Huyễn Tưởng Gót
Richard Dawkins
(The God Delusion)
Chương 8 (tiếp theo)
Ngụy biện về Beethoven Tuyệt vời
Nước cờ di chuyển kế tiếp của kẻ chống phá thai trên bàn cờ đánh
võ mồm, thường thường diễn ra một gì đó như thế này. Trọng điểm bàn luận thì không
phải là liệu một phôi người có thể hoặc không thể phải đau đớn ở lúc này. Trọng
điểm nằm trong tiềm năng của nó. Sự
phá thai đã tước đi mất của nó cơ hội cho một đời người trọn đủ trong tương
lai. Khái niệm này thì được tóm gọn
bằng một luận chứng tu từ mà sự cực kỳ ngu dốt của nó là bào chữa độc nhất nó có
được để chống lại một kết án về tội dối trá nghiêm trọng. Tôi đang nói đến Ngụy biện
về Beethoven Tuyệt vời, vốn hiện hữu dưới nhiều hình thức. Peter và Jean
Medawar [1],
trong The Life Science, gán phiên bản
sau đây cho Norman St John Stevas (nay là Lord St John), một thành viên của
Nghị viện Anh, và một giáo dân Catô Lamã quan trọng. Ông này, đến lượt, đã nhận
nó từ Maurice Baring (1874-1945), một người đổi đạo sang Catô Lamã có tiếng tăm,
và là trợ tá thân cận của những người Catô chân thành hăng hái, như G. K.
Chesterton và Hilaire Belloc. Ông ta đúc khuôn nó trong hình thức một của một đối
thoại giả tưởng giữa hai y sĩ.
“Về việc dứt bỏ cái thai,
tôi muốn ý kiến của bạn. Người cha đã bị giang mai, người mẹ bị lao. Trong số
bốn đứa con đã sinh, đứa đầu tiên bị mù, đứa thứ hai đã chết, đứa thứ ba vừa điếc
vừa đần độn, đứa thứ tư cũng bị lao. Thế ông sẽ phải làm gì? “
“Tôi sẽ phải dứt bỏ cái
thai.”
“Như thế, ông đã phải giết
chết Beethoven”.
Internet thì tràn ngập những trang web được gọi là phò-sống [2],
lập lại câu chuyện phi lý lố bịch này, và thay đổi ngẫu nhiên những tiền đề
thực tại với sự vô lối bừa bãi nghịch ngợm. Đây là một phiên bản khác. “Nếu bạn
biết một người phụ nữ đang mang thai, là người đã có 8 đứa con rồi, ba đứa bị
điếc, hai đứa bị mù, một đứa não thức bị chậm phát triển, thành đần độn (tất cả
vì bà mẹ đã mắc bệnh giang mai), bạn có sẽ đề nghị rằng bà ấy nên phá thai hay
không? Sau đó, bạn hẳn đã giết chết Beethoven [3],
bản dịch của truyền thuyết này đã giáng nhà soạn nhạc vĩ đại từ thứ năm xuống
thứ chín trong thứ tự ra đời, làm tăng số sinh ra bị điếc lên thành ba ,và số
sinh ra bị mù thành hai, và cho người mẹ bệnh giang mai thay vì người cha. Hầu
hết trong số bốn mươi ba trang web tôi đã gặp, khi tìm những phiên bản của câu
chuyện, được gán cho, không với Maurice Baring, nhưng với một giáo sư L. R.
Agnew nào đó, tại trường Y khoa, của UCLA, người được cho là đã đặt câu hỏi khó
xử này cho những sinh viên của ông, và đã nói với họ, “Xin chúc mừng, bạn vừa
mới giết chết Beethoven.” Chúng ta có thể nên có lòng nhân từ, cho LR Agnew
đươc hưởng lợi của nghi ngờ rằng chẳng biết ông là người có thực hay không–
thật là hết sức ngạc nhiên trước những truyền thuyết tân thời mọc lên như thế
nào [4].
Tôi không thể tìm biết được – không rõ có phải truyền thuyết có nguồn từ
Baring, hay nó đã được đặt ra trước đó sớm hơn.
Vì chắc chắn là đã bịa đặt ra. Nó thì hoàn toàn sai. Sự thật,
Ludwig van Beethoven không là đứa con thứ chín, cũng chẳng phải là đứa có thứ
năm con của cha mẹ ông. Ông là con trai lớn nhất – đúng là người con thứ nhì,
nhưng người sinh trước ông, đã chết sớm ngay khi còn ẵm ngửa, như đã thông
thường trong những ngày đó, và cho đến nay không hề biết là bị mù, hoặc điếc,
hoặc câm, hoặc trí óc chậm phát triển. Không có bằng chứng nào cho thấy người
nào, cha hay mẹ của ông đã bị giang mai, mặc dù đó là sự thật rằng mẹ của ông
cuối cùng đã chết vì bệnh lao. Có rất nhiều bệnh lao về vào thời đó.[5]
Trong thực tế, đây là một truyền thuyết tân thời, được gắn
lông gài cánh, một tạo dựng bị đặt, được những người đặc biệt có lợi đảm bảo
chắc chắn nào đó trong việc reo rắc nó, thả nó cho bay xa rộng. Nhưng sự kiện
rằng nó là một dối trá, dù trong trường hợp nào, thì hoàn toàn không phải là
điểm đáng nêu thành vấn đề. Ngay cả nếu nó đã không là một dối trá, lý luận
diễn dịch từ nó ra thực sự là là một luận chứng rất tệ hại. Peter và Jean
Medawar đã không cần phải nghi ngờ câu chuyện là thật hay không, ngõ hầu để chỉ
ra những sai lầm của luận chứng này: “Những lý do đằng sau lập luận ti tiện ghê
tởm này là ngụy biện kinh ngạc đến ngưng thở, vì chỉ trừ khi được cho rằng có
một vài kết nối quan hệ nhân quả giữa – việc có một người mẹ ho lao cùng một
người cha giang mai và việc sinh ra một thiên tài âm nhạc; – sự kiêng khem giao
hợp (chính đáng) cũng không có khả năng tước đi một Beethoven của thế giới, hơn
là sự phá thai (giải pháp bất đắc dĩ) ” [6] Sự
khinh bỉ của hai tác giả Medawars là ngắn gọn là không buồn trả lời (để mượn
cốt truyện một truyện đen tối ngắn của Roald Dahl, một quyết định bất ngờ không
kém, không phá thai năm 1888 đã cho chúng ta một Adolf Hitler). Nhưng bạn cần
một chút của trí thông minh – hoặc có lẽ sự tự do thuộc một loại của sự giáo
dục (nhồi sọ) tôn giáo – để đi đến nhận được điều đáng nói này. Trong số bốn
mươi ba trang web “phò-sống” trích dẫn một phiên bản của truyền thuyết Beethoven
mà tìm kiếm Google của tôi “xới” lên trong ngày viết trang này, có có lấy được
một nào đã khám phá ra sự sai lầm, phi-lôgích trong luận chứng. Tất cả mỗi
chúng (chúng đã tất cả là những trang web tôn giáo, dù sao đi nữa) đều mắc hoàn
toàn vào ngụy biện, bị nó vớt lấy, móc chặt, rồi nuốt cả dây câu lẫn lưỡi câu.
