ngoan thành một quyền không
thể đảo ngược, và vì lợi ích của một nhóm nhỏ
những người tham vọng, từ đó về sau đặt
cả nhân loại vào lao động, nô dịch và khốn khổ”. Những chính phủ
không thể tránh được khuynh hướng đi
đến quyền lực tùy tiện, không hạn chế, vì
“tham nhũng và giới hạn cực đoan của chúng”. Quyền lực này “về bản chất là bất hợp pháp”, và những cách
mạng mới phải hoàn toàn giải tán chính phủ, hay đem
nó đến gần hơn với những thể chế hợp pháp của nó …. Sự nổi dậy vốn
kết thúc bằng việc bóp cổ hay truất ngôi một bạo chúa là một hành động hợp pháp cũng như
những hành động vốn ông ta ngày trước đã trừ
khử những sinh mạng và tài sản những thần dân của ông. Sức mạnh là những gì một mình đã
duy trì bạo chúa, Sức mạnh là những gì một mình lật đổ bạo
chúa.
Những gì đáng chú ý, trong liên
kết hiện tại, là con đường vốn Rousseau đi theo để đến
những kết luận này “bằng ánh sáng của chỉ một mình lý trí”, sau
khi bắt đầu với những ý tưởng của ông về bản chất con người. Ông muốn nhìn
con người “như tự nhiên đã hình thành con người”. Đó là từ bản chất tự nhiên con người
vốn những nguyên lý của quyền tự nhiên và những nền tảng của hiện
hữu xã hội phải được suy diễn.
Cũng nghiên cứu này về con người sơ khai, về những nhu cầu thực của họ và về những nguyên tắc cơ bản chi phối trách nhiệm của họ, thì
cũng là phương tiện tốt duy nhất người ta có thể dùng để tháo gỡ những đông
đảo khó khăn vốn chúng tự hiện ra,
liên quan đến nguồn gốc của sự bất bình đẳng đạo đức, nền tảng thực của
cơ quan chính trị, những quyền hỗ tương của những thành viên và hàng nghìn câu
hỏi tương tự khác cũng quan trọng vì chúng
tuy đã được giải thích nhưng không rõ ràng.
Để xác định bản chất của con người, Rousseau đi
đến so sánh con người và con vật. Con người thì
“thông minh, tự do. . . loài vật duy nhất được ban
cho lý trí”. Những loài
vật khác đều “thiếu thông minh lẫn tự do”.
Trong mọi động vật, tôi thấy chỉ một bộ máy tài tình vốn thiên nhiên đã ban cho nó
những giác quan để tự phục hoạt sự
sống và tự bảo đảm an toàn, đến
một điểm nhất định nào đó, nhằm
tránh tất cả những gì có khuynh hướng hủy hoại
hay xáo trộn nó. Tôi nhận thấy đúng cùng những sự việc tương tự trong bộ máy con người, với khác biệt rằng
chỉ một mình thiên nhiên làm mọi sự việc trong những hoạt động của một con thú, trong khi con người góp phần
vào hoạt động của nó, vì có tư cách một tác nhân tự do. Con vật trước chọn lựa hay từ chối bằng bản năng, và con vật sau bằng một hành động của tự do, như thế khiến một con thú không thể đi
lệch ra ngoài quy luật được ấn định cho nó, ngay cả nếu làm thế sẽ có lợi cho nó, và một
con người thì tránh quy luật vốn thường gây tổn hại cho nó. . . . Không quá
nhiều là do hiểu biết khiến tạo nên sự
khác biệt của con người giữa những động vật, như đó là tư cách một tác nhân tự do của nó. Thiên nhiên ra lệnh cho mọi loài động
vật và con thú tuân theo. Con người cũng nhận được
những động lực tương tự, nhưng con người nhận ra rằng nó
có quyền tự do chấp nhận hay phản kháng; và trên
hết, chính trong ý thức về sự tự do này vốn
tính siêu việt của tinh thần của nó được thể hiện. Với vật lý giải thích
một cách nào đó cơ năng hoạt động của những giác quan và sự hình thành những ý tưởng; nhưng
trong sức mạnh của ý chí, hay đúng hơn của sự lựa chọn, và trong xúc cảm của sức mạnh này, người ta chỉ tìm thấy những hành vi thuần túy tinh
thần vốn những định luật cơ học không giải thích được gì
về chúng
Thế nên yếu tính của bản chất con người là tự do của con người và ý thức
về tự do này. Do đó, Rousseau có thể nói rằng “Những luật gia, những người đã nghiêm trọng
tuyên bố rằng đứa con của một nô lệ sẽ sinh ra là một nô lệ, đã quyết định trong
những từ ngữ khác, rằng một con người sẽ không được sinh ra như
một con người”. [14]
Những chính trị gia và trí thức khôn
ngoan, tìm những cách để làm mờ đi sự kiện
rằng thuộc tính thiết yếu và ấn định của con người là
tự do của nó: “Họ gán cho con người một khuynh hướng tự nhiên
để phục dịch, không nghĩ rằng cũng giống như tự do,
thật thà vô tội và đức hạnh – giá trị của chúng được nhận
biết chỉ chừng nào người ta được vui hưởng chúng và thẩm
vị khao khát dành cho chúng sẽ mất đi ngay khi chúng bị
lấy mất”. Ngược lại, Rousseau vặn hỏi một cách văn vẻ: “tự do với
tư cách là cao quí nhất trong những khả năng của con người, liệu
không phải là làm bản chất của con người
hèn kém đi, khi đặt chính
con người trên cùng mức độ của những con thú bị nô lệ bản năng, ngay cả xúc phạm nguồn sáng tạo của sự hiện hữu của
một người, để không ngần ngại từ bỏ món
quà quí giá nhất trong tất cả quà tặng đã người
ấy được ban cho, và đặt chúng ta vào vi phạm
tất cả những tội ác nguồn sáng tạo ấy ngăn
cấm chúng ta, để làm vừa lòng một người chủ hung bạo hay mất trí” – một câu hỏi, trong những từ ngữ tương tự, đã được nhiều người
chống quân dịch của U.S. trong ít năm vừa qua đặt ra, và cũng bởi nhiều người khác, những người đang bắt đầu hồi phục sau thảm họa của
văn minh phương Tây thế kỷ XX, vốn nó rất bi thảm đã chứng thực nhận định của Rousseau:
Do đó những chiến tranh quốc gia đã nổi lên, những chinh chiến, những chém giết và những trả thù trừng phạt làm thiên nhiên rúng động và lý trí kinh hoàng, và tất cả những tiên
kiến kinh tởm đó vốn đưa việc gây đổ máu con người lên hàng vinh dự giữa những phẩm
hạnh. Những người tử tế nhất đã học để
coi việc giết đồng loại như một trong những nhiệm vụ của họ; lâu dài, con người được
thấy tàn sát lẫn nhau hàng ngàn, dù không biết lý do; nhiều những
giết người hơn đã xảy ra trong chỉ một ngày chinh chiến,
và nhiều kinh hoàng hơn đã xảy ra khi chỉ một thành phố bị thất
thủ, so với những gì đã xảy ra trong tình trạng của tự nhiên suốt trong nhiều thế kỷ trên toàn trái đất.
Bằng chứng của học thuyết của ông, rằng sự đấu tranh cho tự do là một thuộc tính tất
yếu của con người, rằng giá trị của tự do được cảm nhận chỉ chừng
nào người ta được vui hưởng nó, Rousseau thấy trong “những kỳ công được tất cả những dân tộc
tự do đã làm để bảo vệ chính họ khỏi sự áp bức”. Đúng, đó là những người đã buông bỏ đời sống của một người tự do, không làm gì ngoài không ngừng lớn tiếng khoe khoang sự bình yên
và an vui họ được hưởng trong những xiềng xích của họ . . . . Nhưng khi tôi thấy những người khác hy sinh những
lạc thú, an vui, tài sản, quyền lực, và chính mạng sống cho
sự bảo tồn của sự việc tốt lành duy nhất này, vốn
những người bị mất nó đã khinh miệt; khi tôi nhìn thấy những loài
thú sinh ra trong tự do và khinh miệt sự giam cầm, lao vỡ đầu vào những song sắt của chuồng nhốt chúng; Khi tôi nhìn thấy rất nhiều những giống
dân tuy còn sống hoàn toàn trần truồng man dã, nhưng coi thường lối sống buông thả phóng đãng của những
dân châu Âu, và họ chịu đói khát, hỏa hoạn, binh đao và cái chết chỉ để bảo vệ độc lập của họ, tôi cảm thấy rằng
những người trong tình trạng mất tự do thì không
thích hợp để thảo luận về khái niệm tự do.
Những ý tưởng có nhiều tương tự được Kant đã diễn
tả, bốn mươi năm sau. Kant nói, ông không thể chấp nhận phát
biểu rằng có một số người “chưa đủ chín cho tự do”, lấy thí dụ,
những nông nô của một số địa chủ:
Nếu một người chấp nhận giả định này, tự do sẽ không bao giờ thành
tựu được; vì người ta không thể đi đến sự trưởng thành
cho tự do nếu không đã có được nó rồi; người ta phải là tự do để học cách dùng sức mạnh của mình một cách tự do và có ích. Những cố gắng
đầu tiên để được tự do chắc chắn sẽ khốc liệt và sẽ dẫn đến một
tình trạng đau thương và nguy hiểm hơn tình trạng trước đây vì
tuy có sự kiểm soát từ bên ngoài nhưng
nó cũng mang lại một an toàn nhất định.. Tuy nhiên, người ta có thể đạt được lý trí chỉ qua
kinh nghiệm của chính mình và người ta phải được tự do để có thể thực hành
chúng . . . . Để chấp nhận nguyên lý rằng tự do thì không
đáng gì cả cho những ai là người dưới sự kiểm soát của một người và rằng
người ta mãi mãi có quyền từ chối nó với họ, là một xâm phạm những quyền của chính Gót, đấng đã tạo ra con người để là
tự do.[15]
Nhận xét thì đặc biệt đáng chú ý vì bối cảnh của nó. Kant đã đang bào chữa cho Cách mạng France,
trong thời kỳ Khủng bố, chống lại
những người đã tuyên bố rằng nó cho thấy khối quần chúng chưa được
sẵn sàng cho đặc quyền của
tự do. [16] Nhận xét của Kant có liên quan đến thời nay. Không một người có lý trí
nào sẽ tán thành bạo lực và khủng bố, đặc biệt, khủng bố của
nhà nước thời hậu cách mạng, sau khi rơi vào tay một chế độ chuyên quyền tàn ác, hơn một lần đã
đạt đến mức dã man không thể diễn tả được. Thế
nhưng, không một ai có hiểu biết hay nhân đạo nào sẽ quá vội vàng lên án bạo lực thường xảy ra khi khối đông dân chúng bị
áp bức từ lâu nổi lên chống lại những kẻ áp bức họ, hay thực hiện những bước
đầu tiên hướng tới tự do và tái thiết xã hội.
