Những Đàm thoại về Tôn giáo Tự nhiên
Dialogues on Natural Religion
Phần II
Tóm lược
Bây giờ Demea chen vào câu chuyện và hỏi không biết có
phải chỉ bản chất của Gót đang là đối tượng hoài nghi hay sự là-có của Gót là đối
tượng hoài nghi? Những người bạn ông đoan chắc với ông đó là trường hợp thứ hai.
Chà, ông nói tiếp, liên quan đến vấn đề thứ hai, để tuyên bố rằng chúng ta thực
sự có thể hiểu được bản chất của Gót thì bất kính cũng gần như tuyên bố rằng
hoàn toàn không có Gót gì cả. Gót, ông tuyên bố, vốn vượt quá mức hiểu biết của
con người, và nhất thiết phải là bí ẩn với chúng ta.
Philo đồng ý rằng sự là-có của Gót thì không thể nghi
ngờ và ông cũng đồng ý rằng bản chất của Gót thì không thể biết được. Ông cung ứng
những luận chứng cho cả hai tuyên bố này. Thứ nhất, Gót phải là-có vì mỗi tác động
đều có một nguyên nhân nào đó và do đó phải có một nguyên nhân cuối cùng nào đó
của vũ trụ. Chúng ta gọi nguyên nhân cuối cùng này là Gót và chúng ta “kính tín
gán cho ngài” mọi loại có thể có của sự toàn hảo. Nhưng không có lý do gì để
nghĩ sự toàn hảo của Gót có bất kỳ tương tự nào với bất cứ gì chúng ta biết, vì
vậy không có lý do gì để nghĩ rằng chúng ta có bất kỳ ý tưởng nào về Gót thì giống
thế nào. Chúng ta nói rằng ông thì khôn ngoan, hiểu biết, v.v., nhưng chúng ta
dùng những từ này chỉ vì không có từ nào khác. Chúng ta hoàn toàn không biết những
thuộc tính này có thể có nghĩa là gì khi đặt trong nội dung thần linh. Philo chỉ
ra rằng kết luận này dựa trên phán đoán thưc tiễn đặt trên kiến thức thông thường
nhất: những ý tưởng của chúng ta đều do kinh nghiệm chúng ta tạo ra và chúng ta
không có kinh nghiệm về những thuộc tính và hoạt động thần linh. Do đó, chúng
ta tuyệt không biết gì về việc Gót thì có thể giống như thế nào.
Cleanthes không đồng ý với Demea và Philo. Ông nghĩ,
dù chúng ta không có bất kỳ kinh nghiệm trực tiếp nào về những thuộc tính và hoạt
động của Gót, ông có thể chứng minh rằng có đủ bằng chứng trong thế giới tự
nhiên để cho chúng ta đưa ra những kết luận chính đáng về việc Gót thì có thể
giống như thế nào. Bằng việc nhìn vào thế giới tự nhiên, chúng ta thấy rằng nó rất
không giống như một sản phẩm nhân tạo (để dễ dàng, chúng ta có thể chỉ gọi là một
“bộ máy”). Mặc dù chúng ta chưa bao giờ đã từng nhìn, nghe hay gặp Gót, chúng
ta đã có kinh nghiệm giâc quan về những máy móc và chúng ta biết một vài điều về
chúng. Trực tiếp nhất, chúng ta biết rằng bất cứ nơi nào có một bộ máy, có một người
thiết kế thông minh nào đó đằng sau nó. Những bộ máy không tự lắp ráp với nhau
ngẫu nhiên; chúng được những người thợ lành nghề tạo ra. Nhận rằng vũ trụ rõ
ràng đúng là một bộ máy phức tạp, với mỗi phần từ nhỏ nhất đến lớn nhất đều vừa
vặn ứng hợp hoàn hảo với hài hòa của tổng thể, chúng ta có thể suy luận hợp lý,
giống như bất kỳ bộ máy nào khác, rằng vũ trụ đã do một nhà thiết kế thông minh
tạo ra. Nhà thiết kế thông minh đó, tức là Gót, phải tương tự như một con người
thiết kế, chỉ khác là hoàn hảo hơn nhiều, tỉ lệ tương ứng với sự toàn hảo vĩ đại
của ông.
Demea là người đầu tiên phản ứng với luận chứng thiết kế
của Cleanthes Ông không tán thành tuyên bố rằng Gót và con người đều hoàn toàn tương
tự giống nhau. Sau nữa, ông không hài lòng rằng Cleanthes cố gắng dùng một bằng
chứng a posteriori hơn là một bằng chứng a priori cho sự là-có của
Gót (vì luận chứng thiết kế chứng minh cả bản chất của Gót lẫn bản thể của Gót).
Những bằng chứng a posteriori chỉ là
những bằng chứng về có thể xảy ra, không là những bằng chứng xác định. Đó là,
khi chúng ta đưa ra một lập luận từ kinh nghiệm, chúng ta chỉ có thể chứng minh
rằng kết luận của chúng ta có nhiều xác xuất là đúng; chúng ta không bao giờ có
thể chứng minh rằng nó thì nhất định phải đúng. Chỉ khi chúng ta đưa ra một chứng
minh a priori, chúng ta mới có thể chứng minh một gì đó với sự chắc chắn.