Một trong số chúng, thậm chí còn thừa nhận Medawar (đánh vần Medawar) như nguồn
của nó. Những người này đã háo hức chừng nòa như thế để tin vào một ngụy biện
nhưng đúng hợp với lòng tin tưởng tôn giáo của họ, họ thậm chí không nhận thấy
rằng hai tác giả Medawars đã trích dẫn luận chứng cốt chỉ để thổi nó ra thành
những bọt nước.
Như hai tác giả Medawars đã hoàn toàn đúng để chỉ ra, kết
luận hợp lôgích cho lập luận của “con người tiềm năng” là chúng ta có khả năng
làm mất một linh hồn người, không cho nó quà tặng của đời sống, tất cả mỗi lần
chúng ta thất bại không chụp lấy bất kỳ một cơ hội nào để giao hợp. Tất cả mỗi
từ chối với bất kỳ một mời gọi giao hợp từ bất kỳ một cá nhân có khả năng sinh
sản nào, theo như lôgích đần độn của phe “phò-sống” này, tương đương với sự
giết chết một đứa trẻ tiềm năng! Ngay cả chống cự lại hiếp dâm cũng có thể được
trình bày như giết chết một đứa bé tiềm năng (và, nhân đây, có rất nhiều những
người vận động của phong trào “phò-sống” là những người sẽ phản đối phá thai,
ngay cả với những phụ nữ đã bị hãm hiếp tàn bạo). Luận chứng Beethoven, chúng
ta có thể thấy rõ, thì thực sự có lôgích rất xấu. Sự ngu si đến siêu thực của
nó thì tốt nhất tóm thu trong bài hát tuyệt vời “Mỗi tinh trùng là thiêng
liêng” do Michael Palin hát , với một dàn đồng ca của hàng trăm trẻ em, trong
phim Monty Python The Meaning of Life
(nếu bạn chưa, hãy đi xem phim này). Ngụy biện Beethoven Tuyệt vời là một thí
dụ điển hình cho loại những tình trạng bừa bộn rối rắm lôgích bẩn thỉu, chúng
ta vướng mắc vào khi não thức của chúng ta bị quan điểm tuyệt đối trong tôn
giáo gây hoang mang làm ngớ ngẩn, đần độn, đến mụ đi.
Giờ đây, chú ý ghi nhận là “phò-sống” không chính xác có
nghĩa là ủng hộ sự sống nữa. Nó có
nghĩa là “ủng hộ sự-sống-loài-người” [7].
Việc ban những quyền đặc biệt độc nhất cho những tế bào của loài Homo sapiens thì khó mà thuận hợp được
với thực tế của tiến hóa. Phải thừa nhận rằng, điều này sẽ không gây lo lắng
cho nhiều những người chống phá thai, là người vốn không hiểu rằng tiến hóa là một sự kiện thực tế! Nhưng hãy để tôi
nhanh chóng đưa ra những chi tiết của luận chứng vì ích lợi cho những người
tích cực hoạt động chống phá thai, là người có thể ít biết gì về khoa học.
Lập luận tiến hóa thì rất đơn giản. Tính-loài-người của những tế bào của một phôi không thể ban cho nó
bất kỳ một tư thế đạo đức tuyệt đối bất liên tục nào. Nó không thể, vì sự liên
tục tiến hóa của chúng ta với loài chimpanzee và, xa hơn nữa, với tất cả những loài
trên hành tinh. Để thấy điều này, hãy tưởng tượng rằng có một loài trung gian,
hãy nói là Australopithecus afarensis,
đã có may mắn để sống sót và đã được khám phá trong một vùng hẻo lánh của châu
Phi. Liệu những sinh vật này có được kể như “loài người” hay không? Với một
người theo thuyết hệ quả đạo đức như tôi, câu hỏi không xứng
đáng có một trả lời, vì không có gì bắt đầu xảy ra với nó. Điều là đủ rằng
chúng ta sẽ lấy làm thích thú và vinh dự được gặp một “Lucy” mới [8].
Người giữ quan điểm có những tuyệt đối, mặt khác, phải trả lời câu hỏi, để áp
dụng nguyên tắc đạo đức của sự ban cho vị thế độc đáo và đặc biệt của loài
người, vì họ là loài người. Nếu nó đưa đến căng thẳng khủng hoảng, họ sẽ có lẽ
cần phải thiết lập những tòa án, giống như của nước Nam Phi phân biệt chủng
tộc, để quyết định liệu một cá nhân cụ thể nào đó “được thuận là thuộc loài
người “.