Bây giờ, để tôi trở lại biện luận của Rousseau phản
đối tính cách hợp pháp của uy quyền đã thiết lập, cho dù đó là quyền lực chính trị hay quyền lực tài
sản. Điều nổi bật là biện luận của ông, cho đến điểm này, đi
theo một mô hình Descartes quen thuộc. Con người là duy
nhất, vượt khỏi những giới hạn của giải thích vật lý; mặt khác, con thú chỉ là một bộ máy tài tình, do
luật tự nhiên điều khiển. Tự do của con người và ý thức của nó
về sự tự do này phân biệt nó với bộ máy-súc vật. Những nguyên lý của giải thích cơ học không có khả năng để giải thích
những thuộc tính này của con người, dù chúng có thể giải thích
cho cảm giác và ngay cả sự kết hợp của những ý tưởng, trong
đó nhìn theo hướng “con người khác với con thú chỉ trong mức độ”.
Với Descartes và những người theo ông, như Cordemoy, dấu hiệu chắc chắn
duy nhất rằng một sinh vật khác có một não thức, và thế
nên cũng nằm ngoài những ranh giới của giải thích cơ học, là việc dùng ngôn ngữ trong cách thức
bình thường, sáng tạo của con người, nằm ngoài kiểm soát của những kích thích
quan sát được, mới lạ và đổi mới, thuận hợp với những
hoàn cảnh, mạch lạc và khơi gợi trong não thức chúng ta những suy nghĩ
và những ý tưởng mới. [17]
Với những người theo Descartes, có thể thấy rõ rằng bằng
quan sát bên trong, mỗi người đều có
một não thức riêng, một thực thể có yếu tính của nó là tư tưởng; cách dùng ngôn ngữ sáng tạo của nó
phản ảnh sự tự do của tư tưởng và nhận thức. Khi chúng ta có bằng chứng rằng một sinh vật khác, cũng thế,
dùng ngôn ngữ trong cách thức tự do và sáng tạo này, dẫn chúng ta đến việc cũng
gán cho nó một não thức giống như của chúng ta. Từ những giả định tương
tự liên quan đến những giới hạn bên trong của sự giải thích cơ
học, nó không thể giải thích cho sự tự do của con người và ý thức về tự do của con người, Rousseau tiếp tục
khai triển phê phán của ông với những thể chế độc tài, vốn chúng
phủ nhận thuộc tính tự do thiết yếu của con người, trong
mức độ khác nhau.
Nếu chúng ta kết hợp những phỏng đoán
này, chúng ta có thể khai triển một liên kết đáng chú ý giữa ngôn ngữ và tự do. Ngôn ngữ, trong
những thuộc tính thiết yếu của nó và cách thức của việc dùng nó, đem cho tiêu chuẩn cơ bản cho việc xác định rằng một sinh vật khác là một hữu
thể với một não thức con người và khả năng con người cho
suy nghĩ tự do và tự biểu hiện, và với nhu cầu thiết yếu của con người cho
tự do, thoát khỏi những kềm
chế từ bên ngoài của uy quyền áp bức. Thêm nữa, chúng ta có thể cố gắng tiến hành từ
điều tra chi tiết về ngôn ngữ và việc dùng của
nó đến một hiểu biết sâu hơn và cụ thể hơn về não thức con người. Tiến
hành trên mô hình này, chúng ta có thể cố gắng xa
hơn để nghiên cứu những phương diện khác của bản chất con người
đó, như Rousseau đã nhận xét đúng, nó phải được thấu
hiểu chính xác nếu như chúng ta có thể có khả năng để phát triển, về lý thuyết, những nền
tảng cho một trật tự xã hội hợp lý.
Tôi sẽ quay lại vấn đề này, nhưng trước tiên, tôi muốn truy tìm thêm suy nghĩ của Rousseau về vấn đề. Rousseau tách
ra khỏi truyền thống Descartes trong
nhiều phương diện. Ông định nghĩa “tính chất
đặc biệt của loài người” như “khả năng tự hoàn thiện của con người“, vốn “với sự giúp đỡ
của những hoàn cảnh, liên tục phát triển tất cả những khả năng khác, và nằm trong chúng ta, cũng nhiều trong cả
chủng loại, như trong mỗi cá nhân”. Theo hiểu biết của tôi, khả năng tự hoàn thiện và sự hoàn
thiện của loài người qua sự truyền đạt văn hóa thì đã không được những người theo Descartes thảo luận trong bất kỳ thuật ngữ tương tự nào. Tuy nhiên, tôi nghĩ rằng những nhận xét
của Rousseau có thể được hiểu như một khai triển của truyền thống Descartes trong
một hướng chưa được thăm dò, hơn là một phủ nhận và bác bỏ nó. Không có bất
nhất trong ý niệm rằng những thuộc tính giới hạn của não thức làm nền tảng cho bản chất
con người tiến hóa về lịch sử, vốn phát triển bên trong những giới hạn vốn chúng đặt ra; hay những
thuộc tính này của não thức đem cho khả năng của sự tự hoàn thiện; hay rằng, bằng cung cấp ý thức về tự do, những thuộc tính
thiết yếu này của bản chất con người đem cho con người cơ hội để
tạo những điều kiện xã hội và những hình thái xã hội để tối đa những
có thể có được cho
tự do, sự đa dạng và sự tự thể hiện của cá nhân. Để dùng một
loại suy trong số học – chỉ vì những số nguyên không gồm tất cả những phân số,
điều này không có nghĩa là tập hợp những số nguyên không phải là
một tập hợp vô hạn – Tương tự, không thể phủ nhận khả năng “tự hoàn thiện” của
con người là vô hạn, dù đúng là có những đặc tính nội tại của não thức vốn
giới hạn sự phát triển của nó. Tôi muốn biện
luận rằng theo một nghĩa nào đó rằng
ngược lại thì đúng thực, nếu
không có một hệ thống giới hạn chính thức thì không có những
hành vi sáng tạo; đặc biệt, trong trường hợp thiếu vắng những thuộc tính nội tại và giới hạn của não thức, thì chỉ có thể có “sự
đinh dạng của hành vi” nhưng không có những tác động sáng tạo của sự tự hoàn thiện. Hơn nữa, quan tâm của Rousseau với đặc
tính tiến hóa của sự tự hoàn thiện mang
chúng ta từ một điểm nhìn khác, trở lại một quan tâm cho ngôn ngữ con người, vốn nó hiện ra như một
tiên quyết cho sự tiến hóa như thế của xã hội và văn hóa, cho
sự hoàn thiện của chủng loại của Rousseau, vượt trên những hình thức thô sơ nhất.
Rousseau chủ trương rằng “mặc dù cơ quan
của tiếng nói, thì tự nhiên có với con người, nhưng bản thân tiếng nói thì
dù sao đi nữa không tự nhiên có
với con người”. Lại nữa, tôi thấy không có mâu thuẫn nào giữa quan sát
này và cái nhìn điển hình của Descartes rằng những khả năng bẩm sinh đều là những khả năng “có tính cách thiên phú”, vốn
dẫn chúng ta đến tạo ra những ý tưởng (cụ thể là những ý tưởng bẩm sinh) trong
một cách thức cụ thể dưới những điều kiện của sự kích thích nhất
định từ ngoài vào, nhưng sự việc đó cũng cung cấp chúng
ta với khả năng để tiến hành trong suy nghĩ của chúng ta với
không cần những yếu tố bên ngoài như vậy. Khi
đó, ngôn ngữ cũng vậy, là tự nhiên với con người trong một cách thức
đặc biệt. Đây là một nhận thức có ý nghĩa và hoàn
toàn nền tảng quan trọng, tôi tin, vốn đã bị những nhà ngôn ngữ học duy lý coi thường, dưới tác động phần lớn
của tâm lý học duy nghiệm trong thế kỷ thứ mười tám và sau
đó. [18]
Rousseau bàn luận khá dài về nguồn gốc của ngôn ngữ, dù ông thú nhận chính
ông không có đủ khả năng để nắm vững vấn đề
được một cách hài lòng. Thế nên:
nếu con người cần tiếng nói để học ngõ
hầu để học suy nghĩ, họ lại còn có nhu cầu lớn hơn của việc biết suy nghĩ
thế nào ngõ hầu để tìm
ra nghệ thuật của tiếng nói
[19]
. . . . Vì vậy, người ta khó có thể hình thành những phỏng đoán vững
vàng được về nghệ thuật này của sự truyền thông
những suy nghĩ và việc thiết lập sự giao tiếp giữa những não thức; một nghệ thuật cao vời vốn bây giờ rất xa với so với hình thức nguyên
thủy của nó.. . . .
Ông chủ trương rằng “ những ý tưởng tổng
quát chỉ có thể đi vào não thức với giúp đỡ của những
từ ngữ, và sự hiểu biết chỉ nắm bắt chúng được qua những mệnh đề” –
một sự kiện vốn nó ngăn cản động vật, không có lý trí, với
việc hình thành những ý tưởng như vậy, hay từng
bao giờ có được “tính có thể hoàn thiện
vốn tùy thuộc trên chúng”. Vì vậy, ông không thể hình dung được phương tiện qua
chúng “những nhà ngữ pháp mới của chúng ta bắt đầu mở rộng những
ý tưởng của họ và tổng quát hóa những từ ngữ của họ”, hay để phát triển những phương tiện “để diễn đạt tất
cả những suy nghĩ của con người”: “những con số, những
từ trừu tượng, những thì động từ bất định [20], và tất cả những thì
của động từ, tiểu từ, cú pháp, sự liên kết của những mệnh đề, lý
luận và sự hình thành của tất cả lôgích của sự
nói viết”. Ông có phỏng đoán về những giai đoạn sau của sự hoàn thiện của chúng
loại, “khi những ý tưởng của con người đã bắt đầu lan truyền và nhân rộng, và khi sự truyền
thông gần gũi hơn giữa họ được thiết lập, [và] họ tìm kiếm nhiều những
dấu hiệu hơn và một ngôn ngữ rộng rãi hơn”. Nhưng ông không vui, phải buông
bỏ “vấn đề khó khăn sau đây: gì là
thiết yếu nhất, xã hội đã hình thành trước, dẫn đến sự điển chế của
ngôn ngữ, hay ngôn ngữ đã phát minh trước cho sự thiết lập của xã hội?”
