Huyễn Tưởng
Gót
Richard Dawkins
(The God Delusion)
Richard Dawkins
(The God Delusion)
Chương 9
Tuổi thơ, Bạo
hành Ngược đãi và Đào thoát khỏi tôn giáo
Có trong mỗi làng một ngọn đuốc:
thày giáo – và một bình dập tắt lửa: thày chăn chiên. (Victor Hugo)
Tôi bắt
đầu với một dật sử của Italy thế kỷ XIX. Tôi không có ngụ ý rằng bất cứ gì giống
như câu chuyện kinh tởm này vẫn có thể xảy ra ngày nay. Tuy nhiên, những thái độ
của não thức mà nó phơi bày trong hiện tại thì phổ biến đến đáng than trách, dẫu
ngay cả những chi tiết thực hành thì không. Thảm kịch con người ở thế kỷ thứ mười
chín này rọi một tia sáng tàn nhẫn trên những thái độ của tôn giáo ngày nay với
trẻ em.
Năm 1858, Edgardo Mortara, một đứa bé sáu tuổi, cha mẹ là người Dothái, đương sống ở Bologna [1], đã bị cảnh sát của vua chiên, tuân lệnh của Tổ chức Hình án Dị giáo [2] bắt giữ theo pháp luật. Edgardo đã bị tước khỏi tay người mẹ khóc lóc và người cha tuyệt vọng quẫn trí, để đến Catechumens (nhà dành vào thực hiện sự ép buộc phải đổi sang đạo Catô, cho những người Dothái và Islam) ở Rome, và từ đó, đã được nuôi dạy đến trưởng thành như một người theo đạo Catô Lamã. Ngoài dăm lần đến thăm ngắn ngủi dưới sự giám sát chặt chẽ của giới chăn chiên, cha mẹ của Edgardo không bao giờ còn được nhìn thấy con mình nữa. David I. Kertzer kể lại câu chuyện này trong quyển sách nổi bật đáng chú ý của ông, The Kidnapping of Edgardo Mortara, [3].
Câu chuyện của Edgardo không hề có nghĩa là bất thường, hay chỉ lẻ loi, ở nước Ý vào thời đó, và lý do của những vụ bắt cóc trẻ em như thế này của giới chăn chiên đã luôn luôn là một, đều giống nhau. Trong mọi trường hợp, trong một vài ngày tháng, hay năm không lâu trước đó, đứa trẻ đã bị bí mật “rửa tội”, thường là bởi một cô gái Catô giữ em, nuôi trẻ, và sau đó đi đến việc Toà án dị giáo nghe biết được về sự rửa tội này. Đã là một phần trọng tâm của hệ thống tín ngưỡng Catô Lamã, rằng một khi đứa trẻ đã được rửa tội, cho dù không chính thức, dẫu chỉ ngấm ngầm bí mật, nhưng đứa trẻ đó đương nhiên chuyển thành tín đồ, đổi thành người theo đạo Kitô, sau đó không thể trở ngược lại để hủy bỏ được. Trong thế giới tâm thần của họ, để cho một “đứa trẻ Kitô” ở với cha mẹ ruột thịt Dothái của nó đã không là một chọn lựa tùy ý, và họ đã bám giữ lập trường quái lạ và ác độc này thật kiên định, và với chân thành cùng cực, khi phải đối mặt với sự phẫn nộ trên toàn thế giới. Sự phẫn nộ lan rộng đó, tiện đây cũng nói, đã bị tờ báo Catô Civilta Cattolica gạt bỏ, cho là do sức mạnh quốc tế của giới Dothái giàu có – nghe quen tai, đúng không?
Năm 1858, Edgardo Mortara, một đứa bé sáu tuổi, cha mẹ là người Dothái, đương sống ở Bologna [1], đã bị cảnh sát của vua chiên, tuân lệnh của Tổ chức Hình án Dị giáo [2] bắt giữ theo pháp luật. Edgardo đã bị tước khỏi tay người mẹ khóc lóc và người cha tuyệt vọng quẫn trí, để đến Catechumens (nhà dành vào thực hiện sự ép buộc phải đổi sang đạo Catô, cho những người Dothái và Islam) ở Rome, và từ đó, đã được nuôi dạy đến trưởng thành như một người theo đạo Catô Lamã. Ngoài dăm lần đến thăm ngắn ngủi dưới sự giám sát chặt chẽ của giới chăn chiên, cha mẹ của Edgardo không bao giờ còn được nhìn thấy con mình nữa. David I. Kertzer kể lại câu chuyện này trong quyển sách nổi bật đáng chú ý của ông, The Kidnapping of Edgardo Mortara, [3].
Câu chuyện của Edgardo không hề có nghĩa là bất thường, hay chỉ lẻ loi, ở nước Ý vào thời đó, và lý do của những vụ bắt cóc trẻ em như thế này của giới chăn chiên đã luôn luôn là một, đều giống nhau. Trong mọi trường hợp, trong một vài ngày tháng, hay năm không lâu trước đó, đứa trẻ đã bị bí mật “rửa tội”, thường là bởi một cô gái Catô giữ em, nuôi trẻ, và sau đó đi đến việc Toà án dị giáo nghe biết được về sự rửa tội này. Đã là một phần trọng tâm của hệ thống tín ngưỡng Catô Lamã, rằng một khi đứa trẻ đã được rửa tội, cho dù không chính thức, dẫu chỉ ngấm ngầm bí mật, nhưng đứa trẻ đó đương nhiên chuyển thành tín đồ, đổi thành người theo đạo Kitô, sau đó không thể trở ngược lại để hủy bỏ được. Trong thế giới tâm thần của họ, để cho một “đứa trẻ Kitô” ở với cha mẹ ruột thịt Dothái của nó đã không là một chọn lựa tùy ý, và họ đã bám giữ lập trường quái lạ và ác độc này thật kiên định, và với chân thành cùng cực, khi phải đối mặt với sự phẫn nộ trên toàn thế giới. Sự phẫn nộ lan rộng đó, tiện đây cũng nói, đã bị tờ báo Catô Civilta Cattolica gạt bỏ, cho là do sức mạnh quốc tế của giới Dothái giàu có – nghe quen tai, đúng không?