[1]
Philo không bận tâm rằng luận chứng là một a
posteriori; phàn nàn duy nhất của ông rằng nó là một luận chứng tồi. Ông sẽ
dành phần còn lại của quyển sách để cho thấy luận chứng này thì tồi tệ đến mức
nào. Trong chương này, tất cả những phản đối của Philo đều nhằm mục đích cho thấy
hoặc luận chứng thiết kế không thực sự có dạng thích hợp tất yếu cho một suy luận
quy nạp, hoặc nó là một cách dùng không đúng của một luân chứng bằng phép loại
suy.
Philo nêu lên nhiều đường lối trong đó luận chứng thiết
kế thất bại dùng như một suy luận quy nạp. Đầu tiên, sự tương tự giữa vũ trụ và
một bộ máy thì yếu, vì ông cho rằng thế giới không thực sự giống một bộ máy cho
lắm. Thứ hai, sự tương tự giữa vũ trụ và một bộ máy không nhất thiết hoạt động,
vì nó không là một so sánh tương tự giữa hai thực thể tồn tại riêng biệt, nhưng
giữa vũ trụ như một toàn thể và những phần nhất định nào đó của vũ trụ (tức là
con người và những đối tượng ông xoay chuyển). Do đó, đưa ra một so sánh tương
tự giữa một bộ máy và vũ trụ có thể giống như việc tìm hiểu xem toàn thể con
người phát triển thế nào bằng nhìn vào một sợi tóc trên đầu người này phát triển
thế nào. Thứ ba, dường như là sai lầm khi tuyên bố rằng tất cả sự xếp đặt trật
tự trong thế giới là kết quả của trí thông minh. Tiến trình gây nên trật tự phức
tạp và khả năng thích ứng trong trường hợp của những cơ thể hữu cơ dường như là
sự sinh sản động vật và thực vật, không phải là sự thiết kế. Vậy tại sao giả định
rằng trật tự của vũ trụ giống như trật tự của máy móc nhân tạo, và không giống
như trật tự của những cơ thể hữu cơ? Cuối cùng, những gì làm cho một suy luận
nhân quả hoạt động đó là chúng ta liên tục có kinh nghiệm những tiền lệ về những
sự kiện giống như A theo sau là những sự kiện giống như B. Nhưng ở đây A, Gót,
là một nguyên nhân duy nhất và B, vũ trụ, là một hiệu quả độc nhất. Do đó Philo
kết luận rằng luận chứng thiết kế thì không giống một suy luận quy nạp cho lắm,
nhưng như một phỏng đoán bất thường.
Phân tích
Có nhiều luận chứng rất quan trọng trong phần này, và
mỗi luận chứng nên được phân tích cẩn thận: có luận chứng của Philo về sự hiện
hữu của Gót, luận chứng thiết kế và từng phản đối của Philo với luận chứng này.[2]
Luận chứng của Philo về sự hiện hữu, hay sự là-có của Gót
thì đặc biệt đáng chú ý, với sự kiện chúng ta biết Hume đã nổi tiếng với lập
trường không-tin-có-gót. Sau khi nhìn kỹ vào luận chứng của Philo, chúng ta thấy
rằng kết luận thực sự rất yếu và cũng không-tôn giáo. Kết luận chỉ là rằng có nguyên
nhân đầu tiên nào đó của vũ trụ và rằng chúng ta có thể gọi nguyên nhân đầu
tiên này là “Gót”. Tuy nhiên, chỉ nói rằng có một nguyên nhân đầu tiên nào đó của
vũ trụ, thì tự thân nó không phải là một khẳng định tôn giáo. Nguyên nhân đầu
tiên này có thể là một sự kiện chỉ xảy ra một lần khác thường nào đó không cần
có nguyên nhân và không phải là một hữu thể thông minh. Không người tin-có-gót nào
sẽ là rất vui với khái niệm của Philo về thần linh của ông. Khái niệm của người
tin-có-gót không đi vào giải thích của Philo cho đến khi luận chứng đã xong kết
luận. Nó được vội vàng thêm vào ở vào cuối: chúng ta “kính tín gán cho” nguyên
nhân đầu tiên này tất cả những sự hoàn hảo mà chúng ta có thể nghĩ đến được. Nhưng
tại sao chúng ta ngoan ngoãn gán cho tất cả những điều này? Theo giải thích của
Philo, chúng ta không có bất kỳ lý do hợp lý nào để làm việc đó. Đây có thể là
cách của Hume cho thấy rằng, bất chấp những gì nhân vật của ông tuyên bố, không
có cơ sở lý trí nào để tin vào sự là-có của Gót.
