Huyễn Tưởng Gót
Richard Dawkins
(The God Delusion)
(tiếp theo ...)
Richard Dawkins
(The God Delusion)
(tiếp theo ...)
Chương 7
Quyển Sách “Tốt”
và Tinh thần Thời đại Đạo đức Thay đổi
Chính trị đã giết hàng
nghìn của nó, nhưng tôn giáo đã giết hàng chục nghìn của nó. (Sean O’Casey)
Có hai cách trong
đó những sách thánh có thể là một nguồn của đạo đức hoặc những luật lệ cho đời
sống. Một là bằng sự hướng dẫn trực tiếp, thí dụ thông qua Mười điều
Răn, vốn là chủ đề của tranh chấp gay gắt trong cuộc chiến tranh văn hóa ở
những vùng kém phát triển của nước Mỹ. Cách kia là bằng thí dụ: Gót, hoặc một
vài nhân vật kinh Thánh khác, có thể được dùng như là – để dùng từ đặc biệt
ngày nay – một vai trò khuôn mẫu làm gương. Cả hai con đường dùng sách thánh,
nếu như đã hoàn tất đi theo một cách tôn giáo từ đầu đến đuôi (trạng từ được
dùng trong nghĩa ẩn dụ của nó nhưng với một mắt nhìn theo nguồn gốc của nó),
đều khuyến khích một hệ thống đạo đức mà bất kỳ một con người có văn minh nào
trong thời hiện đại, cho dù có tôn giáo hay không, sẽ thấy – Tôi có thể nói nó
ra không thể nào dịu nhẹ hơn – nhờm tởm khó chịu đáng ghét.
Cho công bằng, phần lớn của
quyển kinh Thánh thì không xấu ác một cách hệ thống, nhưng chỉ quái lạ thẳng
thừng, như bạn sẽ mong đợi từ một tuyển tập gồm những văn bản rời rạc không đâu
vào đâu, ghép vá vào nhau một cách hỗn loạn – đã được hàng trăm những tác giả
vô danh, những người biên tập và những người sao chép góp công soạn thảo, chỉnh
sửa, chuyển dịch, bóp méo, và “cải thiện”, họ đều là những người chúng ta không
biết, và hầu hết cũng là những người không biết lẫn nhau, trải qua suốt chín
thế kỷ [1]. Điều này có thể giải thích được một vài những sự
lạ lùng hoàn toàn tuyệt đối của kinh Thánh. Nhưng điều bất hạnh là cũng chính
khối sách quái lạ này mà những kẻ cuồng tín tôn giáo dương lên với chúng ta như
là nguồn không thể sai lầm của đạo đức và những quy tắc cho đời sống chúng
ta. Những ai là người muốn đặt cơ sở đạo đức của họ, theo nghĩa đen, trên
kinh Thánh, hoặc là không đọc nó hoặc là không hiểu nó, như một thày chăn chiên
cấp tỉnh John Shelby Spong, trong The Sins of Scripture [2], đã nhận xét đúng như vậy. Nhân đây, nhà chăn
chiên Spong là một thí dụ đẹp về một người chăn chiên cấp tỉnh có tinh thần cởi
mở tự do, có những tin tưởng quá tiến bộ đến nỗi đa số những người tự gọi mình
là người Kitô gần như không thể nhận ra được. Một tương ứng giống như ông ở
nước Anh là Richard Holloway, nhà chăn chiên cấp tỉnh của Edinburgh, gần đây
mới về hưu. Holloway thậm chí tự mô tả mình là một “người đương hồi phục sau
cơn bệnh Kitô”. Tôi đã có một thảo luận trước công chúng với ông ở Edinburgh,
vốn là một trong những gặp gỡ khuyến thích tinh thần và thú vị tôi từng có. [3]
Cựu Ước
Bắt đầu trong Genesis với câu chuyện Noah rất phổ biến,
xuất phát từ huyền thoại Babylon của Uta-Napisthim, và cũng còn được biết từ
những thần thoại cổ hơn của nhiều văn hóa khác. Truyền thuyết về những con vật,
từng đôi (trống mái) một, đi xuống chiếc thuyền lớn dài, thì mê mẩn người nghe,
nhưng đạo đức của câu chuyện Noah thì kinh hoàng. Gót đã có một cái nhìn không
sáng sủa cho lắm về loài người, vì thế ông dìm chết đuối hết trọn đám, gồm cả
trẻ em (trừ chỉ một gia đình) và cũng có thể, cho thêm chắc chắn, tất cả phần
còn lại của đám thú vật nữa (phải giả định chúng là vô can, vô tội).
Dĩ nhiên, những nhà gót-học bị chạm nọc sẽ phản đối rằng chúng ta không
đọc chương sách Sáng Thế theo nghĩa đen nữa. Nhưng đó là toàn
bộ những gì tôi muốn nói, tất cả điều tôi muốn nêu lên! Chúng ta chọn và lựa ra
những mảnh vụn nào của kinh Thánh [4] để tin, những mảnh vụn nào để gạt bỏ đi, xem là những
biểu tượng hoặc những phúng dụ. Khi chọn và lựa như thế là một vấn đề của quyết
định cá nhân, cũng giống nhiều hay ít, hệt như quyết định của người
không-tin-có-gót để tuân theo giới luật đạo đức này hay kia, cũng đã là một
quyết định cá nhân, không có một nền tảng tuyệt đối. Nếu một trong số những
chọn lựa này là đạo đức dựa trên sáng kiến và nhận thức riêng (của
người không-tin-có-gót), thì những chọn lựa (của người theo kinh
Thánh) kia cũng vậy (“đạo đức của đũng quần, thay đổi tùy chỗ đặt đít ngồi”),
không khác.
Dù trong trường hợp nào đi nữa, Bất chấp những ý định tốt của những nhà
gót học phức tạp tinh tế, một con số lớn khiếp đảm hãi hùng của những người
thực sự vẫn đọc hiểu quyển sách thánh của họ, gồm chuyện của Noah [5], theo nghĩa
đen. Theo thống kê Gallup, những người này chiếm khoảng 50 phần trăm của số cử
tri đoàn nước Mỹ. Ngoài ra, không cần nghi ngờ, nhiều người trong số những “con
người thánh” của châu Á đã đổ lỗi tsunami năm 2004, không bởi
một sự chuyển dịch của thềm lục địa quả đất, nhưng trên tội lỗi của con
người [6], nhiều loại khác nhau, từ uống rượu và nhảy múa trong
những quán bar đến phạm một vài quy luật không đáng kể của ngày Sa-bát. Đã đắm
mình trong câu chuyện của Noah [7], và không biết gì hết về tất cả (khoa học phổ thông)
ngoại trừ việc học kinh Thánh, ai là người có thể trách họ? Toàn bộ giáo dục
(trong nhà thờ) của họ cả đã đưa họ đến xem những thiên tai như buộc chặt với
công ăn việc làm sinh hoạt con người, là những đáp trả với những tội lỗi, hạnh
kiểm xấu hơn là bất cứ gì khác hết sức tự nhiên, không-con người, như những
chuyển dịch tại rìa của những thềm lục địa. Nhân đây, Thật là hết sức tự phụ,
lấy mình làm trung tâm, để tin rằng những biến cố chấn động trái đất, trên một
quy mô mà trong đó một vị gót (hoặc một thềm lục địa) có thể lay động, phải
luôn luôn có một kết nối với con người. Tại sao một vị gót, với não thức sáng
tạo và vĩnh cửu của mình, lại phải bận tâm lặt vặt cỏn con với một vài chuyện
xấu xa nhỏ nhặt của con người? Chúng ta, những con người, đã tự cho chúng ta
những thái độ kênh kiệu màu mẻ, ra vẻ ta-đây, tự phóng lớn cho mớ “tội lỗi” nhỏ
mọn, tầm thường của chúng ta đến mức có ý nghĩa quan trọng vũ trụ!
Khi tôi phỏng vấn Michael Bray trên tivi, tôi hỏi ông, một người Mỹ chống
phá thai nổi bật có tiếng, tại sao những người “Kitô Phúc âm” (hữu phái bảo thủ
quá khích) [8] đã quá ám ảnh đến thế với những khuynh hướng tình dục cá nhân, chẳng hạn
như đồng tính luyến ái, vốn không can dự gì vào đời sống của bất cứ một ai nào
khác. Trả lời của ông đã gọi đến một gì đó như sự tự vệ. Những công dân vô tội
có nguy cơ trở thành “thiệt hại thế chấp”, nghĩa là chịu vạ lây, nếu Gót chọn
một thành phố để giáng xuống thiên tai, vì trong đó có nhà cửa của những người
tội lỗi. Năm 2005, thành phố New Orleans đẹp đẽ, đã bị thiên tai ngập lụt sau
trận bão Katrina. Nhà chăn chiên Tinlành Pat Robertson, một trong những người
chuyên giảng đạo Kitô trên tivi nổi tiếng nhất nước Mỹ, và cũng là người từng
tranh cử đại diện đảng (Cộng hòa) trong bầu cử tổng thống, được thuật lại là đã
đổ lỗi cơn bão lốc tàn khốc này cho một người đồng tính luyến ái nữ, chuyên nói
chuyện khôi hài, là người sống ở New Orleans [9]. Bạn hẳn đã nghĩ một Gót toàn năng sẽ có một giải
pháp khéo hơn một tí trong việc vào thẳng mục tiêu thu hẹp, để hạ gục những kẻ
tội lỗi: có lẽ chỉ cần một cơn đau tim khôn ngoan, hơn là tiêu hủy
theo lối bán sỉ tất cả thành phố, chỉ vì đã xảy ra nó là chỗ ở của
một người nói chuyện khôi hài, đồng tính luyến ái nữ.
Trong tháng 11/2005, những công dân của thành phố Dover, tiểu bang
Pennsylvania, đã bỏ phiếu gạt đi toàn bộ danh sách ứng cử viên hữu phái tôn
giáo quá khích khỏi hội đồng giáo dục địa phương, là những người đã gây tai
tiếng cho thành phố, nếu không nói là giễu cợt, khi họ cố gắng thúc ép thực
hành giảng dạy thuyết “thiết kế thông minh”. Khi Pat Robertson nghe rằng những
người Kitô hữu phái quá đã bị lá phiếu dân chủ đánh bại, ông đã đưa ra một cảnh
cáo nghiêm khắc cho thành phố Dover:
Tôi muốn nói với những công
dân tốt của Dover, nếu có thiên tai trong khu vực của bạn, đừng có mà quay sang
Gót nữa. Bạn đã vừa mới gạt bỏ ngài ra khỏi thành phố của bạn, và đừng có tự
hỏi tại sao ông đã không giúp bạn khi những thảm họa nổi lên, nếu chúng có nổi
lên, và tôi không nói rằng chúng sẽ nổi lên. Nhưng nếu chúng có bắt đầu, hãy
chỉ nhớ rằng bạn vừa mới bỏ phiếu gạt Gót ra khỏi thành phố của bạn. Và nếu đó
là trường hợp sẽ xảy ra, sau đó đừng có mà cầu xin sự giúp đỡ của ngài, vì ngài
có thể không có ở đó nữa!”. [10]
Pat Robertson sẽ là đóng trò hài kịch vô hại, nếu như ông đã không là
điển hình cho những người ngày nay giữ quyền lực và ảnh hưởng trong nước Mỹ.
Trong sự tiêu hủy hai thành phố Sodom và Gomorrah, cũng trong kinh Thánh,
người tương đương với Noah, người được lựa chọn để được chừa ra với gia đình
của ông vì ông này là người chân chính duy nhất, là Lot, cháu trai của Abraham.
Hai thiên thần nam được gửi tới thành Sodom để báo trước cho Lot phải rời khỏi
thành trước khi lửa và diêm sanh trừng phạt đến đốt cháy. Lot thân thiện mời
những thiên thần này vào nhà mình, và rồi tất cả những người đàn ông thành
Sodom tụ tập xung quanh và đòi hỏi rằng Lot nên giao những thiên thần cho họ,
để họ có thể (còn điều gì khác?) ăn nằm với họ: “Những người mà đến ở nhà ngươi
đêm nay đâu rồi? Hãy mang họ ra cùng chúng ta, để chúng ta có thể “biết” họ”.
(Genesis 19: 5) [11] . Vâng, “biết” đã có ý nghĩa uyển khúc ngữ pháp thông
thường của Phiên bản được ủy quyền (của hội nhà thờ), rất buồn cười trong ngữ
cảnh. Sự hào hiệp của Lot khi từ chối đòi hỏi này cho thấy rằng Gót có thể đã
có một ý gì đó, khi ông đã chừa riêng chỉ mình anh ta ra như là con người tốt
độc nhất của thành Sodom. Nhưng hào quang của Lot bị nhơ nhuốc vì những
điều kiện của ông ta khi từ chối: “Tôi van cầu các bạn, những anh em của tôi,
đừng có ác độc như thế. Này bây giờ, tôi có hai đứa con gái chưa từng ăn nằm
với đàn ông, hãy để cho tôi, tôi van xin các bạn, mang chúng ra đây đem cho các
bạn, và các bạn hãy cứ “làm” với chúng những gì các bạn thấy là tốt dưới mắt các
bạn: chỉ xin đừng “làm” gì với những người đàn ông này, vì họ đã đến
đây ngụ dưới bóng (che chở) mái nhà của tôi (Genesis 19: 7-8) [12].
Bất cứ gì lạ lùng nào khác đi nữa mà câu chuyện này có thể có nghĩa, nó
chắc chắn bảo với chúng ta một điều gì đó về sự tôn trọng đã được dành cho phái
nữ trong văn hóa đầy ảnh hưởng mạnh mẽ của tôn giáo này. Vì như truyện đã xảy
ra, thương lượng của Lot đem cho đi “trinh tiết” những con gái của mình, đã
chứng minh ngay là không cần thiết, vì những thiên thần đã thành công trong
việc đẩy lùi những kẻ cướp bằng phép lạ làm bọn chúng bị mù. Họ sau đó báo
trước với Lot phải dời ngay gia đình và những gia súc của ông đi lập tức, vì
thành phố đã sắp bị phá hủy. Toàn gia trốn thoát, chỉ trừ người vợ bất hạnh của
Lot, người mà Gót đã biến thành một cột muối vì bà phạm vào một tội lỗi – tương
đối nhẹ, người ta có thể nghĩ thế – bà đã ngoái lại nhìn thành phố khi nó nổ và
cháy sáng lên như pháo bông.
Hai người con gái của Lot còn một xuất hiện ngắn ngủi nữa trong câu
chuyện. Sau khi mẹ của họ đã chết, vì bị biến thành cột muối, họ đã sống với
cha của họ trong một hang núi. Đói khát hơi đàn ông, họ quyết định làm cho
người cha say rượu và giao cấu với ông ta. Lot đã không biết gì khi cô con gái
lớn của ông vào nằm bên ông cùng giường, hay khi cô xong xuôi đứng lên, nhưng
ông không quá say vì vẫn biết ‘làm’ đứa con gái lớn của mình có thai. Đêm sau,
hai người con gái đồng ý, là đến lượt cô em. Một lần nữa, Lot đã quá say không
nhận biết, nhưng ông cũng ‘làm’ cô em này mang thai như cô chị (Genesis 19:
31-6). Nếu cái gia đình rối loạn bất thường này đã là những gì tốt nhất đã được
thành Sodom đem cho theo đường đạo đức, vài người có thể đã bắt đầu cảm thấy
một sự đồng cảm nhất định nào đó với Gót, và thứ công lý đốt lửa diêm sanh của
ông.
Câu chuyện về Lot và những người tội lỗi thành Sodome [13] là kỳ lạ rùng mình, lại vang vọng trong chương
19 của quyển Judges, trong đó có một người Levite (giáo
sĩ) không tên, cùng người vợ lẽ của ông, trên đường (thăm gia đình vợ) trở về
nhà, đi ngang vùng thị trấn Gibeah. Họ trải qua đêm trong nhà của một ông
già hiếu khách. Trong khi họ đang ăn tối, có những người đàn ông của thành phố
đến và đập cửa, đòi hỏi rằng ông già nên đem người khách nam giới của ông giao
cho họ “để chúng ta có thể ‘biết’ hắn”. Trong gần như chính xác cùng những từ
tương tự như câu chuyện Lot, ông già này nói: “Không, những anh em của tôi,
không được, tôi cầu xin các bạn, đừng có ‘làm’ ác như thế; thấy người này đi
vào nhà tôi, đừng làm điều điên rồ này. Này đây, tôi có đứa con gái chưa
hề giao hợp với ai, và cô vợ lẽ của người khách nầy; tôi mang họ ra ngay
bây giờ, và các ngươi hãy làm họ nhục nhã xấu hổ đi, nhưng đừng làm điều
nhơ nhuốc với người nầy” (Judges 19: 23-4). Một lần nữa, đặc tính văn hóa
khinh miệt phái nữ, qua thời gian xuyên tới chúng ta, to tiếng và rõ ràng. Tôi
thấy câu “các ngươi hãy làm họ nhục nhã xấu hổ đi” đặc biệt ớn lạnh rùng mình.
Các bạn hãy tận hưởng thích thú bằng cách làm nhục và cưỡng hiếp con gái tôi và
cô vợ lẽ của người giáo sĩ này, nhưng hãy cho thấy một sự tôn trọng xứng đáng
với người khách của tôi, sau tất cả, vốn là phái nam. Mặc dù có sự tương đồng
giữa hai câu chuyện, đoạn kết cho cô
vợ lẽ người Levite thì kém may mắn hơn cho những con gái của Lot.
Người Levite nắm tay cô vợ bé giao cho đám loạn, những người đã hiếp dâm
tập thể cô suốt đêm: “Họ ‘biết’ cô và hành hạ cô tàn tệ cả đêm đến sáng: và khi
ngày bắt đầu bừng dậy, họ để cho cô ấy đi. Sau đó, người phụ nữ, trong khởi đầu
của ngày mới, đi đến và ngã quị ở cửa nhà người trong đó có “chủ tể” của cô
đương ngụ, cho đến khi ngày đã sáng hẳn”. (Judges 19: 25-6). Buổi sáng, người
Levite thấy cô vợ lẽ của ông nằm phủ phục trên ngưỡng cửa, và nói: – với những
gì chúng ta ngày nay có thể nghe như thô lỗ nhẫn tâm – “Đứng lên, và chúng ta
hãy lên đường nào”. Nhưng cô bất động. Cô đã chết. Vì vậy, anh ta lấy một
con dao, và giữ không hụt nhát nào băm vào xác người vợ lẽ của mình, và cắt
chặt, cô cùng với xương của cô, phân thành mười hai mảnh, và gửi cô đến tất cả
những bờ biển của Israel”. Đúng, bạn đọc đúng (như chép trong ‘kinh’ Thánh)
đấy. Xoát lại nó trong Judges 19: 29 [14] . Hãy nhân từ đặt nó xuống một lần nữa, với
những sự kỳ quặc khó hiểu, nhưng chỗ nào cũng có, phổ biến trong suốt kinh
Thánh. Câu chuyện này như vậy thì tương tự với chuyện của Lot, người ta không
thể không tự hỏi có phải một đoạn bản thảo đã ngẫu nhiên đặt không đúng chỗ,
trong một phòng sao chép giấy tờ bỏ quên đã lâu của tu viện: một minh hoạ cho
xuất xứ thất thường của tập sách thánh linh thiêng.