Ngoài việc
nó đánh thức công luận, câu chuyện lịch sử của Edgardo Mortara đã hoàn toàn là điển
hình của nhiều những trường hợp khác. Em đã từng được Anna Morisi chăm sóc, một
cô gái Catô mù chữ; khi đó mới mười bốn tuổi. Một lần, Edgardo bị yếu mệt và lần
đó Anna đã cuống cuồng hoảng sợ, không để em bé nhỡ có thể chết. Lớn lên trong
một tin tưởng khiếp đảm đến mê hoặc u muội rằng một đứa trẻ nếu chết mà không-rửa
tội sẽ đau khổ vĩnh viễn trong hỏa ngục, Anna hỏi ý kiến một người hàng xóm
Catô là người đã bảo cô cách làm một phép rửa tội như thế nào. Cô về nhà, lấy
vài nhúm nước từ một cái xô, rảy lên đầu còn bé tí của Edgardo, và nói “Tôi rửa
tội em nhân danh Gót Cha, và Gót Con, và Gót Ma”. Và thế là đã xong, tất cả là
có thế. Kể từ lúc đó, Edgardo đã được “hợp pháp” là một người Kitô. Khi những
thày chăn chiên của Toà án dị giáo đã biết được việc bất ngờ xảy ra này vài năm
sau đó, họ đã hành động kịp thời, dứt khoát, không màng nghĩ gì đến hậu quả đau
thương của những hành động của họ.
Thật hết
sức kinh ngạc vì một nghi thức có thể có ý nghĩa to lớn khác thường như vậy đối
với toàn thể một gia đình mở rộng. Nhà thờ Catô đã cho phép (và vẫn cho phép) một
bất cứ ai để làm phép rửa tội cho một bất cứ ai khác. Người làm phép rửa tội
không cần phải là một thày chăn chiên chuyên nghiệp. Đứa trẻ cũng không, cha mẹ
cũng không, cũng không bất kỳ một ai nào khác tất cả là đã phải cùng đồng ý với
dịch vụ rửa tội này. Không có gì cần phải ký kết. Không có gì cần phải chứng thực
chính thức. Tất cả những gì cần thiết là tạt một nhúm nước lã, một vài câu nói,
một đứa trẻ bơ vơ còn chưa biết gì nên chưa thể tự bảo vệ, và một người giữ trẻ
mê tín dị đoan và đã hoàn toàn bị giáo lý Catô tẩy não. Trên thực tế, chỉ có điều
cuối cùng này là cần thiết, sau khi giả định là đứa trẻ còn quá nhỏ để là một
nhân chứng, thậm chí còn ai là người để biết vào đây? Một đồng nghiệp người Mỹ
được nuôi dạy đến trưởng thành trong Catô, viết cho tôi như sau: “Chúng tôi thường
rửa tội những con búp bê của chúng tôi. Tôi không nhớ có bất kỳ một ai trong
chúng tôi đã làm phép rửa tội những người bạn nhỏ đạo Thệ Phản hay không, nhưng
không hoài nghi rằng nó không đã xảy ra, và ngày nay vẫn còn xảy ra. Chúng tôi “rửa
tội” cho những con búp bê của chúng tôi thành những em bé Catô, cũng đưa chúng
đến nhà thờ, cho chúng dự lễ Bí tích Thánh thể… vv. Chúng tôi đã bị tẩy não, từ
những ngày ấy, để thành những người mẹ Catô ngoan đạo”.
Nếu những
cô gái ở thế kỷ mười chín đã có bất cứ gì giống như người viết thư trên đây của
tôi, phải đáng ngạc nhiên là trường hợp như Edgardo Mortara đã không phổ biến
hơn trong thời chúng ta. Như đã xảy ra, những câu chuyện như vậy đã thường
xuyên gây lo âu khốn khổ thương đau trong thế kỷ thứ mười chín ở Italy, điều đó
khiến người ta phải hỏi một câu hỏi hiển nhiên. Tại sao những người Dothái
trong những lãnh thổ ở Italy dưới quyền vua chiên [4]
lại phải thuê những đầy tớ đạo Catô tất cả làm gì, trước nguy cơ kinh khủng có
thể kéo đến, khi làm như vậy? Tại sao họ không phòng ngừa cẩn trọng để thuê những
đầy tớ cùng đạo Dothái với họ? Câu trả lời, lại một lần nữa, không có gì liên
quan với nghĩa lý, và tất cả mọi điều đều liên quan với tôn giáo. Người Dothái
cần đầy tớ có tôn giáo nào không cấm làm việc trong ngày Sa-bát như của họ. Một
người hầu gái Dothái quả thực có thể tin cậy, sẽ không xảy ra chuyện lén lút rửa
tội con cái họ, để đứa trẻ sẽ bị lôi vào một trại mồ côi tinh thần. Nhưng người
hầu gái này, không thể thắp đèn, châm bếp lửa, đốt lò sưởi, hoặc làm vệ sinh trong
nhà vào ngày mỗi Thứ Bảy, là ngày Sa-bát. Đây là lý do tại sao, trong những gia
đình Dothái ở Bologna trong thời gian trên,
những người có khả năng thuê đày tớ giúp việc, hầu hết đã thuê những người
Catô.