Tiếp theo, luân chứng thiết kế của Cleanthes, luân chứng
có ý định là là một suy luận quy nạp, được trợ giúp bằng một luân chứng bằng loại
suy. Để hiểu tất cả những phản đối của Philo, điều quan trọng là phải xem cách luận
chứng thiết kế đã theo từng bước thực hiện.
Tổng quát, một suy luận quy nạp được giả thử trông giống
thế này: Bạn thấy rằng A là B rất nhiều lần. Hãy lấy thí dụ về lửa. Mỗi lần
chúng ta nhìn thấy lửa (vốn chúng ta sẽ thay thế bằng A), chúng ta nhận thấy rằng
nó là “thứ gì đó có khả năng để đốt cháy những thứ khác” (mà chúng ta sẽ gọi là
B). Vì có sự liên kết không đổi này giữa A và B trong kinh nghiệm của chúng ta,
chúng ta suy luận rằng có một liên hệ nào đó giữa A và B và do đó hy vọng rằng
tất cả những A trong tương lai sẽ là những B. Như thế, chúng ta giả định vì
chúng ta đã nhận thấy nhiều lần rằng lửa là một gì có khả năng đốt cháy, chúng
ta giả định rằng lần sau khi chúng ta nhìn thấy lửa, nó sẽ có khả năng đốt
cháy. Trong Chuyên Luận của ông, Hume cho thấy rằng chúng ta không minh
chứng về logich được trong sự tin tưởng rằng lần sau chúng ta thấy lửa, nó sẽ có
khả năng đốt cháy. Tuy nhiên, ông biện luận rằng chúng ta có được bằng chứng bằng
việc nhìn thấy lặp đi lặp lại những liên kết, và sẽ là hợp lý nếu chúng ta hy vọng
trường hợp kế tiếp của lửa có khả năng đốt cháy.
Hoạt động của suy luận quy nạp trong luận chứng thiết
kế ở chỗ mỗi lần chúng ta nhìn thấy ‘một bộ máy’ (mà chúng ta có thể gọi là A),
bộ máy đó được ‘trí thông minh của một người (B) tạo ra’. Do đó, chúng ta kết
luận rằng bất cứ khi nào chúng ta nhìn thấy một bộ máy trong tương lai, nó sẽ là
đã được trí thông minh con người tạo ra. Chúng ta hãy gọi luân chứng cho phép
chúng ta suy ra thiết kế là nguyên nhân của bộ máy là Suy Luận Bộ Máy.
Luận chứng thiết kế sau đó thêm một vặn đổi vào Suy Luận
Bộ Máy.Vặn đổi này, đã gọi là một luân chứng loại suy, cho phép chúng ta dùng
Suy Luận Bộ Máy để nói về vũ trụ mặc dù vũ trụ đúng ra về mặt kỹ thuật không phải
là một bộ máy. Tổng quát một luân chứng bằng loại suycho phép chúng ta lấy một
D nào đó, và tuyên bố rằng nó thì đủ tương tự với A khiến chúng ta có thể dùng nó
trong những suy luận như thể nó là một gì đó thực sự tương tự như B. Vì D rất
giống A, và mọi A đều là một B, mọi D phải là một C, vốn là một gì tương tự như
B. Chúng ta hãy lấy một thí dụ về luận chứng như vậy: thí dụ, chúng ta biết rằng
ngọn lửa có màu đỏ (A) là một gì đó có sức
mạnh đốt cháy tay tôi, nếu tôi để nó trong lửa trong mười giây (B). Chúng ta
nghĩ rằng lửa có màu xanh lam (D) thì tương tự như lửa có màu đỏ. Vì vậy, chúng
ta tin rằng lửa có màu xanh phải có một thuộc tính tương tự như sức mạnh đốt
cháy tay tôi nếu tôi để nó trong lửa đỏ trong mười giây. Trong trường hợp này, luân
chứng bằng loại suy hoạt động, vì lửa có màu xanh có sức mạnh đốt cháy tay tôi
nếu tôi để nó trong lửa xanh trong ba giây (C). C trong trường hợp này tương tự
như B. Tuy nhiên, những luân chứng loại suy đều mong manh nếu dù tốt nhất, thí
dụ, thay vì chọn thuộc tính của sự đốt cháy, chúng ta có thể đã chọn màu sắc,
trong trường hợp đó luân chứng sẽ thất bại.
Bây giờ chúng ta có thể thấy những luân chứng thiết kế
làm việc thế nào như một tổng thể. 1) Theo kinh nghiệm của tôi, bất cứ khi nào
tôi gặp phải một bộ máy, bộ máy đó được trí thông minh của con người tạo ra. Do
đó, (2) tất cả những máy móc đều được trí thông minh con người. tạo ra. (3) Vũ
trụ thì tương tự như một bộ máy. (4) Do đó, vũ trụ phải được tạo ra bởi một gì
đó tương tự như trí thông minh của con người.