Abraham, chú của Lot, là tổ phụ của tất cả ba tôn giáo “lớn”
tin-chỉ-một-gót. Vị thế tộc trưởng làm người này chỉ phần nào kém hơn chính Gót
để xem là một vai trò khuôn mẫu. Nhưng nhà luân lý hiện đại sẽ ước muốn theo
ông ta những gì đây? Tương đối sớm trong đời sống thọ lâu của mình, Abraham đã
sang xứ Egypt với vợ là Sarah, để tránh khó khăn của một nạn đói. Ông nhận ra
rằng một phụ nữ xinh đẹp như thế sẽ làm người Egypt thèm muốn, và vì thế gây
nguy hiểm có thể đến tính mạng cho riêng ông, như chồng của bà. Vì vậy, ông
quyết định ngoài mặt trình diện người vợ như là em gái của mình. Trong tư cách
này, bà đã được đem vào hậu cung làm phi tần của Pharaoh, và do đó Abraham trở
nên giàu có, vì được Pharaoh ân sủng. Gót không chấp thuận sắp xếp ấm cúng này,
và giáng họa bệnh dịch xuống Pharaoh và gia đình nhà vua (tại sao không xuống
Abraham?). Một Pharaoh đau buồn, có thể hiểu được, đòi được biết lý do tại sao
Abraham đã không nói với ông rằng Sarah là vợ của Abraham. Sau đó, ông trả lại
bà này cho Abraham, và đuổi cả hai ra khỏi xứ Egypt (Genesis 12: 18-19). Thật
là quái đản, chuyện xem ra có vẻ như là cặp vợ chồng đó về sau lại cố giở cùng
một trò này lần nữa, lần ấy với Abimelech là vua của vùng Gerar. Ông cũng bị
Abraham xui đẩy vào việc kết hôn với Sarah, cũng lần nữa đã bị dẫn đến tin rằng
bà này không phải vợ, nhưng là em gái Abraham (Genesis 20: 2-5). Ông vua này
cũng bày tỏ sự phẫn nộ của mình, trong những điều kiện gần giống như của
Pharaoh, và người ta không thể không có cảm tình với cả hai. Có phải sự tương
tự này là một dấu hiệu khác của tính không thể tin cậy của cùng văn bản? [15]
Những tiểu đoạn nhờm tởm khó chịu như vậy trong câu chuyện của Abraham
chỉ đơn thuần là những lỗi nhỏ không đáng kể so với những câu chuyện khét tiếng
bỉ ổi về sự hy sinh con trai của Abraham là Isaac (kinh Thánh của Islam kể cùng
một câu chuyện tương tự về Ishmael, con trai khác của Abraham). Gót ra lệnh cho
Abraham làm một dàn thiêu để hiến cúng đứa con trai mong cầu của ông. Abraham
dựng một bàn thờ, chất củi vào đó, và trói gô Isaac vào trên đầu khối củi. Con
dao giết người đã thủ sẵn trong tay, khi một thiên thần đột ngột can thiệp báo
tin có một sự thay đổi “kế hoạch” vào phút cuối: Gót đã chỉ nói đùa sau tất cả,
chỉ “cám dỗ” Abraham, và thử nghiệm lòng tin-gót của ông ta. Một nhà luân lý
hiện đại không thể không tự hỏi làm sao đứa con có bao giờ có thể hồi phục từ
một chấn thương tâm lý loại như vậy. Bằng những tiêu chuẩn của đạo đức hiện
đại, câu chuyện nhục nhã đáng xấu hổ này đồng thời là một thí dụ cho cả hai,
vừa là sự ngược đãi trẻ em, vừa là sự bắt nạt lớn hiếp bé trong những quan hệ
giữa hai sức mạnh không cân xứng, và là sự sử dụng được ghi chép đầu tiên của
lối bào chữa trong tòa án xử tội nhân chiến tranh, những đảng viên Nazi Đức,
sau thế chiến thứ hai chấm dứt, ở Nuremberg: “Tôi đã chỉ tuân theo mệnh lệnh”.
Thế nhưng truyền thuyết này là một trong những thần thoại nền tảng lớn lao của
tất cả ba tôn giáo tin-chỉ-một-gót. [16]
Một lần nữa, những nhà
gót-học hiện đại sẽ phản đối rằng câu chuyện Abraham hy sinh Isaac không nên
được đón nhận như là sự kiện giấy trắng mực đen. Và, một lần nữa, phản ứng
thích hợp có hai loại. Thứ nhất, có nhiều và rất nhiều người bình thường, thậm
chí cho đến ngày nay, quả thực vẫn đọc hiểu toàn bộ kinh Thánh của họ theo
nghĩa sự kiện giấy trắng mực đen, và họ có rất nhiều quyền lực chính trị trên
phần chúng ta còn lại, đặc biệt là ở nước Mỹ và thế giới Islam. Thứ hai, nếu
không là sự kiện giấy trắng mực đen, chúng ta nên đọc hiểu câu chuyện trên như
thế nào? Là một câu chuyện ngụ ngôn? Sau đó, một câu chuyện ngụ ngôn về những
gì? Chắc chắn không có giá trị nào đáng đề cao.
Như một bài học đạo đức? Nhưng thứ đạo đức nào đây
người ta có thể lấy từ câu chuyện thật khiếp đảm này? Hãy nhớ rằng, tất cả gì
tôi đang cố gắng để thiết lập cho thời điểm này là chúng ta, như một sự kiện
của thực tế, không rút lấy đạo đức của chúng ta từ kinh Thánh. Hoặc, nếu như
chúng ta có làm thế đi nữa, chúng ta đã bới tìm và lựa chọn trong số những
quyển sách thánh để lấy những mảnh tốt đẹp và bỏ đi những mảnh kinh tởm, buồn
nôn. Nhưng sau đó chúng ta phải có một vài tiêu chẩn độc lập để quyết định mảnh
nào trong đó là đạo đức: một tiêu chuẩn mà dù nó đến từ đâu, nó không thể đến
từ bản thân kinh Thánh, và có lẽ nó có sẵn cho tất cả chúng ta, dù chúng ta có
tôn giáo, hay không có tôn giáo. [17]
Những nhà bào chữa đạo Kitô thậm chí tìm cách cố cứu
vớt lấy được một vài điều mà họ xem là ‘vừa phải hợp lẽ thường’ cho nhân vật
Gót trong câu chuyện đáng mửa khinh bỉ gớm tởm này. Không phải việc Gót để
Isaac được sống ở phút cuối cùng chẳng đã là điều tốt lành hay sao? Trong
trường hợp không chắc rằng bất kỳ người đọc nào của tôi cũng bị đoạn bẩn thỉu
nhờm gớm này đặc biệt cầu xin thuyết phục, tôi chuyển họ đến một câu chuyện
khác về sự giết người hy sinh, mà kết thúc bất hạnh hơn nhiều. Trong Judges, Chương 11, nhà lãnh đạo quân sự
Jephthah đã làm một mặc cả với Gót, nếu Gót sẽ đảm bảo cho Jephthah chiến thắng
dân Ammonites, Jephthah sẽ không thất hứa, đem thiêu cúng như vật hy sinh “bất
cứ gì hiện ra đầu tiên ở cửa nhà tôi, để gặp tôi, khi tôi trở về”. Jephthah đã
thực sự đánh bại Ammonites (“với một sự chém giết rất tàn khốc đẫm máu”, như nó
tương xứng với chuyển biến của toàn câu chuyện trong tập sách Judges) và chiến thắng, ông trở về nhà.
Không ngạc nhiên, con gái ông, đứa con duy nhất của ông, chạy ra cửa để chào
đón ông ta (với trống con và điệu múa) và – than ôi – cô ấy là sinh vật đầu
tiên làm như vậy khi ấy. Dễ hiểu, Jephthah (vò đầu dứt tai) xé quần xé áo của
mình, nhưng không có gì ông có thể làm khác về điều đó. Gót thì rõ ràng đang
chờ đợi lễ hiến sinh đã hứa, và trong hoàn cảnh này, đứa con gái rất đoan trang
đồng ý là chịu làm vật hy sinh. Cô chỉ xin điều duy nhất là được phép đi vào
núi rừng trong hai tháng tới để khóc thương cho trinh tiết của cô. Đến cuối
thời gian này, cô hiền lành trở lại, và Jephthah đã nấu chín cô (theo lời hứa với Gót). Gót đã không
thấy có gì phải can thiệp lần này. [18]
Thịnh nộ của Gót dâng “cao như núi chồng như non”, bất
cứ khi nào dân tộc được lựa chọn của mình (Israel) được một vị gót đối thủ o
bế, tán tỉnh, thì tương tự với không khác gì nhiều hơn là sự ghen tương tình
dục thuộc loại xấu xa nhất [19],
và một lần nữa nó sẽ đập vào mắt một nhà đạo đức hiện đại, thật là xa với những
gì gọi là nguyên liệu cho vai trò tốt đẹp khuôn mẫu làm gương. Sự cám dỗ với sự
ngoại tình tình dục là dễ hiểu ngay cả với những ai là người không quị ngã,
không phải chịu thua nó, và nó là một thức ăn của tiểu thuyết và kịch, từ
Shakespeare cho tới những trò hề nhẹ nhàng quanh chuyện phòng the. Nhưng sự cám
dỗ không thể cưỡng lại được hiển hiện rõ ràng để “thông dâm”, “ngoại tình, làm
điếm” với những vị gót khác [20],
hoặc cổ hơn, hoặc xa lạ, như gót của những dân tộc láng giềng khác, là một điều
gì đó mà con người hiện đại chúng ta thấy để thông cảm với nó là còn khó khăn
nhiều hơn. Với đôi mắt kém kinh nghiệm, tự nhiên của tôi, “Ngươi sẽ không có
những gót khác, nhưng chỉ mình ta” có vẻ như một lệnh truyền đủ dễ dàng để gìn
giữ: một việc làm rất giản dị không chút khó khăn, một người có thể nghĩ thế,
so với “Ngươi sẽ không thèm muốn vợ kẻ láng giềng”. Hoặc con lừa của nó. (Hoặc
con bò của nó.) Tuy nhiên trong suốt Cựu Ước, với những dự đoán đều đặn giống
như trong trò hề nhẹ nhàng quanh chuyện phòng the, Gót đã chỉ quay lưng mình đi
chỉ có một khoảnh khắc là những con trẻ của Israel sẽ được thả lỏng, và ‘thông
đồng, ngoại tình’ với Baal, hoặc với một vài hình tượng “đĩ điếm” [21]
. Hoặc, trong một dịp tai họa nhất, với một con bê vàng. …
Moses, thậm chí còn hơn Abraham, có lẽ là một mẫu mực
làm gương cho tín đồ của tất cả ba tôn giáo tin-chỉ-một-gót. Abraham có thể là
người tộc trưởng gốc, nhưng nếu một ai nên được gọi là người sáng lập những
giáo lý của đạo Dothái và những tôn giáo bắt nguồn từ nó, người đó là Moses (Mô-se). Trong trường hợp đoạn truyện (kinh
hãi) kể về một con bê vàng trong kinh Thánh. Trong lúc Moses đương an toàn trên
đường lên núi Sinai, nói chuyện với Gót và nhận những phiến đá khắc chữ của ông
ta. Đám dân chúng dưới núi (những người đã cố tránh tội chết, phải giữ đừng có chạm tay vào núi này) đã không bỏ phí
mất chút thì giờ nào, dịp này:
Khi người
ta thấy rằng Moses đã chậm, không từ núi xuống, mọi người dân tự tụ tập nhau
vào với Aaron, và nói với ông này, Nhanh lên, làm cho chúng ta những vị gót sẽ
đi trước (dẫn đường) chúng ta, vì về phần việc này với Moses, người đã đưa
chúng ta ra khỏi đất Egypt, chúng ta không biết ông ta đã gặp chuyện gì rồi.
(Exodus 32: 1)
Aaron có được tất cả mọi người đem vàng của họ gộp
chung, nấu chảy và làm thành tượng một con bê vàng, với vị gót vừa được đặt để
này [22],
sau đó ông đã dựng một bàn thờ, như thế để tất cả bọn họ đều có thể bắt đầu hy
sinh cho nó. [23]
Vâng, họ đáng lẽ phải biết nhiều hơn, là đừng có đánh
lừa loanh quanh sau lưng Gót như thế. Ông có thể ở cao tít trên một đỉnh núi, nhưng
sau tất cả, ông là “toàn trí”, và ông đã không chậm trễ, không mất chút thì giờ
nào, phái ngay Moses xuống núi như viên ‘công an’ của ông. Moses nhanh chân
chạy xuống núi, mang phiến đá mà trên đó Gót đã viết mười điều răn. Khi ông
xuống đến nơi và nhìn thấy con bê vàng, ông đã rất tức giận đến nỗi run lên
đánh rơi những phiến đá và làm vỡ chúng (Gót sau này đã cho ông một bộ khác
thay thế, do đó tất cả sự việc thì vẫn tốt, không sao). Moses chộp lấy con bê
vàng, đốt nó chảy, nghiền nó thành bột, trộn với nước và khiến mọi người phải
nuốt uống [24].
Sau đó ông nói với mọi người trong bộ tộc giáo sĩ Levi (chuyên làm nghề tư tế
của dân Dothái), mỗi người lấy một thanh kiếm và đi giết càng nhiều người càng
tốt. Điều này làm cho con số người bị giết chết lên tới khoảng ba ngàn, người
ta có thể có hy vọng, sẽ có được đủ (máu và xác người) để làm dịu cơn ghen sưng
mày sưng mặt ủ ê của Gót. Nhưng không, với Gót không phải thế là đã xong xuôi
hết chuyện. Trong câu cuối cùng của chương kinh thánh kinh khủng này, phát đạn
bắn như hành động chia tay của ông là gửi bệnh dịch hạch cho những người còn
lại “Vì họ đã làm con bê vàng, mà Aaron đã làm”.
Sách Numbers
kể Gót đã kích động Moses như thế nào để tấn công dân chúng (bộ tộc)
Midianites. Quân đội của ông đã nhanh chóng làm việc, giết tất cả đàn ông, và
họ đốt tất cả những thành phố Midianite, nhưng họ đã không giết những phụ nữ và
trẻ em. Sự hạn chế như thương xót này của binh sĩ của ông làm Moses tức điên
lên, và ông đã ra lệnh tất cả những trẻ em bị giết, và tất cả những người phụ
nữ không còn trinh. “Nhưng tất cả những thiếu nữ chưa ăn nằm với người nam nào,
hãy giữ lại cho anh em” (Numbers 31: 18). Không, Moses không là một mẫu mực lớn
để làm gương cho đạo đức hiện đại. [25]
Trong chừng mức xa đến như những ngòi bút tôn giáo
hiện đại gán kèm bất kỳ một ý nghĩa biểu tượng hoặc ngụ ý ẩn dấu nào, cho cuộc
thảm sát những người Midianites, biểu tượng học đã nhắm đúng tới chiều hướng
sai lầm. Những người Midianites bất hạnh, cho đến mức như người ta có thể nói
từ tài liệu ghi chép kinh thánh, họ là những nạn nhân của nạn diệt chủng trên
đất nước của họ. Thế nhưng tên tuổi của họ sống trong truyền thuyết Kitô chỉ
trong bài ca tụng Gót ưa thích đó (Mà tôi vẫn có thể hát từ ký ức sau năm mươi
năm, với cả hai giai điệu khác nhau, cả trong những cung thứ u tối):
Dân Kitô,
các ngươi không thấy chúng hay sao
Trên nền
đất thánh ?
Sao đám
lính của Midian
Dám sục sạo
và quẩn quanh?
Dân Kitô,
đứng cả lên và đập chúng,
Kể thắng
đừng tính thua;
Đập chúng
để được ngợi khen
của cây
thập giá thánh.
Than ôi, Những người Midianites khốn khổ, bị vu khống,
bị sát hại như thú vật, để được nhớ chỉ như là biểu tượng thi ca của cái ác phổ
quát trong một bài tụng ca thời Victoria. [26]
Nhưng Gót Baal
đối thủ dường như đã có một sự quyến rũ luôn luôn tái diễn hướng đến sự thờ
phụng ‘ương ngạnh’ cám dỗ. Trong Numbers,
Chương 25, nhiều dân Dothái được phụ nữ Moabite thu hút để lôi cuốn đến cúng lễ
hiến sinh cho Gót Baal. Gót phản ứng với cơn giận dữ đặc trưng. Ông ra lệnh cho
Moses để “hãy tóm tất cả những đầu lĩnh của đám dân chúng và đem treo cổ chúng
lên phơi nắng mặt trời, trước mặt Gót, để sự tức giận dữ dội của Gót có thể
được chuyển dịch khỏi Israel”. Người ta không thể nào, một lần nữa, không thể
đừng tự kinh ngạc trước cái nhìn tàn ác khắc nghiệt khác thường khi xem xét đến
tội lỗi của sự để mình bị ‘tán tỉnh’, để cho những vị gót đối thủ lôi ‘lôi cuốn
cám dỗ’. Đối với ý thức hiện đại của chúng ta về những giá trị và công chính,
điều trên có vẻ như một tội lỗi vô tình bị lôi kéo, không có gì quan trọng,
nói thí dụ, khi so với sự kiện đem trao con gái của bạn cho một đám đông để
chúng hãm hiếp tập thể. Đó là một thí dụ nữa, của sự cắt đứt, không thể kết nối
giữa ‘đạo đức’ kinh thánh và đạo đức hiện đại (người ta phải muốn nói là đạo
đức văn minh). Dĩ nhiên, điều này là dễ dàng để hiểu trong những thuật ngữ của
lý thuyết meme, và những phẩm tính mà môt gót/thần linh ngõ hầu cần phải có để
sống còn trong ao meme chung. [27]
Những bi kịch-trò hề (cười ra nước mắt) của Gót ghen
tuông điên cuồng chống lại những vị gót có thể chiếm chỗ, hay đe dọa thay thế
ông, đã liên tục tái diễn suốt Cựu Ước. Nó là động cơ thúc đẩy điều thứ nhất
của Mười điều Răn (khắc trên những phiến đá mà Moses đã làm vỡ – Exodus: 20,
Deuteronomy: 5), và nó còn nổi bật hơn trong những điều răn thay thế (nếu không
là khá khác nhau) mà Gót cho để thay cho những phiến đá bị vỡ (Exodus 34). Sau
khi hứa (với dân Israel) sẽ đẩy sạch những dân tộc không may như Amorites,
Canaan, Hittite, Perizzites, Hivites và Jebusites, khỏi vùng đất sống của họ
(nhưng được Gót giao ước dành cho dân Israel với điều kiện dân tộc này đặt mình
chỉ dưới một gót Giê-hô-va); Gót đi thẳng xuống với những gì thực sự quan
trọng: những gót-géc đối thủ [28]
... ngươi
sẽ phá hủy bàn thờ của chúng, phá vỡ hình tượng của chúng, và kéo xập xuống
những hang bụi vòm cây thờ chúng. Vì nhà ngươi sẽ không thờ thần nào khác: vì
Chúa tể, có tên là Ghen tuông, là một Gót ghen tuông. Để ngươi đừng thực hiện
một giao ước với những cư dân của cõi này, và chúng đi ‘hành dâm’ theo sau
những gót của chúng, và dâng hiến sinh cùng những gót của chúng, và một ai
trong chúng gọi ngươi, và ngươi ăn vật hiến sinh cho thần của chúng; Và ngươi
cưới con gái của chúng cho con trai ngươi và con gái của ngươi đi ‘hành dâm’
theo sau những gót của chúng, và làm cho con trai ngươi cũng đi hành dâm theo
sau những gót của chúng. Ngươi sẽ không làm cho ngươi những tượng gót bằng kim
loại nấu chảy (Exodus 34: 13-17) [29]
Tôi biết, vâng, dĩ nhiên, dĩ nhiên, thời gian đã thay
đổi, và ngày nay không có lãnh đạo tôn giáo nào (ngoài những tương đương trong
Islam Taliban hoặc Kitô quá khích Mỹ) còn suy nghĩ như Moses. Nhưng đó là toàn
bộ điểm muốn nói của tôi. Tất cả những gì tôi đang thiết lập là đạo đức hiện
đại, cho dù nó có thể đến từ bất kỳ một nơi nào khác, nhưng không đến từ kinh
Thánh. Những nhà biện hộ Kitô không thể chối bỏ tuyên bố rằng tôn giáo (của họ)
đã cung cấp cho họ một vài kiểu như đường đi sâu xa bên trong, để định nghĩa
những gì là tốt và những gì là xấu – Một nguồn dành riêng chỉ cho họ, vì những
người không-tin-có-gót không có. Họ không thể trốn chạy khỏi điều đó, không
phủi tay được ngay cả nếu họ dùng lối nói-mập-mờ hai-lối ưa thích bằng cách
diễn dịch bới chọn những bản văn kinh thánh như là “biểu tượng” hơn là nghĩa
đen. Bởi vì – bằng những tiêu chuẩn nào khiến bạn quyết định đoạn kinh thánh nào là tượng trưng, đoạn kinh thánh nào
là nên theo nghĩa đen?