Ngay cả khi nếu một câu trả lời rõ ràng có thể cố gắng đưa ra
cho trường hợp một Australopithecus,
tính liên tục tiệm tiến, từ từ không đứt quãng, vốn là một thuộc tính nổi bật
không thể thiếu của tiến hóa sinh học, cho chúng ta biết rằng phải có một vài trung gian, sẽ nằm đủ gần “đường
ranh giới” để làm mờ đi nguyên tắc đạo đức và tiêu diệt tính tuyệt đối của nó.
Cách tốt hơn để nói điều này là không có những đường ranh giới tự nhiên trong
quá trình tiến hóa. Ảo tưởng về một đường ranh giới đã tao nên từ sự kiện xảy
ra là những trung gian tiến hóa đã bị tuyệt chủng. Dĩ nhiên, điều có thể lập
luận được rằng con người có nhiều khả năng, lấy thí dụ, về đau đớn hơn so với
những loài khác. Điều này có thể cũng đúng, và một cách hợp pháp, chúng ta cũng
có thể ban cho con người một vị thế đặc biệt vì “công trạng” này của nó. Nhưng
sự liên tục trong tiến hóa cho thấy rằng không có sự phân biệt tuyệt đối. Sự kỳ thị phân biệt đạo đức
theo quan điểm tuyệt đối bị sự kiện thực tại của tiến hóa đục phá tan hoang nền
tảng. Một nhận thức khó chịu trước sự kiện này có thể, thực sự, nằm bên dưới
một trong những động cơ chính chống lại tiến hóa của những người theo thuyết
sáng tạo: họ sợ những gì họ tin là những hệ quả đạo đức của nó. Họ là sai để
làm như thế, nhưng dù trường hợp nào đi nữa, điều chắc chắn là rất trái lạ khi
nghĩ rằng một sự thật về thế giới thực tại có thể bị đảo ngược bởi những đắn đo
suy nghĩ về những gì sẽ là được mong ước về mặt đạo đức.
“Sự
ôn hòa” trong Lòng tin Tôn giáo nuôi dưỡng Sự Cuồng tín như thế nào
Trong minh họa cho mặt tối của quan điểm tuyệt đối tôn giáo,
tôi đã đề cập về những người Kitô ở Mỹ là người giật nổ tung những bệnh viện
phá thai, và những người Taliban của Afghanistan, danh sách những tàn bạo của
họ, đặc biệt là với phụ nữ, tôi thấy quá đau lòng không muốn kể lại. Tôi đã có
thể mở rộng danhh sách với Iran dưới những giáo sĩ lãnh tụ Ayatollahs, hoặc với
Saudi Arabia dưới những hoàng tử Saud, nơi mà phụ nữ không thể lái xe, và sẽ
gặp khốn đốn vạ thân nếu họ thậm chí rời nhà họ mà không có một bà con nam phái
nào đi cùng (người này có thể, như là một nhân nhượng độ lượng, là một đứa bé
con). Xem Price of Honour của
Goodwin, cho một sự phơi bày đến tan tành (tố cáo) việc đối xử với phụ nữ trong
Saudi Arabia và những chế độ giáo-quyền khác trong thời nay. Johann Hari, một
trong những ngòi bút bình luận sống động của tờ Independent (London), đã viết một bài báo mà tựa đề của nó tự nói
về chính nó: “Cách tốt nhất để làm suy yếu những kẻ lao đầu vào thánh chiến (jihadist) là để kích động một cuộc nổi
loạn của phụ nữ Islam”. [9]
Hoặc, chuyển sang đạo Kitô, tôi có thể đã trích dẫn những
người Mỹ Kitô “cực sướng”, ảnh hưởng của những người này hết sức mạnh mẽ trên
chính sách của Mỹ tại Trung Đông, nó được tin tưởng kinh Thánh của họ quy định,
rằng Israel đã nhận được quyền Gót-cho với tất cả những đất đai của Palestine. [10] Một vài người
Kitô “cực sướng” còn đi xa hơn, và khao khát thực sự mong chờ có chiến tranh
nguyên tử xảy ra, vì họ giải thích đó là trận chiến tận thế – “Armageddon”, mà
theo như diễn giải quái đản nhưng rất phổ biến của họ từ quyển sách (tiên tri) Khải Huyền, sẽ đẩy nhanh đến lần Chúa
xuống trần thứ hai. Tôi không thể viết cho hơn được nhận xét ớn lạnh của Sam
Harris, trong Letter to a Christian
Nation của ông:
Như thế, không
phải là quá lời, nói rằng nếu một khối lửa đã thình lình thế chỗ thành phố New
York, một số phần trăm đáng kể dân Mỹ sẽ xem đó là một tia hi vọng giữa đám mây
hình nấm bốc lên sau đó, như nó sẽ bảo cho họ là cái điều tốt đẹp nhất có thể
xảy ra, thì đang xảy ra đến nơi rồi: Christ trở lại trần gian. Hiển nhiên là
phải sáng lòa đến mù mắt, rằng những tin tưởng thuộc loại như thế sẽ giúp chúng
ta rất ít vào việc tạo dựng một tương lai bền vững cho chúng ta – về xã hội,
kinh tế, môi sinh, hay địa lý chính trị. Hãy tưởng tượng những hậu quả nếu bất
cứ một thành phần đáng kể nào của chính phủ Mỹ thực sự tin rằng thế giới sắp
tận thế đến nơi, và tận thế của quả đất sẽ là tuyệt diệu huy hoàng. Thực tế là
gần nửa dân chúng Mỹ xem ra tin như thế này, thuần trên tín lý giáo điều, đáng
nên xem là một nguy kịch về đạo đức và trí thức.