Trong
quyển sách này, tôi đã có chủ ý kiềm chế, không đi vào những chi tiết kinh
hoàng của những cuộc thập tự chinh, những conquistadores,
hoặc của Toà án dị giáo Tây Ban Nha. Tàn ác và người ác có thể tìm thấy được
trong mọi thế kỷ và mọi khủng bố ngược đãi. Nhưng câu chuyện này của Toà án dị
giáo ở nước Ý, và thái độ với trẻ em đặc biệt tiết lộ cho thấy não thức tôn
giáo, và những tàn ác chúng phát sinh đặc biệt vì nó là của tôn giáo. Thứ nhất là cách nhận thức diễn dịch đáng
chú ý của não thức tôn giáo, là rắc một vài giọt nước, và đọc lên một câu thần
chú ngắn gọn, là có thể hoàn toàn thay đổi đời sống của một đứa trẻ, chiếm ưu
tiên hơn sự đồng ý của cha mẹ, sự đồng ý của chính đứa trẻ, hạnh phúc và trạng
thái tâm lý sung sướng lành mạnh riêng của đứa trẻ. . vượt lên trên tất cả mọi
thứ mà ý thức bình thường và tình cảm phổ biến của con người xem là quan trọng.
Nhà chăn chiên áo đỏ Antonelli viết điều đó ra rõ ràng vào thời điểm đó, trong
một lá thư gửi Lionel Rothschild, dân biểu người Dothái đầu tiên của Nghị viện
Anh, là người đã viết để phản đối về vụ bắt cóc Edgardo. Nhà chăn chiên áo đỏ
trả lời rằng ông đã bất lực, không có quyền can thiệp, và nói thêm: “Ở đây nó
có thể được là cơ hội để quan sát rằng, nếu tiếng nói của tự nhiên thì mạnh mẽ,
nhưng những nhiệm vụ thiêng liêng của tôn giáo thậm chí còn mạnh hơn”. Vâng,
hay lắm, như thế đúng là nói trắng tất cả điều đó ra, không phải sao?
Thứ hai
là một sự kiện phi thường rằng giới thày chăn chiên, những thày mặc áo đỏ và vua
chiên, xem ra đều có vẻ chân thực, không hiểu rằng điều – mà họ đã làm với
Edgardo Mortara khốn khổ – thì khủng khiếp đến chừng nào. Nó vượt qua tất cả sự
nhận hiểu phải trái và cảm thông bình thường, nhưng họ đã đều chân thành tin rằng
họ làm một chuyển đổi tốt lành cho em bé, khi tước em khỏi tay chính cha mẹ
Dothái của em, và khi đem cho em một nuôi dạy Kitô. Họ cảm thấy có một trách
nhiệm của sự che chở bảo bọc! Một tờ
báo Catô ở Mỹ đã bảo vệ lập trường của vua chiên về trường hợp Mortara, biện bạch
là không thể tưởng tượng được rằng một chính phủ Kitô có thể lại để cho một con
trẻ Kitô được nuôi dạy bởi một người Dothái”, và gọi đến nguyên tắc tự do tôn
giáo, “tự do của một đứa trẻ là một người theo đạo Kitô, và không phải bị cưỡng
bức để buộc phải là một người theo đạo Dothái. Sự bảo vệ trẻ em của nhà vua
chiên – người cha thánh linh – trong khi đối mặt với tất cả những hung dữ cuồng
tín của bọn ngoại giáo và thiển cận cố chấp, là cảnh tượng đạo đức lớn lao nhất
mà thế giới, đã bao thời cho đến nay, mới được nhìn thấy”. Đã từng bao giờ có một
sự chuyển chữ nghĩa đến ý hướng sai lạc trắng trợn hơn thế nữa hay không, của
những từ như “buộc”, “cưỡng bức”, “hung dữ”, “cuồng tín” và “cố chấp”? Tuy
nhiên, tất cả những dấu hiệu chỉ dẫn là những người biện hộ Catô, từ vua chiên
trở xuống, đều thành thực tin rằng những gì họ đã làm là đúng: hoàn toàn đúng về
mặt đạo đức, và thuận hợp với phúc lợi của đứa trẻ. Như thế đó là sức mạnh của
tôn giáo (của giới đông đảo bình thường, “ôn hòa”) để bẻ cong phán đoán, và làm
hư đốn lòng tử tế thông thường của con người. Tờ báo Il Cattolico đã thẳng thắn lấy làm hoang mang không thể hiểu được,
trước sự thất bại rộng rãi, khi tất cả đã không thấy được một “ân huệ” thật là hào
sảng, hết sức lớn lao, mà Hội nhà thờ đã ban cho Edgardo Mortara, khi nó “giải
cứu” em khỏi chính gia đình Dothái của em:
Bất
cứ ai là người trong chúng ta nếu dành một chút suy nghĩ nghiêm trang đến vấn đề,
so sánh điều kiện của một người Dothái – không có một Hội nhà thờ chân thực,
không có một nhà Vua, và không có một quốc gia, bị phân tán và luôn luôn là một
người ngoài ở bất cứ nơi nào hắn sống trên mặt đất, và hơn thế nữa, ô danh với
vết nhơ xấu xa, đã được đánh dấu là những kẻ giết Christ .. . sẽ ngay lập tức hiểu
được lớn lao đến chừng nào rằng đây là lợi thế trần gian mà Vua chiên đã lấy được
cho em bé Mortara này.