Làm sạch chủng tộc [30]
bắt đầu trong thời Moses đã đưa đến thành quả đẫm máu trong Joshua, một văn bản đặc biệt đáng chú ý
về những tàn sát đẫm máu nó ghi chép và sự ưa thích óc bài ngoại,
ghét-người-ngoài-nhóm. Như một bài hát cổ thich thú có nói hớn hở, “Joshua (Giô-suê) vừa vặn với trận chiến Jericho, và
những bức tường đã chấn động sụp đổ… . Không có ai giống như Joshuay đáng phục,
tại trận Jericho”. Joshuay đáng phục đã không nghỉ ngơi cho đến khi “họ hoàn
toàn phá hủy tất cả những gì trong thành phố, cả nam lẫn nữ, trẻ và già, và bò,
và cừu, và lừa, với lưỡi kiếm “(Joshua 6: 21).[31]
Tuy nhiên, một lần nữa, những nhà gót học sẽ phản đối,
nó đã không xảy ra. Vâng, nó không xảy ra – Câu chuyện kể rằng những bức tường
sụp đổ chỉ đơn thuần bởi âm thanh của con người la hét và tiếng tù và thổi, do
đó, thực sự nó không thể xảy ra – nhưng đó không phải là vấn đề muốn nói. Vấn
đề là, cho dù sự thật hay không, kinh Thánh được giương cao với chúng ta như
nguồn gốc của đạo đức cho chúng ta. Và câu chuyện kinh Thánh hủy diệt thành
Jericho của Joshua, và cuộc xâm lăng trên Đất Hứa nói chung, về mặt đạo đức
không thể phân biệt được với sự xâm lăng Ba Lan của Hitler, hoặc thảm sát người
Kurd và người Ả Rập Marsh của Saddam Hussein. Kinh Thánh có thể là tác phẩm lôi
cuốn, thu hút chú ý và hư cấu thi ca, nhưng nó không phải là loại sách mà bạn
nên đem cho con em của bạn để hình thành đạo đức cho chúng. Như chuyện xảy ra,
câu chuyện về Joshua trong Jericho là chủ đề của một thí nghiệm thú vị về đạo
đức trẻ em, sẽ được thảo luận sau trong chương này.
Nhân đây, đừng nghĩ rằng nhân vật Gót trong câu chuyện
đã có nuôi dưỡng một bất kỳ nghi ngờ thận trọng hay đắn đo ngần ngại nào về
những thảm sát và diệt chủng đi kèm với sự chiếm giữ vùng Đất Hứa. Ngược lại,
mệnh lệnh của ông, thí dụ như trong Deutoronomy 20, đã tàn nhẫn rõ ràng. Ông đã
làm một phân biệt tách bạch giữa những dân tộc sống trên đất cần xâm chiếm cho
họ (Israel), và những dân sống ở những đất tiếp cận xa hơn. Những người sau, ở
ngoài xa, trước hết nên được mời hãy đầu hàng một cách hòa bình. Nếu họ từ
chối, hãy giết tất cả đàn ông, còn phụ nữ được chừa lại bắt làm nô tì để sinh
sản gây giống. Ngược lại với đối xử tương đối nhân đạo này, hãy xem những gì
được dành sẵn và chờ đợi những bộ lạc không may, chỉ có tội là sống trong vùng
đất hứa Lebensraum [32]:
“Nhưng trong những thành của những dân tộc này, mà Gót của ngươi đã dành cho
ngươi thừa hưởng, ngươi sẽ không chừa lại mạng sống của bất cứ gì sống trong
các thành thuộc vùng đất mà Giê-hô-va là Gót sẽ ban cho các ngươi. Hãy tận diệt
các dân sau đây: Hê-tít, A-mô-rít, Ca-na-an, Phê-ri-xít, Hê-vít và Giê-bu-sít
theo như Gót đã truyền dặn “ [33]
Có thực những người giương kinh Thánh lên cao như là
một nguồn cảm hứng cho chuẩn mức, cho thái độ đúng đắn đạo đức, họ có mảy may
được một ý niệm nào, dẫu cùng cực nhỏ nhất, về những gì thực sự đã ghi chép,
viết xuống thành văn bản đó? Những vi phạm sau đây xứng với án tử hình, theo
như Leviticus 20: nguyền rủa cha mẹ của bạn; phạm tội ngoại tình, làm tình với
mẹ kế hoặc con dâu; đồng tính luyến ái; kết hôn với cả mẹ lẫn con gái, giao hợp
với thú vật (và, để thêm xúc phạm thương tổn, con thú đáng thương cũng phải bị
giết). Bạn cũng có thể bị giết chết, dĩ nhiên, nếu làm việc trong ngày Sa-bát:
điểm này được nói rõ một lần, lần nữa rồi lại lần nữa,… trong suốt Cựu Ước.
Trong Numbers 15, một đám trẻ em Israel đã bắt gặp một người sống giữa rừng hoang,
đang đi nhặt củi trong ngày cấm. Chúng bắt ông và sau đó hỏi Gót phải làm gì
với ông ta. Như chuyện đã thành, Gót đã không có tâm trạng nào với một biện
pháp nửa vời ngày hôm đó. “Và Gót đã phán cùng Moses: người này phải chắc chắn
bị đem giết chết: tất cả giáo đoàn phải lấy đá ném ông ta chết, ngoài doanh
trại (đang ở), và tất cả giáo đoàn đã đem ông ta ra ngoài doanh trại, lấy đá
ném ông, và ông chết”. Không biết người nhặt củi vô hại này có hay không một
người vợ và đàn con khóc thương ông ta? Ông ấy có rên rỉ khiếp sợ khi những
viên đá đầu tiên bắt đầu ném vào ông, và có hét lên với đau đớn khi đá tới tấp
ném như đạn bắn liên tiếp vào đầu? Những gì khiến tôi bị sốc hôm nay về những
câu chuyện như vậy, không phải là chúng thực sự đã xảy ra hay không. Chúng cũng
có thể đã không hoàn toàn là như thế. Điều làm tôi phải há hốc mồm kinh hoàng
là đòi rằng người ta ngày nay nên đặt cơ sở đời sống của họ trên vai trò khuôn
mẫu làm gương thật kinh khủng như vậy của Yahweh – và, thậm chí tệ hơn, là họ
còn hống hách lên giọng chủ nhân cố gắng ép buộc cũng cùng con quái vật tàn ác
đó (cho dù có thực hay viễn tưởng) trên phần chúng ta còn lại.
Sức mạnh chính trị của những người tập tễnh ôm lấy
Mười điều răn ở nước Mỹ thì đặc biệt đáng tiếc trong đất nước cộng hòa lớn lao
đó, sau tất cả, có hiến pháp vốn đã được những người của thời Khai sáng soạn
thảo, với những điều kiện thế tục rõ ràng. Nếu chúng ta nghiêm túc nhận Mười
điều răn, chúng ta sẽ xếp hạng sự tôn thờ của những gót sai, và làm những hình
khắc thần tượng, như là thứ nhất và thứ hai trong số những tội lỗi. Thay vì
đúng hơn, lên án sự phá hoại kinh tởm không lời nào kể xiết của đám Taliban,
những kẻ đã lấy chất nổ giật đổ những tượng Phật Bamiyan cổ cao 150 feet ở vùng
núi Afghanistan, chúng ta sẽ phải khen ngợi lòng sùng mộ đạo đức chân chính của
họ. Những gì chúng ta nghĩ về như sự phá hoại của họ đã chắc chắn thúc đẩy bởi
lòng cuồng nhiệt chân thành tôn giáo. Điều này thì được chứng thực một cách
sống động bởi một câu chuyện thật kỳ lạ, đã là tin hàng đầu trên tờ Independent (London) ngày 06 tháng 8 năm
2005. Dưới nhan đề đầu trang trước, “Việc tiêu hủy Mecca, báo Independent tường trình:
Mecca lịch
sử, cái nôi của đạo Islam, thì đang bị chôn vùi trong một tấn công dữ dội chưa
từng thấy bởi những cuồng tín tôn giáo. Hầu như tất cả lịch sử phong phú và
nhiều tầng lớp của thành phố thánh thì đã mất sạch .. . Bây giờ, nơi ra đời
thực sự của tiên tri Muhammad đang đối mặt với những xe ủi đất, với sự nhắm mắt
làm ngơ của chính quyền tôn giáo Ả Rập Saudi có đường lối diễn dịch Islam cứng
rắn, thuyết phục họ tự xóa sạch di sản của họ.. . Động cơ đằng sau sự hủy diệt
là sự sợ hãi cuồng tín của những người Wahhabists [34]
rằng những địa điểm lịch sử và thu hút quan tâm tôn giáo có thể đưa đến sự sùng
bái thần tượng hoặc tôn giáo tin-nhiều-gót, thờ những vị nhiều những vj gót và
họ có quyền năng ngang nhau. Những ai thực hành sùng bái thần tượng ở Ả Rập
Saudi, trên nguyên tắc, vẫn còn bị trừng phạt bằng cách chặt đầu.
Tôi không tin rằng có một người không-tin-có-gót nào
trên thế giới là người sẽ muốn san bằng đất thánh Mecca – hoặc nhà thờ
Chartres, York Minster hoặc Notre Dame, chùa mái vàng Shwedagon, những đền ở cố
đô Kyoto, dĩ nhiên, hay những tượng Phật ở Bamiyan. Khi nhà vật lý người Mỹ
đoạt giải Nobel Steven Weinberg nói: “Tôn giáo là một lời lăng mạ, sỉ nhục xúc
phạm phẩm giá con người. Có nó hay không có nó, bạn sẽ có những người tốt làm
những việc tốt và người xấu làm những điều ác. Nhưng để cho những người tốt làm
những việc ác, nó cần có tôn giáo”. Blaise Pascal (ông là người đem tin tưởng
tôn giáo ra để đánh cá được thua, hơn thiệt) đã nói một điều gì đó tương tự:
“Con người không bao giờ làm điều ác hết sức hoàn toàn và vui vẻ, bằng như khi
họ làm điều đó với sự xác quyết từ lòng tin tôn giáo” [35].
Mục đích chính của tôi ở đây đã không phải để chưng
bày cho thấy rằng chúng ta không nên
tiếp nhận đạo đức của chúng ta từ quyển sách thánh (mặc dù đó là ý kiến riêng
của tôi). Mục đích của tôi đã là chứng minh rằng chúng ta (và đó là gồm hầu hết
những người có tôn giáo) như một vấn đề thực tiễn, đừng tiếp nhận đạo đức của chúng ta từ quyển sách thánh. Nếu chúng
ta đã thế, chúng ta sẽ tuân hành chặt chẽ luật của ngày Sa-bát và nghĩ nó là
công chính và thỏa đáng để giết bất cứ ai là người đã chọn không thực hành luật
này [36].
Chúng ta sẽ ném đá cho đến chết bất kỳ cô dâu mới lấy chồng nào là người không
thể chứng minh cô vẫn còn là một trinh nữ, nếu chồng cô tuyên bố không hài lòng
với cô [37].
Chúng ta sẽ giết chết những trẻ em không vâng lời cha mẹ [38].
Chúng ta sẽ.. . nhưng hãy chờ. Có lẽ tôi đã bất công. Những người Kitô tử tế sẽ
phản đối suốt phần này: mọi người đều biết Cựu Ước là rất nhờm tởm
khó chịu đáng ghét.
Tân Ước của Jesus chữa lại tai tiếng tai hại đó, và làm nó thành đúng tất cả.
Có phải không?
Tân Ước có tốt gì hơn
không?
Vâng, không có phủ nhận rằng, từ một điểm nhìn đạo
đức, Jesus là một cải tiến hết sức lớn so với độc ác yêu tinh của Cựu Ước. Thực
vậy, nếu như ông hiện hữu (hoặc bất cứ ai đã viết kịch bản về ông, nếu như ông
đã không thực) Jesus đã chắc chắn là một trong những nhà sáng tạo đạo đức lớn
trong lịch sử. Bài giảng trên Núi là đã đi trước thời đại của ông rất xa. “Đưa
nốt má bên kia” của ông như ứng đoán trước Gandhi và Martin Luther King, hai
ngàn năm. Không phải là bỗng không khiến tôi đã viết một bài gọi là “Những
người không-tin-có-gót cho Jesus”(và sau này vui mừng được tặng cho một áo áo
thung-kiểu-chữ-T mang tên truyền thuyết).[39]
Tuy nhiên, ưu thế đạo đức của Jesus đúng như thế đã
mang ra quan điểm của tôi. Jesus đã không hài lòng để rút lấy luân lý của ông
từ những quyển sách thánh dù chính ông đã được nuôi dạy. Ông rõ ràng đã khởi đi
từ chúng, thí dụ khi ông làm xì hơi những cảnh cáo nghiêm trọng về vi phạm
Sa-bát. “Sa-bát được làm cho con người, không phải con người cho Sa-bát”, đã
được khái quát hóa thành một thành ngữ khôn ngoan. Vì luận án chính của chương
này là chúng ta không, và không nên, rút lấy đạo đức của chúng ta từ kinh
Thánh, nên Jesus phải được vinh danh như một khuôn mẫu cho chính luận án này.
Nhưng những giá trị gia đình của Jesus, một điều phải
được thừa nhận, đã không như người ta có thể muốn tập trung vào. Ông thì cộc
lốc với mẹ mình, đến mức sống sượng lỗ mãng, và ông khuyến khích những môn đệ
ông hãy từ bỏ gia đình của họ để theo ông. “Nếu bất kỳ con người nào đến với
ta, và không ghét cha của hắn, và mẹ, và vợ, và con, và anh em, và chị em, phải
đấy, và cả đời sống của riêng hắn nữa, hắn không thể là học trò của ta”. Nhà
hài hước người Mỹ Julia Sweeney bày tỏ sự hoang mang của cô trong một người phụ
nữ, trong màn kịch độc diễn của cô, Letting
Go of God: [40]
“Đó chẳng phải là những gì những giáo phái cuồng tín vẫn làm hay sao? Làm cho
bạn chối bỏ gia đình bạn, để nhồi sọ khắc sâu cho bạn? [41]
Mặc dù những giá trị gia đình phần nào không vững
vàng, khó tin của ông, những giảng dạy đạo đức của Jesus đã là – ít nhất qua so
sánh với lĩnh vực đạo đức thiên tai mà đó là Cựu Ước – thì đáng ngưỡng mộ,
nhưng có những giảng dạy đạo đức khác trong Tân Ước mà không một người tốt nào
nên ủng hộ. Tôi đặc biệt trỏ thẳng về lý thuyết trung tâm của đạo Kitô: là sự
“chuộc tội” cho “tội nguyên thủy”. Điều giảng dạy này, nằm ở giữa trái tim của
gót-học Tân Ước, là gần như cũng nhờm tởm đáng ghét về mặt đạo đức như câu
chuyện Abraham sửa soạn “nướng thịt” Isaac [42],
mà nó giống – và đó là không phải ngẫu nhiên, như Geza Vermes làm cho rõ ràng
trong The Changing Faces of Jesus.
Bản thân tội nguyên thủy đến thẳng từ huyền thoại Adam và Eva trong Cựu Ước.
Tội lỗi của họ – ăn trái của một cây cấm – có vẻ nhẹ, chỉ đủ đơn giản để nhận
một khiển t.rách. Nhưng tính chất tượng trưng của trái cây (kiến thức về thiện
và ác, mà trong thực tế hóa ra là kiến thức rằng họ đã là trần truồng) là đủ để
chuyển sự trộm-táo [43]
của họ tháo thoát ra vào thành mẹ và cha của tất cả những tội lỗi [44].
Họ và tất cả con cháu của họ đã bị trục xuất mãi mãi khỏi vườn Eden, bị tước mất món quà của sự sống đời
đời, và bị lên án với những thế hệ của lao động vật vã đau đớn, trong canh tác
ngoài đồng và trong sinh nở.
Cho đến nay, sự báo thù đã rõ đắc thắng: ngang ngửa
với dòng chảy Cựu Ước. Gót học Tân Ước cộng thêm một sự bất công mới, bằng một
sự khổ-bạo-dâm mới được đẩy lên cao mà thậm chí sự xấu xa đồi bại tà ác của Cựu
Ước hầu như không vượt qua được [45].
Đó là, khi bạn nghĩ về nó, thật là đáng chú ý rằng một tôn giáo lại nên chọn
lấy một dụng cụ dùng để tra tấn và để xử tội tử hình như biểu tượng thiêng
liêng của nó, thường được tín đồ đeo quanh cổ. Lenny Bruce đã châm biếm đúng
rằng “Nếu Jesus bị giết chết chỉ mới hai mươi năm trước, trẻ em Catô trong tuổi
đi học sẽ được đeo một chiếc ghế điện nhỏ trên cổ, thay vì cây thập giá”. Nhưng
lý thuyết về gót-học và về sự trừng phạt đằng sau nó, thậm chí lại còn tàn tệ
hơn. Tội lỗi của Adam và Eve được cho là được truyền xuống theo phái nam – được
di truyền trong tinh dịch theo như thánh chiên Augustine [46].
Triết lý đạo đức thuộc loại nào vậy [47],
khi nó lên án mọi trẻ em, ngay cả trước khi chúng được sinh ra, đã kế thừa
những tội lỗi của một tổ tiên xa tít mù mờ? Augustine, cũng nhân đây, người tự
coi mình và đúng thế, là một-gì đó thuộc vào hàng cá nhân có thẩm quyền khi nói
về tội lỗi, là người đã chịu trách nhiệm ghép nên cụm từ “tội nguyên thủy”.
Trước ông, nó đã được gọi là “tội tổ tông”. Những tuyên bố của Augustine và
những cuộc tranh luận, tóm thu cho tôi một hình ảnh, là sự bận tâm không lành
mạnh của những nhà gót học đạo Kitô buổi ban đầu với tội lỗi. Họ đã có thể dành
những trang đầy chữ viết hay những bài giảng bất tuyệt của họ vào việc tán
dương vòm trời tràn ngập những vì sao, hoặc non cao và rừng xanh lá, và những
hợp xướng của biển và bình minh. Những điều này đôi khi có được nhắc tới, nhưng
tập trung của Kitô là đa số tuyệt đối tràn ngập những tội lỗi, tội lỗi, tội
lỗi, tội lỗi, tội lỗi, tội lỗi, tội lỗi. Thật là một ám ảnh đen tối, bận tâm
nhỏ nhoi khó chịu để trùm lên đời sống của bạn. Sam Harris đã bình luận gay gắt
một cách tuyệt vời trong Letter for a
Christian Nation: “Mối quan tâm chính yếu của bạn xuất hiện như rằng Đấng
Tạo Hóa của vũ trụ sẽ bị xúc phạm với một vài điều gì đó mà người ta làm khi
đương trần truồng. Sự hổ ngươi ra bộ đoan trang giữ gìn của bạn góp phần hàng
ngày vào sự thặng dư của khốn khổ con người”.
Nhưng bây giờ, đến sự khổ-bạo-dâm. Gót đã nhập thể bản
thân mình như một con người, là Jesus, ngõ hầu để nhân vật này phải bị tra tấn
và bị hành quyết, trong sự chuộc tội
cho tội lỗi di truyền của Adam. Kể từ khi Paul mở rộng thành chi tiết rõ ràng
lý thuyết nhờm tởm này, Jesus đã được tôn thờ như đấng Cứu Thế, kẻ cứu chuộc
cho tất cả những tội lỗi của chúng ta. Không chỉ là tội lỗi quá khứ của Adam:
cả những tội lỗi trong tương lai nữa,
cho dù mọi người trong tương lai quyết định sẽ có phạm vào chúng hay không!
Như một thêm vào khác nữa, điều đã xảy ra với nhiều
người khác nhau, gồm cả Robert Graves trong huyền sử tiểu thuyết Vua Jesus của ông [48],
rằng Judas Iscariot khốn khổ (“kẻ phản Chúa”), đã nhận chịu một dàn xếp đầy tai
tiếng xấu của lịch sử, nhưng sự “phản bội” của Judas đã là một một phần tất yếu
của kế hoạch vũ trụ. Như thế cùng một điều có thể nói về những kẻ sát nhân bị
cáo buộc (“dân giết Chúa”) đã giết Jesus. Nếu Jesus đã muốn bị phản bội và để
sau đó bị sát hại, ngõ hầu ông có thể cứu chuộc chúng ta tất cả, không phải
đúng hơn là điều không công bằng của những người tự xem chính bản thân họ nhận
được cứu chuộc, nhưng lại kể tội, xả oán hận của mình xuống trên Judas và dân
Dothái dòng dã hàng thế kỷ, qua bao nhiêu thời đại? Tôi đã đề cập đến danh sách
dài những tập sách phúc âm không được chọn như kinh điển của hội nhà thờ. Một
bản thảo có nội dung như là Phúc Âm thất lạc của Judas gần đây đã được dịch và
đã được công nhận tầm quan trọng [49].