Sau đó, có những người với lòng tin tôn giáo của họ mang
thẳng họ ra ngoài, khỏi sự đồng thuận đã được lý trí soi sáng thoát mê tín của
“Zeitgeist đạo đức “của tôi. Họ đại diện cho những gì tôi đã gọi là mặt u tối
của quan điểm tin tưởng tuyệt đối trong tôn giáo, và họ thường được gọi là
những người cực đoan. Nhưng điểm tôi muốn nêu lên trong phần này là rằng ngay
cả tôn giáo dịu nhẹ và ôn hòa cũng giúp để đem lại khí hậu của lòng tin tôn
giáo, trong đó sự cực đoan nẩy nở và phát triển tự nhiên.
Trong tháng 7 năm 2005, London là nạn nhân của một vụ tấn
công bằng mang bom tự sát có phối hợp: ba quả bom trong tàu điện ngầm và một
trên xe buýt. Không phải cũng bị thiệt hại như cuộc tấn công năm 2001 vào Trung
tâm Thương mại Thế giới ở NewYork, và chắc chắn không phải là bất ngờ (thực ra,
London đã được chuẩn bị tinh thần cho một biến cố loại như thế, từ khi (thủ
tướng Anh) Blair đã đẩy chúng tôi vào tình nguyện như những đồng mưu cộng tác
miễn cưỡng trong vụ xâm lăng Iraq của (tổng thống Mỹ) Bush). Tuy nhiên những vụ
nổ ở London đã làm kinh hoàng nước Anh. Những tờ báo đầy những cột chữ với
những đánh giá khắc khoải tuyệt vọng về những gì đã đưa đẩy bốn thanh niên tự
làm nổ tung họ lên để mang theo rất nhiều người vô tội chết theo họ. Những kẻ
giết người đã là những công dân Anh, ưa thích môn thể thao cricket, cũng tử tế
lịch sự, đúng là loại những người trẻ tuổi mà người ta có thể thấy thoải mái
nếu làm bạn đồng hành.
Tại sao những những con người thích chơi môn thể thao
cricket, còn trẻ tuổi này, làm điều đó? Không giống như những tương đồng của
họ, những người Palestine, hay những kamikaze
tại Nhật Bản, hay những Tamil Tiger tại Sri Lanka, những quả bom-người này
không có kỳ vọng rằng gia đình tang quyến của họ sẽ thành có tiếng tăm, sẽ được
chăm sóc hoặc hỗ trợ, được cấp dưỡng tiền liệt sĩ chết vì đạo. Ngược lại, thân
nhân của họ trong một vài trường hợp đã phải đi trốn. Một trong những người này
đã cẩu thả bỏ lại vợ đang mang thai nay thành góa bụa và đứa con tuổi chập
chững thành mồ côi cha. Hành động của bốn người trẻ này đã là tai họa không chỉ
với bản thân và nạn nhân của họ, nhưng với gia đình của họ, và với toàn bộ cộng
đồng Islam ở nước Anh, bây giờ phải đối diện với phản ứng bật lại dữ dội. Chỉ
có lòng tin tôn giáo mới là một lực lượng đủ mạnh để thúc đẩy sự điên rồ hoàn
toàn cùng cực như vậy trong những con người, nếu không thế, họ vẫn là lành mạnh
và khuôn phép tử tế. Một lần nữa, Sam Harris nêu lên lên trọng điểm vấn đề với
sự thẳng thừng người đọc chúng ta cảm nhận được. Lấy thí dụ về tổ chức Al-Qaida
do Osama bin Laden lãnh đạo (những người không dính líu gì với vụ gài bom ở London,
nhân đây phải nói). Tại sao lại có một bất cứ ai muốn phá hủy Trung tâm Thương
mại Thế giới và mọi người trong đó? Để gọi bin Laden là “tà ác”, là trốn tránh
trách nhiệm của chúng ta để đem lại một câu trả lời thích đáng cho một câu hỏi
quan trọng như vậy.
Câu trả lời cho câu hỏi này
là hiển nhiên – nếu chỉ vì nó đã được nói rõ ràng kiên nhẫn quá nhiều đến mệt
nhoài của chính bin Laden. Câu trả lời là những người như bin Laden thực sự tin vào những gì họ nói rằng họ
tin tưởng. Họ tin vào sự thật theo chữ viết nghĩa đen của kinh Koran. Tại sao
những người tuổi mười chín, có giáo dục tốt, thuộc tầng lớp trung lưu, lại đánh
đổi cuộc sống của họ trong thế giới này để lấy đặc quyền của sự giết chết hàng
ngàn người láng giềng của chúng ta? Vì họ tin rằng họ sẽ đi thẳng tới thiên
đường sau khi đã làm như vậy. Thật hiếm để tìm thấy hành vi của con người lại
được giải thích đầy đủ và thỏa đáng như vậy. Tại sao chúng ta đã quá miễn cưỡng
như vậy, đã không chấp nhận ngay giải thích này? [11]
Những nhà báo đáng kính Muriel Gray, viết trong (Glasgow) Herald ngày 24 tháng Bảy 2005, đã nêu
cùng một điểm tương tự, trong trường hợp này, dẫn nhắc những vụ đặt bom ở
London.
Mọi người đều đang bị đổ
lỗi, buộc trách nhiệm, từ cặp nhân vật phản diện rõ ràng của George W Bush và
Tony Blair, đến sự bất động của cộng đồng Islam. Nhưng nó chưa bao giờ từng rõ
ràng hơn rằng chỉ có một nơi để đổ lỗi, buộc trách nhiệm, và nó đã từ bao giờ
vẫn là như vậy. Nguyên nhân của tất cả đau khổ này, tình trạng nhiễu loạn xáo
trộn, bạo lực, khủng bố và ngu xuẩn, dĩ nhiên, là tôn giáo chính nó, và nếu nó
có vẻ buồn cười phải nói ra một thực tế hiển nhiên như thế, thực tế là chính
phủ và những phương tiện truyền thông đang làm rất khéo một công việc giả vờ,
rằng nó không phải là như vậy.