Những người theo Descartes đã giải quyết vấn
đề phức tạp, dường như không thể giải quyết được [21]
bằng việc nêu lên sự hiện hữu của một đặc tính đặc biệt-chủng loại, một thực thể thứ hai vốn dùng như những gì chúng ta có thể gọi là “nguyên lý sáng tạo” cùng với “nguyên lý cơ học” vốn
xác định hoàn toàn hành vi của động vật. Với họ, đã
không cần thiết để giải thích nguồn gốc của ngôn ngữ trong tiến trình của
tiến hóa lịch sử. Đúng hơn, bản chất của con người thì
khác biệt về phẩm chất: không có ‘lối đi’ từ cơ thể đến não thức [22]. Chúng ta có thể diễn
giải lại ý tưởng này trong những từ ngữ hiện tại hơn bằng phỏng đoán những đột biến khá đột ngột và mạnh
mẽ có thể đã dẫn đến những phẩm chất của trí thông minh, theo như chúng ta
biết, vốn chúng là duy nhất với con người, sở hữu ngôn
ngữ theo nghĩa của con người là chỉ số đặc biệt,
dấu hiệu dễ thấy nhất của những phẩm chất này. [23]
Nếu sự việc này là đúng, ít nhất là một sự gần đúng đầu tiên với những sự kiện, thì việc
nghiên cứu ngôn ngữ có thể được kỳ vọng sẽ cung cấp
một bước khởi đầu mở đường, hay có thể là một
mô hình, cho một điều tra về bản chất con người vốn
sẽ cung cấp nền tảng cho một lý thuyết toàn diện hơn về bản chất con
người.
Để kết thúc những nhận xét lịch sử này, như đã làm ở những
chỗ khác,[24] tôi muốn,
quay sang Wilhelm von Humboldt, một trong những nhà tư tưởng
cuốn hút và kích
thích suy nghĩ nhất của thời kỳ. Humboldt, một mặt, là một trong những nhà lý thuyết uyên
thâm nhất của ngôn ngữ học tổng quát, và mặt khác, một người sớm mạnh mẽ ủng hộ những giá trị của
thuyết tự do. Khái niệm cơ bản của triết lý của ông là Bildung, vốn
nó, như J.W. Burrow diễn đạt, “ông muốn nói đến sự phát triển trọn
vẹn nhất, giàu có nhất và hài hòa nhất của
những tiềm năng của cá nhân, cộng đồng hay cả
loài người”. [25]
Suy nghĩ riêng của ông có thể dùng như một trường hợp lấy làm thí dụ. Theo hiểu biết của tôi, dù ông không liên
hệ công khai và chi tiết những ý tưởng của ông
về ngôn ngữ với tư tưởng xã hội tự do của ông, nhưng khá
rõ ràng, có một nền tảng cơ bản vốn chúng được khai triển
từ đó, một khái niệm về bản chất con người vốn
gây hứng khởi cho cả hai ý tưởng của Humboldt về ngôn ngữ và tư
tưởng xã hội theo chủ nghĩa tự do của ông. On Liberty của Mill được
coi như châm ngôn cho công thức của Humboldt
về “nguyên lý hàng đầu” trong tư tưởng của ông: “sự
quan trọng tuyệt đối và thiết yếu của sự phát triển con người trong sự
đa dạng giàu có nhất của nó”. Humboldt kết thúc phê bình của ông
với nhà nước độc tài, nói rằng: “Tôi cảm thấy chính tôi trước sau phấn chấn với một ý thức của sự tôn trọng sâu xa nhất cho phẩm giá vốn có của bản chất con người, và cho tự do, vốn
mình nó xứng đáng với phẩm giá đó”. Nói vắn tắt, khái niệm của ông về bản chất con người là
như vầy:
Cứu cánh đích thực của Con Người, hay những
gì vốn được những mệnh lệnh vĩnh cửu và bất biến của lý trí
quy định, và không do những ham muốn mơ hồ và nhất thời đưa
lên, là sự phát triển cao nhất và hài hòa nhất của
khả năng của con người thành một tổng thể hoàn chỉnh và nhất
quán. Tự do là điều kiện đầu tiên và không thể thiếu vốn
khả năng phát triển đó đòi hỏi phải có;
– liên hệ mật thiết với tự do, đúng vậy –
là kinh môt tiếp xúc với những hoàn cảnh nhiều
loại. [26]
Giống như Rousseau và Kant, ông chủ trương rằng:
không gì thúc đẩy sự chín muồi này cho tự do nhiều như chính tự do. Sự
thật này, có lẽ, có thể không được nhìn nhận bởi
những người đã quá thường dùng sự chưa chín muồi này như một bào
chữa cho việc tiếp tục áp bức. Nhưng với tôi, dường như không có
nghi ngờ gì, là nó đến từ chính bản chất tự nhiên của con người. Sự
không có khả năng cho tự do chỉ có thể nảy sinh từ một thiếu
hụt của năng lực đạo đức và trí tuệ; làm tăng lên năng
lực này là cách duy nhất để cung ứng
cho thiếu hụt này; nhưng để làm sự việc này, giả định trước
việc thực tập của năng lực, và việc thực tập này giả định trước sự tự do vốn nó đánh thức hoạt động tự phát. Chỉ rõ ràng là chúng ta không thể gọi là
trao cho tự do, khi những ràng buộc được
nới lỏng nhưng người gánh chịu không cảm thấy những ràng buộc đó như những hạn chế. Nhưng không người nào trên trái đất – dù bản
chất bị bỏ rơi đến đâu, và hoàn cảnh bị suy thoái đến đâu –
là đúng khi nói rằng tất cả những ràng buộc áp bức họ. Chúng ta hãy
tháo gỡ từng ràng buộc một, vì cảm giác của tự do thức tỉnh trong
những trái tim con người, và chúng ta sẽ đẩy nhanh tiến bộ ở mỗi bước.
Những ai không hiểu sự việc này “chỉ có thể bị ngờ là hiểu sai bản chất con
người, và mong muốn biến con người thành những
máy móc”.
Trong nền tảng, con người là một hữu
thể sáng tạo, tìm tòi và tự hoàn thiện: “Tìm tòi và sáng tạo – đây là những trung tâm vốn mọi theo đuổi của con người ít
nhiều đều trực tiếp xoay quanh”. Nhưng tự do của
tư tưởng và trí tuệ nhận thức sáng suốt đều không chỉ dành cho
giới trí thức thượng lưu. Vang vọng từ Rousseau, Humboldt phát
biểu, “Có một gì đó hạ thấp bản chất con người trong ý tưởng phủ
nhận với bất kỳ một người nào quyền để là một người”. Sau đó, ông lạc quan về những tác
động trên tất cả “sự truyền bá kiến thức khoa học bởi
tự do và trí tuệ nhận thức sáng suốt”. Nhưng “tất cả văn hóa đạo đức chỉ
nảy sinh và trực tiếp từ đời sống bên trong của tinh thần con người, và chỉ có thể
được kích thích trong bản chất con người, và không bao giờ được tạo ra từ
bên ngoài bởi những khéo léo kỹ xảo nhân tạo”. “Việc vun
trồng hiểu biết, cũng như bất kỳ khả năng nào khác của con người, thường đạt
được bằng hoạt động của chính người ấy, sự
khéo léo của chính người ấy, hay những phương pháp của người ấy nhưng dùng những khám phá của những người khác . . . . “Khi đó, giáo dục phải cung cấp những cơ hội cho sự
tự hoàn thiện; nó có thể tốt nhất là
cung cấp một môi trường giàu có và đầy thử thách cho
cá nhân để thăm dò, trong cách riêng của người ấy. Ngay cả một ngôn ngữ, nói một cách chính xác, không thể được dạy, nhưng
chỉ được “đánh thức trong não thức: người ta chỉ có thể cung cấp
một con đường hướng dẫn khởi đầu vốn theo
đó nó sẽ tự phát triển”. Tôi nghĩ rằng Humboldt sẽ tìm thấy phần lớn suy nghĩ giống
như của Dewey về giáo dục. Và ông cũng có thể đã thấu
hiểu giá trị sự mở rộng mang tính cách mạng gần đây của những ý tưởng
như vậy, chẳng hạn, bởi những người Catô cấp tiến ở châu
Mỹ Latinh, những người quan tâm với “sự thức tỉnh của ý thức”, nói về
“sự chuyển biến của những tầng lớp thấp kém thụ động
bị bóc lột, vào thành những người làm chủ số phận của chính họ với ý thức và phê phán”
[27] giống
như nhiều những nhà cách mạng trong
Thế giới thứ ba ở những nơi khác. Tôi chắc chắn rằng ông sẽ đồng
ý với những chỉ trích của họ với nhà trường vốn
bận tâm vào việc truyền tải kiến thức hơn với sự
sáng tạo, trong số những giá trị khác, của một tinh thần phê
phán. Từ quan điểm xã hội, những hệ thống giáo dục được định hướng để duy trì
những cấu trúc kinh tế và xã hội hiện có, thay vì chuyển
đổi chúng. [28]
Nhưng quan tâm của Humboldt với tính tự phát đi
xa hơn sự thực hành giáo dục trong nghĩa hẹp. Nó cũng chạm đến vấn đề của lao động và sự bóc lột. Những nhận xét, vừa dẫn, về sự
vun trồng của hiểu biết qua hành động tự phát tiếp tục như sau:
. . . con người không bao giờ coi những gì người ấy
có được như của riêng người ấy, cũng nhiều như với
những gì do người ấy làm ra; và người lao động chăm sóc một mảnh
vườn thì có lẽ là chủ nhân đúng nghĩa của nó, hơn là những
người thích thú với những hoa trái, nhưng thờ ơ với việc vun
trồng. . . . . Trong cái nhìn cân nhắc theo hướng này, [29]
có vẻ như tất cả nông dân và thợ thủ công đều
có thể được nâng lên hàng những nghệ nhân; nghĩa là, những người yêu lao động của họ vì giá
trị tự thân của lao động, cải thiện nó bằng thiên tài dẻo dai
và kỹ năng sáng tạo của riêng họ, và qua
đó vun trồng trí thức của họ, làm cao quí nhân phẩm của họ, tôn vinh
và hoàn thiện những
thích thú của họ. Và như thế, nhân loại sẽ trở nên cao quí bởi chính những gì
vốn giờ đây, dù tự chúng đẹp đẽ
trong tự thân, lại thường dùng vào việc làm suy thoái
nhân loại ..... . . Nhưng tự do chắc chắn vẫn còn là điều kiện tất yếu, nếu không có nó, ngay cả những theo đuổi bản chất cá nhân thích
hợp nhất của con người, có thể không bao giờ thành công trong việc tạo ra những
ảnh hưởng tốt lành như vậy. Bất cứ gì không náy sinh từ sự lựa chọn tự do
của con người, hay chỉ là kết quả của mệnh lệnh và hướng dẫn, không
vào trong chính bản thể của người ấy , nhưng
vẫn xa lạ với bản chất thực sự của người ấy; người
này không thực hiện nó với năng lực thực sự của con
người, nhưng chỉ đơn thuần với sự chính xác máy móc.