Bây giờ hiểu được luận chứng thiết kế, chúng ta có thể
hiểu rõ hơn tất cả những phản đối của Philo. Đầu tiên, ông tuyên bố rằng sự tương
tự thì không tốt. Ông tuyên bố rằng vũ trụ và một bộ máy thì không giống nhau
theo cách những ngọn lửa màu đỏ và màu xanh giống nhau, và vì lý do này, một luận
chứng loại suy thì không hợp lệ. Sự phản đối thứ hai của Philo là loại suy
không hoạt động vì nó xảy ra giữa một tổng thể và một phần của tổng thể đó. Một
bộ máy là một phần của vũ trụ, và thật vô nghĩa khi cho rằng một phần của vũ trụ
giống với toàn bộ vũ trụ chỉ vì chúng ta không có kinh nghiệm về những phần
khác.
Phản đối thứ ba của Philo là không phải tất cả trật tự
xếp đặt là kết quả của sự thiết kế. Vì vậy, có thể vũ trụ không tương tự như một
bộ máy mặc dù nó như trong trật tự xếp đặt; nó có thể là tương tự như một số dạng
trật tự xếp đặt khác và không phải là với một cấu trúc nhân tạo. Chẳng hạn, một
số những hệ thống có trật tự xếp đặt cao mà chúng ta biết là kết quả của việc sinh
sản tái tạo thay vì thiết kế thông minh. Do đó, chỉ vì có trật tự xếp đặt, điều
đó không có nghĩa là chúng ta có thể kết luận rằng một hệ thống trong trật tự xếp
đặt như vậy thì tương tự như một hệ thống nhân tạo, và do đó ngay cả còn ít hợp
lý hơn khi cho rằng tất cả những gì có trật tự xếp đặt đều là sản phẩm của sự thiết
kế.
Phản đối cuối cùng của Philo là nguồn gốc của vũ trụ
là một gì chỉ xảy ra một lần duy nhất. Rằng nó là độc nhất sẽ khiến lý luận quy
nạp trở nên bất lực để thảo luận nó, vì qui nạp sẽ đòi hỏi rằng chúng ta đã chứng
kiến rất nhiều sáng tạo của rất nhiều vũ trụ và đã biết rằng Gót đã sáng tạo
mỗi vũ trụ. Tuy nhiên, Cleanthes không phản đối về lý luận loại như vậy, và như
vậy rõ ràng Philo nghĩ rằng vì vũ trụ là một một tác động độc nhất, nên có lẽ
nó không giống với những máy móc, vốn không phải là độc nhất.
PHẦN II.
D 2.1, KS 141
Tôi phải thú nhận, Cleanthes, Demea nói, rằng không
gì có thể làm tôi ngạc nhiên hơn là ánh sáng, trong đó bạn đã có tất cả từ đầu,
nói ra luận chứng này. Bằng vào toàn bộ giọng điệu bàn luận của bạn, người
ta sẽ tưởng tượng rằng bạn đang chủ trương Bản thể của một Gót, chống lại những
cãi vặt’ của những người không-tin-có-gót và những người không theo đạo [3] ; và đều đã nhất
thiết để trở thành một người bênh vực cho nguyên lý nền tảng đó của tất cả tôn
giáo. Nhưng sự việc này, tôi hy vọng, tì không là một câu hỏi giữa chúng
ta. Không ai; không con người nào, ít nhất, theo phán đoán thực tiễn
trên kiến thức thông thường, tôi được thuyết phục, từng băn khoăn cân nhắc một
nghi ngờ nghiêm trọng liên quan đến một sự thật, rất chắc chắn và hiển nhiên
như thế. Câu hỏi thì không liên quan HỮU THỂ, nhưng BẢN CHẤT CỦA GÓT. Điều
này tôi khẳng định, từ những tật nguyền của sự hiểu biết của con người, là hoàn
toàn không thể hiểu được và không biết được với chúng ta. Bản chất của tinh
thần tối cao đó, những thuộc tính của ông, cách thức của sự tồn tại của ông, chính
bản chất của sự kéo dài của ông; những sự việc này và mọi đặc biệt, vốn liên
quan đến một Hữu thể rất thiêng liêng, đều là bí ẩn với con người.Những sinh
vật hữu hạn, yếu đuối và mù quáng, chúng ta phải hạ mình khiêm tốn xuống trước
sự hiện diện oai phong đáng kính của ông, và, ý thức về sự yếu đuối của chúng
ta, ngưỡng mộ trong sự im lặng những toàn hảo vô hạn của ông, vốn mắt không
nhìn thấy, tai không nghe thấy, cũng không đi vào trái tim của con người để mường
tượng. Chúng được bao phủ trong một đám mây dày khỏi sự tò mò của con
người: Nó là sự báng bổ thần thánh để cố gắng thâm nhập qua những mù mịt khó
hiểu thiêng liêng này: Và bên cạnh sự bất kính của việc phủ
nhận sự tồn tại của ông, là sự táo tợn của việc dò la vào trong bản chất và yếu
tính, những lệnh truyền và những thuộc tính của ông.