Những sự kiện chi tiết về khám phá của nó thì còn thảo luận bàn cãi, nhưng nó
dường như đã xuất hiện ở Egypt trong khoảng thời gian những năm 1970 hoặc 60.
Nó là văn bản chép bằng chữ Coptic trên sáu mươi hai trang giấy papyrus, định tuổi-carbon vào khoảng năm
300 CN, nhưng có lẽ dựa trên một bản thảo Hylạp có sớm hơn trước đó. Dù một ai
đó là tác giả đi nữa, phúc âm được nhìn từ quan điểm của Judas Iscariot, và đưa
ra sự kiện rằng Judas đã phản bội Jesus chỉ vì Jesus đã yêu cầu ông đóng vai
trò đó. Tất cả nó đã là phần của kế hoạch để có được Jesus phỉ bị giết chết
bằng đóng đinh, để ông có thể chuộc nhân loại. Dù khó chịu nhờm tởm như giáo
thuyết của nó, nó xem dường làm tăng thêm tai tiếng khó chịu mà Judas từ bao
giờ vẫn bị phỉ báng.
Tôi đã mô tả sự chuộc tội, giáo thuyết trung tâm của
đạo Kitô, như đồi bại xấu xa, bạo-dâm-trộn-khổ-dâm và nhờm tởm đến gớm ghiếc
muốn gạt bỏ. Chúng ta cũng nên xua đuổi nó như chó dại sủa điên cuồng, nhưng vì
sự quen thuộc phổ biến khắp nơi của nó đã làm cùn nhụt đi tính khách quan của
chúng ta. Nếu Gót muốn tha thứ cho những tội lỗi của con người, tại sao không
chỉ đơn giản là tha chúng đi, mà không cần phải tự tra tấn và hành quyết như
đòi tiền thanh toán món nợ – do đó, một cách ngẫu nhiên, đã lên án và xử phạt
những thế hệ xa xôi dân Dothái trong tương lai, với những ruồng bố tàn sát và
kỳ thị ngược đãi họ như những “kẻ giết Chúa”: có phải tội lỗi di truyền đó
truyền theo tinh dịch xuống những thế hệ sau hay không? [50]
Như học giả Dothái Geza Vermes làm cho rõ ràng, Paul
đã dấn bước sâu vào trong nguyên tắc gót-học cổ của Dothái, rằng nếu không có
máu thì không có chuộc tội [51].
Thật vậy, trong Thư gửi tín hữu của mình cho người Dothái (9: 22) ông đã nói
nhiều như thế. Những nhà luân lý tiến bộ thời nay thấy khó để chống đỡ bào chữa
cho bất cứ một loại lý thuyết nào về sự trả đáp ứng đền với trừng phạt, đừng
nói chi đến chỉ lý thuyết “giết dê tế thần”, ở đây là giết con cừu non dâng Gót
– nghĩa là đem giết một kẻ vô tội để đền trả những tội lỗi của những kẻ có tội.
Trong bất kỳ trường hợp nào đi nữa (người ta không thể không phải tự hỏi), Ai
là người được Gót đang gắng tạo cảm kích chấn động sâu đậm đây? Có lẽ chính ông
ta – vừa là quan tòa, vừa là bồi thẩm đoàn và cũng vừa là nạn nhân tử hình. Để
thu kết tất cả, Adam, kẻ thủ phạm giả định của tội nguyên thủy, trước hết đã
không bao giờ xuất hiện (trong bản án): một thực tế éo le trái khoáy khó xử, Paul
có thể tạm tha thứ vì không biết đến, nhưng có lẽ một Gót toàn trí phải giả
định là biết đến (và cả Jesus, nếu bạn tin rằng ông ta là Gót?) – Đó là về cơ
bản đã làm suy yếu những tiền đề của toàn bộ lý thuyết ngoắt ngéo xảo trá nhờm
tởm khó chịu. Ồ, nhưng dĩ nhiên, câu chuyện Adam và Eve đã vẫn chỉ là tượng trưng, phải không? Tượng trưng?
Nếu như thế, để tự gây cảm kích chấn động sâu đậm cho mình, Jesus đã tự để mình
bị tra tấn và bị hành quyết, trong một hình phạt ác độc cho một tội tượng trưng đã phạm bởi một cá nhân không-hiện hữu? Như tôi đã nói, chó dại
sủa điên cuồng, cũng như tàn độc nhờm tởm khó chịu.
Trước khi rời khỏi kinh Thánh, tôi cần phải gọi chú ý
đến một khía cạnh đặc biệt khó nuốt của giảng dạy đạo đức của nó. Những người
Kitô hiếm khi nhận ra rằng nhiều những đắn đo quan tâm đạo đức của họ đối với
người khác vốn vẫn được thúc đẩy rõ ràng trong hai kinh Thánh, cả cũ và mới,
đều ban đầu đã được dự định chỉ áp dụng cho một tập thể những người thuộc trong-nhóm được ấn định hạn hẹp. “Hãy
yêu láng giềng ngươi” đã không có nghĩa những gì bây giờ chúng ta nghĩ rằng nó
có nghĩa. Nó chỉ có nghĩa là “Hãy yêu một ngươi Dothái khác”. Điều này đươc nhà
y sĩ và nhà tiến hóa nhân loại học người Mỹ là John Hartung làm vỡ tan tác. Ông
đã viết một bài khảo cứu đáng chú ý về sự tiến hóa và lịch sử kinh thánh của
đạo đức nhìn theo sự đối xử phân biệt của trong/ngoài nhóm, và cũng nhấn mạnh,
lật tẩy mặt bên kia – sự thù địch với ngoài-nhóm.
Hãy Yêu Láng Giềng nhà
Ngươi
Khôi
hài đen của John Hartung hiện rõ ngay từ đầu, ở chỗ ông kể về sáng kiến của một
người Baptist Nam nước Mỹ để đếm số
người của tiểu bang Alabama trong hỏa ngục.
Lê Dọn Bàn tạm dịch –
bản nháp thứ nhất
(Jul/2013)
[1] [Lane Fox
(1992); Berlinerblau (2005).]
[2] John Shelby
Spong. The Sins of Scripture – Những Tội
ác trong kinh Thánh
[3] [Holloway (1999, 2005). Câu “một người
Kitô đương hồi phục” của Richard Holloway là trong một bài điểm sách trên Guardian, 15/02/2003:
http://books.guardian.co.uk/reviews/scienceandnature/
0,6121,894941,00.html.
Muriel Gray, nhà báo người Scott đã viết một thuật kể đẹp đẽ về
gặp gỡ giữa tôi và Holloway ở Edinburgh trong tờ (Glasgow) Herald: http://www.sundayherald.com/44517.]
[4] Bible hay “la
bible” [Middle English < Old French < Medieval Latin biblia (feminine
singular) < Greek, [như trong “ biblía tà hagía” (= the
holy books); biblíon, byblíon = cuộn giấy papyrus,
gốc từ býblos (papyrus), có tên từ Býblos, là tên một hải cảng
xứ Phoenicia đã xuất cảng giấy papyrus này].
Như vậy trong ngữ
nguyên bible chỉ có nghĩa đơn giản là quyển sách, và trong
các sách báo phương Tây, khi được viết hoa “Bible”, nó được nhấn mạnh để
có nghĩa “quyển Sách”, chỉ một quyển sách đặc biệt, phổ thông ai cũng biết đến
(đã có một thời gian rất lâu, với người dân thường, nó là quyển ‘sách’ duy nhất
mà họ được biết hay được nhìn thấy), và quyển sách đó có tính linh thiêng
(“holy” hay “sacred”), thường hiểu là ‘quyển sách linh thiêng của đạo Kitô’
(the sacred book of the Christian religion), và nếu rộng hơn, là của hai tôn
giáo Abraham anh em: Juda, và Islam (Koran). Khi dịch sang tiếng Việt và Tàu –
những nhà truyền giáo mượn chữ ‘kinh’ và dịch “Bible” thành Thánh kinh (聖 經). Từ ‘kinh’ (經) với nghĩa (sutra = sợi dây, chủ đề) đã sẵn
có trong tiếng Sanskrit và Tàu, trước hết có nghĩa nguyên thủy chỉ những tập
sách viết trên một thứ lá cây cọ nước (lá bối), sâu lại thành tập, ghi lời dạy
của Phật, và về một chủ đề (không phải truyền thuyết, huyền thoại, và không tản
mạn mọi chuyện); sau đó mở rộng dùng với nghĩa sách ghi lời giảng dạy của thánh
nhân phương Đông (kinh Veda, tứ thư ngũ kinh, Nam hoa kinh,…).
Thế nên “bible” tự thân
nó không hề hợp với ý niệm “kinh” hay “điển” (như trong kinh Phật,
hay tứ thư ngũ kinh) như trên, nhưng những người nghe nói đến,
nhưng không đọc ‘bible’, đã tiếp nhận theo vô thức, gán những gì mình quen biết
với những gì chưa biết, đi đến mặc nhận, lầm lẫn khái niệm và rồi tưởng ‘hiểu
sai’ của mình là ‘hiểu đúng’. Khi dịch ‘bible’ thành ‘thánh kinh’, người dịch
ban đầu có thể đã chỉ mượn một khái niệm sẵn có để giới thiệu một khái niệm
mới, và nhu cầu vội vàng đưa đến lệch lạc, đến nhận hiểu sai lầm. Nhưng với
thời gian qua, họ đã không chữa lại cho đúng, trả ‘bible’ về đúng nghĩa của nó
là ‘quyển sách linh thiêng’? Tôi nghĩ, ở đây những người Kitô đã hé lộ cho thấy
chiến thuật truyền đạo mà thực chất là xâm lược văn hóa (inculturation)
có chủ ý muốn gây ra, hay đem dùng, hoặc giữ lại sự sai lầm ngẫu nhiên, trong
trường hợp ngôn ngữ này, vì chúng đem lại thuận lợi cho công việc phổ biến tôn
giáo của họ, khoác áo đẹp của người, dù không vừa vặn nhưng để tạm che dấu mình
thực sự là gì. Tôi gọi thủ thuật này, mập mờ trong những từ-dùng để mập mờ
trong những nghĩa-dùng, trợ giúp cứu cánh truyền giáo. Khi biết mình khó được
tiếp đón, chấp nhận nếu trình bày chân thực những gì như mình là, đã khéo léo
(hay gian xảo) trá hình để gây thân thiện, tạo gần gũi, mượn áo người vốn đã
được nhìn quen, khéo léo vượt những khác biệt để vào được vườn văn hóa người;
tôi gọi đó là thủ thuật “ốc mượn hồn”. Trong trường hợp này, khi dịch một quyển
sách ghi những huyền thoại linh thiêng là ‘kinh’, nó đã khoác được những tính chất
cao quí không phải của nó, cho những người ngoài (không phí thì giờ đọc), hay
trong nhưng còn mới (chưa hay không bao giờ đọc trọn tập sách một cách độc lập)
với tôn giáo này. Những người này quen với ý nghĩa kinh lá lời dạy cao quí của thánh
nhân, không hiểu ‘bible’ chỉ là ghi chép lời nói, truyên kể về một thần
linh (Gót). Cũng như trường hợp ‘lập lờ’ dịch Gót là ‘Thượng đế’, dù tự
biết Gót, hay Giê-hô-va khác xa, hay không phải, thậm chí yếu tính là
trái ngược với những gì từ bản thân từ Thượng đế vốn có nghĩa từ trước đến
nay). Và cũng cho thấy thái độ hay một cách tự đề cao (không thực sự đọc cho
hết quyển sách gớm ghiếc đầy những truyện kinh hãi này) của những người Kitô
Tàu, Vietnam. Họ tôn sùng quyển sách này còn hơn chính những tác giả và độc giả
của nó trong truyền thống phương Tây có thể đề cao nó.
Như thế, ‘kinh Thánh’ là
sách ‘thánh’ vì ghi những lời của Gót, của thần linh, và như thế ‘thánh’ là ‘thần
thánh’ (truyền thuyết, huyền thoại, trong thế giới siêu nhiên); khác
‘thánh’ là tính chất hơn người, cao quí của những ‘thánh nhân’ (con người thực,
có những hành động, sự nghiệp, vươn tới, đat gần đến tuyệt đối, vượt trên người
thường, trong thế giới tự nhiên)
Vậy chúng ta nên hiểu từ
‘kinh thánh’ như thế nào? – có thể hiểu ‘kinh’ Thánh = quyển sách
ghi những truyện kinh hãi về nhân vật Gót được không?
(a) “kinh” là “kinh
hãi” – gần hết những truyện kể trong quyển sách ‘thần thánh’ này đều ít nhiều
có tính kinh hoàng, có thể làm người ta kinh hãi, khiếp sợ rồi đi đến tùng phục
Gót, người có quyền năng vô biên làm những hành vi siêu nhiên, đầy quyền
phép,muốn ai sống được sông, muốn ai chết phải chết; trước sau khắc nghiệt nếu
không nói là ác độc, sẵn sàng nặng tay trừng phạt. Gót là nhân vật đáng sợ gây
kinh hoàng, là nhân vật chính Yahweh, hay Jehovah, và phiên âm là GiêHôVa trong
Cựu Ước, và như Dawkins đã tóm tắt về nhân vật này, ở chương 2:
“Gót của Cựu Ước có thể được cho là nhân vật cực kỳ khó chịu, gây
tai giáng họa bất hạnh, ứng xử không thân thiện, bất cần, và thô lỗ nhất trong
tất cả mọi truyện giả tưởng: kẻ ghen tuông và tự hào về điều đó, một quái vật
tính tình đồng bóng, thất thường luôn muốn dành quyền kiểm soát, hiềm thù không
hề biết tha thứ, nhỏ nhen, bất công, kẻ tẩy rửa sắc tộc khát máu; kẻ ghét phụ
nữ, kẻ ghét đồng tính luyến ái, kẻ kỳ thị chủng tộc, kẻ giết trẻ con, kẻ diệt
chủng, kẻ giết con ruột, kẻ độc hại như bệnh dịch, kẻ thích làm lớn, hoang tưởng
tự đại, kẻ bạo dâm, cuồng dâm, ác dâm, thông dâm và loạn dâm, kẻ ác độc thất
thường lại hay bắt nạt.”
(b) Còn từ ‘thánh’? Giới
học giả Kitô gọi Biblia sacra (sách thánh) và giải thích tính
chất “thánh” như sau, tạm nhắc không bàn đúng sai, vì có nhiều phần tin
tưởng chủ quan: “thánh” là “thiêng liêng, tách biệt, và linh hiển” (a) Khi Gót
với Môsê trong bụi gai cháy, ông ra lệnh Môi-se bỏ dép ra vì ông đang đứng trên
nên đất “thánh” thiêng. Chỗ đất ấy là đất thánh vì sự hiện diện (dù vô hình)
của Gót. Bởi vì Gót là thiêng liêng, những lời Gót nói cũng là thiêng liêng,
Trong cùng một cách, những lời Gót cho Môsê trên núi Sinai cũng là thiêng
liêng, cũng giống như tất cả các lời của Gót đã ghi trong Kinh Thánh là thiêng
liêng ((Psalm 19:7), (Psalm 19:8). (b) Sách Thánh cũng là “thánh” bởi vì nó do
những người dưới sự chỉ đạo và ảnh hưởng của Gót Thánh Thần viết ra. Kinh Thánh
là “hơi thở của Gót” Từ ngữ này HyLạp dịch từ “Theopneustos = theos(gót)
+ pneo (thở hoặc hơi thở). (c) Một nghĩa thánh khác
là ‘không phàm tục’, hay ‘đứng riêng ra ngoài’. Gót giao ước với dân Israel để nó
thành “vương quốc của Gót và một dân tộc thánh linh” (Exodus 19:6). Với người
Kitô Nó cũng có nghĩa là cuốn sách duy nhất được Gót “viết”, cuốn sách duy nhất
sẽ trường tồn với thời gian (Matthew 5:18).
Vậy bible chỉ
là một quyển sách, sách này là sách thánh vì có liên hệ với một thần
thánh (Gót), hoặc ghi lời ông, hoặc ông giúp viết, hoặc ông cho riêng một dân
tộc được ông lựa chọn và giao ước (Cựu ước, Tân ước). Như vậy tính chất thánh đều
có những nội dung tin tưởng chủ quan. Nhưng không có ý nghĩa thánh
thiện, hay thuần túy đạo đức khách quan như vẫn có thể hiểu lẫn lộn với từ
“thánh” của phương đông (thánh nhân, thánh thư). ‘thánh’ trong ‘kinh thánh’ chỉ
có nghĩa là thánh linh, linh thiêng, siêu nhiên và là một
nghĩa chủ quan, nghiã là những gì được tin tường không phải được biết thực.
Và để trả nó về với nghĩa
tương đối khách quan (không-Kitô, ngoài Kitô) với nhiều người khi vui đọc nó để
giải trí (và tìm hiểu phong tục đường xa, xứ lạ, thời xưa) như tập truyền thuyết,
huyền thoại chọn lọc của dân tộc Dothái đặc biệt:
kinh = kinh hãi; Thánh=thần thánh,
huyền thoại, không chắc có thực (Gót, hay Giê-hô-va)
Kinh Thánh = sách ghi những truyện “kinh hãi” về nhân vật không
chắc có thực Gót.
(Nhân vật Jesus xưng là
Christ trong Tân Ước cũng nhận mình là Gót-con, vậy kinh thánh gồm cả hai quyển
Tân và Cựu, đều có chung một nhân vật, đều là những truyện kể về Gót).
Đó là cách hiểu từ ngữ
bible = kinh Thánh; của tôi, có lẽ cũng của nhiều người đã đọc nó, và không xa lắm
với những gì nó được hiểu trong môi trường văn hóa phương Tây của nó, hiện nay
(như Dawkins, chúng ta đang đọc). Chúng ta chỉ nên gọi nó là quyển sách thánh, hay rõ hơn sách thánh Kitô; và khi nghe nói “kinh thánh”,
đã đọc những gì Dawkins viết trên – chúng ta hiểu đó là quyển sách có hại, chép những chuyện kinh hãi, gây những hành động kinh
hoàng.
[5] Nô-ê và trận lụt lớn – nguyên
văn từ quyển sách Thánh:
“Sau đây là gia phổ của Nô-ê. Nô-ê là
người nhân đức, chân thật nhất trong thời đại ông. Nô-ê đồng đi với Gót. Ông có
ba con trai: Sem, Cham và Gia-phết. Dân cư trên đất làm những điều Gót cho là độc
ác. Đâu đâu cũng thấy điều bạo ngược. Khi Gót thấy loài người đã làm hư hoại
đất vì họ chỉ chuyên làm ác,thì Ngài phán cùng Nô-ê rằng, “Vì đất đã đầy dẫy
điều bạo ngược do con người tạo ra, nên ta sẽ tiêu diệt mọi sinh vật khỏi đất.
Con hãy đóng một chiếc tàu bằng gỗ bách cho con. Hãy làm nhiều phòng trong tàu
rồi lấy nhựa chai trét bên trong và bên ngoài. Tàu sẽ có kích thước như sau:
dài 150 thước, rộng 25 thước, cao 15 thước. Hãy làm một cửa sổ quanh nóc tàu
cao 5 tấc tính từ mép của nóc xuống. Trổ một cửa lớn bên hông tàu. Bên trong
tàu chia làm ba từng: từng trên, từng giữa và từng dưới.
Ta sẽ mang nước lụt đến trên đất để tiêu
diệt tất cả các sinh vật sống dưới bầu trời, toàn thể các sinh vật có hơi sống.