Nếu một người hành động trong một cách thuần
túy máy móc, phản ứng với những mệnh lệnh hay giảng
dạy từ bên ngoài, thay vì theo những cách được xác định bởi lợi ích và khả
năng và sức lực của chính người này, thì “chúng ta có thể ngưỡng mộ những gì người
này làm, nhưng chúng ta coi khinh những gì người
này là”. [30]
Dựa trên những quan niệm như vậy, Humboldt đặt
nền tảng cho những ý tưởng của ông liên quan đến vai trò của nhà nước, vốn có khuynh hướng “biến con người
trở thành một công cụ phục dịch những mục đích độc đoán của nó, không coi trọng
những mục đích cá nhân của con người”. Học thuyết của ông là tự do cổ điển,
phản đối mạnh mẽ tất cả trừ những hình thức can thiệp tối thiểu nhất của nhà
nước vào đời sống cá nhân hay xã hội.
Viết trong những năm 1790, Humboldt đã không có khái niệm gì về những hình thức vốn thuyết tư bản kỹ nghệ sẽ mang
lấy. Do đó, ông không quá lo lắng về những nguy cơ của quyền lực tư nhân.
Nhưng khi chúng ta suy ngẫm (vẫn giữ lý thuyết khác với thực hành) rằng ảnh hưởng của một cá nhân
(một công dân bình thường) thì
có thể bị giảm sút và suy tàn, từ sự cạnh tranh, đến
tiêu tan tài sản, ngay cả cái chết; và rõ ràng rằng không có những
dự phòng xảy ra nào trong số này có thể được áp dụng cho
Nhà nước; chúng ta vẫn còn bị bỏ lại với nguyên lý là nhà nước thì
không nên can thiệp vào bất cứ gì không liên quan
trực tiếp đến vấn đề an ninh.. . . .
Ông nói về sự bình đẳng thiết yếu của hoàn
cảnh của những công dân tư nhân [31], và dĩ
nhiên không có ý tưởng nào về những cách thức vốn trong đó khái niệm “cá
nhân tư nhân” sẽ được diễn giải lại trong kỷ nguyên của thuyết tư bản doanh nghiệp. Ông đã không thấy
trước rằng “Dân chủ với phương châm bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật
và thuyết Tự do với quyền con người trên cá
nhân riêng của người ấy của nó, cả hai đều [sẽ] bị phá
đổ trong những thực tại
của kinh tế tư bản”. [32]
Ông đã không thấy trước được, trong một nền kinh tế tư bản ‘săn
người’ [33], rằng
sự can thiệp của nhà nước sẽ là cần thiết tuyệt đối để bảo tồn sự tồn
tại của con người và ngăn chặn sự tàn phá của môi trường vật chất— tôi nói một
cách lạc quan. Như Karl Polanyi, đã một lần chỉ ra thị trường tự
điều chỉnh “không thể tồn tại trong bất kỳ khoảng thời gian nào nếu không triệt
tiêu bản chất tự nhiên và con người của xã hội; nó sẽ hủy diệt con người về thể
chất và chuyển biến môi trường quanh con người thành một vùng
hoang dã”. [34] Humboldt đã không
thấy trước được những hậu quả của đặc tính hàng hóa của sức lao động, học thuyết (trong
những lời Polanyi) rằng “không phải để quyết định nơi nào
hàng hóa nên được bán, nên dùng nó cho mục đích gì, ở mức giá nào
nó được trao tay, đổi chủ, và nó nên được tiêu thụ hay tiêu
hủy theo cách nào”. Nhưng hàng hóa, trong trường hợp này, là mạng sống của con người, và sự
bảo vệ xã hội do đó là một nhu cầu tối thiểu để giới hạn những hoạt động phi lý và
phá hoại của thị trường tự do cổ điển. Humboldt cũng đã
không hiểu rằng những liên hệ kinh tế tư bản duy trì một hình thức trói
buộc vốn ngay từ năm 1767, Simon Linguet đã tuyên bố rằng còn tồi tệ hơn cả chế
độ nô lệ.
Đó là việc không thể sống bằng bất kỳ phương tiện nào khác đã buộc những người
lao động ở nông trại của chúng ta phải cày xới những vùng đất mà họ không ăn
trái cây, và những người thợ nề của chúng ta phải xây dựng những tòa nhà mà họ sẽ không sống trong
đó. Chính nhu cầu đã kéo họ đến những khu chợ nơi họ chờ đợi những người
chủ sẽ tử tế mua chúng cho họ. Chính sự mong muốn đó đã buộc họ phải quỳ trước
người giàu có để xin phép ông ta làm giàu cho ông ta. . . . Việc ngăn
cấm chế độ nô lệ đã mang lại cho anh ta lợi ích hiệu quả gì? . . . Bạn nói
rằng anh ấy được tự do. Bạn nói rằng người ấy được tự do. A! Đó
là sự bất hạnh của người ấy. Người nô lệ rất quý giá đối với chủ vì số tiền mà ông ta đã phải trả
để mua nô lệ. Nhưng những người thợ thủ công chẳng tốn kém gì với những
người giàu có xa hoa đã thuê người
này. . . . Người ta nói rằng những người này không có chủ - họ có một ông
chủ, và ông chủ khủng khiếp nhất, hống hách nhất, đó là nhu cầu. Chính điều này
đã khiến họ rơi vào tình trạng phụ thuộc tàn nhẫn nhất.
Nếu có một gì làm hạ thấp bản chất con người trong ý tưởng của
sự trói buộc, khi đó cần phải chờ đợi một sự giải phóng mới, “giai đoạn giải phóng thứ ba và
cuối cùng của lịch sử” của Fourier, sẽ biến giới
vô sản thành những người tự do bằng loại bỏ tính chất hàng hóa của lao động, kết thúc chế độ nô lệ làm
công ăn lương, và đặt những tổ chức thương mại, kỹ nghệ và tài chính dưới sự
kiểm soát của dân chủ.[35]
Có lẽ Humboldt có thể đã chấp nhận những kết luận này. Ông đồng ý rằng
sự can thiệp của nhà nước vào đời sống xã hội là hợp pháp nếu “tự do sẽ phá hủy
chính những điều kiện néu không có chúng không chỉ tự do nhưng
ngay cả bản thân sự tồn tại cũng không thể tưởng tượng nổi” – chính xác
là những hoàn cảnh vốn nảy sinh trong một nền kinh tế tư bản không bị giới hạn. Trong bất kỳ
trường hợp nào, sự chỉ trích của ông với chế độ quan liêu và nhà nước chuyên
quyền là một lời báo trước hùng hồn về một số phương diện ảm đạm nhất của lịch sử thời
nay, và cơ sở phê bình của ông có thể áp dụng cho một loạt những thể chế
cưỡng chế nhiều hơn những gì ông đã tưởng tượng.
Mặc dù biểu lộ một học thuyết tự do cổ điển, Humboldt không là người theo thuyết cá
nhân nguyên thủy với phong cách của Rousseau. Rousseau tán
dương con người man
rợ “sống với chính mình”, [36]
ông thấy không có gì phải dùng “con
người xã hội, luôn luôn ngoài chính mình, [người] biết sống chỉ theo ý kiến của những
người khác. . những người phụ thuộc vào ý kiến của người khác để có ý
thức về bản thân”. [37] Cách nhìn của Humboldt khá khác biệt:
. . . Toàn bộ đặc điểm chung của những
ý tưởng và lập luận đã mở ra trong luận
văn này có thể được rút gọn thành thế này,, rằng trong
khi chúng sẽ phá vỡ mọi gông cùm trong xã hội loài người, chúng sẽ cố gắng
tìm ra càng nhiều liên kết xã hội mới càng tốt. Con
người cô lập không có khả năng để phát triển hơn con người bị gông cùm.
Thế nên, ông mong muốn một cộng đồng của
sự liên kết tự do, không bị nhà nước hay những thể chế độc tài khác áp
bức, trong đó những người tự do có thể sáng
tạo và tìm hiểu, và đạt được sự phát triển cao nhất của
quyền năng của họ – vượt xa thời đại của ông, Humboldt trình
bày một viễn tượng theo thuyết vô chính phủ vốn
là thích hợp, có lẽ cho giai đoạn tiếp theo của xã hội kỹ nghệ. Có lẽ chúng ta có thể
mong đợi một ngày khi những sợi dây khác nhau này sẽ được kết hợp với nhau trong khuôn khổ của
thuyết xã hội tự do, một hình thức xã hội hầu như không tồn tại ngày nay, mặc dù có thể trông
thấy những yếu tố của nó: trong việc bảo đảm những quyền cá nhân vốn
đã đạt được hình thức cao nhất của nó – mặc dù vẫn còn
thiếu sót một cách bi thảm – trong những nền dân chủ phương Tây; trong
kibbutzim của Israel; trong những thí nghiệm với những hội đồng công nhân ở Yugoslavia;
trong cố gắng để đánh thức ý thức dân chúng và tạo ra
một sự tham gia mới vào tiến trình xã hội vốn là yếu tố nền
tảng trong những cách mạng của Thế giới thứ ba, cùng tồn tại một cách khó
khăn với thực hành độc tài không thể bào chữa được.
Một khái niệm tương tự về bản chất con người làm nền tảng cho công trình
của Humboldt về ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một tiến trình sáng tạo tự do; những luật
và nguyên lý của nó thì cố định, nhưng cách thức trong đó những nguyên
tắc của hình thành [38]
.được đem dùng thì tự do và đa dạng
vô tận. Ngay cả việc giải thích và dùng từ ngữ cũng liên quan đến một tiến
trình sáng tạo tự do. Việc dùng ngôn ngữ bình thường và sự
tiếp thu ngôn ngữ tùy thuộc vào những
gì Humboldt gọi là hình thức cố định của ngôn ngữ, một hệ thống của
những tiến trình phát sinh vốn có gốc
rễ từ bản chất của não thức con người và bị ràng buộc nhưng không quyết
định sự sáng tạo tự do của trí thông minh bình thường, hay ở cấp độ cao hơn và
nguyên bản hơn, của nhà văn hay nhà tư tưởng vĩ đại. Humboldt, một mặt, là
người theo Plato, người nhấn mạnh rằng học tập là một loại của hồi tưởng, trong đó
não thức, được kinh nghiệm kích thích, rút ra từ nguồn lực nội tại của riêng nó và đi theo
một con đường chính nó xác định; và ông cũng là một người theo
thuyết lãng mạn, đồng điệu với sự đa dạng văn hóa, và những khả năng vô tận cho
những đóng góp tinh thần của những thiên tài sáng tạo. Không có mâu thuẫn trong sự việc này, nhiều
hơn là mâu thuẫn trong sự khăng khăng của lý thuyết mỹ học rằng những tác phẩm cá
nhân của thiên tài đều bị ràng buộc bởi nguyên lý và quy luật.
Việc dùng ngôn ngữ bình thường, sáng tạo, vốn với nhà duy lý theo
Descartes là chỉ số tốt nhất của sự tồn tại của một
não thức (của người) khác, giả định trước một hệ thống những
quy luật và nguyên lý chung của một loại vốn những nhà ngữ pháp duy lý đã cố
gắng, với một số thành công, để xác định và làm rõ ràng.