Những chính trị gia phương Tây của chúng ta tránh đề cập tới
từ R (religion), và thay vào đó, đặc biệt mô tả trận chiến của họ như là một
chiến tranh chống lại “khủng bố” (terror), như thể nếu khủng bố là một loại
tinh thần, hay lực lượng, với một ý chí và não thức của riêng nó. Hoặc họ đặc
biệt mô tả những kẻ khủng bố như có động lực từ sự “ác độc” thuần khiết khái
niệm. Nhưng họ không phải có động lực từ (lòng dạ hay não thức) ác độc. Cho dù
chúng ta có thể nghĩ về họ sai lạc đến đâu, giống như những kẻ giết người đạo
Kitô với những y sĩ phá thai, họ đều có động cơ từ những gì họ cảm nhận là công
chính, chân thực, theo đuổi làm cho được những gì tôn giáo của họ nói với họ.
Họ không phải là những người có bệnh tâm thần hay bị rối loạn não thức, họ là
những người mang lý tưởng tôn giáo, là những người, dưới ánh sáng của riêng họ,
là có lý trí hợp lý. Họ nhận thức hành vi của họ là tốt, không phải vì một vài
bẻ cong biến dạng của khí chất cá nhân, và không phải vì họ đã bị ma ám, quỉ
Satan nhập vào người, nhưng vì họ đã được nuôi dạy từ bé đến lớn, từ khi còn
trong nôi, để có một lòng tin tôn giáo trọn vẹn tuyệt đối và mù quáng không tra
hỏi. Sam Harris trích dẫn một người Palestine mang bom tự sát, sau khi bị thất
bại, đã nói rằng những gì đã lái đẩy ông để giết người Israel là “tình yêu với
sự tử đạo ... Tôi không muốn trả thù bất cứ điều gì. Tôi chỉ muốn trở thành một
kẻ tử vì đạo”. “Ngày 19 tháng 11 năm 2001 tờ New Yorker thực hiện một cuộc phỏng vấn Nasra Hassan, một người
mang bom tự sát đã bị thất bại khác, một người Palestine lịch sự, lễ phép, còn
trẻ, mới 27 tuổi, được gọi dấu tên là “S”. Sự cám dỗ thu hút của thiên đường là
quá nên thơ thuyết phục hùng hồn, như đã được những người lãnh đạo tôn giáo và
thày dạy giáo lý ôn hòa rao giảng, mà tôi nghĩ rằng nó là đáng công để trích
dẫn lại với phần nào dài hơn thường:
“Sự thu hút của sự tử đạo là
gì?” Tôi hỏi.
“Sức mạnh của tinh thần nâng
chúng ta đi lên, trong khi sức mạnh của vật chất lôi chúng ta đi xuống”, ông
nói. “Một ai kiên quyết với sự tử đạo trở nên miễn nhiễm với vật chất lôi kéo.
Người lập kế hoạch của chúng tôi hỏi, “Nếu hành động thất bại thì sao?” Chúng
tôi đã nói với ông ta:” Dù trong trường hợp nào đi nữa, chúng ta được gặp mặt
đấng Tiên tri và những người quanh ông, Nếu ý Allah định thế.”
“Chúng tôi đã được thả nổi,
bơi lội, trong cảm giác rằng chúng tôi sắp sửa bước vào cõi vĩnh cửu. Chúng ta
không hồ nghi gì. Chúng tôi đã thề trên kinh Koran, trong sự hiện diện của
Allah – một cam kết không lay chuyển. Cam kết thánh chiến này được gọi là bayt al-ridwan, lấy tên khu vườn trên
thiên đàng nơi dành riêng cho những vị tiên tri và những người tử đạo. Tôi biết
rằng có những khác cách để làm thánh chiến. Nhưng cách này là ngọt ngào – ngọt
ngào nhất. Tất cả tử hoạt động tử đạo, nếu được thực hiện vì lợi ích cho Allah,
đau còn ít hơn một vết chích của muỗi-mắt! “
S đã cho tôi xem một video
đã ghi làm tài liệu kế hoạch sau cùng cho hành động. Trong đoạn phim lốm đốm
này, tôi nhìn thấy anh ta và hai người trẻ khác tham gia vào một nghi lễ đối
thoại gồm những câu hỏi và câu trả lời về sự vinh quang của sự tử đạo.. .
Những con người trẻ và người
lập kế hoạch sau đó cùng quỳ xuống và đặt tay phải của họ trên kinh Koran.
Người lập kế hoạch cho biết: “Bạn đã sẵn sàng chưa? Ngày mai, bạn sẽ ở trên
thiên đường” [12].
Nếu tôi đã là “S”, tôi đã bị lôi cuốn dỗ để nói với người lập
kế hoạch này, “Vâng, trong trường hợp đó, tại sao bạn không tròng cổ chính bạn
vào liều lĩnh như mồm bạn vừa nói? Tại sao bạn không làm sứ mạng tự tử và lấy
con đường đi nhanh đến thiên đường?” Nhưng những gì là quá khó cho chúng ta
hiểu được là – để lập lại điểm này vì nó là rất quan trọng – những người này thực sự tin vào những gì họ
nói rằng họ tin tưởng. Thông điệp học được từ kinh nghiệm sống là chúng ta
nên đổ lỗi cho bản thân tôn giáo, chứ không phải cho sự cực đoan tôn giáo – như thể nếu đó đã là thuộc một vài loại hư
hỏng, hiểu sai, lầm đường khủng khiếp nào đó của những tôn giáo tốt lành tử tế,
có thực. Voltaire đã nói điều nó từ lâu trước: “Những người có thể làm cho bạn
tin tưởng vào những ngu xuẩn phi lý, họ có thể làm cho bạn phạm vào những tội
ác tàn độc”. Cũng thế, Bertrand Russell đã nói: “Nhiều người sẽ chết sớm hơn
suy nghĩ. Trong thực tế, họ như thế”.