Mọi loài trên đất đều sẽ chết hết. Nhưng ta sẽ lập giao ước với con. Các con
trai con, vợ con, các nàng dâu con sẽ đi vào tàu. Ngoài ra con phải mang vào
tàu mỗi sinh vật một cặp, trống và mái. Hãy nuôi sống các loài ấy. Loài chim,
thú vật, động vật bò sát, mỗi loài một cặp sẽ đến với con để sống còn”.
[6] [For a frightening collection of
sermons by American clergymen, blaming hurricane Katrina on human 'sin', see
http://universist.org/neworleans.htm.]
[7] Gót trừng phạt vì “Vì đất đã đầy dẫy
điều bạo ngược do con người tạo ra, nên ta sẽ tiêu diệt mọi sinh vật khỏi đất.”
Ở đây, đừng hãy nhớ rằng chính vị Gót này đã tạo ra con người, và chính ông
cũng biết mình lầm lẫn – cùng đoạn văn, ngay câu trước có nói “Đức Giê-hô-va
thấy sự hung ác của loài người trên mặt đất rất nhiều, và các ý tưởng của lòng
họ chỉ là xấu luôn; thì tự trách đã dựng nên loài người trên mặt đất, và buồn
rầu trong lòng.” – vậy cứ cho là Giê-hô-va tạo thiên lập địa, ông cũng không thông
minh khéo léo gì khi đã “tạo ra lũ người” – và sau đó mỗi lần chúng có làm gi
không đúng, ông chỉ có một cách là “giết sạch” diệt sạch, trừng trị thẳng tay.
Đây cũng là điều đáng suy nghĩ, nếu hiểu Gót cho con người sự sống, nên trừng
phạt là sự chết, đem đến khái niệm thiên đường (ban thưởng sự chết, phải chết
mới vào thiên đường!) và hỏa ngục (chết không là hết nhưng là trừng phạt vĩnh
cửu, mãi mãi, đời đời,…) Cuối cùng là ngày “tận thế” – chấm dứt màn kịch sáng
thế thất bại thảm hại xong chuyện; mà đến ngày đó, theo như sách Khải
Huyền cho thấy (cứ tạm tin vào kho những câu chuyện dài này, tất cả
trước sau như thế, cho đủ bộ và nhất thống toàn vẹn) vẫn còn có rất nhiều người
nhởn nhơ không tin theo ông!
Tôi không thể không đôi lúc tự hỏi – theo chính những huyền thoại
này, (bản thân Jesus cũng tin nồng nhiệt hơn ai, vào một ngày tận thế – ‘Ta bảo
thật, trong số những người đứng đây, có vài người sẽ được chứng kiến Con Người
trở lại trong nước Ngài trước khi họ qua đời’), hiểu theo nghĩa luân lý tôn
giáo (con người làm ác, không tin/nghe Gót, tận thế= chấm dứt thế giới
con người, tất cả loài người đều chết hết, xấu lẫn tốt,...), không theo
nghĩa tự nhiên khoa học (mặt trời cháy hết, cái chết vật lý của quả đất), vậy
tất cả mọi rao giảng, chinh phục, chiến tranh, giết hại, trong suốt 2000 năm
qua… chỉ là một hoài công mù quáng trong một tuyệt vọng vĩ đại, một thất bại
thê thảm của một sáng tạo ngu muội....
Hay thực sự chỉ đơn giản là những biểu hiện thần kỳ và kinh tởm
từ cuồng vọng của một bầy ký sinh trùng hèn mạt sống trên chỉ sự ngu muội và sợ
hãi không bao giờ có thể chấm dứt của con người. Ly gián xã hội, gây thương tổn
con người và kiên trì ngăn chặn với bất cứ những gì lý trí có thể đưa tiến bộ
đến cho thực tại con người trong quần thể nhân loại.
[8] evangelical
Christians
[9] [*Không rõ liệu những câu chuyện, có
nguồn gốc ở:
http://datelinehollywood.com/archives/2005/09/05/robertson-blames-hurricane-on-choice-of-ellen-deneres-to-hostemmys
/ là đúng sự thật hay không. Nhưng cho dù đúng hay không, nó được tin tưởng rộng
rãi, rõ ràng vì nó là hoàn toàn là điển hình của những lời phát biểu của giới
chăn chiên chuyên giảng đạo trên tvi này, gồm Robertson, về những thảm họa như
Katrina.
Xem, thí dụ, www.emediawire.com/releases/2005/9/emw281940.htm.
Trang web nói câu chuyện Katrina/ Robertson là không đúng thật
(www.snopes.com/katrina/ châm biếm / robertson.asp) cũng trích dẫn lời Robertson,
nhân có một tuần hành của nhóm Gay Pride (Tự hào Đồng Phái Tính) diễn ra trước
đó ở thành phố Orlando, Florida, đã nói, “Tôi muốn báo cho Orlando biết trước
rằng bạn nằm đúng trên đường đi của một vài cơn bão nghiêm trọng (từ vịnh
Mexico thổi vào Nam Mỹ), và tôi không nghĩ rằng tôi muốn vẫy những lá cờ (đồng
tính tự hào) đó trước mặt của Gót, nếu tôi là bạn”.]
Bà Ellen Degeneres là một tài tử, một người kể chuyện hài ước,
rất nổi tiếng và được yêu chuộng, và đóng vai “chủ” nhiều chương trình đàm thoại
tivi, Louisiana là quê bà, nhưng thực sự bà sống ở Hollywood.
[10] [Pat Robertson,
theo tường thuật của BBC ở đây:
http://news.bbc.co.Uk/2/hi/americas/4427144.stm.]
[11] Dẫn chứng này (và các dẫn chứng sau)
lấy từ http://www.biblegateway.com/ (Sáng
Thế 19 – Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version):
Genesis 19:4-5 – Trước khi họ đi ngủ thì toàn thể đàn ông trong
thành Xô-đôm, từ già đến trẻ, kéo đến bao vây nhà Lót. Họ gọi Lót, “Ê, hai
người mới đến nhà anh đêm nay đâu? Mang họ ra đây để chúng ta ăn nằm với họ.”
[12] Genesis 19:7-8 – Ông bảo, “Không được,
anh em ơi! Chớ có làm việc ác nầy. Nầy, tôi có hai đứa con gái còn trinh trắng,
chưa hề ngủ với đàn ông nào. Tôi sẽ đưa chúng nó cho các anh em. Các anh em làm
gì cũng được, nhưng xin anh em chớ đụng đến hai người nầy. Họ đã đến nhà tôi.
Tôi có bổn phận phải bảo vệ họ…”
[13] Toàn câu chuyện: Genesis-19:
Lót rời khỏi Xô-đôm: Hai thiên sứ đến Xô-đôm vào lúc chiều
tối, khi Lót đang ngồi nơi cửa thành. Nhìn thấy họ, Lót đứng dậy đến trước mặt cúi
mọp xuống đất để chào. Lót thưa, “Xin mời các ngài vào nhà tôi nghỉ đêm. Các
ngài sẽ rửa chân rồi ngày mai hãy lên đường.” Các thiên sứ đáp, “Không, đêm nay
chúng tôi sẽ ngủ ngoài công viên thành phố.”Nhưng Lót năn nỉ quá nên họ bằng
lòng vào nhà. Lót dọn bữa ăn cho họ. Ông nướng bánh mì không men, rồi họ ăn.
Trước khi họ đi ngủ thì toàn thể đàn ông
trong thành Xô-đôm, từ già đến trẻ, kéo đến bao vây nhà Lót. Họ gọi Lót, “Ê,
hai người mới đến nhà anh đêm nay đâu? Mang họ ra đây để chúng ta ăn nằm với
họ.”Lót bước ra ngoài gặp họ, rồi đóng cửa nhà sau lưng mình. Ông bảo, “Không
được, anh em ơi! Chớ có làm việc ác nầy. Nầy, tôi có hai đứa con gái còn trinh
trắng, chưa hề ngủ với đàn ông nào. Tôi sẽ đưa chúng nó cho các anh em. Các anh
em làm gì cũng được, nhưng xin anh em chớ đụng đến hai người nầy. Họ đã đến nhà
tôi. Tôi có bổn phận phải bảo vệ họ .” Bọn đàn ông vây quanh nhà Lót đáp, “Đi
chỗ khác!” Rồi chúng bảo nhau, “Thằng Lót nầy đến ở thành phố chúng ta như kiều
dân mà bây giờ còn dám lên mặt dạy chúng ta nữa à?” Rồi chúng bảo Lót, “Chúng
tôi sẽ xử với anh còn tệ hơn với hai người nầy.” Chúng bắt đầu xô ông và định
xông tới phá cửa.Nhưng hai người ở nhà Lót mở cửa lôi ông vào, và đóng ập cửa
lại. Rồi hai người ấy khiến bọn người ở ngoài cửa bị mù, đến nỗi già trẻ đều
lần mò mà không tìm được cửa.
Chạy thoát khỏi thành Xô-đôm: Hai người hỏi Lót, “Anh còn có thân nhân
nào nữa trong thành nầy không? Anh có con rể, con trai, con gái hay bà con nào
nữa không? Nếu có thì bảo họ phải rời thành ngay, vì chúng tôi sắp tiêu diệt
thành nầy. Đức Giê-hô-va đã nghe những việc độc ác trong thành cho nên Ngài sai
chúng tôi đến để tiêu diệt thành.”Nên Lót đi ra nói với các con rể tương lai,
đã hứa hôn với con gái mình rằng, “Hãy mau mau ra khỏi thành nầy, vì Đức
Giê-hô-va sắp sửa tiêu diệt nó!” Nhưng họ tưởng Lót nói đùa.
Sáng sớm hôm sau các thiên sứ hối thúc
Lót. Họ bảo, “Nhanh lên. Mang vợ và hai con gái anh đi ra để các con không bị
tiêu diệt khi ta trừng phạt thành nầy.”Nhưng Lót lừng khừng. Cho nên hai người
ấy nắm tay Lót, cùng vợ và hai con gái ông, dẫn ra khỏi thành. Đức Giê-hô-va tỏ
lòng thương xót đối với Lót và gia đình ông. Sau khi mang họ ra khỏi thành rồi
một trong hai người bảo, “Hãy chạy cứu mạng mau lên! Chớ ngoái cổ nhìn và đừng
dừng lại nơi nào trong thung lũng. Hãy chạy lên núi. Nếu không các con sẽ bị
tiêu diệt đó.”
Nhưng Lót năn nỉ một trong hai người đó,
“Xin làm ơn đừng bắt tôi đi xa như thế! Các ngài đã nhân từ thương xót mà cứu
mạng tôi, nhưng tôi không thể chạy lên núi kịp đâu. Thảm họa sẽ chụp bắt tôi,
tôi sẽ mất mạng. Kia có cái thành nhỏ không xa lắm. Xin cho tôi chạy đến đó. Vì
là thành nhỏ, chắc tôi được an toàn.” Thiên sứ bảo Lót, “Được, ta cho phép anh.
Ta sẽ không tiêu diệt thành đó. Nhưng phải chạy nhanh đến đó vì chúng tôi không
thể tiêu diệt Xô-đôm trước khi anh đã đến đó an toàn.” (Thành đó tên là Xoa vì
nó nhỏ.)
Thành Xô-đôm và Gô-mô-rơ bị tiêu diệt: Khi mặt trời vừa mọc thì Lót cũng vừa
đến Xoa. Đức Giê-hô-va giáng mưa lửa diêm sinh từ trời xuống trên Xô-đôm và
Gô-mô-rơ, đốt cháy tiêu hai thành đó. Đức Giê-hô-va cũng tiêu diệt toàn thung
lũng Giô-đanh, hủy diệt mọi người trong các thành đó, luôn cả cây cối vùng ấy.
Ngay lúc đó vợ Lót quay lại nhìn, nên
bà liền biến thành cột muối.
Sáng sớm hôm sau Áp-ra-ham dậy, đi đến
nơi ông đã đứng trước mặt Đức Giê-hô-va. Nhìn về hướng Xô-đôm và Gô-mô-rơ và
toàn thung lũng Giô-đanh, ông thấy khói từ dưới đất bốc lên giống như khói của
lò lửa.
Khi Đức Giê-hô-va tiêu diệt các thành
trong thung lũng thì Ngài nhớ đến Áp-ra-ham. Nên Ngài cứu mạng Lót, nhưng hủy diệt
thành phố Lót sinh sống.
Lót và hai cô con gái: Lót sợ không dám ở lâu trong Xoa nên ông
và hai cô con gái đi vào trong núi sống trong một cái hang. Một hôm cô chị bảo
cô em, “Cha chúng ta nay đã già rồi. Ai trên đất nầy cũng có vợ có chồng nhưng
quanh đây không có đàn ông nào để lấy chúng ta theo như lệ thường. Thôi chúng
ta hãy phục rượu cho cha say rồi đến nằm với cha. Chúng ta sẽ nhờ cha mà sinh
con để lưu truyền nòi giống.”
Hôm đó hai cô phục rượu cho cha khiến
ông say. Cô chị đến nằm với cha mình. Nhưng Lót chẳng biết lúc nào cô ta nằm xuống
hay lúc nào cô ta dậy hết.Hôm sau cô chị bảo cô em, “Hôm qua chị đã đến nằm với
cha rồi. Đêm nay chúng ta hãy phục rượu cho cha say nữa, để em vào với cha. Làm
như thế để nhờ cha mà lưu truyền nòi giống.” Cho nên đêm đó hai cô lại phục
rượu cho cha say nữa, rồi cô em vào nằm với cha mình. Lần nầy Lót cũng không
hay lúc nào nàng nằm hay lúc nào nàng dậy hết.
Vậy
hai cô con gái mang thai qua cha mình. Cô chị sinh ra một con trai đặt tên là Mô-áp.
Nó là ông tổ của các dân Mô-áp mà hiện nay vẫn còn. Cô em cũng sinh ra một con trai đặt tên
là Bên-Am-mi . Nó là ông tổ của dân Am-môn hiện nay vẫn còn đó.
[14] Các Thủ Lãnh 19 –
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version
http://www.biblegateway.com/passage/?search=Judges%2019&version=BPT
Người Lê-vi và cô vợ lẽ
19 – Lúc đó dân Ít-ra-en không có
vua. Có một người Lê-vi sống ở một nơi hẻo lánh trong vùng núi Ép-ra-im.
Ông lấy một cô vợ lẽ gốc thành Bết-lê-hem thuộc xứ Giu-đa về sống chung với
mình, Nhưng cô không chung tình với ông. Cô bỏ ông đi về nhà cha mình ở Bết-lê-hem
thuộc xứ Giu-đa và ở đó bốn tháng. Chồng cô đi năn nỉ cô về với mình, mang theo
đứa đầy tớ và hai con lừa. Khi người Lê-vi đến nhà cha cô thì cô mời ông vào
nhà. Còn cha cô mừng được gặp ông. Ông cha vợ, tức cha người đàn bà, yêu cầu
ông ở lại. Vậy ông ở lại ba ngày, ăn uống, ngủ lại đó.
… người Lê-vi không muốn ở nán thêm đêm
nữa cho nên ông mang hai con lừa chuẩn bị yên cương và cùng cô vợ lẽ đi về phía
thành Giê-bu cũng gọi là Giê-ru-sa-lem. Khi gần đến thành Giê-bu thì trời tối
rồi nên người đầy tớ thưa với chủ, “Thôi chúng ta hãy vào thành nầy của dân Giê-bu-sít
để ngủ đêm.”
Nhưng người chủ nói, “Không. Chúng ta
sẽ không vào thành ngoại quốc. Họ không phải dân Ít-ra-en. Chúng ta sẽ ráng đi đến
thành Ghi-bê-a.” Ông bảo, “Thôi hãy ráng đi đến Ghi-bê-a hay Ra-ma ngủ đêm ở
một trong hai thành đó.” Vậy họ tiếp tục đi. Khi đến gần Ghi-bê-a thuộc chi tộc
Bên-gia-min thì mặt trời đã lặn. Họ dừng lại đó nghỉ đêm. Họ đến chỗ công viên
trong thành phố ngồi nghỉ nhưng không ai mời vào nhà nghỉ đêm cả. Sau cùng đến
chiều tối có một ông già đi làm việc từ ngoài đồng về. Nhà ông trước ở vùng núi
Ép-ra-im nhưng bây giờ ông cư ngụ tại Ghi-bê-a. Dân Ghi-bê-a thuộc chi tộc Bên-gia-min.
Khi ông thấy có lữ khách nơi công viên liền hỏi, “Các anh đi đâu đây? Các anh ở
đâu đến vậy?”
Người Lê-vi đáp, “Chúng tôi đi từ Bết-lê-hem
thuộc Giu-đa về nhà tôi ở trong vùng núi Ép-ra-im. Trước kia tôi ở Bết-lê-hem
thuộc Giu-đa nhưng nay tôi đi đến Lều Thánh của Chúa. Không ai mời chúng tôi
vào nhà cả. Chúng tôi có đủ rơm và thức ăn cho lừa của chúng tôi cùng bánh mì,
rượu cho tôi, cô gái nầy và người đầy tớ. Chúng tôi không thiếu gì cả.”
Ông già nói, “Mời các ông bà vào nghỉ
nhà tôi. Tôi sẽ cung cấp cho các ông bà đầy đủ mọi sự, đừng ngủ đêm nơi công viên.”
Vậy ông già đưa người Lê-vi vào nhà rồi cho lừa ăn. Họ rửa chân và ăn uống.
Trong khi họ đang ăn thì có mấy tên du đãng trong thành phố vây nhà và đập cửa.
Họ kêu chủ nhà, “Mang anh chàng mới vào nhà ông ra đây. Chúng tôi muốn làm tình
với nó.” Ông chủ nhà đi ra bảo họ, “Các bạn ơi, đừng làm chuyện gian ác như
thế. Người nầy là khách của tôi . Chớ phạm điều nhơ nhuốc nầy! Đây, tôi có đứa
con gái chưa hề giao hợp với ai, và cô vợ lẽ của người nầy. Tôi sẽ mang họ ra
cho các bạn rồi các bạn muốn làm gì mặc ý, nhưng đừng làm điều nhơ nhuốc đối
với người nầy.”
Nhưng bọn đó không thèm nghe ông già.
Nên người Lê-vi bắt cô vợ lẽ mang ra cho họ. Chúng hiếp dâm và hành hạ nàng trọn
đêm. Đến sáng chúng thả nàng về nhà. Nàng về đến nhà nơi chồng mình ở rồi té
gục nằm trước cửa. Đến sáng khi người Lê-vi thức dậy, mở cửa nhà đi ra ngoài chuẩn
bị lên đường thì thấy cô vợ lẽ nằm sóng sượt nơi cửa, hai tay đặt trên ngạch
cửa. Người Lê-vi bảo nàng, “Đứng dậy! Chúng ta hãy đi.” Nhưng nàng chẳng trả
lời.
Vì thế người Lê-vi đặt nàng lên lưng lừa
chở về nhà. Khi về đến nhà, người Lê-vi lấy con dao chặt thây cô vợ lẽ ra làm
mười hai khúc gởi đi khắp xứ Ít-ra-en. Ai thấy chuyện nầy cũng bàn tán, “Từ khi
dân Ít-ra-en ra khỏi Aicập chưa bao giờ xảy ra chuyện như thế nầy cả. Hãy suy
nghĩ đi rồi tìm cách hành động.”
[15] Genesis 12: 18-19 – Nên vua liền mời
Áp-ram lại hỏi, “Anh làm gì cho ta vậy? Tại sao không nói thẳng với ta rằng Sa-rai
là vợ anh? Tại sao anh bảo, ‘Cô ta là em gái tôi’ để đến nỗi ta đã lấy nàng làm
vợ? Bây giờ vợ anh đây. Nhận lại rồi đi đi!”
Genesis 20: 2-5 – Áp-ra-ham rời Hếp-rôn đi đến miền Nê-ghép, cư
ngụ giữa Ca-đe và Su-rơ một thời gian. Khi đến Ghê-ra thì ông bảo mọi người rằng
Sa-ra là em gái mình. A-bi-mê-léc, vua Ghê-ra nghe thế liền sai mấy đầy tớ cho
bắt Sa-ra. Nhưng một đêm kia Gót bảo A-bi-mê-léc trong chiêm bao rằng, “Con sẽ
chết, vì người đàn bà con lấy đã có chồng rồi.” Nhưng A-bi-mê-léc chưa lại gần
Sa-ra nên ông thưa, “Lạy Chúa, Ngài sẽ tiêu diệt cả một dân tộc vô tội sao? Chính
Áp-ra-ham đã bảo con, ‘Người đàn bà nầy là em gái tôi,’ mà chính nàng cũng đã
nói với con, ‘Ông nầy là anh tôi.’ Cho nên con vô tội. Con đâu có biết mình làm
sai trái?”