D 2.2, KS 141-2
Nhưng để bạn không nên nghĩ, rằng lòng kính tín của
tôi ở đây có được phần tốt hơn của triết lý của tôi, tôi sẽ tán trợ ý
kiến của tôi, nếu nó cần bất kỳ hỗ trợ nào, bởi một thẩm quyền rất
lớn. Tôi có thể trích dẫn gần như tất cả những nhà gót học, từ sự thành
lập của đạo Kitô, những người đã từng giải quyết đề tài này hay bất kỳ đề tài gót
học nào khác: Nhưng hiện giờ, tôi sẽ tự giới hạn về một người được tôn vinh về
lòng kính tín cũng như về triết học. Đó là nhà chăn chiên Malebranche, tôi
nhớ, người, như thế diễn tả chính mình [4]. “Người ta không nên (ông
nói) để gọi Gót là một tinh thần quá nhiều như thế, để tích cực diễn tả những
gì ông là, và để biểu thị rằng ông thì không vật chất..Ông là một Hữu thể toàn
hảo vô cùng: Về sự việc này chúng ta không thể nghi ngờ. Nhưng theo cùng
cách thức như chúng ta không nên tưởng tượng, ngay cả giả định ông có thân xác,
rằng ông được khoác vào một cơ thể con người, như người tin ‘Đấng tối cao tồn
tại trong hình dạng con người’ [5] đã khẳng định, dưới màu
sắc vốn hình tượng đó là hoàn hảo nhất; Vì vậy, chúng ta không nên tưởng tượng,
rằng Gót Tinh thần có những ý tưởng của con người, hoặc mang bất kỳ tương đồng
với tinh thần của chúng ta; dưới màu sắc vốn chúng ta biết không gì toàn
hảo hơn tinh thần con người. Chúng ta nên tin rằng, khi ông thấu hiểu được
những hoàn hảo của vật chất nhưng không phải là vật chất . . . .
. . Ông cũng thấu hiểu được những toàn hảo của những tinh thần được tạo ra, nhưng
không phải là tinh thần, theo cách chúng ta quan niệm về tinh thần: Rằng là tên
gọi thực của ông là, Ông vốn là, hay nói cách khác, Hữu thể không giới
hạn, Hữu thể Tất Cả, Hữu thể vô hạn và phổ quát”.
D 2.3, KS 142
Bất kể một thẩm quyền lớn như thế, Demea, Philo trả
lời Philo, như gì đó vốn bạn đã đưa ra, và một ngàn thẩm quyền hơn nữa, vốn bạn
có thể đưa ra, sẽ hiện ra là điều khôi hài trong tôi để nói thêm tình cảm của
tôi, hay bày tỏ sự tán thành của tôi về học thuyết của bạn. Nhưng chắc chắn, chỗ
nào những người hiểu biết giải quyết những đề tài này, câu hỏi không bao giờ có
thể gồm Bản thể, nhưng chỉ Bản chất của Đấng Sáng tạo. Sự thật kể trước, như
bạn quan sát rõ, là không thể nghi ngờ và tự hiển nhiên. Không gì tồn tại với không
nguyên nhân; và nguyên nhân đầu tiên của vũ trụ này (bất kể nó là gì) chúng ta
gọi là GÓT; và kính tín gán cho ông mọi loại của sự toàn hảo. Bất cứ ai phá vỡ
sự thật cơ bản này, đều đáng chịu mọi hình phạt, vốn có thể gây cho những nhà
triết học, đó là nói rằng, sự chế giễu, khinh miệt và phản đối lớn nhất. Nhưng
vì tất cả sự toàn hảo thì hoàn toàn tương đối, chúng ta không bao giờ nên tưởng
tượng, rằng chúng ta hiểu được những thuộc tính của Hữu thể thần linh này, hay
giả định, rằng những toàn hảo của ông có bất kỳ tương đồng hoặc giống với sự toàn
hảo của một sinh vật người. Khôn Ngoan, Tư Tưởng, Thiết Kế, Kiến Thức; những điều
này chúng ta chỉ chính đáng gán cho ông; vì những từ này là vinh dự giữa những con
người và chúng ta không có ngôn ngữ hay những khái niệm nào khác, qua đó chúng
ta có thể bày tỏ sự ngưỡng mộ của chúng ta với ông. Nhưng chúng ta hãy cẩn
thận, chúng ta tránh đừng nghĩ rằng những ý tưởng của chúng ta dù bất kỳ khôn
ngoan nào tương ứng với những toàn hảo của ông, hay những thuộc tính của ông có
bất kỳ sự tương đồng với những phẩm chất này giữa con người.. Ông thì vượt trội
vô hạn so với với cái nhìn và sự hiểu biết giới hạn của chúng ta; và là đối
tượng của sự thờ phượng trong đền thờ hơn là tranh luận trong những trường phái.