Thứ ba là sự thất bại trong ứng xử không thấy được chừng mực,
giới hạn theo đó những người theo đạo (Kitô) biết, mà không có bằng chứng,
rằng lòng tin tôn giáo của tôn giáo họ có khi sinh ra, là một lòng tin tôn giáo
đích thực, của sự thật, còn tất cả của những người khác là đều hoặc lệch lạc,
hoặc hoàn toàn hết mức sai lầm. Những trích dẫn ở trên đưa ra những thí dụ sống
động về thái độ này về phía những người Kitô. Sẽ là hết sức bất công để nói đến
hai bên như cân bằng trong trường hợp này, nhưng đây là một chỗ cũng tiện như bất
kỳ chỗ nào để lưu ý rằng gia đình Mortaras với một vẫy tay nhẹ đã có thể có
Edgardo trở lại, nếu họ chỉ đã chịu chấp nhận những yêu cầu khiêm tốn và chân
thành của giới chăn chiên, nếu đã đồng ý cho cả gia đình chính họ nhận rửa tội.
Edgardo đã bị đánh cắp trước hết vì một nhúm nước lã rảy trên đầu, và một tá những
lời vô nghĩa. Như thế đó là sự rồ rại vô nghĩa của não thức đã bị tôn giáo nhồi
sọ, tẩy não làm mụ mẫm, nay thêm hai nhúm nước lã rảy lên đầu nữa, là tất cả điều
cần có để đảo ngược quá trình. Với một vài người trong chúng ta, sự từ chối của
cha mẹ có thể cho thấy sự bướng bỉnh vô trách nhiệm. Đối với những người khác,
thái độ giữ vững nguyên tắc đã nâng cao họ vào danh sách dài những người tử đạo
cho tất cả những tôn giáo, kéo qua suốt những thời đại.
“Hãy an
lòng vững chãi, Thày Ridley, và đóng vai đàn ông. Ngày nay, bằng ân sủng của
Gót, chúng ta sẽ thắp lên một ngọn nến dường thế ở Anh, như tôi tin tưởng sẽ
không bao giờ bị dập tắt”.[5]
Không phải hoài nghi rằng có những nguyên nhân cao thượng để chết. Nhưng những thánh
chiên tử đạo Ridley, Latimer, và Cranmer, tại sao lại có thể để bản thân mình
thà bị thiêu sống chứ không chịu từ bỏ lý thuyết đầu-Nhỏ-quả trứng Thệ phản của
họ, để ủng hộ lý thuyết đầu-Lớn-quả trứng Catô – có quả nó thực sự là một vấn đề
gì nhiều cho cam, nếu bạn chọn một đầu nào của một quả trứng đã luộc để dập vỏ
bóc ăn? [6]
Như vậy là cứng đầu – hoặc đáng ngưỡng mộ, nếu đó là cách nhìn của bạn – sự xác
quyết của não thức tôn giáo, rằng gia đình Mortaras không thể tự họ nắm lấy cơ
hội đã đem cho của những nghi thức vô nghĩa của lễ rửa tội. Có phải là họ không
thể cứ nhắm mắt cầu may cho qua chuyện hay sao, hoặc nói thầm “không” trong hơi
thở của mình, khi nhận lễ rửa tội cho xong? Không, họ không thể, vì họ đã được nuôi
dạy đến trưởng thành trong một tôn giáo (ôn hòa), và do đó đã tiếp nhận nghiêm
trọng toàn bộ trò chơi chữ nghĩa vô lý vẫn được khoác vẻ ngoài tôn kính. Với
tôi, tôi chỉ nghĩ về đứa bé Edgardo khốn khổ – vô tình được sinh ra trong một
thế giới bị những não thức tôn giáo thống trị, không may giữa lằn đạn, tất cả
chỉ còn phận mồ côi dành sẵn trong một hành động có ý nghĩa khéo léo, nhưng với
một đứa trẻ, là tàn ác làm nó vỡ nát tan tành.
Thứ tư,
để theo đuổi cùng một chủ đề, là sự giả định rằng với một đứa bé sáu tuổi nhưng
có thể nói cho tự nhiên chính đáng được là nó lại có một tôn giáo nào hết tất cả, cho dù là Dothái, hay Kitô, hay bất
cứ gì khác. Nói một cách khác, một ý tưởng rằng khi đem “rửa tội” một đứa bé không
biết gì, không hiểu gì, lại có thể chuyển nó từ một tôn giáo này sang tôn giáo khác,
đánh đùng ngay lập tức như búng ngón tay, là xem dường phi lý – Nhưng chắc chắn
là không phi lý hơn khi dán nhãn hiệu lên một đứa bé nhỏ tí, trước hết như đương
thuộc về một bất cứ một tôn giáo cụ thể đặc biệt nào. Những gì là quan trọng với
Edgardo đã không là tôn giáo “của em” (em thì quá nhỏ tuổi để có thể có những
quan điểm, nghĩ được những suy tưởng tôn giáo chín chắn) nhưng là yêu thương và
chăm sóc của cha mẹ và gia đình của em, và những điều này đã bị những thày chăn
chiên sống đời vô gia đình, độc thân, tước đoạt, những đối xử quá tàn ác hết mức
kinh tởm đến méo mó lố bịch, đã chỉ được làm giảm nhẹ mức bằng chính sự đần độn,
vô cảm dốt đặc trước những tình cảm bình thường của con người – một sự vô cảm đã
đến tất cả quá dễ dàng vào trong một não thức đã bị lòng tin tôn giáo bắt cóc
làm con tin ép buộc.