Cho đến chừng nào chúng ta vẫn chấp nhận nguyên tắc rằng lòng
tin tôn giáo phải được tôn trọng chỉ đơn thuần vì nó là lòng tin tôn giáo, thật
khó giữ để đừng tôn trọng lòng tin tôn giáo của Osama bin Laden và những người
mang bom tự sát. Chọn lựa thay thế khác, một chọn lựa quá rõ ràng trong suốt mà
nó sẽ không cần dục giã, là từ bỏ nguyên tắc của tự động tôn trọng với lòng tin
tôn giáo. Đây là một lý do tại sao tôi làm tất cả những gì trong khả năng của
tôi, để báo trước nguy hiểm cho mọi người, hãy chống lại chính lòng tin tôn
giáo, không chỉ chống lại cái gọi là lòng tin “cực đoan”. Những giảng dạy của
tôn giáo “ôn hòa”, dù trong bản thân chúng không cực đoan, nhưng chúng là một
mời gọi bỏ ngỏ cho chủ nghĩa cực đoan.
Điều có thể nói ở đây là không có gì đặc biệt về lòng tin tôn
giáo. Lòng yêu nước hay yêu một sắc tộc cũng có thể làm thế giới an toàn vì
phiên bản riêng của chủ nghĩa cực đoan, không thể như thế, phải không? Vâng, nó
có thể, như là với những kamikazes
tại Nhật Bản và những người trong tổ chức TigersTamil ở Sri Lanka. Nhưng lòng
tin tôn giáo là một quyền thế đặc biệt làm tắt tiếng sự tính toán lý trí, nó
thường có vẻ như lá bài thắng tất cả những lá bài khác. Điều này phần lớn, tôi
nghi ngờ, vì lời hứa lừa dối dễ dàng và êm tai rằng chết không phải là hết, và
rằng một thiên đường của kẻ tử đạo là đặc biệt vinh hiển. Nhưng nó cũng còn do
một phần vì nó không khuyến khích đặt câu hỏi, bởi chính bản chất của nó.
Kitô, cũng giống như Islam, dạy cho trẻ con rằng một lòng tin
tôn giáo không tra hỏi thắc mắc là một đức hạnh. Bạn không phải giải thích hay
đưa ra lý do cho những gì bạn tin tưởng. Nếu ai đó thông báo rằng nó là một
phần của lòng tin tôn giáo của người ấy,
phần còn lại của xã hội, cho dù cùng một lòng tin, hay một lòng tin khác, hoặc
không có lòng tin nào cả, đều bị bắt buộc như nghĩa vụ, theo tập quán ăn sâu,
để “tôn trọng” nó, mà không đặt câu hỏi; tôn trọng nó cho đến ngày nó thể hiện
trong một vụ thảm sát khủng khiếp giống như phá hủy Trung tâm Thương mại Thế
giới, hoặc đặt bom ở London hay Madrid. Sau đó, có một hợp xướng thánh thót của
những cự tuyệt, thoái thác, khi những gáo sĩ, thày chăn chiên và “những lãnh
đạo cộng đồng” (ai đã bầu họ lên?
tiện đây cũng nói) xếp hàng để giải thích rằng chủ nghĩa cực đoan này là một hư
hỏng, hiểu sai, lầm đường của lòng tin tôn giáo “chân thực”. Nhưng làm thế nào
có thể có một hư hỏng, hiểu sai, lầm đường của lòng tin tôn giáo, nếu lòng tin
tôn giáo, khi thiếu biện minh khách quan, không có bất kỳ một tiêu chuẩn trưng
bày nào để không hư hỏng, hiểu sai, lầm đường hay bang hoại?
Mười năm trước, Ibn Warraq, trong quyển Why I Am Not a Muslim xuất sắc của ông, đã nêu lên một điểm tương
tự từ tư thế của một học giả có kiến thức Islam sâu sắc. Thật vậy, một nhan đề
hay thay thế cho quyển sách của Warraq có thể là The Myth of Moderate Islam, và đó là nhan đề thực của một bài báo
gần đây trên tờ (London) Spectator
(30 tháng 7 năm 2005) của một học giả, Patrick Sookhdeo, Giám đốc Viện Nghiên
cứu Islam và Kitô. “Phần lớn đa số những người Muslim ngày nay sống đời sống
của họ mà không phải tìm đến bạo lực, vì kinh Koran thì giống như một tuyển tập
của chọn-lấy-rồi-trộn-lẫn-tùy-ý. Nếu bạn muốn hòa bình, bạn có thể tìm thấy
những vần điệu hoà bình. Nếu bạn muốn có chiến tranh, bạn có thể tìm thấy những
vần điệu hiếu chiến”.
Sookhdeo đi tiếp đến giải thích cách những học giả Islam, để
đối phó với nhiều mâu thuẫn mà họ tìm thấy trong kinh Koran, đã phát triển
nguyên tắc huỷ bỏ, trong đó văn bản viết sau thắng những văn bản viết trước.
Thật không may, những đoạn văn hoà bình trong Qur”an chủ yếu là ở phần đầu, có
năm tháng từ thời Muhammad còn ở tại Mecca. Những câu thơ hiếu chiến hơn
nghiêng sang có năm tháng sau đó, sau khi ông chạy về Medina. Kết quả là
Câu thần chú “Islam là hòa
bình” thì gần như đã quá hạn đến cả 1.400 năm. Đã là chỉ vào khoảng có 13 năm
Islam đã là hòa bình và không gì ngoài hòa bình. … Với những người Muslim cực
đoan ngày nay, cũng đúng như với những luật gia thời Trung cổ đã phát triển
Islam cổ điển – nó sẽ được đứng hơn để nói rằng “Islam là chiến tranh “. Một
trong những nhóm Islam cấp tiến nhất tại Anh, al-Ghurabaa, nói rõ ngay sau hai
vụ nổ bom ở London, “Bất kỳ một người Islam nào phủ nhận khủng bố không là một
phần của Islam là kafir”. Một “kafir” là một người vô tín ngưỡng (tức là
không-Muslim), một từ xúc phạm lớn lắm ...