D 2.4, KS 142-3
Trong thực tế, Cleanthes, ông tiếp tục, không cần phải
nhờ cậy đến học thuyết hoài nghi đã tác dụng đó, rất khó chịu với bạn, để đi
đến sự xác định này. Những ý tưởng của chúng ta không đạt đến được xa hơn
kinh nghiệm của chúng ta: Chúng ta không có kinh nghiệm về những thuộc tính và những
hoạt động thiêng liêng: Tôi không cần phải kết luận tam đoạn luận của
tôi: Bạn có thể rút ra suy luận cho chính bạn. Và cũng là niềm vui cho tôi
(và tôi hy vọng cho bạn cũng vây) rằng chỉ lý luận đúng và kính tín vững chắc ở
đây đồng tình trong cùng một kết luận, và cả hai đều thiết lập bản chất bí ẩn đáng
sùng bái và không thể thấu hiểu của Hữu Thể Tối Cao.
D 2.5, KS 143
Không để mất bất kỳ thời giờ nào trong những lan
man dông dài, Cleanthes nói, tự ông nói thẳng với Demea, lại còn ít hơn trong
việc trả lời những lời tuyên bố kính tín của Philo; Tôi sẽ vắn tắt giải thích tôi
nhận thức vấn đề này thế nào. Hãy nhìn quanh thế giới: suy ngẫm toàn bộ và mọi phần
của nó: Bạn sẽ thấy nó không là gì cả nhưng chỉ là một bộ máy lớn, đã phân thành
vô số những máy móc nhỏ hơn, vốn lại phân chia thêm nhỏ hơn, đến một mức độ
vượt khỏi những gì giác quan và những khả năng con người có thể theo dõi và
giải thích. Tất cả những máy móc khác loại này, và ngay cả những phần vụn vặt
nhất của chúng, đều được điều chỉnh với nhau với một sự chính xác, vốn làm mọi
người mê mẩn thán phục, những người đã từng chiêm ngưỡng chúng. Sự thích nghi lạ
lùng của những phương tiện với những cứu cánh, xuyên suốt tất cả bản chất,
giống hệt nhau, mặc dù nó vượt xa hơn nhiều, những sản phẩm của kỹ xảo con
người; của thiết kế, tư tưởng, trí tuệ và thông minh của con người. Do đó, vì những
hiệu quả tương tự nhau, chúng ta được dẫn đến để suy diễn,, bởi tất cả những
quy tắc của phép loại suy, rằng những nguyên nhân cũng giống nhau; và rằng Tác
giả của Tự nhiên có phần nào giống với não thức của con người; mặc dù đã có
những khả năng lớn hơn nhiều, tỉ lệ tương ứng với sự vĩ đại của công việc, vốn ông
đã thực hiện. Bằng luận chứng này, a
posteriori, và bằng luận chứng này mà thôi, quả thực chúng ta
chứng minh ngay lập tức sự là-có của một vị Sáng Tạo và sự tương đồng của ông
với trí tuệ và trí thông minh của con người.
D 2.6, KS 143-4
Tôi sẽ là rất không gìn giữ, Cleanthes, Demea nói, về
phần bảo với bạn, rằng từ đầu tôi đã không thể tán thành kết luận của bạn liên
quan đến sự giống nhau của vị Sáng Tạo với con người; Lại còn ít hơn để tôi có
thể chấp thuận về những phương tiện, qua đó bạn cố gắng để thiết lập nó. Gì vậy!
Không thuyết minh về Hữu thể của một Gót! Không những luận chứng trừu tượng!
Không những chứng minh a priori! Có phải những điều này, vốn cho đến nay
đã được những triết gia nhấn mạnh rất nhiều, là lừa dối tất cả, ngụy biện tất
cả? Có phải chúng ta không có thể đạt được xa hơn trong đề tài này so với kinh
nghiệm và điều có thể xảy ra? Tôi sẽ không nói, rằng sự việc này thì đang
phản bội nguyên nhân của một đấng Sáng Tạo: Nhưng chắc chắn, bởi chứng thật thà
này, bạn đem những ưu thế cho những người không-tin-có-gót , vốn họ không bao
giờ có thể có được, chỉ bằng vài nguệch
ngoạc nông cạn của lý lẽ và suy luận.