[16] Genesis
22 – Gót thử Áp-ra-ham
“ … Gót thử đức tin của Áp-ra-ham.
Gót gọi Áp-ra-ham, “Áp-ra-ham!” Ông thưa, “Dạ.” Gót bảo, “Con hãy bắt đứa con
trai một của con là Y-sác, đứa con mà con rất thương yêu, đi đến xứ Mô-ri-a.
Hãy dâng nó làm của lễ toàn thiêu trên một hòn núi mà ta sẽ chỉ cho.” Sáng hôm
sau Áp-ra-ham dậy sớm và chuẩn bị yên cương cho lừa. Ông mang Y-sác và hai đứa
đầy tớ nữa cùng đi. Sau khi đốn củi để làm của lễ thiêu thì họ lên đường, đi
đến nơi Gót chỉ định. Đến ngày thứ ba, Áp-ra-ham ngước mắt lên thấy địa điểm đó
từ đàng xa. Ông bảo mấy đứa đầy tớ, “Mấy chú ở đây với con lừa. Con trai ta và
ta sẽ đi đến đàng kia thờ phụng rồi sẽ trở lại với các chú.” Áp-ra-ham chất củi
để làm của lễ thiêu lên cho Y-sác vác, còn mình thì cầm dao và lửa. Hai cha con
cùng đi.
Y-sác gọi Áp-ra-ham cha mình,
“Cha ơi!” Áp-ra-ham đáp, “Cha đây, con!” Y-sác hỏi, “Thưa cha, mình có lửa và
củi đây, nhưng chiên con đâu mà làm của lễ thiêu?” Áp-ra-ham đáp, “Con ơi, Gót
sẽ chuẩn bị chiên con để chúng ta làm của lễ thiêu.” Hai cha con lại tiếp tục
đi. Đến nơi Gót chỉ định, Áp-ra-ham dựng một bàn thờ tại đó. Xong ông đặt củi
lên rồi trói con mình là Y-sác đặt nằm lên đống củi trên bàn thờ. Xong Áp-ra-ham
giơ dao định giết con mình.
Nhưng thiên sứ của Gót từ
trời kêu xuống, “Áp-ra-ham! Áp-ra-ham!” Áp-ra-ham đáp, “Thưa, con đây!”Thiên sứ
bảo, “Đừng đụng đến con của con! Bây giờ ta biết con thật kính sợ Gót. Con đã không
tiếc con trai, tức con một mình, đối với ta.”
Áp-ra-ham ngước lên thấy một
con chiên đực đang mắc kẹt sừng trong bụi cây, nên Áp-ra-ham bắt giết nó. Ông
dâng nó lên làm của lễ thiêu cho Gót, thế cho con mình. Vì vậy, Áp-ra-ham gọi
chỗ đó là Nơi Gót Cung Ứng. Đến ngày nay người ta vẫn nói “Trên hòn núi của Gót
mà mọi việc sẽ được cung ứng.”
Thiên sứ của Gót từ trời gọi
Áp-ra-ham một lần nữa 16 rằng, “Gót phán, ‘Vì đối với ta, con đã không tiếc con
trai, tức con một của con, nên nhân danh chính mình, ta hứa như sau: Ta chắc
chắn sẽ ban phước và cho con vô số con cháu. Chúng nó sẽ đông như sao trên trời,
như cát bãi biển. Chúng sẽ chiếm đoạt thành trì của quân thù. Nhờ con cháu con
mà nhiều dân tộc trên đất sẽ được phước, vì con vâng lời ta.’”
[17] Đây là một vấn đề
hoàn toàn của người phương Tây, Âu Mỹ, trong văn hóa với đạo đức (luân lý) truền
thống của Juda-Kitô. Với các dân tộc ngoài châu Âu – trên các lục địa Á, Phi,
Mỹ – đều có những đạo đức hay luân lý riêng trong văn hóa tương ứng. Và những
đạo đức hay luân lý này thường cổ xưa hơn nhiều so với Juda-Kitô của phương Tây
(như Ấn, BaTư, Aicập, Tàu, Inca,…) hiển nhiên những sự kiện này cho thấy – bàn
luận của Dawkins (và rất nhiều những người như ông ở phương Tây) với câu hỏi
này – đạo đức có đến từ sách thánh Kitô
không – và trả lời Không – cả câu
hỏi lẫn lời đáp chỉ hạn hẹp trong lĩnh vực địa bàn văn hóa Âu Mỹ mà thôi. Trên
đay – Dawkins đang thuyết phục lời đáp Không
với câu hỏi – đạo đức có nên đến từ
sách thánh Kitô không? Như chúng ta thấy – là một câu hỏi quan trọng và
thời sự cho người Âu Mỹ, và chỉ với người Âu Mỹ mà thôi.
Thế nên, chúng ta thấy, như ở Việt nam làm thí dụ, các nhà truyền
đạo Kitô khi bàn chuyện đạo đức thường nhắc đến (a) những khái niệm đạo đức của
Khổng hay Phật, vì chúng đã có trước,
nên đã quen thuộc ở địa bàn văn hóa Việt Nam, gần gũi với người nghe; rồi nhân
đó, mượn làm mở đầu đưa vào khái niệm Kitô muốn bàn luận, để đưa đến rằng (b)
trong Kitô (Christ, thánh chiên Augustinô, thánh chiên
Tôma
Aquinô, vua chiên,… nói) một gì đó tương tự, và dần dà cho thấy, (c) thế nhưng
trong (b) lại còn có một gì đó hoặc hay hơn/hợp thời hơn/một gì đó… là “hơn”,
nhưng đọc/nghe kỹ sẽ thấy (c) sai vì (a) đã bị hiểu lệch lạch vì cố ý hay vô
tình (thường vì không hiểu nổi, hay tưởng là hiểu nhưng hiểu sai, hay tiềm thức
tự tôn tôn giáo dẫn dụ hiểu sai, không thể/muốn hiểu đúng), và (b) đã chọn lựa
kỹ lưỡng – tôi gọi là việc ‘chọn hoa giữa
bãi phân’ (chỉ có được hoa cứt lợn!) – như Dawkins nói trên đây – vì toàn
thể đạo đức Kitô là vô đạo đức (khái niệm “thay tội” cho người khác, khái niệm
“rửa tội, xưng tội”) và những sự kiện lịch sử đã đi đôi với những chiến tranh
đế quốc, xâm lăng, thực dân, nô lệ, diệt chủng, tấy rửa sắc tộc, hủy hoại môi
trường sống và trên hết với yếu tính khinh miệt sự sống con người trên trần
gian này.
[18] Judges 11- Các Thủ Lãnh 11 (Vietnamese
Bible: Easy-to-Read Version)
Lời hứa nguyện của
Giép-thê – Giép-thê khẩn nguyện cùng Đức Giê-hô-va rằng: Nếu Ngài
phó dân Am-môn vào tay tôi, khi tôi thắng chúng nó trở về, hễ chi ở cửa nhà tôi
đi ra đầu hết đặng đón rước tôi, thì nấy sẽ thuộc về Đức Chúa Trời, và tôi sẽ
dâng nó làm của lễ thiêu.Đoạn, Giép-thê đi đến dân Am-môn đặng giao chiến cùng
chúng nó, và Đức Giê-hô-va phó chúng nó vào tay người.Người đánh bại chúng nó
từ A-rô-e cho đến Mi-nít, và cho đến A-bên-Kê-ra-mim, cùng chiếm lấy của chúng
nó hai mươi cái thành. Ấy là một trận-bại rất lớn; dân Am-môn bị phục trước mặt
dân Y-sơ-ra-ên.
Giép-thê trở về nhà mình tại Mích-ba; kìa, con gái người ra đón-rước người,
có cầm trống nhỏ và nhảy múa. Nàng là con-một của người, ngoài nàng chẳng có
con trai hoặc con gái nào khác hơn. Giép-thê vừa thấy nàng, liền xé áo mình mà
rằng: Ới con, than ôi! con gây cho cha tức tối quá thay! Con thuộc vào số kẻ
làm rối cha! Vì cha có mở miệng khấn nguyện cùng Đức Giê-hô-va, không thế nuốt
lời. Nàng thưa rằng: Cha ôi, nếu cha có mở miệng khấn nguyện cùng Đức Giê-hô-va,
xin hãy làm cho con y như lời ra khỏi miệng cha, vì bây giờ Đức Giê-hô-va đã
báo thù kẻ cừu địch cha rồi, tức là dân Am-môn.
Đoạn, nàng lại nói cùng cha mình rằng: Xin cha hãy nhậm cho con lời nầy:
Để cho con thong thả trong hai tháng, con sẽ đi ở trên núi đặng cùng chị em bạn
con khóc về sự đồng trinh của con. Giép-thê đáp rằng: Con cứ đi. Rồi người để nàng
đi hai tháng. Vậy, nàng đi cùng chị em bạn mình, khóc sự đồng trinh mình tại
trên núi. Cuối hai tháng, nàng trở về cha mình, và người làm cho nàng tùy theo
lời khấn nguyện mình đã hứa. Nàng chẳng có biết người nam. Tại cớ đó trong Y-sơ-ra-ên
có thường lệ nầy: Mỗi năm, các con gái Y-sơ-ra-ên đi than khóc con gái của
Giép-thê, người Ga-la-át, trong bốn ngày.
Ý tưởng “khóc sự đồng trinh
của mình” ở đây, với một người đọc xa lạ và mới đọc lần đầu, xem dường có vẻ
lạc lõng, ngớ ngẩn, nên khó hiểu (hay huyền bí!), nếu chỉ đọc mà không có giải
thích thêm (thường làm cho xa lạc hơn), và có thể làm người đọc (như tôi) cười
ra nước mắt, nhưng ý nghĩa của nó trở nên hiển hiện rõ ràng dễ hiểu khi chúng
ta đặt nó vào chung với mẫu thức (pattern)
quen thuộc thấy trong các truyền thuyết, truyện cổ, huyền thoại Trung Đông, mà ở
đây chúng ta đương xem xét một trường hợp cụ thể. Pattern đó là người ta hiến sinh
một trinh nữ cho Gót, nên ở đây chúng ta thấy ba yếu tố của pattern: ‘giết
cúng’ + ‘một trinh nữ’ + cho Gót’, và người giết cúng là Giép-thê, người cha,
trinh nữ đó là (không màng chép tên vì tên vật hy sinh – vật hy sinh tên gì? – không quan trọng, chỉ là một yếu
tố của pattern, thông điệp nhắn gửi –
vật hy sinh là một trinh nữ – mới là
quan trọng) chính đứa con gái yêu quí của mình.
Trong Pattern hiến sinh một trinh nữ cho Gót, những gì liên hệ giữa hai khái niệm
“người nữ” và “Gót” – như dâng cúng, ăn nằm, ... – đều phải là tinh khiết, trong
sạch thể hiện qua hình ảnh cụ thể dễ hiểu là một “trinh nữ”, tương tự như chi
tiết “Maria đồng trinh” (như Maria vẫn
đồng trinh dù đã ‘ăn nằm’, thụ thai với Gót), hay chi tiết những người tử
đạo Muslim lên ‘thẳng’ thiên đường và ‘món quà quí giá’ đầu tiên là những trinh
nữ (con số bàn cãi hiện nay là … 72, nhưng ít hơn hay nhiều hơn, đèu cho thấy
phải có yếu tố xác thịt gớm ghiếc “còn trinh”)
– đó là một meme rất phổ thông của văn
hóa tôn giáo Trung Đông (Aicập, Batư, Dothái, Kitô), meme đó cũng cho thấy liên kết với một meme khác trong ao meme chung
của các văn hóa này là – người phụ nữ bị coi rẻ, giữ địa vị thứ yếu sau phái nam;
vì một trong nhiều lý do, đầu tiên và cụ thể là hiện tượng kinh nguyệt trong
sinh lý cơ thể, nên những gì có liên hệ với không-sạch, ô uế (phụ nữ) khi liên
hệ với sạch, tinh khiết, cao quí (Gót), chúng bị cưỡng ép phải đi kèm tính chất
trong sạch, dù phản tự nhiên; và ở đây là “sự đồng trinh”, “chẳng có biết người
nam”. Pattern đó thành công thức cụ thế:
Người nữ (Ô uế, không sạch) + (Gót) sạch, tinh
khiết = ‘đồng trinh”
Thế nên, “Khóc sự đồng
trinh mình” đã được diễn giải với ý nghĩa “giấy trắng mực đen” thông thường, như
một bản ‘kinh’ Thánh khác, cho người đọc ít chữ nghĩa, là “không bao giờ có chồng”
và thêm cho chắc chắn là “không có con”, cho thật rõ ràng, dễ hiểu; Trong văn
bản trên – trước khi người cha đau khổ Giép-thê ‘làm cho nàng tùy theo lời khấn
nguyện mình đã hứa’ nghĩa là giết cúng nàng cho Gót (sau này người Israel
chuyển sang cúng con dê con, cừu con), tác giả câu truyện kinh hoàng này phải
nhấn mạnh lại “Nàng chẳng có biết người nam”.
“Khóc sự đồng trinh mình”
(2 lần), “Nàng chẳng có biết người nam” trong một đoạn văn ngắn dẫn trên là
thuộc một meme tôn giáo quan trong.
Như trong thí dụ sau đây, cùng một web page, giải thích rõ ràng hơn: (Judges 11 – Contemporary English
Version (CEV)
http://www.biblegateway.com/passage/?search=Judges%2011&version=CEV)
[(“… wandering in the hill country with my
friends. We will cry together, because I
can never get married and have children … She and some other girls left,
and for two months they wandered in the hill country, crying because she could never get married and have children.
Then she went back to her father. He did what he had promised, and she never got married]
[19] từ đánh ghen, xé
quần xé áo tình địch trước công chúng, tạt a xít hủy hoại nhan sắc tình đich, và
đến ám hại, giết hết,… Gót trong ‘kinh’ Thánh làm những kinh hoàng tương tự.
[20] trong kinh Thánh,
nếu mơ tưởng, chạy theo, nghĩ đến một vị Gót khác, xem như hành động “thông
dâm”, ngoại tình tư tưởng. Khái niệm “trong sạch” trong tư tưởng gót học Kitô
thường xoay quanh khái niệm cụ thể lấy từ thế giới vật dục xác thịt, như tình
dục.
[21] [* Ý tưởng về tính chất giàu hài ước
này, Jonathan Miller đã nêu lên cho tôi, nhưng ngạc nhiên là ông chưa bao giờ
từng đem nó vào trong một màn kịch ngắn của Beyond
the Fringe nào. Tôi cũng cảm ơn ông đã giới thiệu quyển sách khảo cứu đã dựa
trên nó của: M. Halbertal
và A. Margalit. Idolatry. Cambridge, MA: Harvard University Press, 1992.]
Beyond the Fringe: Nhưng hài kịch ngắn, châm biếm, nổi
tiếng của sân khấu Anh, do các tác giả Peter Cook, Dudley Moore, Alan Bennett, và
Jonathan Miller viết và diễn ở London, New York, và trên BBC trong những năm 1960’s,
được xem như gây mầm cho thể loại “revue” này trong những năm 1960 ở nước Anh.
[22] Tôi nghĩ Dawkins
ở đây có thể đã vội vàng, thực ra tôn giáo thờ Gót-Bò đã có với
dân Dothái, có phần là họ có từ dân Aicập. Những người Dothái
đang bàn ở đây, nếu theo như kể trong Genesis (dù sự đào thoát khỏi Aicập không là lịch sử
thật), họ là những nô lệ vừa cùng Moses chạy thoát khỏi Egypt, họ chỉ đơn giản
quay lại với Gót-Bò của những chủ
nhân cũ của họ: Tôn giáo thờ thần bò Apis
của dân Aicập: Apis được trình bày như một con bò đực. – Ông là vị thần Aicập
của sức mạnh và khả năng sinh sản. Tinh thần của Apis được cho là có trong cơ
thể của một con bò đực thực, được các Pharaoh nuôi giữ hàng năm và được những
giáo sĩ của nhà vua chăm sóc. Vào cuối năm cũ, con bò nuôi Apis này đã được đem
giết mổ, và Pharaoh ăn thịt của nó. Người ta tin rằng các Pharaoh sau đó sẽ kế
thừa sức mạnh tuyệt vời của gót-bò Apis.
Apis, (Greek);
Egyptian Hap, Hep, or Hapi, in ancient Egyptian religion, sacred bull deity
worshipped at Memphis. The cult of Apis originated at least as early as the 1st
dynasty (c. 2925–c. 2775 bce). Like other bull deities, Apis was probably at
first a fertility god concerned with the propagation of grain and herds, but he
became associated with Ptah, the paramount deity of the Memphite area, and also
with Osiris (as User-Hapi) and Sokaris, gods of the dead and of the underworld.
As Apis-Atum he was associated with the solar cult and was often represented
with the sun-disk between his horns. [Encyclopedia Britannica]
[23] Exodus 32: 1 – Xuất Hành 32 – Vietnamese Bible:
Easy-to-Read Version (BPT)
Con bò vàng
Dân chúng chờ lâu mà không thấy Mô-se
xuống núi nên họ xúm quanh A-rôn nói, “Mô-se dẫn chúng tôi ra khỏi Ai-cập nhưng
bây giờ chúng tôi không biết ông ta gặp chuyện gì rồi. Thôi ông hãy làm những thần
để dẫn chúng tôi đi.” A-rôn bảo dân chúng, “Hãy cởi các bông tai vàng mà vợ,
con trai, con gái các ngươi đeo, mang đến cho ta.” Vậy dân chúng mang các bông
tai vàng đến cho A-rôn. Ông lấy vàng đó của dân chúng và dùng dụng cụ tạc một tượng bò con vàng. Rồi dân chúng
bảo, “Ít-ra-en ơi, đây là thần đưa các ngươi ra khỏi xứ Ai-cập!”. Khi A-rôn
thấy vậy liền xây một bàn thờ trước mặt con bò và long trọng tuyên bố: “Ngày
mai sẽ có một lễ đặc biệt cho Đức Giê-hô-va.” Sáng hôm sau dân chúng dậy sớm
dâng của lễ thiêu và của lễ thân hữu. Họ ngồi xuống ăn uống rồi đứng dậy vui
chơi.
Đức Giê-hô-va liền bảo Mô-se, “Hãy đi
xuống núi mau vì dân mà con mang ra khỏi xứ Ai-cập đã hư đốn rồi. Chúng nó đã vội
bỏ những điều ta truyền dặn mà tự tạc cho mình một bò con vàng và bái lạy nó,
dâng của lễ cho nó. Chúng nó bảo, ‘Ít-ra-en ơi, đây là các thần đã mang con ra
khỏi Ai-cập!’” Đức Giê-hô-va bảo Mô-se, “Ta đã thấy rõ dân nầy là dân ương ngạnh.
Nên bây giờ hãy để ta ra tay. Ta tức giận chúng nó đến nỗi ta sẽ tiêu diệt
chúng nó. Rồi ta sẽ làm cho con và dòng dõi con thành một dân lớn.”
Nhưng Mô-se van xin Đức Giê-hô-va là Đức
Chúa Trời mình rằng, “Đức Giê-hô-va ơi, xin đừng tức giận mà tiêu diệt dân Ngài,
là dân Ngài đã mang ra khỏi Ai-cập bằng quyền năng và sức mạnh lớn lao của
mình. Xin đừng để dân Ai-cập phê bình, ‘Đức Giê-hô-va đã mang dân Ít-ra-en ra
khỏi Ai-cập vì mục đích xấu. Ngài đã dự định giết họ trong núi và diệt họ khỏi
đất.’ Nên xin Ngài bớt giận, đừng tiêu diệt dân Ngài. Xin nhớ lại những người
phục vụ Ngài: Áp-ra-ham, Y-sác, và Ít-ra-en. Ngài hứa bằng lời thề với họ rằng:
Ta sẽ làm cho con cháu các con đông như sao trên trời. Ta sẽ cấp cho con cháu
các con xứ nầy mà ta đã hứa, xứ đó sẽ thuộc về chúng nó đời đời.” Nhờ vậy, Đức
Giê-hô-va đổi ý, không tiêu diệt dân chúng như Ngài đã định làm.