Nhiều nhà phê bình ngày nay cảm nhận
một bất đồng trong tin tưởng rằng sự sáng tạo tự do diễn ra bên trong – thực tế là
giả định trước – một hệ thống của những ràng buộc và những nguyên lý cai
quản là sai lầm về cơ bản trong cách hiểu của họ,
dĩ nhiên, trừ khi họ nói đến “ mâu thuẫn” trong nghĩa lỏng lẻo và ẩn dụ của Schelling, khi ông viết rằng “nếu không có
mâu thuẫn của tất yếu và tự do, không chỉ triết học nhưng mọi tham vọng cao thượng
hơn của tinh thần sẽ chìm vào cái chết vốn
là đặc biệt với những khoa học trong đó mâu thuẫn không có chức năng gì”.
Nếu không có sự căng thẳng giữa tính tất
yếu và tự do, quy luật và lựa chọn, có thể
là không có sáng tạo, không có truyền thông giao tiếp, không có những
hành động mang ý nghĩa nào cả.
Tôi đã thảo luận những ý tưởng truyền thống này khá
dài, không phải vì chú tâm với quá khứ, nhưng
vì tôi nghĩ rằng chúng có giá trị và đúng về cơ bản, và chúng đưa ra lộ
trình vốn chúng ta có thể đi theo với lợi ích. Hoạt động xã hội phải được làm sống động bằng một
viễn cảnh của một xã hội tương lai, và bằng những phán
xét rõ ràng về giá trị liên quan đến tính chất
của xã hội tương lai này. những phán xét
này phải xuất phát từ một số khái niệm về bản chất con người, và người
ta có thể tìm kiếm những nền tảng duy
nghiệm bằng việc thăm dò bản chất con người như nó được bộc lộ bởi hành
vi của con người và sự sáng tạo của con người, vật chất, trí tuệ và xã hội. [39]
Có lẽ chúng ta đã đạt đến một thời điểm trong lịch sử khi có thể suy
nghĩ nghiêm trang về một xã hội trong đó những liên kết xã hội được tạo thành
tự do thay thế những gông cùm của những thể chế chuyên quyền, đúng hơn theo
nghĩa được truyền đạt bởi những nhận xét của Humboldt vốn tôi đã trích dẫn, và
chi tiết thêm hoàn toàn theo truyền thống của thuyết xã hội tự do trong những
năm sau đó.
Thuyết tư bản bóc lột [40] đã tạo một hệ thống kỹ
nghệ phức tạp và một kỹ thuật tiến bộ; nó cho phép một mở rộng đáng kể của sự thực hành dân chủ và đã bồi dưỡng những
giá trị tự do nhất định, nhưng bên trong những giới hạn vốn
hiện đang bị thúc ép và phải khắc phục. Nó không phải là một hệ thống
phù hợp cho thời giữa-thế kỷ XX. Nó không có khả năng đáp ứng những nhu cầu con người vốn chỉ
có thể được diễn tả trong những thuật ngữ tập thể, và khái niệm của nó về người con người cạnh
tranh, người chỉ tìm cách tối đa hóa tài sản và quyền lực, người tự
đặt mình vào những liên hệ thị trường, cho
sự bóc lột và quyền lực bên ngoài, là phản nhân đạo và không thể dung thứ được
trong những ý nghĩa sâu xa nhất. Một nhà nước chuyên quyền thì
không là một thay thế chấp nhận được; cũng không thể chấp nhận được thuyết tư bản nhà
nước quân sự hóa ở U.S. hay nhà nước quan liêu, tập trung phúc lợi xã
hội như mục tiêu của sự hiện
hữu con người. Sự biện minh duy nhất cho những thể chế áp bức là sự khan
hiếm nguồn lực vật chất hay sự thiếu hụt tiến bộ văn hóa. Nhưng những
thể chế như vậy, ở những giai đoạn nhất định của lịch sử, vẫn duy trì và tạo ra
một thiếu hụt như vậy, và ngay cả đe dọa sự tồn vong
con người. Khoa học và kỹ thuật ngày nay có thể giải phóng con người về sự cần
thiết của lao động chuyên biệt, ngu xuẩn không cần
suy nghĩ. Trên nguyên tắc, chúng có thể cung cấp cơ sở cho một trật tự xã hội hợp lý
dựa trên sự liên kết tự do và kiểm soát dân chủ, nếu chúng ta có ý chí để
tạo ra nó.
Một viễn cảnh của một trật tự xã hội
trong tương lai, đến lượt nó, dựa trên một khái niệm của bản chất con người. Nếu trong thực tế, con người là những hữu
thể hoàn toàn mềm mỏng, uốn nắn được đến vô hạn, không có những
cấu trúc não thức bẩm sinh và không có những nhu cầu nội tại về tính
cách văn hóa hay xã hội, khi đó họ là những đối tượng thích hợp cho việc “định hình của
hành vi” bới thẩm quyền nhà nước, quản lý doanh nghiệp, nhà
chuyên môn khoa học kỹ thuật có ảnh hưởng chính trị, , hay ủy ban trung
ương. Những ai là người với chút tin tưởng vào loài người sẽ hy vọng sự việc này không là
như vậy và sẽ cố gắng xác định những đặc điểm nội tại của con người vốn
cung cấp khuôn khổ cho sự phát triển trí tuệ, sự
tăng trưởng ý thức đạo đức, thành tựu văn hóa và sự
tham gia vào một cộng đồng tự do. Theo một cách tương tự phần nào đó, một
truyền thống cổ điển đã nói về những thiên tài nghệ thuật hành động trong và theo một số cách thách
đố nào đó một khuôn khổ của quy luật. Ở đây chúng ta chạm đến những vấn đề vốn
còn ít được hiểu. Với tôi, dường như chúng ta phải mạnh
mẽ và triệt để, tách khỏi
phần lớn khoa học hành vi xã hội ngày nay, nếu chúng ta muốn đi
tới một hiểu biết sâu hơn về những vấn đề này.
Ở đây, cũng vậy, tôi nghĩ rằng truyền thống tôi vừa vắn
tắt xem lại có cho một đóng góp. Như tôi đã quan sát, những người
đã quan tâm với tính chất khác biệt và tiềm năng của con người, đã
nhiều lần lập lại, đều được
đưa đến một cân nhắc kỹ lưỡng về những
thuộc tính của ngôn ngữ. Tôi nghĩ rằng nghiên cứu ngôn ngữ có thể đem
cho một vài những khái niệm mơ hồ khởi đầu của việc hiểu biết của
hành vi do qui luật
quản lý [41]
và những khả năng cho hành động tự do và sáng tạo trong khuôn khổ của một hệ thống
qui luật, ít nhất, phản ảnh những đặc tính nội tại của cấu
chức tinh thần con người. Với tôi, có vẻ là
hợp lý để nhìn
sự nghiên cứu ngày nay của ngôn ngữ, trong một cách
nào đó, như một quay về với khái niệm của Humboldt về hình thức của ngôn ngữ: một hệ thống những tiến trình phát sinh bắt nguồn từ những thuộc
tính bẩm sinh của não thức, trong lời của Humboldt, cho phép dùng vô hạn những
phương tiện hữu hạn. Ngôn ngữ không thể được mô tả như một hệ thống của
hành vi có tổ chức. [42]
Thay vào đó, để hiểu ngôn ngữ được dùng như thế nào, chúng ta phải thăm
dò hình thức ngôn ngữ trừu tượng – ngữ pháp tổng quát của nó, theo thuật ngữ ngày
nay. Để học một ngôn ngữ là để xây dựng cho một người hệ thống trừu tượng này, dĩ nhiên là vô
thức. Nhà ngôn ngữ học và nhà tâm lý học chỉ có thể tiến hành nghiên cứu việc
sử dụng và tiếp thu ngôn ngữ trong chừng mực họ phần
nào nắm vững được những thuộc tính của hệ thống vốn người biết ngôn ngữ đó đã thành thạo. Hơn nữa, với tôi,
có vẻ như một lập luận thuyết phục có thể được đưa ra trong
việc hỗ trợ cho tuyên bố duy nghiệm rằng có thể có được một hệ thống như vậy, trong những điều kiện
nhất định về thời gian và sự sẵn có của những
cơ hội hay nguồn lực, chỉ bằng một bộ óc vốn được phú bẩm phú với
một số thuộc tính nhất định vốn bây giờ chúng ta có thể dự kiến mô tả bằng
một số chi tiết. Miễn là chúng ta tự
giới hạn, về khái niệm, trong việc điều tra về
hành vi, tổ chức của nó, sự phát triển của nó qua tác động hỗ tương với
môi trường, chúng ta nhất định bỏ lỡ những đặc tính
này của ngôn ngữ và não thức. Trên nguyên tắc, những phương diện
khác của tâm lý và văn hóa con người có thể được nghiên cứu theo một
cách tương tự.
Có thể hình dung được, theo cách này, chúng ta có thể phát triển một
khoa học xã hội dựa trên những định đề có cơ sở thực nghiệm liên quan đến bản
chất con người. Cũng giống như chúng ta nghiên cứu phạm vi ngôn ngữ vốn con
người có thể đạt được, với một số thành công, chúng ta cũng có thể cố gắng
nghiên cứu những hình thức diễn đạt nghệ thuật, với vấn đề đó, hay kiến thức khoa học vốn con người có
thể hình dung tưởng tượng, và có lẽ
ngay cả phạm vi của những hệ thống đạo đức và cấu trúc xã hội trong đó
con người có thể sống và hoạt động, với khả năng và nhu cầu nội tại của họ. Có
lẽ người ta có thể tiếp tục sang dự án một khái niệm của tổ chức xã hội – vốn trong những điều kiện nhất định về văn hóa vật chất và tinh thần –
khuyến khích và đáp ứng nhu cầu cơ bản của con người tốt
nhất – nếu là như vậy – cho sáng kiến tự phát, công việc sáng tạo, tinh thần đoàn kết,
theo đuổi công bằng xã hội.
Tôi không muốn phóng đại, như tôi chắc chắn, vai trò của sự
thăm dò nghiên cứu về ngôn ngữ. Ngôn ngữ là
sản phẩm của trí tuệ con người, vốn hiện nay, là thứ dễ tiếp cận
nhất để nghiên cứu. Một truyền thống giàu có đã coi ngôn ngữ là một tấm gương
phản chiếu của não thức. Ở một mức độ nào đó, chắc chắn có sự thật và cái nhìn
sâu xa có ích trong ý tưởng này.