D 2.7, KS 144
Philo nói, những gì tôi chủ yếu phản đối trong đề tài này, thì không quá nhiều, rằng mọi luận chứng tôn giáo đều bị Cleanthes thu giảm về kinh nghiệm, vì chúng dường như ngay cả không là
chắc chắn nhất và không chối cãi được của loại thấp kém đó. Rằng một hòn đá sẽ
rơi xuống, rằng lửa sẽ đốt cháy, rằng đất có tính cứng chắc, chúng ta đã quan
sát hàng ngàn và hàng ngàn lần; và khi bất kỳ trường hợp mới nào của thiên nhiên
này được trình bày, chúng ta không do dự
rút ra suy luận đã quen. Sự giống nhau chính xác của những trường hợp cho chúng
ta một sự bảo đảm toàn hảo về một sự kiện tương tự; và một bằng chứng mạnh mẽ
hơn thì không bao giờ mong muốn cũng không được tìm kiếm. Nhưng bất cứ chỗ nào
bạn khởi hành, ít nhất, từ sự giống nhau của những trường hợp, bạn tương ứng giảm
thiểu bằng chứng; và cuối cùng có thể đưa nó đến một phép loại suy rất
yếu, vốn phải thú nhận chịu trách nhiệm về
sai lầm và tính không chắc chắn. Sau khi đã có kinh nghiệm về sự lưu thông máu trong con người, chúng ta không nghi
ngờ gì, rằng nó xảy ra trong Titius và Mævius: Nhưng từ sự lưu thông của nó ở
loài ếch và loài cá, nó chỉ là một giả định, mặc dù là một giả định vững, từ sự
tương tự , rằng nó xảy ra trong con người và những động vật khác. Lý luận dựa trên loại
suy thì yếu hơn nhiều, khi chúng ta suy ra sự lưu thông của nhựa cây trong loài
cây cỏ từ kinh nghiệm của chúng ta, rằng máu lưu thông trong loài động vật; và
những người, người vội vã chạy theo sự loại suy không toàn hảo đó, đã tìm thấy,
bằng những thí nghiệm chính xác hơn, đã bị nhầm lẫn.
D 2,8, KS 144
Nếu chúng ta nhìn thấy một cái nhà, Cleanthes,
chúng ta kết luận, với sự chắc chắn lớn nhất, rằng nó đã có một người kiến
trúc hay người xây dựng; vì đây chính xác là loại hậu quả đó, vốn chúng
ta đã có kinh nghiệm để tiến hành từ loại nguyên nhân đó. Nhưng chắc chắn
bạn sẽ không khẳng định, rằng vũ trụ mang một sự tương đồng loại như thế với
một cái nhà, rằng chúng ta có thể với cùng một chắc chắn suy diễn một nguyên nhân
tương tự, hoặc sự tương tự ở đây thì toàn bộ và toàn hảo. Tính không giống
nhau thì quá nổi bật, khiến sự tối đa ở đây bạn có thể có tham vọng là một ước
chừng, một phỏng đoán, một giả định liên quan đến một nguyên nhân tương
tự; và sự giả định đó sẽ được tiếp nhận thế nào trong thế giới, tôi để bạn
xem xét.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Nov/2019)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] A
Posteriori – Một sự thật a posteriori là sự thật có được bằng sự
quan sát thế giới. Một luận chứng a
posteriori có liên quan đến việc thu thập bằng chứng từ những kinh nghiệm
và lập luận trên những bằng chứng kinh nghiệm đó. Thí dụ, sự kiện tóc cô A màu
đen là môt sự thật chúng ta đều biết được qua suy luận sau khi có kinh nghiệm a posteriori trông/gặp cô A. Nhiều triết
gia tuyên bố rằng tất cà những sự kiện cơ bản trọng yếu về thế giới đều là a posteriori, và tất cả những luận chứng
về những sự kiện cơ bản trọng yếu phải là những luận chứng a posteriori
A Priori - Một sự thật a
priori là sự thật có được KHÔNG bằng sự quan sát thế giới. Một suy luận priori
chỉ dựa trên sự liên kết lôgích giữa những ý tưởng. Thí dụ, sự kiện rằng tất cả
những ai là ‘quả phụ’ đều có chồng chết, vì ý tưởng người quả phụ hay người
‘góa chông’ là người có chồng đã chết là một sự thực không có được qua kinh
nghiệm a priori.Để xác định rằng
tuyên bố ‘quả phụ là người có chồng đã chết’là sự thật, chúng ta không cần phải
đi tìm mọi quả phụ để hỏi xem điều này có đúng không. Hume tin rằng tất cả sự
thật a priori là có thuật từ (‘chồng
đã chết) thì nằm trong định nghĩa của chủ từ ('góa phụ').
[2] Argument
from Design: Luận
chứng cứu cánh, hay Luận chứng thiết kế tuyên bố rằng sự xếp đặt trật
tự và đẹp đẽ thấy trong vũ trụ là bằng chứng của một nhà thiết kế thông minh đứng
sau sự sáng tạo của thế giới.
Argument by Analogy
– Luận chứng dùng Ngoại suy: Một lập luận bằng loại suy tìm cách đưa ra
một kết luận bằng tuyên bố rằng hiện tượng đang được đề cập thì tương tự với một
hiện tượng khác, được biết nhiều hơn. Thông thường, hiện tượng được đề cập là một
hiệu quả và lập luận tìm cách xác lập nguyên nhân của nó. Bằng cách nói rằng A
thì tương tự với B, chúng ta có thể kết luận rằng nguyên nhân của A (chưa biết)
tương tự với nguyên nhân của B (đã biết).
A
là F và G.
B
là F.
∴
B là G.
Ontological Argument: Luận chứng về bản thể học:
những
Luận Chứng Về Bản Thể Học đều là những lập luận cho kết luận rằng Gót tồn tại,
từ những tiền đề vốn được giả định là xuất phát từ nguồn nhất định khác hơn là
từ sự quan sát thế giới – có nghĩa là không từ giác quan nhưng: chỉ từ lý trí.