Rồi Mô-se xuống núi, trong tay mang hai
bảng đá có khắc Giao Ước. Giao Ước được viết trên cả hai mặt, mặt trước và mặt
sau của mỗi bảng. Chính tay Đức Chúa Trời đã làm các bảng đá đó, và cũng chính
Ngài đã khắc các mệnh lệnh lên bảng. Khi Giô-suê nghe tiếng dân chúng reo hò,
ông bảo Mô-se, “Nghe giống như tiếng ồn ào của chiến trận trong doanh trại.”
Mô-se đáp, “Không phải tiếng reo mừng chiến thắng, cũng không phải tiếng kêu
khóc vì thua trận, mà ta nghe như tiếng ca hát.” Khi Mô-se đến gần doanh trại
và nhìn thấy bò con vàng và mọi người nhảy múa, thì ông vô cùng giận dữ. Ông
liền ném xuống đất hai bảng đá đang cầm trong tay, bể tan tành nơi chân núi.
Rồi ông lấy tượng bò con bằng vàng mà dân chúng đã tạc, đốt chảy nó trong lửa
rồi nghiền thành bột. Ông ném bột vào trong nước, bắt dân Ít-ra-en uống.
Mô-se hỏi A-rôn, “Dân nầy làm gì cho anh?
Tại sao anh gây cho họ phạm tội ghê gớm như vậy?” A-rôn đáp, “Xin chủ đừng giận.
Ngài biết dân nầy có khuynh hướng làm bậy. Dân chúng bảo tôi, ‘Mô-se dẫn chúng
tôi ra khỏi Ai-cập nhưng không biết ông ta gặp chuyện gì rồi. Xin ông làm những
thần để dẫn chúng tôi đi.’ Nên tôi bảo họ, ‘Hãy cởi đồ trang sức bằng vàng của
các con.’ Khi họ trao vàng cho tôi thì tôi ném nó vào lửa rồi làm ra bò con
nầy!” Mô-se thấy dân chúng phóng túng vì A-rôn để họ phóng túng và làm trò cười
trước mặt kẻ thù. Nên Mô-se đứng trước cửa doanh trại tuyên bố, “Ai muốn theo
Đức Giê-hô-va thì đến cùng ta.” Tất cả những người trong họ Lê-vi liền tập họp
quanh Mô-se. Mô-se liền bảo họ, “Đức Giê-hô-va, Đức Chúa Trời của Ít-ra-en,
phán như sau: ‘Ai nấy phải mang gươm và
đi từ đầu nầy đến đầu kia của doanh trại. Mỗi người phải giết anh em, bạn hữu
và láng giềng mình.’”
Mọi người thuộc họ Lê-vi vâng lời Mô-se
và trong ngày đó có khoảng ba ngàn người Ít-ra-en chết. Sau đó Mô-se bảo, “Hôm
nay các ngươi đã hiến mình phục vụ Đức Giê-hô-va. Các ngươi đã sẵn lòng giết
con trai và anh em mình, nên Đức Chúa Trời đã ban phước cho các ngươi .”Hôm sau
Mô-se bảo dân chúng, “Các ngươi đã phạm tội tầy đình. Nhưng bây giờ tôi sẽ lên
gặp Đức Giê-hô-va. Tôi sẽ cố gắng van xin để may ra Đức Giê-hô-va sẽ xóa tội
các ngươi.” Nên Mô-se đi trở lại gặp Đức Giê-hô-va và thưa, “Dân nầy đã phạm
tội ghê gớm! Họ đã làm các thần cho mình bằng vàng. Bây giờ xin Ngài tha tội
cho họ. Nếu không, xin xóa tên tôi khỏi Sách của Ngài đi.” Nhưng Đức Giê-hô-va
bảo Mô-se, “Ta sẽ xóa tên khỏi sách kẻ nào phạm tội cùng ta. Bây giờ, hãy lên
đường, dẫn dân chúng đến nơi ta đã bảo con. Thiên sứ ta sẽ hướng dẫn con. Đến
kỳ trừng phạt, ta sẽ trừng phạt tội của họ.” Nên Đức Giê-hô-va giáng tai hoạ ghê gớm cho dân chúng để phạt họ về tội
con bò vàng mà A-rôn đã làm.
[24] Đánh ghen kinh hãi,
và quái đản; cho đến nay, có lẽ trong lịch sử loài người, có lẽ vẫn không ai
làm hơn được, như Gót Dê-hô-va và Gót-Bò. Chi tiết này tương đương với hành động
– đốt ảnh tình địch rồi hòa than với nước và bắt kẻ ngoại tình phải uống! Đây
là công thức tập hợp ‘khôn ngoan’ , hoàn chỉnh nhất đã được ghi truyền cho người
sau trong ‘quyển sách đọc mà thất kinh vì lắm sự hãi hùng’ = Đốt ra than +
nghiền bột + hòa chất lỏng + bắt uống.
[25] Numbers 31: 18 –
“Vậy bây giờ hãy giết tất cả con trai trong đám trẻ và tất cả người nữ nào đã ăn
nằm với người nam. Nhưng tất cả những thiếu nữ chưa ăn nằm với người nam nào,
hãy giữ lại cho anh em.”
[26] Người Midianite , còn gọi là Ishmaelite
, trong Cựu Ước , thành viên của một nhóm các bộ lạc du mục liên quan đến người
Dothái và có nhiều khả năng sống phía đông của Vịnh Aqaba ở khu vực phía tây
bắc của sa mạc Ả Rập . Họ tham gia vào các hoạt mục vụ, kinh doanh lưu động, và
thổ phỉ, và địa chỉ liên lạc chính của họ với người Dothái là từ thời kỳ của Exodus (thế kỷ 13 TCN) qua các thời kỳ
của Judges (thế kỷ 12 – 11 TCN) .
Theo sách Judges, thủ lĩnh Israel là
Gideon đã đẩy dân Midianites về phương Tây Palestine, sau đó họ phần lớn biến
mất khỏi câu chuyện Kinh Thánh. Theo sách Genesis, những người Midianites là
hậu duệ của Midian là con trai của tộc trưởng Dothái Abraham và Keturah người
vợ thứ hai của ông này. Jethro là giáo sĩ lãnh đạo của một bộ lạc nhánh của dân
Midianite được gọi là bộ tộc Kenites, và con gái ông Zipporah (người vợ của
Môi-se), đã chịu ảnh hưởng tư tưởng Hebrew ban đầu: đó là Yahweh, chúa tể của
dân Midianites, người đã tiết lộ cho Moses là Gót của Hebrew. Cắt bao quy đầu
được dân Midianites thực hiện trước người Israelites. [ Encyclopædia
Britannica]
Tôi ghi chú dài dòng để cho thấy – dân Dothái từ cổ thời là một
dân tộc nhỏ nhưng hiếu chiến, hiếu sát, thường dùng vũ lực để giải quyết mọi
tranh chấp, và những tranh chấp thường với những dân láng giềng, thường là đồng
tộc, đồng chủng, nhưng chiến tranh khốc liệt vì động cơ sâu xa chỉ là sự bất
đồng tôn giáo (trước sau họ là một dân tộc nhỏ, nhu cầu kinh tế, hay kinh tế/chính
trị không lớn – như tranh chấp Israel/Palestine hiện nay). Tính chất quan trọng
này sẽ thấy trong các dân tộc thấm nhuần những tôn giáo thoát thai từ tôn giáo
của họ, như tính chất hiếu chiến, hiếu sát trong Cựu Ước, vốn cũng có thể xem
như huyền sử, hay lịch sử mà dân tộc này muốn tin là mình đã thực có, của dân
Dothái, đó là Kitô và Islam. Cả hai tôn giáo đó đều bành trướng bằng máu đổ từ
gươm giáo súng đạn, bằng những xâm lược của đế quốc, thực dân, mọi hình thức
của xâm lăng, và của nô lệ con người. Chúng đều nuôi dưỡng ý hệ trong đó giữ
chặt khái niệm “chỉ có một” và “duy nhất đúng”, nên chúng không chỉ là mầm,
nhưng ngòi nổ chiến tranh muôn đời, là tai ương cho nhân loại. Tính chất hiếu
chiến, hiếu sát – chẳng những thể hiện qua sự tàn sát quân thù (thập tự chinh)
– nhưng qua cả hành động chết vì đạo, từ những người Maccabee Dothái đến những ‘thánh’ tử đạo Kitô và Islam, đều đến từ
những quyển sách loại như kinh Thánh này. Chiến tranh diệt chủng, diệt văn hóa,
tẩy rửa chủng tộc, sẽ thấy trên đường bành trướng của Kitô giáo, từ thời kể
trong kinh Thánh cho đến hôm qua, từ Trung Đông, Nam Phi, bắc Mỹ, Trung nam Mỹ,
Balkan, châu Phi và hiện nay, như từ bao giờ, lại vẫn dai dẳng ở Trung đông, và
ngay trên đất Thánh Jerusalem.
Trên chính đất Thánh của ba tôn giáo này – vẫn tự hào là kêu gọi,
và đề cao thương yêu con người; nhưng con người ở đó không bao giờ rời gươm
đạn, chiến tranh không bao giờ ngưng, khói súng chưa bao giờ tắt cho được lâu
dài.
“Chất chứa một thế giới với …. những tôn giáo thuộc loại tôn giáo
Abraham, giống như bỏ bừa bãi đầy đường phố những súng ống lại còn nạp đạn sẵn.
Đừng ngạc nhiên nếu người ta không đem chúng ra dùng” [“To fill a world with
... religions of the Abrahamic kind, is like littering the streets with loaded
guns. Do not be surprised if they are used”
- Richard Dawkins, "Religion's Misguided Missiles"
(September 15, 2001)]
[27] Dân Số 25 –
Vietnamese Bible: Easy-to-Read Version (BPT)
Dân Ít-ra-en cúng thờ thần Ba-anh ở Phê-ô
Dân Y-sơ-ra-ên ở tại Si-tim,
khởi thông dâm cùng những con gái Mô-áp. Con gái mời dân chúng ăn sinh lễ cúng các
thần mình; dân sự ăn và quì lạy trước các thần chúng nó. Y-sơ-ra-ên cũng thờ
thần Ba-anh-Phê-ô, cơn giận của Đức Giê-hô-va bèn nổi lên cùng Y-sơ-ra-ên.
Đức Giê-hô-va phán cùng Môi-se
rằng: Hãy bắt các đầu trưởng của dân chúng, và treo lên trước mặt Đức Giê-hô-va,
đối cùng mặt trời, để cơn giận của Đức Giê-hô-va xây khỏi Y-sơ-ra-ên. Vậy,
Môi-se nói cùng các quan án Y-sơ-ra-ên rằng: Mỗi người trong các ngươi phải
giết những kẻ nào thuộc về bọn cúng thờ Ba-anh-Phê-ô. Nầy, một người trong dân
Y-sơ-ra-ên dẫn một người nữ Ma-đi-an đến giữa anh em mình, hiện trước mắt Môi-se
và cả hội dân Y-sơ-ra-ên, đương khi hội chúng khóc tại cửa hội mạc. Phi-nê -a,
con trai Ê-lê -a-sa, cháu A-rôn, thầy tế lễ, thấy sự nầy, bèn đứng dậy giữa hội
chúng, cầm một cây giáo, đi theo người Y-sơ-ra-ên vào trong trại, đâm ngang dạ
dưới của người Y-sơ-ra-ên và người nữ; tai vạ (bệnh dịch) giữa dân Y-sơ-ra-ên
bèn ngừng lại.
Vả, có hai mươi bốn ngàn người
chết về tai vạ (bệnh dịch) nầy.
[28] Nguyên văn “godsl”– từ viết chệch của từ gods – như từ “trời đất ơi” thành “chèng
đéc ơi” – tôi dịch tạm là “gót géc”.
[29] Exodus 34:
13-17 –
“Nhưng các ngươi hãy phá hủy
bàn thờ, đập bể pho tượng và đánh hạ các thần chúng nó. Vì ngươi đừng sấp mình xuống
trước mặt Chúa nào khác, bởi Đức Giê-hô-va tự xưng là Đức Chúa Trời kỵ tà; Ngài
thật là một Đức Chúa Trời kỵ tà vậy. Hãy cẩn thận đừng lập giao ước cùng dân
của xứ đó, e khi chúng nó hành dâm cùng các tà thần chúng nó và tế các tà thần
của chúng nó, có kẻ mời, rồi ngươi ăn của chúng họ chăng. Lại đừng cưới con gái
chúng nó cho con trai ngươi, e khi con gái chúng nó hành dâm với các tà thần
chúng nó, quyến dụ con trai ngươi cũng hành dâm cùng các tà thần của chúng nó
nữa chăng. Ngươi chớ đúc thần tượng.”
[30] ethnic cleansing: Làm sạch chủng tộc: hiện tượng chiến tranh xua đuổi hay tiêu diệt tập
thể những người thuộc một sắc tộc hay tôn giáo trong một xã hội hay quốc gia
của một dân tộc mà thành phần đa số nắm quyền lực đã muốn triệt tiêu họ.
[31] Joshua 6: 21 –
Giô-sua 6
Ðánh Hạ và Tiêu Diệt
Giê-ri-cô
Dân Giê-ri-cô rất lo sợ, vì dân Ít-ra-en đã đến gần. Họ đóng chặt các cổng
thành và canh gác cẩn thận. Không ai được ra vào.
Đức Giê-hô-va bảo Giô-suê, “Nầy, ta đã trao Giê-ri-cô, vua và quân sĩ, vào
tay con. Trong sáu ngày các con hãy đi vòng quanh thành mỗi ngày một lần. Sắp
xếp cho bảy thầy tế lễ, cầm kèn làm bằng sừng chiên đực, đi trước Rương. Sang
ngày thứ bảy, các con hãy đi vòng quanh thành bảy lần, rồi bảo các thầy tế lễ
vừa đi vừa thổi kèn. Họ phải thổi một hồi kèn thật dài. Khi các con nghe tiếng
kèn đó, thì mọi người phải la lớn lên. Lúc đó vách thành sẽ sập, mọi người phải
xông thẳng vào thành.”
… Bảy thầy tế lễ cầm bảy cây kèn đi trước Rương, vừa đi vừa thổi. Các chiến
sĩ, có mang vũ khí, đi trước họ còn dân chúng thì đi sau Rương của Đức Giê-hô-va.
Trong lúc đó các thầy tế lễ thổi kèn. Ngày thứ nhì họ đi vòng quanh thành một
bận rồi trở về lều. Họ làm như vậy trong sáu ngày. Đến ngày thứ bảy họ dậy thật
sớm rồi đi quanh thành như những ngày trước. Nhưng riêng trong ngày đó họ đi
vòng quanh thành bảy lần. Đến lần thứ bảy thì các thầy tế lễ thổi kèn. Rồi
Giô-suê ra lệnh, “Bây giờ hãy la hét lên! Đức Giê-hô-va đã giao thành nầy vào
tay đồng bào đó! Phải tiêu diệt thành cùng mọi thứ trong đó để làm của lễ dâng
lên cho Đức Giê-hô-va. Chỉ một mình cô gái điếm Ra-háp và những người trong nhà
cô ta là được để cho sống thôi. Không được giết họ vì Ra-háp đã giấu hai người
thám thính của chúng ta phái đến. Các ngươi phải thận trọng, không được lấy cho
mình những gì đã được quy định phải tiêu diệt, để làm của lễ dâng cho Đức
Giê-hô-va. Nếu ai lấy những món ấy mang về lều, các ngươi sẽ bị diệt và các
ngươi sẽ mang tai họa đến cho toàn dân Ít-ra-en. Tất cả những vật bằng bạc và
vàng cùng đồ làm bằng đồng hay sắt đều thuộc về Đức Giê-hô-va. Phải mang vào
kho Ngài.”
Khi các thầy tế lễ thổi kèn, dân chúng liền la hét lên. Vừa nghe tiếng kèn, dân chúng la hét vang lên,
lúc ấy vách thành liền đổ sập, mỗi người vội chạy thẳng vào thành. Dân Ít-ra-en
đánh chiếm thành này như thế đó. Họ dùng gươm tiêu diệt mọi sinh vật trong
thành, đàn ông, đàn bà, già trẻ lớn bé, súc vật, chiên, lừa.
… . Rồi dân Ít-ra-en phóng hỏa thiêu đốt thành cùng mọi thứ trong đó, nhưng
họ không thiêu những vật dụng bằng bạc, vàng, đồng hay sắt. Các món ấy được
mang vào kho của Đức Giê-hô-va.
[32] Vùng lãnh thổ được
những người Nazis đặc biệt tin tưởng là cấn thiết cho sự sống còn của đất nước
và phát triên kinh tế tự túc.
[33] Deuteronomy 20 –
Luật
lệ về chiến tranh
Khi các ngươi ra trận đánh kẻ
thù mình và thấy ngựa xe cùng đạo binh đông hơn mình thì đừng sợ. Giê-hô-va là
Gót, Đấng mang các ngươi ra khỏi Ai-cập sẽ phù hộ ngươi. Thầy tế lễ sẽ đến và nói chuyện với quân sĩ trước khi các ngươi ra trận. Người
sẽ nói như sau, “Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe đây! Hôm nay các ngươi ra trận đánh
quân thù mình. Đừng sợ hãi hay kinh hoảng. Đừng thất vọng hay e ngại chúng, vì
Giê-hô-va là Gót các ngươi đi với các ngươi, đánh kẻ thù cho các ngươi và ban
cho ngươi chiến thắng.” Các sĩ quan cũng sẽ nói cùng
quân sĩ mình như sau, “Có ai mới cất nhà mà chưa dâng cho Gót không? Người đó được
phép trở về vì lỡ người chết trong chiến trận rồi kẻ khác sẽ dâng hiến nhà ấy
chăng. Có ai trồng vườn nho mà chưa hưởng hoa lợi nó không? Người đó được phép
trở về vì lỡ người chết trong chiến trận rồi kẻ khác sẽ hưởng vườn nho đó chăng.
Có ai hứa hôn với một thiếu nữ mà chưa cưới không? Người đó được phép trở về vì
lỡ người chết trong chiến trận rồi kẻ khác sẽ lấy nàng chăng.” Rồi các sĩ quan
cũng sẽ nói, “Ở đây có ai sợ hãi không? Người đó được phép trở về kẻo người làm
cho kẻ khác cũng mất can đảm chăng.” Sau khi các sĩ quan nói cùng các quân sĩ
xong thì họ phải đề cử các cấp chỉ huy để lãnh đạo họ.
Khi ngươi đi lên định đánh thành
nào thì hãy đưa ra đề nghị hoà bình trước. Nếu họ chấp nhận đề nghị và mở cổng
thành cho các ngươi thì tất cả dân thành đó sẽ làm nô lệ phục vụ các ngươi.
Nhưng nếu họ bác bỏ đề nghị hoà bình và đánh các ngươi thì các ngươi hãy bao
vây thành đó. Giê-hô-va là Gót các ngươi sẽ trao thành đó cho các ngươi. Hãy dùng gươm giết tất cả đàn ông, các ngươi
có thể đoạt lấy mọi thứ khác trong thành cho mình. Hãy chiếm đoạt đàn bà, trẻ con,
gia súc. Ngươi có thể dùng các thứ đó mà Giê-hô-va là Gót giao cho ngươi từ tay kẻ thù. Hãy làm như thế
cho thành nào ở xa, không thuộc về các dân tộc gần đó. Chớ chừa vật gì sống
trong các thành thuộc vùng đất mà Giê-hô-va là Gót sẽ ban cho các ngươi. Hãy tận diệt các dân sau đây: Hê-tít,
A-mô-rít, Ca-na-an, Phê-ri-xít, Hê-vít và Giê-bu-sít theo như Gót đã truyền dặn. Nếu không chúng nó sẽ dạy ngươi
thờ các thần chúng nó, và nếu ngươi làm theo các điều gớm ghiếc đó tức các
ngươi phạm tội cùng Giê-hô-va là Gót
ngươi.