Tôi không kém bối rối hơn trước đề tài “ngôn ngữ và tự do” so với khi tôi bắt đầu – và không kém
bị thu hút hơn với tò mò tìm hiểu. Trong những nhận
xét mang tính phỏng đoán và đại cương này, có những khoảng trống quá
bao la khiến người ta có thể hỏi những gì sẽ còn lại, khi ẩn dụ và phỏng đoán không có cơ sở bị loại bỏ. Đó
là tỉnh táo để nhận ra – như tôi tin chúng ta phải – rằng
chúng ta đã tiến bộ ít biết bao trong kiến thức của
chúng ta về con người và xã hội, hay ngay cả trong việc hình thành rõ ràng những
vấn đề vốn có thể được nghiên cứu nghiêm chỉnh. Nhưng tôi nghĩ, có một vài chỗ đứng
có vẻ khá vững chắc. Tôi muốn tin rằng việc đào
sâu nghiên cứu của một phương diện của tâm lý con người – ngôn ngữ con người – có thể đóng
góp vào một khoa học xã hội nhân văn vốn cũng sẽ đóng vai trò
như một dụng cụ cho hành động xã hội. Không cần phải nói, cần phải nhấn mạnh rằng hành
động cải thiện xã hội không thể chờ đợi một lý thuyết
được thiết lập vững chắc về bản chất con người và xã hội, cũng như giá trị của điều
sau không thể được xác định bởi những hy vọng và
phán xét đạo đức của chúng ta. Cả hai – phỏng đoán và hành động – phải tiến
triển hết sức như chúng có thể,. mong đến ngày việc tìm hiểu lý
thuyết sẽ cung cấp một hướng dẫn vững chắc cho đấu tranh bất tận, thường nghiệt
ngã, nhưng không bao giờ là đấu tranh vô vọng cho tự do và công bằng xã hội.
Noam Chomsky
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Sep/2023)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Đến năm
nay, 2023 – ông 94 tuổi, vốn là giáo
sự học viện (Institute Professor) và giáo sư hưu trí (ở
MIT (1955-2002), hiện là giáo sư khoa
Ngôn ngữ học, và giữ ghế giáo sư Agnese
Nelms Haury trong Chương trình Agnese Nelms Haury về Môi trường và Công bằng Xã
hội, ở Đại học Arizona. Ông vẫn
tiếp tục giảng dạy nhiều khóa học,
gồm ngôn ngữ học, triết học, lịch sử tư tưởng và những vấn
đề xã hội và chính trị ở cả hai trường đại học, đặc biệt ở trường Arizona,
trong nhiều hội thảo, ông đóng vai
trò của một ‘trí thức của công chúng’, chia sẻ kiến
thức chuyên môn về ngữ học và về những lĩnh
vực khác. của ông với đông đảo những
người xem-nghe, khắp thế giới.
Ông là hội
viên của American Academy of Arts and Sciences và the National Academy of
Science (Viện Hàn lâm Khoa học và Nghệ thuật, Viện Hàn lâm Khoa học Quốc gia)
US. Ông cũng đã nhận nhiều giải thưởng vì những đóng góp trong nghiên cứu ngôn
ngữ học, lịch sử tư tưởng và triết học, gồm Giải thưởng Kyoto, Huy chương
Helmholtz và Giải thưởng Người tạo hòa bình Dorothy Eldridge.
[2] Khi dịch bài
này là chiến tranh giữa Mỹ và Nga ở Ukraine, và thêm chiến tranh Palestine/Hamas-Zionism/Israel
vừa tái tiếp diễn.
[3]
The Standard Theory / Lý Thuyết
Tiêu Chuẩn (Standard Theory of Transformational-Generative Grammar) là thành
phần then chốt trong
khung khuôn khổ ngữ pháp
phát sinh của Noam Chomsky, ông khai triển
khoảng giữa thế kỷ 20. Mục đích chính
của nó là mô tả tỉ mỉ và hệ thống hóa cấu trúc ngữ pháp của những ngôn ngữ cụ
thể như tiếng Anh hay tiếng Pháp. Khi làm như vậy, Lý thuyết Tiêu chuẩn mở cố gắng khai mở cho thấy liên hệ giữa ngữ pháp cụ thể của một ngôn ngữ với những nguyên tắc
phổ quát của Ngữ Pháp Phổ Quát (UG).
[4] Trích từ For Reasons of State, New York:
Pantheon Books, 1973.
Luận văn này đã được trình bày như một bài nói
chuyện trong Hội thảo Tự do và Khoa học Nhân văn, Đại Học Loyola, Chicago, 8-9
tháng 1, 1970. In lại, từ The Chomsky
Reader, James Peck biên tập. New York: Knopf Doubleday Publishing Group, 1987.
Dịch từ:
THE NOAM CHOMSKY WEBSITE – CHOMSKY.INFO
https://chomsky.info/language-and-freedom/
Những chú thích trong ngoặc vuông [... ] dịch theo
nguyên bản.
Những chú thích khác, với những sai lầm nếu có, là
của tôi, sẽ tìm chữa sau. Tôi đặt trọng tâm trên những khái niệm trong ngữ học,
tri thức học của Chomsky
a.
Chomsky nổi bật như người đề xướng lỗi lạc của
thuyết ngữ pháp phổ quát. Khái quát, đây là giả thuyết cho rằng ngôn ngữ
không chỉ đơn thuần là một cấu trúc xã hội hay văn hóa, nhưng ít nhất trong một mức độ nền tảng nhất định nào đó, về sinh học, nó là bẩm sinh với con người.
Ý tưởng là ngôn ngữ sẵn có trong di truyền
và chung cho tất cả mọi người. Có một vài tương
đồng giữa UG của Chomsky và lập trường chính trị
tả phái của ông. Dù ông có lần phủ nhận: “… tôi sẽ rất vui khi có thể tìm ra
những kết nối thuyết phục trí thức giữa một bên là những lập trường vô chính
phủ của tôi và bên kia gồm những gì tôi nghĩ (rằng) tôi có thể chứng tỏ hay ít
nhất là bắt đầu để nhìn thấy về bản chất của trí tuệ con người. Nhưng đơn giản
là tôi không thể tìm thấy những kết nối thỏa mãn về trí thức giữa hai lĩnh vực
đó. Tôi có thể tìm ra được một số điểm tiếp xúc mong manh”. Những gì gọi là “tiếp xúc mong manh” Chomsky nhắc ở đây có thể nói về sự kiện là UG hàm chứa một yếu tố của bình đẳng. Yếu tố này chống lại sự kỳ thị chủng tộc và làm suy yếu những nhấn mạnh trên
sự khác biệt giữa những văn hóa loài người. Tất cả đều hợp với nội
dung của phong trào dân quyền ở U.S. vốn Chomsky thường lên tiếng về những
vấn đề chính trị-xã hội. Thuyết ngữ pháp phổ quát là một loại hình của lý thuyết thực chứng Anh-Mỹ. Nó nghiêng về khoa học
thực nghiệm, và trong hướng này, nó khác với nhũng lý thuyết xã hội “lớn" như
Mác-xít, hay thuyết kiến tạo xã hội (social constructivism). Tổng quát, Chomsky
thuộc về tả phái Anh-Mỹ hơn là tả phái hậu hiện đại lục địa châu Âu, Điều này thể hiện rõ trong tranh luận nổi tiếng của
Chomsky với Michel Foucault, năm 1971. Foucault là một người theo thuyết kiến
tạo xã hội, hậu hiện đại và hậu Mác-xít. Foucault tập trung phát triển một phê
phán về lý thuyết và về lịch sử, toàn diện và bao quát về quyền lực chính
trị-xã hội. Trong khi Chomsky tập trung trên thực tại nhiều hơn vào những
vấn đề công bằng xã hội cụ thể, thay vì một lý
thuyết ‘lớn’, toàn diện và bao quát. Chomsky quan tâm theo đuổi chân lý thực
nghiệm, ngay cả khi không có chân lý tuyệt đối hay chân lý cuối cùng nào, trên lý thuyết, cho ông. Ông nghiêng hẳn về đạo
đức. Điển hình, ông phê phán thuyết tư bản ở U.S. là bất công và áp
bức, vì nó tạo ra và duy
trì sự bất bình đẳng trên toàn quốc
và toàn cầu. Ông cho rằng thuyết tư bản U.S. kiểm soát về mặt chính trị, thống
trị về mặt kinh tế, và áp bức dân chúng về mặt quân sự. Mục đích của ông là nỗ
lực hướng tới một xã hội bình đẳng hơn, công bằng hơn. Chomsky tự nhận là người
theo thuyết vô chính phủ hay thuyết xã hội tự do.
Trong suốt cuộc đời ông, Chomsky luôn tích cực ủng
hộ và vận động cho những quan điểm tự do cấp tiến, đặc biệt là quyền tự do ngôn
luận. Ông đã công khai bảo vệ quyền tự do ngôn luận, ngay cả cho những người
phủ nhận Holocaust, và ông đã lên tiếng chống lại một số hành vi phi tự do nhất
định trong những gì được gọi là văn hóa hủy bỏ (cancel culture) ngày nay. Trọng
tâm trong phê bình chính trị xã hội của Chomsky là phê phán của ông với những
phương tiện thông tin đại chúng. Ông coi những phương tiện truyền thông đại
chúng phương Tây và đặc biệt là của những tập đoàn doanh nghiệp truyền thông
lớn của U.S. như một công cụ tuyên truyền chính yếu. Giống như trong những hệ
thống toàn trị, trong những xã hội dân chủ cũng vậy, những phương tiện thông
tin đại chúng là công cụ quan trọng nhất để cho giới tinh hoa nhỏ nắm quyền
lực, và để ngăn ngừa bất kỳ nổi dậy nào của những người theo thuyết vô chính
phủ hay thuyết xã hội. Để trình bày những hoạt động của những phương tiện
truyền thông đại như một dụng cụ tuyên
truyền trong những nước dân chủ tự do, ông cùng Edward S. Herman đã viết tác
phẩm nối tiếng Manufacturing Consent: The Political Economy of the Mass
Media, năm 1988.
b.
Vắn tắt hơn - với
giáo sư Lawrence Krauss. - chúng ta có thể nghe chính ông nói về sự liên hệ
này:
Câu hỏi: “Trong bài viết của ông, có nhan đề 'Ngôn ngữ và Tự do', ông đã nhắc đến việc nghiên cứu ngôn ngữ và tâm lý
học của ông đã có thể
ảnh hưởng thế nào với quan tâm
của ông trong việc (hoạt động) làm cho
xã hội trở nên tốt đẹp hơn. Ông có thể giải thích điều đó không?
Trả lời: "Chắc chắn rồi!
Nó là như thế này: Tôi tin rằng việc nghiên cứu cách mọi người dùng ngôn ngữ và
hiểu tâm lý học có thể giúp tạo ra một loại khoa học xã hội vốn tập trung tất
cả vào sự hiểu biết và sự cải thiện xã hội. Đó không phải là một liên hệ lôgích
đơn giản trực tiếp, vốn có thể dễ dàng chứng tỏ được, nhưng đó là một kết nối
vốn tôi trông thấy. Ý tưởng này đã xuất hiện trong Rousseau. …. Rousseau
nói về sự bình đẳng trong bài diễn văn thứ hai của ông (Discours
sur l'origine et les fondements de l'inégalité parmi les hommes.1755). Ông bắt đầu
bằng suy nghĩ về những loài vật , xem chúng như những
bộ máy phản xạ (một quan điểm khá nghiêm khắc, theo Descartes) chúng chỉ có thể làm những gì chúng vẫn thường làm, nhưng không
sáng tạo. Sau đó, ông nói rằng con người thì đặc biệt, vì chỉ một mình loài người chúng ta có khả năng sáng tạo.