Nói cách khác, luận chứng về bản thể học là những lập luận từ những gì điển
hình được cho là không gì khác ngoài những tiền đề phân tích, a priori và tất yếu
để nhằm đi đến kết luận rằng Gót tồn tại.
Luận chứng bản thể đầu tiên, và nổi tiếng nhất, do nhà chăn chiên Anselm
ở Canterbury, thế kỷ 11 CN đưa ra trong cầu nguyện trầm tưởng Proslogion của ông, Anselm tuyên bố lấy được sự
tồn tại của Gót từ khái niệm về một thực thể vốn không gì có thể vĩ đại hơn
nó có thể mường tượng được. Anselm lý luận rằng, nếu một thực thể như vậy
không tồn tại, thì một thực thể vĩ đại hơn - cụ thể là, một thực thể vĩ đại
hơn nó có thể mường tượng được và vốn nó tồn tại - có thể có thể
mường tượng được. Nhưng điều này sẽ là phi lý: không có gì có thể vĩ đại hơn
một thực thể vốn không gì có thể vĩ đại hơn nó có thể mường tượng được.Vì
vậy, một hữu thể vốn không thể nào vĩ đại hơn có thể mường tượng được.-
tức là Gót - tồn tại .
xem thêm: Richard
Dawkins. Huyễn Tưởng Gót, Chương 3: Những luận chứng cho hiện hữu
của Gót, bản tôi dịch tạm:
“…
Một khía cạnh kỳ lạ của luận chứng của Anselm là nguyên thủy nó đã
không phải để nói với con người, nhưng với chính Gót, dưới hình thức một lời cầu
nguyện – Proslogion- (bạn sẽ nghĩ
rằng bất kỳ thực thể nào có khả năng lắng nghe một lời cầu nguyện sẽ không cần
đến sự thuyết phục về sự hiện hữu của chính mình).
Điều có thể hình thành trong đầu được, Anselm nói, về một hữu thể
mà so với nó không gì lớn hơn có thể hình thành trong óc được. Ngay cả một người
không-tin-có-gót có thể hình thành trong đầu được một hữu thể tột bực như vậy,
mặc dù người này sẽ phủ nhận sự hiện hữu của nó trong thế giới thực tại. Tuy
nhiên, luận chứng tiếp tục, một hữu thể mà không hiện hữu trong thế giới thực tại,
bởi chính sự kiện đó, thì kém toàn hảo hơn. Do đó, chúng ta có một sự mâu thuẫn,
và đây “úm ba la” thế là, Gót hiện hữu!
Hãy để tôi chuyển luận chứng trẻ con này vào ngôn ngữ thích hợp,
đó là ngôn ngữ trong sân chơi của trẻ con:
“Cá với đằng ấy là tớ có thể chứng minh được Gót hiện hữu.”
“Cá đấy, đằng ấy không thể làm được đâu.”
“Vậy đây này, hãy tưởng tượng cái điều hoàn hảo hoàn hảo hoàn
hảo nhất mà có thể tưởng tượng được”
“Được rồi, bây giờ gì nữa? “
“Bây giờ, có phải cái điều hoàn hảo hoàn hảo toàn hảo là
có thực? nó có hiện hữu không? “
“Không, nó chỉ trong đầu tớ. “
“Nhưng nếu như nó có thực thì nó sẽ lại còn càng hoàn hảo hơn, vì
một điều thực sự… thực sự… hoàn hảo sẽ phải là tốt hơn một điều tưởng tượng vừa
ngớ ngẩn vừa cũ mèm. Như thế, tớ đã chứng minh rằng Gót hiện hữu. Na Nà Ná Na
Nà !!!. Tất cả những kẻ không-tin-có-gót là những tên ngu dại.”
Trong lối của tự-cho-là-mình-biết-tất-cả kiểu trẻ con, tôi đã thận
trọng chọn từ “ngu dại” của tôi. Chính Anselm đã trích câu thơ đầu tiên của
Psalm 14, “Kẻ ngu dại đã nói trong lòng nó, không có Gót” , và ông đã có sự
khiếm nhã dùng “kẻ ngu dại” (Latin: insipiens) để chỉ người
không-tin-có-gót giả tưởng của ông:
…: (Richard Dawkins. Huyễn Tưởng Gót))
[3] Infidels: từ những người Ki tô,
Muslim gọi những ai bỏ đạo, không theo đạo, khác tôn giáo của mình.
[4] [Recherche de la Verité, quyển. 3. chương.
9.] - Nicolas Malebranche (1638–1715): nhà chăn chiên Kitô, người France, trường
phái triết học phát sinh từ công trình của René Descartes. Triết học của ông
tìm sự tổng hợp học thuyết Descartes với tư tưởng Augustine và với học thuyết của
phái Plato-Mới.
[5]
Anthropomorphites