Khi ngươi bao vây và tấn công
thành nào lâu ngày, tìm cách chiếm nó, thì đừng lấy rìu đốn hết các cây. Các
ngươi có thể ăn trái cây nhưng không được đốn cây. Các cây đó không phải là kẻ
thù của ngươi cho nên đừng gây chiến với chúng. Tuy nhiên ngươi có thể đốn cây
nào không thuộc loại cây ăn trái và dùng nó làm phương tiện tấn công vách thành
cho đến khi thành bị chiếm đoạt.
[34] A member of a
Muslim sect founded by Abdul Wahhab (1703-1792), known for its strict
observance of the Koran and flourishing mainly in Arabia.
[35] “Jamais on ne fait le mal si pleinement et si
gaîment que quand on le fait par conscience” Blaise
Pascal, Pensees, 1670 – “conscience” hiểu theo Pascal và những người Kitô chính là “tiếng
nói của Gót”, là xác quyết tin tưởng có từ Gót, là đạo đức tối thượng! – Câu
này của Pascal giải thích các trường hợp những người thực dân Pháp với “đức tin
Kitô” cao thượng của họ, trong các hành động xâm lăng, tàn sát, hủy diệt, hay
đàn áp tàn khốc các dân tộc thuộc địa, trong đó có Vietnam. Hay những kẻ “chỉ
tin vào luật Gót”, bất chấp pháp luật trần gian, vẫn rình rập ám sát hại các y
sĩ phá thai ở các nước bắc Mỹ hiện nay.
[36] Numbers 15:32:
“dân Y-sơ-ra-ên đương ở tại đồng
vắng, gặp một người lượm củi trong ngày Sa-bát; những kẻ gặp người đương lượm
củi dẫn người đến Môi-se, A-rôn, và cả hội chúng. Họ bắt người giam tù, vì điều
phải làm cho người chưa nhất định. Đức Giê-hô-va bèn phán cùng Môi-se rằng:
Người nầy phải phạt xử tử, cả hội chúng hãy ném đá người ngoài trại quân. Vậy,
cả hội chúng đem người ra ngoài trại quân mà ném đá, và người chết, y như Đức
Giê-hô-va đã phán dặn Môi-se.”
[37] Deuteronomy 22:13-21:
“Luật
về hôn nhân – Nếu ai kết hôn với một cô gái, ăn nằm với nàng rồi sau không thích
nàng nữa, đi nói xấu về nàng. Chẳng hạn như, “Tôi lấy cô nầy nhưng khi ăn nằm
với nàng tôi thấy nàng không còn trinh trắng.”
Thì
cha mẹ cô gái phải trưng bằng cớ rằng con mình trinh trắng cho các bô lão tại cổng
thành. Cha mẹ cô gái sẽ trình với các lãnh tụ, “Tôi gả con gái cho anh nầy làm
vợ nhưng anh ta không thích nó nữa. Anh nầy đã tung tin láo khoét về con gái
tôi. Anh bảo, ‘Con gái ông không còn trinh trắng,’ nhưng đây là bằng cớ chứng
tỏ con gái tôi còn trinh.” Rồi cha mẹ nàng phải trưng miếng vải cho các lãnh tụ
thành phố, các lãnh tụ phải bắt người đó và trừng phạt nó. Họ phải bắt nó trả
hai cân rưỡi bạc cho cha cô gái vì nó đã bêu xấu một trinh nữ của Ít-ra-en. Cô
gái đó sẽ vẫn là vợ của nó. Suốt đời nó không thể ly dị nàng.
Nhưng
nếu điều người chồng nói về vợ mình là đúng, và rằng không có chứng cớ gì cho thấy
nàng còn trinh trắng, thì người ta phải mang nàng đến cửa nhà cha nàng. Rồi các
người đàn ông trong thành sẽ ném đá nàng chết. Nàng đã phạm một điều sỉ nhục
trong Ít-ra-en vì đã giao hợp trước khi kết hôn. Ngươi phải trừ khử điều gian
ác ra khỏi các ngươi.
[38] Deuteronomy 21:18-21
Con trai ngỗ nghịch –
Nếu ai có con trai ương ngạnh, chống báng và ngỗ nghịch không vâng lời cha mẹ khi
bị sửa dạy, thì cha mẹ nó phải mang nó đến các bô lão nơi cửa thành. Và trình
với họ rằng, “Con chúng tôi ương ngạnh và ngỗ nghịch. Nó không chịu vâng lời
chúng tôi. Nó ăn uống say sưa tối ngày.” Sau đó các người trong thành phải ném
đá cho nó chết. Hãy trừ khử điều ác trong các ngươi để cho toàn dân Ít-ra-en
nghe và sợ.
[39] [R. Dawkins, 'Atheists for Jesus',
Free Inquiry 25: 1, 2005, 9-10.]
[40] [Julia Sweeney cũng
nhắm đúng khi cô ngắn ngủi nhắc đến đạo Phật. Cũng giống như Kitô thì đôi khi
được xem như một tôn giáo tế nhị, dịu dàng hơn Islam, đạo Phật thì cũng buồn
cười được xem như tế nhị nhất trong tất cả. Nhưng học thuyết về sự diệt dần những
nấc thang luân hồi, vì nghiệp báo từ kiếp trước thì cũng khá khó chịu, khó tin.
Julia Sweeney: “Tôi đến Thailand và chuyện ngẫu nhiên xảy ra là tôi đến thăm
một một phụ nữ đang chăm sóc một đứa bé tật nguyền rất dị hình. Tôi nói với
người này, “Thật là tử tế khi bà chăm sóc đứa bé đáng thương này”. Bà nói:
“Đừng nói đứa bé này đáng thương, nó đã phải làm gì đó kinh khủng lắm trong
kiếp trước nên kiếp này mới sinh ra như vậy”]
[41] [For a thoughtful
analysis of techniques used by cults, see Barker (1984). More journalistic
accounts of modern cults are given by Lane (1996) and Kilduff and Javers
(1978).]
[42] Nguyên
văn “barbecue” – đây là từ ngữ đến tự
nhiên với tác giả có lẽ từ sự kiện ông đọc ‘kinh’ thánh từ thuở bé, lợm giọng với
chuyện Abraham trói đốt con để hiến sinh cho Gót.
Khi chúng ta đặt câu hỏi tại sao có tục giết người
(con trẻ, trinh nữ) để cúng thần, gót, tìm thấy trong lịch sử từ Đông sang Tây,
chúng ta thấy ngay không có gót nào, thần nào đòi mạng người (hay phẩm vât dâng
cúng dù là gì) – chẳng qua con người muốn tự tỏ rõ và chứng minh “lòng thành”
của mình khi dâng hiến, hy sinh một gì đó quí
giá nhất, ở đây là mạng người – điều đó cho thấy động cơ và mục đích hướng
tới chỉ có trong não thức người dâng cúng, những đối tượng như thần, thánh, gót,…
đều là tưởng tượng – sản phẩm tưởng tượng của lòng sợ hãi.
[43] Nguyên
văn “scrumping” – the
act of stealing apples, nothing more. Either stealing froma tree, orchard or
store. The one who scrumps is called the scrump or scrumper.
[44] [* Tôi biết rằng “scrumping” sẽ không
quen thuộc với độc giả Mỹ. Nhưng tôi thích thú khi đọc những từ ngữ không quen
thuộc của Mỹ và tra từ điển tìm nghĩa chúng, để mở rộng vốn từ vựng của tôi.
Tôi đã cố tình dùng một vài chữ khác, cụ thể riêng trong tôn giáo, vì lý do
này. Scrumping tự nó là một mot juste
của ngắn gọn tiết kiệm bất thường. Nó không chỉ có nghĩa là ăn cắp: nó đặc biệt
là ăn cắp táo và chỉ ăn cắp táo. Thật
khó có được một từ mà đúng hơn đến thế được . Phải thừa nhận rằng câu chuyện
Genesis không xác định rõ rằng trái cây là một quả táo, nhưng truyền thống từ
lâu đã xem nó là “táo” như vậy.]
[45] Sadomasochism: Cuồng dâm thể hiện qua Bạo dâm và Khổ-dâm
Thí dụ hiện tượng: Flagellation: hành động lấy roi, gậy tự đánh
mình (khổ dâm), hay người khác (bạo dâm), đặc biệt vì tập quán tôn giáo hay nhu
cầu, thúc đẩy của bản năng nhục dục (sadomasochism), có tác dụng gây
khoái cảm giống như, hay tăng cường chính khoái cảm khi thỏa mãn tình dục.
Tập quán tôn giáo – thấy trong đạo Kitô, được đề
cao ở một vài dòng tu “khổ hạnh”, hay những cá nhân; như vua chiên John Paul
II, qua lời những thân cận “sùng kính” kể lại, vẫn giữ riêng một dây lưng quần để
nhiều lần tự đánh mình, một nổi tiếng khác là nhóm Opus Dei, đối với họ
tự đánh đập mình là “thanh rửa thân xác”. Đây là một truyền thống lâu đời của đạo
Kitô, như lời của Paul, người lập đạo này, “I chastise my body” – nguyên ủy có
gốc rễ từ giáo lý của hội nhà thờ đề cao chịu dựng đau khổ (suffering) và quan
niệm nhị nguyên về linh hồn/thân xác. Về phương diện tâm lý nó rất gần gũi và
thực sự là một trong những biểu hiện của hiện tượng gọi là Sadomasochism.
Khuynh hướng tâm lý dominance và submission quen
thuộc trong nhà thờ – là nội dung cơ bản tìm thấy trong sadism và masochism. Cả
hai thường được gọi chung là Sadomasochism hay S&M; chúng là hai
hình thức biểu hiện xa đọa của bản năng tình dục, có tương liên và thường được
thực hành cùng nhau.
Sadism: Bạo dâm chỉ những lạc
thú nhục dục, xác thịt đến từ tính dục, trong đó kết hợp với sự gây đau đớn, thương
tích cho đối tượng tình dục. (tên có từ Marquis de Sade, nhà văn, nhà tư tưởng
Pháp, tác giả nhiều kịch bản, truyên dài, ngắn có nội dung bạo dâm, cuồng
dâm). Masochism, Khổ dâm về mặt khác là đối ngịch với sadism. Trong
trường hợp này, người thụ nhận thú vui nhục dục được tăng cường khi họ đóng vai
nạn nhân, nô lệ; thích thú khi bị đánh đập, khoái cảm khi hứng chịu thương
tích. Khổ dâm (Tên có từ tác giả Austrian, Leopold von Sacher-Masoch, viết
Venus in Fur).
Nội dung của gót học Ki tô là một câu chuyện về tội
lỗi và cứu chuộc, tội lỗi đó nếu quả là có như đã nói trong huyền thoại sáng tạo
tất cũng phải dù ít nhiều do một kẻ sáng tạo vũ trụ đã thiết kế – nên tất cả phải
có trong ý chí của một Gót-cha; ý chí đó là ý chí của một kẻ bạo dâm (sadist):
tạo một vũ trụ có đau khổ để thích thú nhìn những kẻ mình tạo ra chịu đau khổ.
Sang phần cứu chuộc, chúng ta có một nhân vật thứ hai – hay khuôn mặt thứ hai của
nhân vật thứ nhất – Gót-Con, nhân vật này tự nguyện gánh chịu đau khổ, tự nguyện
bị hành hạ đến chết, tự đóng vai hy sinh, vì qua hành động hy sinh, được hạnh
phúc sung sướng, khi làm cho, và biết được người khác sẽ được mình đem đau khổ để
cứu chuộc tội lỗi, giúp họ thoát trừng phạt của Gót-cha, tất cả qua một màn
trình diễn đầy máu me, kết thúc trong chết chóc – qua đau khổ để có vui sướng:
một kẻ Khổ dâm (masochist). Như thế, một cách bệnh hoạn, sự trừng phạt/nhận
trừng phạt tội lỗi bằng gây/nhận khổ đau, lại được chuyển thành một gì đó tích
cực và đức hạnh. Tất cả được lập lại trong những kẻ tự nhận mình là tội lỗi (tội
tổ tông), rồi mỗi chủ nhật lại có dịp gục đầu đấm ngực, mê sảng trong quằn quại,
sung sướng trong ăn năn, khoái lạc trong xưng tội, thú tội, và trong một lễ
nghi nghiêm trọng, được uống máu, ăn thịt kẻ đã chịu đau khổ vì mình, để
ngấm vào mình sự đau đớn của kẻ đã hy sinh, để thấy chút ngất ngây sung sướng tựa
khoái lạc khi nhận biết có người hy sinh, chịu khổ đến thế vì mình, nghĩa là tưởng
nhận được ơn cứu rỗi thiêng liêng từ thần linh!
Hình phạt và "tội lỗi" (đau khổ) đã tài
tình vặn bẻ đến méo mó và trở thành một gì đó tích cực, đáng có, nên giữ và
trong chính nó dù dị hợm và nhờm tởm nhưng thành một đức hạnh – đã trở thành
thánh dược cho các tín đồ. Tự nhận có tội để được cứu rỗi – và sung sướng, đó
là một chút ngoài mặt của tâm lý Sadomasochism này trong đạo Kitô.
Thế nên, chúng ta thấy vây quanh những tín đồ là một
hình tượng, hoặc treo trang trọng trong nhà, hoặc tôn kính ở những nơi công cộng,
hoặc trang hoàng tô điểm rực rỡ trong những nơi thờ phượng . Hình tượng đó là một
xác người của một kẻ đã chết trong đau đớn, và hình tượng đó cũng là một khí cụ
giết người ghê tởm nhất, nhưng cả hai – xác chết trên giá gỗ chuyên dùng giết
người – được xem là một biểu tượng cao quí và được các nhà gót học gọi “thập
giá là tin mừng về sự đau khổ”. Đúng vậy, đau khổ nhưng có tin mừng vì có người
chịu khổ nạn, hứng và chuộc tội cho mình – đó là sự hy sinh vĩ đại rơi
xuống từ trời cao, từ chính đứa con của Gót – Gót-con – người tự chịu đóng đinh
chết trên thập giá. Nên Thập giá mang một ý nghĩa trọng đại với những đau khổ của
thế giới. Thập giá lại là một Tin mừng cho con người. Trọng tâm giảng dạy
của Kitô, trong Tân ước, không là cuộc đời Jesus, nhưng là những đau khổ và cái
chết của Christ. Màn mở ở Bethlehem sau đó lướt nhanh qua khoảng trống
30 năm, đi thẳng đưa mọi người đến Golgotha và sau đó hạ màn.
Trở lại kinh Thánh, với một người đọc đơn giản và
suy nghĩ về nó. Trong những câu chuyện và những hình ảnh sống động về chiến
tranh, diệt chủng, nạn lụt, chết vì đạo, những cái chết tàn khốc thê thảm vì bị
trừng phạt hay những cái chết của những người mẹ và trẻ sơ sinh trong sinh nở, đau
đớn khi bị cắt bao quy đầu nam, xén bộ phận sinh dục nữ, khủng hoảng tinh thần
với các thử thách ‘đức tin’ như của Abraham, Job, ….; Tất cả chỉ trình bày cho
chúng ta một mặt, không cho thấy mặt kia – của những quằn quại, đau khổ, của những
người bất lực, tuyệt vọng, … của thân nhân, đồng bào của những kể trên, phải đông
đảo hơn nhiều, đứng quanh đâu đó không xa, nhìn những người thân của họ đau khổ,
chết chóc. Chúng ta phải giả định họ là vô tội – và phải kết luận rằng nếu có một
cái nhìn trong kinh thánh, đâu đó chiếu trên những thân nhân của những tội
nhân; cho thấy phải là một cái nhìn tàn ác, bạo dâm, cuồng dâm từ trang đầu đến
trang cuối.
Về phần những nạn nhân, được mô tả và xem là tội
nhân, và người đọc được đưa đến trạng thái tâm lý trong đó mặc nhận để hầu như đồng
ý họ là những “tội” nhân, những kẻ tội lỗi (sinners) nên những đau khổ và trừng
phạt xem thành chính đáng. Chấp nhận rằng có những đau khổ tât nhiên của người
khác, nhìn sự đau khổ chỉ với xót thương hay với thản nhiên, vì đồng thuận rằng
đó là “ý Chúa”, là ý chí, hay theo phán xét không thể nghi ngờ, và không
thể tra hỏi của Gót, phản ảnh một sự thờ ơ trước đau khổ, và như thế là một
thái độ vô đạo, bất nhân, phản con người.
Đáng lẽ, ít nhất hãy bắt đầu từ nhìn nhận đau khổ
như thực tại tất yếu của sự sống vô thường, tự nhiên của thiên nhiên vô tình,
(không phải là hậu quả của trừng phạt một tỗi lỗi vô hình và trên tập thể); và
con đường thoát khổ đau (không bằng tin tưởng vào cứu rỗi, một kiếp sống khác)
khởi đi từ chính con người gắng gỏi tự tìm cách chế ngự tự nhiên, và thăng hoa
nhận thức lẫn bản năng, lấy trí tuệ soi sáng để nâng cao sự sống con người, như
thế thực sự đi đến giảm bớt rồi sẽ chấm dứt khổ đau trong sự sống, và đó là đạo
đức chân thực. Một tín ngưỡng chỉ đề cao khổ đau có thực của con người nhưng đi
kèm với những diễn giải kêu gọi trên “đức tin” vào những đối tượng vẫn còn ngờ
không thực, là bệnh hoạn hay lừa dối, và như ở đây, chỉ là sự biểu hiện của bản
năng con người cuồng dâm qua bạo dâm và khổ-dâm.
[46] Tội lỗi
của
Adam và Eve, Augustin biện luận, đã bất
di dịch được truyền xuống những thế hệ con cháu, không thay đổi theo di truyền,
đến từng người của loài người; tội tổ tông truyền qua tinh dịch trong hành động
giao hợp nam nữ.
[47] Tôi giữ
nguyên văn “ethical philosophy” nhưng tôi không đồng ý với tác giả, ở đây cũng
như trong toàn bộ lý thuyết tư tưởng Kitô, vẫn gọi là thần học, hay tôi gọi là
gót học, (vì chủ yếu là một sự cố gắng chứng minh tin tưởng chủ quan vào một
gót, theo lối “cố đấm ăn xôi”), thực sự không phải là triết lý, nên không có
triết gia (nhà gót học, hay gót gia, khác với nhà triết học, hay triết gia), nhưng chỉ có giáo điều, những lý thuyết để tin theo – tín
lý, không phải triết lý.
Triết học có nền tảng trên nhận thức trí tuệ về thực
tại và phán đoán lý trí, những tính chất này tuyệt không có, bị từ chối và gạt
bỏ trong Kitô. Tín lý Kitô giữ con người trong bóng đêm để họ tin, triết lý dẫn
con người ra ánh sáng để họ có thể thấy và hiểu.
[48] Robert Graves. King Jesus. New York: Creative Age Press, 1946. Vua Jesus là một tiểu thuyết bán lịch sử của
Robert Graves, xuất bản lần đầu năm 1946. Tiểu thuyết xem Jesus không phải là con
trai của Gót, nhưng là một nhà tư tưởng, ông đòi ngôi vua Do thái của Herod the
Great, vì Jesus là dòng dõi vua Đavít.
[49] [Paul Vallely
and Andrew Buncombe, 'History of Christianity: Gospel according to Judas', Independent,
7 April 2006.]
[50] Nếu người ta nghĩ lại và sau tất cả, thấy những tình tiết trong kinh Thánh, cũng những diễn giảng của hội nhà Thờ mọi
loại – rằng Gót muốn chính đứa con trai độc nhất của ông phải chịu tra tấn hành
hạ và bị giết chết một cách tàn nhẫn, trước khi ông tha thứ cho những tội lỗi
của con người (với giá là phải tin theo ông), một Gót như thế, thuộc loại nào,
người ta phải tự hỏi? Đó là câu hỏi đặt toàn thể ý niệm cứu chuộc, và ý niệm có
trong tất cả những người Ki tô – khi họ thờ phượng – ăn bánh và uống rượu như
chúng là thân xác và máu của Christ. Một ai suy nghĩ và đặt câu hỏi như thế, sẽ
thấy ngay những khái niệm vẫn nói như trên xụp đổ và tất cả trước sau chỉ là sự
ăn mừng tàn ác và tôn vinh bạo lực quanh một câu chuyện tự tử được thổi phồng vĩ đại.