Ông cho rằng bất kỳ hệ thống xã hội nào ngăn cản con người với sự sáng tạo đều sai trừ khi chúng có thể đưa ra lý do chính đáng. Điều (ngăn cản) này gồm bất kỳ hình thức nào của thẩm quyền hay uy lực, cho
dù đó là trong một gia đình có gia
trưởng, hay trong những vấn đề quốc tế, hay bất cứ gì ở giữa) chúng đều phải
chịu (trả lời) thách thức. Đó không phải là một gì tự có ý
nghĩa; nhưng chúng ta phải suy nghĩ thấu đáo mới thấy. Nó giống như bắt đầu với ý tưởng rằng con người
có khả năng sáng tạo bẩm sinh và sau đó kết luận rằng những cấu trúc xã hội ngăn cản sự sáng tạo đó là sai, trừ
khi chúng được chứng
minh là không phải thế. Đôi khi
có thể có lý do chính đáng cho quyền lực (chẳng hạn
như - nếu tôi đang đi trên đường phố với đứa cháu gái ba tuổi và nó vụt chạy ra đường và tôi nắm lấy tay nó và kéo nó lại,
tôi nghĩ tôi có thể đưa ra một biện minh
cho điều đó), nhưng lập luận ở đây là bất kỳ một hình thức
quyền lực hay thống trị
nào cần có phải có biện
minh và thường là nó không thể biện minh được. Trong trường hợp đó, không tìm được lý do nào cho nó, chúng ta phải dỡ bỏ nó và thay thế nó bằng một gì đó tự do
và công bằng hơn”. (Krauss và Chomsky đối
thoại: An Origins Project Dialogue (2015)
[6] “Hạn chế”: những nguyên tắc của ngữ pháp phổ quát áp
đặt những giới hạn hay ràng buộc trên cấu trúc
của những ngữ pháp trong những ngôn ngữ tự nhiên.
[7]
[F.W. J. Schelling, Philosophical Inquiries into the Nature of Human Freedom.
James Gutmann biên dịch, (Chicago: Open Court Publishing Co., 1936)]
“tư tưởng coi tự do là tổng thể và bản chất
của triết học”, “tổng thể” = trọng tâm hay nội dung thiết yếu, ý tưởng trung
tâm hay chính yếu của triết học.
Friedrich Wilhelm
Joseph Schelling (1775–1854) là triết gia chính yếu của
chủ thuyết duy ý Germany, phong trào triết học nổi lên ở cuối thế kỷ 18 và đầu
thế kỷ 19. Cùng với Fichte và Hegel, Schelling đóng một vai trò quan trọng
trong việc định hình sự phát triển của thuyết duy ý Germany trong thời kỳ này.
[8] Tả Phái Mới (New Left): từ chỉ một
phong trào chính trị và xã hội nổi bật trong những năm 1960 và 1970, chủ yếu ở
những nước phương Tây, gồm U.S. và
Europe..
Phong trào này đặc biệt chỉ trích những khuôn khổ chính trị và xã hội đã thiết
lập, lên tiếng phản đối Chiến tranh (US-)Việt Nam, đè cao dân quyền và nhiệt
tình thúc đẩy những vận động cấp tiến như nam nữ bình quyền, bảo vệ môi trường
và phản--đế
quốc. Những nhân vật nổi bật của Tả Phái Mới
gồm Tom Hayden, Abbie Hoffman, Angela Davis, Bernardine Dohrn, Bill Ayers,
Stokely Carmichael (Kwame Ture) và những trí thức như Noam Chomsky. Bắt nguồn từ
tinh thần phản đối, đi ngược lại văn hóa chính thống,thống trị của thời đại. Cánh
tả Mới được thúc đẩy bởi mong muốn chuyển hóa xã hội và thách thức những chuẩn
mực và những cơ cấu uy quyền đã thiết lập.
[9] ‘speculate’: suy nghĩ,
cân nhắc. – con người sinh ra không chỉ để suy nghĩ, cân nhắc nhưng
còn để hành động. Karl
Marx cũng cùng quan
điểm tương tự trong câu nói nổi tiếng của ông: “Những triết gia cho đến nay chỉ
giải thích thế giới theo nhiều cách khác
nhau; nhưng vấn đề là thay đổi
nó”. Cả hai đều phản
ánh ý tưởng rằng sự suy ngẫm và phân tích tri thức sẽ
phải dẫn đến hành động
thực tiễn thay đổi thế giới, thay vì chỉ dừng
lại ở ‘suy nghĩ, cân
nhắc’ lý thuyết thuần túy
[10]
Trong Luận
về bất bình đẳng / Discourse on Inequality (1755), Rousseau thăm dò những ý tưởng chính sau:
(a)
Trạng thái tự nhiên: Con người vốn là tốt lành và tự
cung tự cấp trong một trạng
thái của tự nhiên.
(b)
Nguồn gốc của bất bình đẳng: Bất bình đẳng xã hội xuất
hiện cùng với sở hữu tư nhân và sự phát triển của xã hội.
(c)
Khế ước xã hội: Rousseau cổ vuc cho một xã hội được quản lý bởi ý chí chung, trong đó những cá nhân sẵn sàng từ bỏ một số quyền tự do vì lợi
ích chung.
(d)
Phê phán nền văn minh:
Ông chỉ trích văn minh hiện đại vì cấy trồng và nuôi dưỡng sự bất bình đẳng và làm suy thoái
đạo đức.
(e)
Giáo dục và đạo đức: Giáo dục nên tập trung vào
phát triển nhân cách đạo đức và đức hạnh
Tác phẩm của Rousseau cuối cùng đặt câu hỏi về tác động của xã hội hiện đại đối với bản chất con người và
đề nghị quay trở lại một hình thức tổ
chức xã hội công bằng và có ý thức đạo đức hơn.
[11]
[R.D. Masters, giới thiệu về ấn bản của ông về Jean-Jacques Rousseau, First
and Second Discourses, (New York: St. Martin's Press, 1964).]
[12] “usurpations” cho thấy Rousseau tin rằng những cấu trúc xã
hội và tài sản cá nhân này đã bị chiếm đoạt sai trái và bất hợp pháp. Ông tiếp tục lập luận rằng chúng có
được qua vũ lực và ép buộc, không
qua những phương tiện chính
đáng hay công chính.
Do đó, theo quan điểm của Rousseau, nếu vũ lực được dùng để tước đoạt những tài
sản này khỏi những cá nhân giàu có đang nắm giữ chúng, họ sẽ không có cơ sở
chính đáng để khiếu nại vì chính họ
giành được của cải và tài sản này dựa
trên những gì ông coi là bất công và lạm dụng, ngược đãi.
[13] “quyền ngủ dưới cầu vào ban đêm” ẩn
dụ nhấn mạnh ý tưởng rằng, theo lập luận của Rousseau, luật pháp và quy định do
người giàu đặt ra được thiết kế để duy trì công bằng và bình đẳng mặt
ngoài. Ẩn dụ gợi ý rằng
bất kể tình trạng kinh tế của một người (giàu hay nghèo), một số quyền hoặc điều
kiện cơ bản nhất định, tượng trưng bằng việc “ngủ dưới gầm cầu ban
đêm”, đều bị từ chối với mọi người giàu nghèo
như nhau, luật
pháp, vốn được cho là thiết lập công lý và bình đẳng, thường không cung cấp được
những nhu cầu cơ bản cho cả người giàu và người nghèo. Nó nêu lên sự đạo đức giả của giới giàu, những người ủng hộ một công lý và bình đẳng trên nguyên tắc nhưng trong thực tế, duy trì những hệ thống bất bình đẳng xã hội.
[14]
[So sánh với Proudhon, một thế kỷ sau: “Không cần thảo luận dài dòng
để chứng minh rằng quyền
lực của việc
phủ nhận một người suy nghĩ, ý chí, nhân
cách của người ấy, là một quyền lực của sống và chết, và rằng
làm một con người thành một nô lệ, là sát hại con người ấy”]
[15]
[Trích dẫn trong A Lehning , ed., Bakunin, Etatisme et anarchie
(Leiden: EJ Brill, 1967), ghi chú của người biên tập số 50, từ P Schrecker , “Kant
et la révolution francaise “, Revue Philosophique , tháng 9 – tháng 12 năm 1939.]
[16]
“Thời kỳ
khủng bố” một giai
đoạn trong Cách mạng France, đặc biệt là từ 1793 đến 1794. Đánh dấu bằng bạo lực chính trị cực đoan,
hành quyết hàng loạt và khủng bố trừng
phạt với sự phê
chuẩn của nhà nước. Chính quyền cách mạng dưới ảnh hưởng của
Robespierre đã thực hiện những biện pháp hà khắc nhằm củng cố quyền lực và bảo
vệ lý tưởng cách mạng. Ủy ban An ninh Công
cộng, do Robespierre lãnh đạo, nhằm mục đích loại bỏ những kẻ thù của cách mạng
và trấn áp những phần tử
phản cách măng. Trong thời gian
này, hàng nghìn người, gồm Louis XVI
và Marie Antoinette, đã bị xử tử
bằng máy chém.
[17]
[Tôi đã thảo luận vấn đề này trong Cartesian
Linguistics (New York: Harper & Row, 1966) và Language and Mind
(New York: Harcourt Brace Jovanovich, ấn bản mở rộng, 1972).]
[18]
[Xem những tài liệu tham khảo của chú thích 5, và cũng Aspects of the Theory
of Syntax (Cambridge, Mass: MIT Press, 1969) của tôi, (Cambridge,
Mass.: MIT Press, 1969), chap. 1, sec. 8]
[19] nghệ thuật nói: khả năng dùng lời nói một
cách thông thạo để giao
tiếp, thể hiện suy
nghĩ, ý tưởng và cảm xúc.
[20] aorists
[21] the Gordian knot.
[22] there is no passage from body
to mind: không có kết nối hoặc chuyển đổi trực tiếp hay đơn giản
từ những phương diện vật chất của cơ thể sang những phương diện tinh thần của
não thức. Quan điểm cho rằng não thức và cơ thể là những thực thể riêng biệt với
những đặc tính riêng biệt và không có cơ chế hay một lối đi đơn giản nào, qua
đó những yếu tố vật chất trực tiếp phát sinh những kinh nghiệm hay ý thức tinh
thần.
[23]
[Tôi không cần phải
nói thêm rằng đây không phải là quan điểm phổ biến. Phần thảo luận, xem, xem E.H. Lenneberg, Biological
Foundations of Language (New York: John Wiley & Sons, 1967); Language
and Mind của tôi; E.A. Drewe et al.,
“A Comparative Review of the Results of Behavioural Research on Man and
Monkey,” (London; Institute of Psychiatry, bản thảo chưa xuất bản, 1969); P.H.