Có thể nào rằng những người
trẻ tuổi tự tử đã không từ bên lề của xã hội Islam ở Anh, cũng không phải đi
theo một giải thích lập dị và cực đoan của lòng tin tôn giáo của họ, nhưng đúng
hơn là họ đến từ chính gốc lõi của cộng đồng Islam, và được thúc đẩy bởi chính
một giải thích vẫn thường có đấy của đám đông bình thường đạo Islam?
Một cách tổng quát hơn (và điều này áp dụng với Kitô cũng
không kém hơn với Islam), những gì là thực sự nguy hại là sự thực hành trong
giảng dạy cho trẻ em rằng lòng tin tôn giáo tự nó là một đức hạnh. Lòng tin tôn
giáo là một tà ác, chính xác vì nó không đòi hỏi phải chứng minh rõ ràng và
không cho phép có biện luận. Giảng dạy trẻ em rằng lòng tin tôn giáo không được
hỏi han chất vấn là một đức hạnh làm chúng chín mùi sẵn sàng – khi có được một
vài hợp phần khác mà không phải là khó tìm – để chúng lớn lên vào thành những
vũ khí chết người dự bị cho những thánh chiến Islam jihads hay thập tự chinh Kitô trong tương lai. Đã tiêm thuốc chủng
cho (trẻ em) chống lại bệnh sợ hãi bằng lời hứa về một thiên đường dành cho
người tử đạo, những kẻ có thẩm quyền đứng đầu những tổ chức của lòng tin tôn
giáo, đều xứng đáng chiếm một vị trí cao trong lịch sử của những vũ khí, cùng
với những cung, ngựa chiến, xe tăng và bom-giây. Nếu trẻ em đã được dạy để hỏi
và suy nghĩ qua những tin tưởng của chúng, thay vì được dạy đức hạnh tối thượng
của lòng tin tôn giáo với không tra hỏi, sẽ không có mang bom tự tử là một đánh
cá có phần chắc thắng. Những người mang bom tự tử làm những gì họ làm vì họ
thực sự tin vào những gì họ đã được giảng dạy trong những trường học tôn giáo
của họ: rằng nhiệm vụ với Gót vượt trên tất cả những ưu tiên khác, và rằng chết
vì đạo trong phụng sự Gót sẽ được khen thưởng trong vườn thiên đường. Và họ đã
được dạy bài học đó không nhất thiết phải do những người cuồng tín cực đoan,
nhưng do những thày dạy tôn giáo chính thống của đám đông bình thường, những
người tử tế, khoan hòa dịu dàng, những người xếp hàng chúng trong madrasas của họ, ngồi thành hàng, nhịp
nhàng gục gặc những cái đầu bé nhỏ vô tội của chúng, đều đặn lên và xuống,
trong khi họ học tất cả từng lời của quyển sách thánh, giống như những con vẹt
lú lẫn mất trí. Lòng tin tôn giáo có thể rất và rất nguy hiểm, và cố tình để
cấy ghép nó vào trong não thức dễ bị tổn thương của một đứa trẻ vô tội là một
sai lầm đau thương. Đó là về chính thời thơ ấu, và những nhũng lạm xâm phạm
thời thơ ấu của tôn giáo, mà chúng ta quay sang, trong chương tiếp theo.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Jul/2013)
[1] [* Sir Peter
Medawar đoạt giải Nobel Sinh lý và Y học, 1960.]
[2]
pro-life: phò-sống: opposing abortion
and euthanasia,
ngược lại là pro-choice:
phò-chọn: advocating legalized abortion
[3]
[http://www.warroom.com/ethical.htm.]
[4]
urban legend: truyền thuyết thành thị:
một câu chuyện thường đột nhiên xuất hiện, có nguồn gốc bí mật, không rõ từ đâu
và bất chợt được nổi lên lan truyền rộng rãi, dưới nhiều hình thái và thường là
ngụy tọa, sai lầm; nhung câu chuyện lôi cuốn vì thường mang những yếu tố hài ước,
hay kinh dị, nên cũng đươc đông đảo người nghe thụ động chấp nhận, không cho là
sai. Đúng hơn nên gọi là những truyền thuyết tân thời (contemporary legends). Gọi
là “thành thị” để phân biệt với truyền thuyết cổ thời (của dân quê trong khung cảnh
thôn làng trước đây)
[5]
Beethoven ra đời ngày December 17, 1770, là đứa con thứ hai của hai ông bà:
Johann van Beethoven (1740 –1792) và Maria Magdalena van Beethoven (1746-87).
Người sinh trước ông là Ludwig Maria, chỉ sống được 6 ngày. Beethoven thành
người lớn nhất, ông còn hai em trai, Caspar Anton Carl(1774-1815) và Nikolaus
Johann (1776-1848).
[6]
[Medawar and Medawar (1977).]
Lập luận trên dựa vào một giả định (ngu xuẩn) cho
rằng:
(a) Đứa con nào sinh ra từ cha mẹ bệnh tật hiểm nghèo
cũng đều là thiên tài (như Beethoven)
cả
Nếu cho (a) là đúng – sẽ đưa đến kết luận (đần độn và
ác độc) ngầm rằng:
(b) Trong những gia đình có cha mẹ như thế, phải để
cho sinh sản tự nhiên và chỉ thế mới không lấy đi của nhân loại những thiên tài
tương lai như Beethoven
Kết luận (b) sẽ phủ nhận cả một giải pháp khác, hữu
hiệu và nhân đạo hơn, là ngừa thai vì nó ngăn
không cho thiên tài có cơ may ra đời, nên cũng không hơn gì, không hấp nhận
được, như giải pháp bị chống đối là phá thai (giết thiên tài).