Ngay cả
nếu không có sự bắt cóc thân thể, không phải là nó luôn luôn là một hình thức lạm
dụng ngược đãi trẻ em khi dán nhãn hiệu lên những trẻ em, như chúng là những sở
hữu của những tin tưởng tôn giáo, mà chúng còn quá trẻ để có suy nghĩ đến, hay
sao? Tuy nhiên, thực hành này vẫn còn tồn tại cho đến tận ngày nay, gần như
hoàn toàn không bị đặt câu hỏi chất vấn. Đặt câu hỏi về nó là mục đích chính của
tôi trong chương này.
Nhũng lạm Ngược đãi Thể xác và Tâm trí
Ngày nay, nhũng lạm ngược
đãi trẻ em của giới thày chăn chiên có nghĩa là nhũng lạm về tình dục, và ở bắt
đầu, tôi cảm thấy buộc phải đưa toàn bộ vấn đề nhũng lạm tình dục vào tỉ lệ tương
xứng và xong xuôi cho khỏi vướng lối.
Lê
Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Jul/2013)
[1]
Bologna: thành phố vùng Bắc Italy, gần Florence; Nổi tiếng có trường đại hoc – từ
thế kỷ 11, cổ nhất châu Âu.
[2]
Inquisition: thường vẫn gọi là Toà án
Dị giáo; một tổ chức đặc biệt của hội nhà thờ Catô, là một thể chế tôn giáo có
lịch sử rất lâu đời, chuyên nhiệm vụ diệt trừ những gì bị xem là sai lệch, hay
có hại cho tín điều Kitô nền tảng đã được nhà thờ ấn định là chính thống – những
sai lệch này gọi là những dị giáo, lạc đạo, hay rối đạo (heresies). Inquisition chỉ
có nghĩa là Tra xét, và hình thức hoạt
động điển hình của nó là một tòa án hình sự theo những giáo điều Catô, nên vẫn
được quen gọi là Tòa án Dị giáo, vì nó lùng kiếm và trừng phạt những nguồn bất
đồng, trong cùng tôn giáo và sau mở rộng đến những nguồn khác tôn giáo. Nổi tiếng
vì sự tra khảo khắc nghiệt, tàn nhẫn và trừng phạt ác độc vô nhân. Trong khi
nhiều người thường liên kết Tòa án dị giáo với Spain và Portugal, nó thực sự được
vua chiên Vatican, Innocent III (1198-1216), đặt nền móng đầu tiên ở Rome. Vua
chiên kế tiếp, Gregory IX, đã thiết lập cơ sở vững chắc, năm 1233, để chống lại
giáo phái Abilgenses ở miền Nam nước Pháp; đến năm 1255, tổ chức Tòa án Dị giáo
này hoạt động mạnh mẽ gần khắp châu Âu, chỉ trừ vùng bắc Âu Scandinavia.
Không giống như nhiều tôn giáo khác, Hội nhà thờ Catô Lamã có
một một bộ máy trung ương tập quyền, với cấu trúc phân cấp xuống tận các đơn vị
cai quản tín đồ nhỏ, hẻo lánh nhất (thí dụ, xóm đạo, họ đạo, …) khắp nơi trên
thế giới. Trong những năm đầu của Hội Nhà thờ, đã có nhiều giáo phái Kitô khác
nhau, đều tự gọi mình là những người Kitô. Sau Hoàng đế Constantine I
(280-337), đạo Kitô thành tôn giáo chính thức của toàn đế quốc Lamã; các cấu
trúc hành chính địa phương của hội nhà thờ dưới quyền của những bishop – chức vị chăn chiên cao cấp nhất
trong mỗi vùng – đã được kéo lại với nhau vào thành một hệ thống trung ương tập
quyền ở Rome, còn những tranh luận về giáo lý, đã được những hội đồng của Hội
Nhà thờ giải quyết, bắt đầu với Hội đồng Nicea năm 325 (thành lập Tín điều
Nicea). Sau đó, hội nhà thờ có những nỗ lực liên tục để đưa những ai có niềm
tin hoặc thực hành Kitô, nhưng bị xem là sai lệch với đường lối quan điểm chính
thống. Những đối kháng với nỗ lực này dẫn đến khủng bố bạo lực.