Lieberman, D.H. Klatt, and W.H. Wilson, “Vocal Tract Limitations on the Vowel
Repertoires of Rhesus Monkeys and other Nonhuman Primates,” Science,
June 6, 1969; and P.H. Lieberman, “Primate Vocalizations and Human Linguistic
Ability,” Journal of the Acoustical Society of America, vol. 44, no. 6
(1968).]
[24] [Trong những quyển sách được trích dẫn
ở trên, và trong Current Issues in Linguistic Theory (New York:
Humanities Press, 1964)]
[25] [J.W. Burrow, phần giới
thiệu về ấn bản của ông về Wilhelm von Humboldt, Limits of State Action (London:
Cambridge University Press, 1969), hầu hết những trích dẫn tiếp sau đã lấy từ nó.]
[26] [So sánh những nhận xét của Kant, trích
dẫn ở trên. Luận văn của Kant xuất hiện năm 1793; của Humboldt viết vào năm 1791–92.
Nhiều phần đã rõ ràng, nhưng nó không trở nên rõ ràng đầy đủ trong đời ông. Xem Burrow, giới thiệu về Humboldt, Limits of State Action.]
[27]
[Thomas G Sanders, “Hội nhà thờ ở châu Mỹ Latinh,” Foreign
Affairs, vol. 48, không. 2 (1970).]
[28] [Ibid, Nguồn được cho là những ý tưởng của Paulo Freire. Những chỉ
trích tương tự cũng phổ biến trong phong trào sinh viên ở phương Tây. Thí dụ, xem Mitchell Cohen và Dennis Hale,
eds., The New Student Left rev. ed. (Boston: Beacon Press, 1967),
chương. 3.]
[29] [Cụ thể, một người “chỉ đạt được sự trưởng
thành và thanh nhã nhất trong hoạt động của người ấy, khi những lối sống của người ấy phù hợp hài hòa với
tính cách của người ấy,” – nghĩa là, khi hành động của người ấy xuất phát một cách
tự nhiên từ động lực và khuynh hướng bên trong chính người ấy.]
[30] [Trích dẫn sau từ những bình luận của Humboldt về Hiến pháp France, 1791 – phần được dịch trong Marianne Cowan, ed., Humanist Without Portfolio:
An Anthology (Detroit: Wayne State University Press, 1963).]
[31] bối cảnh bình đẳng về chính trị và
pháp lý
[32] [Rudolf Rocker,
“Anarchism and Anarcho-syndicalism,” trong Paul Eltzbacher, Anarchism
(London: Freedom Press, 1960). Trong
Nationalism and Culture (London: Freedom Press, 1937)
của ông, Rocker mô tả Humboldt là “đại diện tiêu
biểu nhất ở Germany” của
học thuyết về những quyền tự nhiên và sự
chống đối nhà nước độc tài. Rousseau được ông coi là tiền thân của học thuyết về chuyên chế, nhưng ông
chỉ coi Social Contract nhưng
không Discourse on Inequality tự do hơn nhiều. Burrow nhận xét
rằng luận văn của Humboldt dự đoán “nhiều
lý thuyết chính trị của thế kỷ XIX về loại bình dân, vô chính phủ và chủ
nghĩa công nhân sở hữu và quản lý.” và ghi nhận những gợi ý của Marx thời kỳ đầu. Xem
thêm Cartesian Linguistics, n. 51, của tôi, cho một số nhận xét]
[33] A predatory capitalist economy: một
hệ thống kinh tế đặc trưng bởi sự bóc lột tàn nhẫn trong khuôn khổ chủ nghĩa tư
bản. Trong bối cảnh này, từ "săn mồi" gợi ý rằng hệ thống kinh tế ưu
tiên việc tìm kiếm lợi ích và tích lũy của cải mà bỏ qua cân nhắc về đạo đức,
phúc lợi xã hội hay hạnh phúc của cá nhân và cộng đồng.
[34] [Karl
Polanyi, The Great Transformation: The Political and Economic Origins of Our
Time (Boston: Beacon Press, 1957).]
[35] [Được Paul Mattick trích dẫn, “Sự kiểm
soát của người lao động,” trong Priscilla Long, ed., The New Left (Boston:
Porter Sargent, 1969), p. 377.]
“giai đoạn giải phóng thứ ba và cuối
cùng của lịch sử” : Charles
Fourier (1772-1837), triết gia và nhà lý luận xã hội người France thế kỷ 19, đã đề xuất lý thuyết ba giai đoạn về
tiến hóa xã hội. Giai đoạn đầu tập trung vào việc xóa bỏ chế độ nô lệ, trao tự
do cho những người bị nô lệ. Giai đoạn thứ hai nhằm giải phóng phụ nữ và thiết
lập bình đẳng nam nữ. “Giai đoạn
giải phóng thứ ba và cuối cùng” của
Fourier tìm cách biến đổi giai cấp công nhân, giải quyết những vấn đề kinh tế
bằng loại bỏ việc coi lao động như một loại hàng hóa hoặc một sản phẩm có thể
bán được trên thị trường, chấm dứt chế độ nô lệ tiền lương và thiết lập quyền
kiểm soát dân chủ đối với những tổ chức thương mại, công nghiệp và tài chính.
Khái niệm này hình dung một sự chuyển đổi xã hội toàn diện theo hướng tự do và
tự chủ của cá nhân, đặc biệt là đối với giai cấp công nhân, bằng loại bỏ những
phương diện bóc lột lao động và thực hiện những cơ cấu kinh tế dân chủ.
[36] con người man rợ “sống với tự thân/chính mình: “the savage who ‘lives within himself’”:
ý tưởng lãng mạn
hóa của Jean-Jacques Rousseau về một cá nhân nguyên thủy hay chưa văn minh, tồn
tại trong cô độc khép kín, hoàn toàn tự
lập và tự chủ, tách biệt khỏi những cấu
trúc xã hội phức tạp..
“Savage/ man rợ”
không mang ý miệt thị nhưng chỉ mô tả một con người sống với chính mình giữa
thiên nhiên, không chịu ảnh hưởng của xã hội tổ chức. Tất
cả, nhấn mạnh trên tự do có từ sự tự
chủ và độc lập bản thân.
Khái niệm con người man rợ của
Jean-Jacques Rousseau là một lãng mạn hóa ý tưởng về một cá nhân nguyên thủy, thiếu/chưa
văn minh, còn sống trong một trạng thái tự nhiên, tránh khỏi những phức tạp xã
hội. Điều này trái ngược với hình ảnh của những cá nhân hòa nhập và chịu
ảnh hưởng của những khuôn khổ chuẩn mực xã hội. Nhiều triết gia đã phê bình
hình ảnh cá nhân man rợ/ nguyên thủy của Rousseau là không chính xác về lịch sử,
thành kiến hoài niệm quá khứ, và không bằng chứng duy nghiệm. Những nhà lý thuyết
về ‘khế ước xã hội’ như Thomas Hobbes và John Locke đưa ra những quan điểm thay
thế, nhấn mạnh sự cần thiết phải quản trị vững mạnh hoặc bảo vệ những quyền cá
nhân. Những nhà kinh tế như Adam Smith nhấn mạnh những lợi ích của
thương mại và chuyên môn hóa. Những nhà nhân chủng học, gồm Herbert Spencer,
Bronisław Malinowski và Lewis Henry Morgan, đóng góp những quan điểm đa dạng,
phê phán quan điểm tĩnh của Rousseau về xã hội nguyên thủy và đưa ra một cách
hiểu năng động hơn về sự phát triển của con người.
[37]
[Rousseau cam kết tuân thủ những chuẩn mực và luật pháp xã hội, thừa nhận
rằng ông đã rời bỏ "sự đơn giản ban đầu" của ông và bây giờ dựa trên những cấu trúc này. Ông bày tỏ một trung thành với việc tôn trọng những liên hệ thiết yếu trong xã hội
của ông, sốt sắng tuân thủ luật pháp
và tuân theo
những người có trách
nhiệm tạo ra và thực thi chúng. Tuy nhiên, ông chỉ trích một hiến pháp phụ
thuộc nhiều vào sự ủng hộ của nhiều cá nhân tên tuổi, chỉ ra rằng mặc dù có những nỗ lực của họ, nó có khuynh hướng tạo ra nhiều tai họa thực sụ hơn là những lợi ích trông thấy bên ngoài.]
[38] Ngữ Pháp Phát Sinh
[39] Ông muốn nói -
Nó bao gồm việc nghiên cứu những phương diện khác nhau của hành vi và sáng tạo
của con người trên những lĩnh vực khác nhau, gồm vật chất (tạo tác vật chất và
cơ sở hạ tầng), trí tuệ (ý tưởng, tin tưởng, kiến thức) và xã hội (tương tác,
thể chế, thực hành văn hóa). Điều tra này có thể liên quan đến những lĩnh vực
như tâm lý học, xã hội học, nhân chủng học, triết học, lịch sử và những lĩnh vực
khác, nhằm mục đích đạt được những hiểu biết sâu xa về những phương diện cơ bản
của sự hiện hữu, động lực, nhận thức, văn hóa và cấu trúc xã hội của con người.
[40] predatory capitalism
[41] Ông cho rằng rằng
nghiên cứu ngôn ngữ có thể cung cấp những hiểu biết sâu xa về hành vi được điều chỉnh bởi quy
luật, cho thấy có
những hệ thống qui luật chi
phối việc dung ngôn
ngữ.
[42] Noam Chomsky nhấn mạnh rằng ngôn ngữ không nên đơn
giản quy giản thành một hiện tượng về hành vi.
Những tiếp cận theo thuyết hành vi truyền thống trong tâm lý học, đặc biệt là
những phương pháp của phái B.F.
Skinner,đã tập trung
vào việc giải thích hành vi của con người qua những hành động có thể quan sát
được và những kích thích từ bên ngoài.
Tuy nhiên, Chomsky lập luận rằng ngôn ngữ không chỉ là một tập hợp của những hành vi đã học và những phản ứng với những kích thích. Nhấn mạnh rằng ngôn ngữ có một cấu trúc phức tạp vượt ra
ngoài hành vi đơn thuần. Nó liên quan đến một hệ thống trừu tượng, một ngữ pháp
sáng tạo, bắt nguồn từ những đặc tính tinh thần bẩm sinh của con người. Khi tuyên bố
rằng ngôn ngữ không thể được mô tả như một hệ thống của hành vi có tổ chức. Chomsky nêu lên sự thiếu
sót của những cái nhìn theo thuyết hành vi
thuần túy trong việc nắm bắt những phức tạp
của ngôn ngữ. Ông cổ vũ cho một sự hiểu sâu xa hơn vốn xem xét những
tiến trình tâm lý bên trong và những cấu trúc bẩm sinh liên quan đến
việc đem dùng và tiếp
thu ngôn ngữ.