Giải pháp ngừa thai là hợp lý và lâu dài, đặc biệt
trong trường hợp cha mẹ được biết có những bệnh nan y di truyền, và phá thai
chỉ là giải pháp muộn màng, cứu chữa nhất thời. Nhưng chúng ta cũng biết hội
nhà thờ giữ lập trường giáo điều là không chấp nhận cả biện pháp ngừa thai –
trước sau từ vua chiên trở xuống đến hàng chăn chiên những giáo phận, đều chống
ngừa thai, nói rằng đó là sai trái (“chống lại ý Chúa”), lý do đơn giản và
thiêng liêng này được kêu gọi để cổ vũ tín đồ tuân phục. Nhưng động cơ thực sự
sau tất cả những chống đối từ ngừa thai đến phá thai, vừa ngu xuẩn (phản khoa
học), vừa ác độc (gây đay khổ) đến từ truyền thống có nhu cầu bành trướng bằng
đám đông; Nó không thể để số tín đồ ít ỏi khi Kitô còn là một giáo phái nhỏ bị
giảm bớt, nếu thế sự sống còn khởi đầu của nó trong đế quốc La mã bị đe đọa.
Động cơ này được che dấu khéo léo và ngụy biện tài tình, lừa dối được cả trong
(giới chăn chiên) và ngoài (tín đồ).
[7]
Pro-human-life
[8] Hai thày trò
trong ngành nhân loại học, giáo sư Donald Johanson và sinh viên của ông Tom
Gray, đã tìm ra “Lucy” năm 1974 trong một mạng dày đặc những hẻm núi ở Hadar ở
miền bắc Ethiopia. Tình cờ và may mắn tìm được một mảnh nhỏ của xương cánh tay.
Johanson lập tức nhận ra nó thuộc một vượn
người (a hominid). Sau đó, tìm thấy thêm nhiều mảnh xương hơn: xương sườn,
cột sống, xương đùi và một phần xương hàm. Cuối cùng đã khai quật được 47 xương
khác nhau của một hài cốt – gần 40% của một con vượn-người, hoặc một sinh vật
giống như người, sống khoảng 3,2 triệu năm trước. Dựa trên kích thước nhỏ của
nó, và hình dạng xương khung chậu, họ kết luận nó là phái nữ và đặt tên là
“Lucy” theo như câu hát “Lucy in the Sky with Diamonds” của ban Beatles, đang
chơi trên đài phát thanh khi Johanson và nhóm của ông ăn mừng sự khám phá lịch
sử này, lúc trở về lều của đoàn thám hiểm. Giống một chimpanzee ngày nay, Lucy
có bộ não nhỏ, cánh tay vươn dài, chân ngắn và ngực hình nón với một bụng lớn .
Nhưng cấu trúc của đầu gối và xương chậu của Lucy cho thấy Lucy thường xuyên đi
lưng thẳng, bằng hai chân, trên hai chân, như chúng ta. Hình thức vận động này,
được gọi là “trên hai chân” (bipedalism), là sự khác biệt quan trọng nhất giữa
con người và loài khỉ apes, nên đã đặt Lucy vững chắc trong gia đình nhân loại.
Johanson đặt tên loài của Lucy là Australopithecus
afarensis, có nghĩa là “con ape của vùng phía nam của Afar” tên khu vực
Hadar của Ethiopia. Khoảng 3,5 triệu năm trước đây, Australopithecus afarensis tìm hái lượm quả, hạt và hạt giống trong
một sinh thái là hỗn hợp của đồng cỏ và đất rừng . Nó cũng có thể có được
protein động vật từ mối hoặc trứng chim.
Chimpanzee thường đi bằng bốn chân, nhưng thỉnh thoảng đi
thẳng lứng trong một khoảng thời gian ngắn. Orangutans còn sống trong các khu
rừng của Indonesia. Chúng dành phần lớn thời gian trong tư thế đứng, nhưng đu
chuyền cành bằng cánh tay dài của chúng. Tuy nhiên, Orangutans đôi khi cũng đi
trên các nhánh cây chỉ dùng cánh tay của chúng để giữ thăng bằng. Nhưng
Orangutan không liên hệ gần gũi với con người hơn, như Chimpanzee.
Chimpanzee là họ hàng gần nhất của chúng ta. Nghiên cứu gene
di truyền cho thấy con người và Chimpanzees có chung một tổ tiên, đã sống trong
các khu rừng nhiệt đới châu Phi khoảng 7-8 triệu năm trước đây. Con cháu của tổ
tiên chung này chia thành hai dòng – một dẫn tới Chimpanzees và một dẫn đến
chúng ta. Người ta cho rằng dòng dõi con người đã phát triển thói quen đi hai
chân như một chiến lược để sống trên mặt đất bằng, trống khi khí hậu biến đổi
đã tàn phá rừng, mở ra những vòng đai có vùng đất trống lớn rộng, những đồng cỏ
không có cây lớn.
[9]
[Bài báo của Johann Hari, nguyên đã công bố trên báo the Independent, 15 July 2005, có tể tìm thấy tại:
http://www.johannhari.com/archive/article.php?id=640.]
[10] [Village Voice, 18 May 2004: http://www.villagevoice.com/news/0420,perlstein,53582,l.html.]
[11] [Harris, S.
(2004). The End of Faith: Religion, Terror and the Future of Reason. New
York: Norton. p 29]
[12]
[sra Hassan, 'An arsenal of believers', New Yorker, 19 Nov. 2001.
See also http://www.bintjbeil.com/articles/en/011119_
hassan.html]