Dị giáo (từ Latin. haeresis,
có nghĩa là giáo phái, trường phái của niềm tin) đã là một vấn đề đối với hội
Nhà thờ ngay từ đầu. Trong những thế kỷ đầu đã có những giáo phái Arians và
phái Manicheans; trong thời Trung cổ đã có những Cathari và Waldenses, và trong
thời kỳ Phục hưng có những Hussites, Lutheran, Calvin, và Rosicrucians. Ban đầu,
những nỗ lực ngăn chặn dị giáo là đối phó đặc biệt nhất thời. Nhưng sang thời
Trung cổ, một cấu trúc vĩnh viễn đã ra đời để giải quyết vấn đề này. Bắt đầu từ
thế kỷ thứ 12, Hội đồng Hội Nhà thờ đòi hỏi những nhà cầm quyền thế tục phải
truy tố và trừng phạt những người dị giáo. Năm 1231, Vua chiên Gregory IX công
bố một sắc lệnh ấn định hình phạt chung thân với sám hối cho người dị giáo đã
thú nhận và ăn năn, và hình phạt tử hình với những người tiếp tục không thay đổi,
tiếp tục chống cự. Chính quyền thế tục có nhiệm vụ thực hiện bản án. Đến vua
chiên Gregory, ông đã giảm gánh nặng này khỏi tay những cán bộ cao cấp ở mỗi địa
phương của ông, là những thày chăn chiên cấp vùng và toàn vùng (bishops và archbishops),
và trao nhiệm vụ này cho dòng tu Dominican, mặc dù nhiều phán quan của tòa dị
giáo có thể từ những dòng khác. Vào cuối thập kỷ 1230 này, Tổ chức Toà án dị
giáo đã trở thành một tổ chức quốc tế, trong tất cả các vùng đất dưới sự giám
sát của vua chiên. Sang đến cuối thế kỷ 13, toà án dị giáo ở mỗi khu vực đều có
một bộ máy hành chính để phục vụ chức năng truy lùng và tiêu diệt của nó.
Phán quan tôn giáo (inquisitor),
là quan tòa của tổ chức này, có thể truy tố và lên án bất kỳ ai. Bị cáo phải làm
chứng chống lại bản thân chính mình, và không có quyền đối mặt và chất vấn người
tố cáo mình. Người tố cáo có thể là tội phạm, người có tiếng xấu, người đã bị vạ
tuyệt thông, và những người dị giáo khác. Bản án là tối hậu và không thể được
kháng cáo. Đôi khi những phán quan tra hỏi toàn bộ dân chúng cả một vùng trong
thẩm quyền của mình. Những phương tiện khác nhau đã đem sử dụng để lấy được sự
nhận tội. Mặc dù không có truyền thống tra tấn trong điển luật Kitô, phương
pháp này đưa vào sử dụng vào giữa thế kỷ 13. Trừng phạt thường là tù chung
thân, và tử hình là thiêu sống nơi công cộng, và nó được những quan chức thế tục
thi hành. Trong một số trường hợp nghiêm trọng, khi bị cáo đã chết trước khi thực
hành bản án, mồ tội nhân có thể bị khai quật và những gì còn lại trong mồ cũng
vẫn bị đem đốt cháy. Chết hoặc tù chung thân đã luôn luôn đi kèm với tịch thu tất
cả tài sản. Vào cuối thế kỷ 15, dưới triều đại vua Ferdinand và nữ hoàng
Isabel, Tòa án dị giáo Tây Ban Nha đã trở thành độc lập với Rome. Để giải quyết
vấn đề những người Moslem (Moors) và người Dothái (sau khi họ đổi đạo) và những
người của giáo phái Illuminati, Toà án dị giáo Tây Ban Nha với autos-da-fé (đốt sống trước công chúng)
nổi tiếng của nó, đại diện cho một chương đen tối trong lịch sử của Toà án dị
giáo. Vua chiên Paul III thành lập, năm 1542, một giáo đoàn thường trực có nhân
viên là các thày chăn chiên áo đỏ và các viên chức tôn giáo khác, có nhiệm vụ
là duy trì và bảo vệ sự toàn vẹn của đức tin, và kiểm tra, lên án những sai lầm
trong giáo lý và ngăn cấm những học thuyết có hại. Cơ quan này, Thánh Bộ của
Tòa thánh (Congregation of the Holy Office), ngày nay gọi là Thánh Bộ Giáo Lý Đức
Tin (Congregation for the Doctrine of the Faith), là phần của giáo triều Rôma
(Roman Curia), bây giờ trở thành cơ quan giám sát của những tòa dị giáo địa
phương. Vua chiên vẫn giữ danh hiệu đứng đầu nhưng bổ nhiệm một trong các thày
chăn chiên áo đỏ cao cấp chỉ sau ông, chủ trì các cuộc họp.
Mục lục những sách cấm
của hội đồng những nhà chăn chiên áo đỏ (The
Congregation of the Index): Tự do tư tưởng và tự do diễn đạt bằng chữ viết
hay lời là phát triển tương đối gần đây của lịch sử. Trong hội nhà thờ Kitô, ý
tưởng rằng bất cứ ai có thể nghĩ, hay nói hoặc viết những gì tự ý mình muốn là
một điều ngớ ngẩn đến phi lý. Hơn nữa, nó rất nguy hiểm vì nó có thể dẫn dắt
người khác vào lỗi lầm. Nên kiểm soát tư tưởng là quan tâm và nhu cầu hàng đầu
của hội nhà thờ. Ngay từ rất sớm, năm 170, Hội nhà thờ đã chọn và ban hành một
danh sách những tập sách của bộ Tân Ước chính thức, và loại trừ những tập sách
phúc âm khác ra ngoài, cấm không được truyền bá, sử dụng. Năm 405, vua chiên
Innocent I công bố một danh sách những cuốn sách cấm, và vào cuối thế kỷ đó, đã
ban hành một nghị định, được gọi là Mục lục đầu tiên của những Sách Cấm (Index
of Forbidden Books). Trong đó liệt kê những tập sách được xem là chân chính của
kinh Thánh, những cuốn sách bị xem là ngụy tạo, và những cuốn sách dị giáo. Từ
đó, những vua chiên và Hội đồng của Hội nhà thờ Vatican, tiếp tục truyền thống
này, định kỳ vẫn công bố danh sách những cuốn sách bị cấm. Với Hội đồng Trent
(1545-1563), Hội nhà thờ thành lập một tổ chức lâu dài để đối phó với vấn đề
sách cấm. Ban đầu, Hội đồng của Toà án dị giáo được giao nhiệm vụ xây dựng một
danh sách đầy đủ của những sách bị cấm. Danh sách này, danh sách tổng quát đầu
tiên, xuất bản năm 1559, được gọi là Mục lục (Index); ngay lập tức một ủy ban của
vua chiên đã sửa đổi nó, kết quả được công bố năm 1564, là Mục lục Sách cấm
Trent (Tridentine Index). Đặc biệt, Mục lục này cũng cung cấp những quy tắc kiểm
duyệt sách in. Đây là sự kiểm duyệt sách báo, hệ thống và chính thức, đầu tiên
trong lịch sử châu Âu, nếu không nói là thế giới. Trong gần hai thế kỷ, Mục lục
đã được cập nhật định kỳ nhưng không có sửa đổi lớn nào thêm. Năm 1757 và 1897
đã có những sửa đổi lớn trong các nguyên tắc tổng quát về kiểm duyệt và cấm
đoán. Ấn bản cuối cùng của Index là năm 1948, nó đã bị bãi bỏ vào năm 1966. Hội
nhà thờ Catô, tuy nhiên đã không từ bỏ quyền cấm đọc sách mà theo đánh giá của
nó là một nguy hiểm cho đức tin và đạo đức của người Catô. Nếu đọc danh sách
này, sẽ gặp gần như hầu hết những tác giả và tác phẩm nổi tiếng của nhân loại
(kể một vài: René Descartes, Thomas Hobbes, François Voltaire, David Hum, Emile
Zola, Anatole France, Jean-Paul Sartre, Alberto Moravia, André Gide, Francis
Bacon, Henri Bergson, Auguste Comte Immanuel Kant, John Locke, Blaise Pascal,
Jean-Jacques Rousseau, Michel Montaigne, Justus Lipsius of Louvain, John Stuart
Mill, Diderot, Montesquieu, Edward Gibbon, Pierre Larousse, Heinrick Heine,
Gustave Flaubert, Victor Hugo, Stendhal, Honoré Balzac, Alexandre Dumas, Jean
de Lafontaine, Gabriel Rosetti).
[3]
David I. Kertzer .The Kidnapping of
Edgardo Mortara. Nxb Vintage (1997).
[4] Papal states: Một nhóm gồm những lãnh thổ tự trị (territories) ở vùng trung tâm bán đảo Italy, đã được đặt dưới quyền cai trị (không chỉ
tinh thần, nhưng toàn bộ thế tục kinh tế, quân sự, chính trị,...) trực tiếp của
những vua chiên – từ 754 đến tận 1870. Những tên gọi quen thuộc là The Papal
States, Republic of Saint Peter, Church States, và Pontifical States (Stati
Pontifici, Stati della Chiesa). Từ cuối thế kỷ 19, nước Ý thống nhất đã lần
lượt dành lại những lãnh địa này. Đến 1929, thoả ước Lateran của chính phủ Phát
xít Mussolini còn để cho vua chiên được giữ Thành phố Vatican, các chính phủ Ý
kế tiếp nhiều lần định huỷ bỏ thoả ước này nhưng đến 1947 vẫn không thành công,
tuy nhiên với concordat 1985, đạo
Kitô Rôma thôi không còn giữ địa vị tôn giáo quốc gia chính thức của nước Ý
nữa.
[5]
Vua Henry VIII đã tách hội nhà thờ Anh (Anh giáo) từ hội nhà thờ Catô Lamã,
nhưng ông không có cải cách nào về giáo lý. Khi con ông, Edward lên kế vị, nhiều
cố vấn của Edward đã cố gắng để chuyển nhà thờ Anh theo hướng của một Kitô dựa
trên kinh Thánh hơn. Hai người như vậy là Nicholas Ridley và Hugh Latimer. Sau
đó, khi Mary trở thành Nữ hoàng Anh, bà đã làm việc để mang hội nhà thờ Anh trở
lại với hội nhà thờ Catô Lamã. Một trong những hành động đầu tiên của bà là bắt
hai vị chăn chiên cấp vùng Ridley, Latimer, và vị tổng chăn chiên cấp
vùngThomas Cranmer, đều là những nhân vật lãnh đạo trong hội nhà thờ Anh. Sau
thời gian bị cầm tù trong Tháp London, cả ba đã được đưa tới Oxford vào tháng
Chín năm 1555 để bị tra xét ở trường Gót-học của Oxford.
Khi Ridley được hỏi nếu ông tin rằng vua chiên là người thừa
kế uy quyền của Peter như là nền tảng của hội nhà thờ, ông trả lời rằng nhà thờ
không được xây dựng trên bất kỳ người nào, nhưng trên sự thật Peter đã thú nhận
– rằng Chúa Kitô là Gót-Con. Ridley nói ông không thể tôn vinh vua chiên ở Roma
vì vua chiên tìm kiếm vinh quang cho chính mình, không phải vinh quang của Gót.
Cả Ridley lẫn Latimer đều không thể chấp nhận lễ bí tích thánh thể như một sự
hy sinh của Chúa Kitô. Latimer nói với các ủy viên, đại ý sự hiến dâng và hy
sinh một lần của Christ cho tội lỗi của thế giới, là một sự hy sinh hoàn hảo,
không cần thêm gì khác nữa. Những ý kiến này đã tấn công mạnh mẽ vào các nhà
gót học Catô Lamã. Cả Ridley và Latimer đã bị thiêu sống tại Oxford vào ngày
16/10/1555. Anh của Ridley đã mang lại một số thuốc súng cho họ đeo quanh cổ để
chết nhanh hơn, nhưng họ vẫn phải chịu đau đớn rất nhiều. gỗ đốt Ridley còn
tươi và đốt cháy chỉ phần dưới Ridley mà không chạm vào phần cơ thể trên. Người
ta nghe tiếng ông kêu nhiều lần. Một trong những người đứng xem, cuối cùng đã
đưa ngọn lửa lên đầu giàn thiêu để đẩy nhanh cái chết cho Ridley. Latimer chết
nhanh hơn nhiều; Khi ngọn lửa nhanh chóng bốc lên, Latimer khuyến khích Ridley,
“Hãy an lòng vững chãi, Thày Ridley, và đóng vai đàn ông. Ngày nay, bằng ân sủng
của Gót, chúng ta sẽ thắp lên một ngọn nến dường thế ở Anh, như tôi tin tưởng sẽ
không bao giờ bị dập tắt”. Cranmer bị buộc phải chứng kiến hai người trên bị
thiêu sống, 5 tháng sau mới đến phiên ông, và cũng cũng bị đốt chết ở cùng một
chỗ. Cả ba người đã được gọi là Những thánh chiên chết vì đạo của Anh giáo
[6] “đầu-Lớn-quả trứng” và “đầu-Nhỏ-quả trứng”: Truyện kể trong Gullivers
Travels của Jonathan Swift, về chiến tranh giữa dân Lilliput và dân đảo
láng giềng Blefescu. Nguyên nhân chỉ là sự bất đồng ý kiến về việc đập vỏ trứng,
đầu lớn hay đầu nhỏ trước, mỗi khi ăn trứng – Khi Gulliver đến thủ đô Mildendo
của dân tí hon Lilliput, được cho biết là xung đột giữa hai bên đã xảy ra từ
nhiều năm trước và ngày càng trầm trọng, đã đi từ nội loạn đến ngoại xâm. Tất cả
bắt đầu khi ông nội của hoàng đế đương thời, khi đó còn chỉ huy nước Lilliput,
đã xuống lệnh tất cả dân Lilliput, phải đổi cách ăn trứng: đầu tiên phải đập đầu
nhỏ của vỏ trứng trước. Ông đã ban hành quyết định này sau khi chính ông, theo
thói quen cũ, đập vỏ một quả trứng, bằng đầu lớn trước, và đã cắt phải ngón tay
mình. Nhưng trong dân chúng, có nhiều người phẫn uất với luật mới này, và đã xảy
ra đến sáu cuộc nổi loạn phản đối. Nhà vua của dân đảo bên cạnh Blefuscu cũng
thúc đẩy những cuộc nổi loạn, và họ đã cho quân nổi dậy Lilliput chạy trốn, “vượt
biên” sang nước Blefuscu để “tị nạn”. Mười ngàn người dân xứ Lilliput đã anh
dũng chọn cái chết, làm “thánh tử đạo (ăn trứng)”, hơn là mất tự do, cắt đứt với
truyền thống, quyết không tuân theo luật mới ép buộc người ta ăn trứng phải đập
vỏ đầu nhỏ, không được đập vỏ đầu lớn trước, như trước đây. Nhiều quyển sách đã
được viết, tranh cãi, bàn luận về vấn đề “tự do”, “truyền thống”... này. Những
quyển sách của phái theo học thuyết “Đầu-Cuối-Lớn” dĩ nhiên đều bị cấm lưu hành
trong nước Lilliput. Chính phủ Blefuscu nghiêm khắc lên án chính phủ Lilliput
đã chà đạp lên học thuyết tôn giáo của họ, học thuyết Brundrecral, khi
ban lệnh đập vỏ trứng của họ ở “Đầu-Cuối-Nhỏ”. Dân Lilliput theo luật mới, cãi
rằng học thuyết truyền thống đã ghi “Đó là tất cả những tín đồ chân chính sẽ đập
vỏ trứng của họ ở đầu nào thuận tiện cho họ”, và có thể được hiểu như Đầu Nhỏ.
Những người Lilliput lưu vong đã còn được chính phủ Blefuscu giúp đỡ
trong việc khởi động chiến tranh để chống lại chính quyền Lilliput
đương thời, và cũng được lực lượng nổi dậy bên trong Lilliput hỗ trợ. Chiến
tranh dai dẳng giữa hai nước, lúc âm ỉ, lúc sôi nổi, vẫn không dứt, chỉ vì câu
hỏi, trước khi ăn trứng – đập vỏ trứng đầu nào trước. Jonathan Swift đã mỉa mai
dân tộc Anh của ông, trước đây, một thời là Kitô Rôma, rồi Anh giáo
(Big-endian) nhưng nay dù phần đông là Kitô Phản thệ (Little-endian), đều là Kitô
(đều ăn trứng, chưa kể là “trứng ung thối”), nhưng vẫn hục hoặc vì những chuyện
nhỏ (đầu lớn hay đầu nhỏ của quả trứng).