Plato
Phiên Tòa và cái Chết của Socrates
Lời Socrates cãi trước tòa
Apology
2. Bản án
Có nhiều những lý do khác khiến tôi không giận dữ với quí vị vì kết án tôi, thưa quí vị bồi thẩm, và những gì đã xảy ra đã chẳng phải không thấy trước [1]. Tôi ngạc nhiên nhiều hơn về số phiếu bỏ ở mỗi bên, vì tôi đã không nghĩ rằng quyết định sẽ là bằng ít phiếu đến như thế, nhưng bằng một số rất nhiều [2]. Như nó là, một xê dịch của chỉ ba mươi phiếu, đã tha bổng tôi. Tôi nghĩ rằng bản thân mình đã xóa sạch những buộc tội của Meletus, và không chỉ vậy, nhưng là rõ ràng sạch hết với tất cả những điều đó, nếu Anytus và Lycon đã không dự vào cùng ông ta trong việc buộc tội tôi, ông hẳn sẽ bị phạt một ngàn drachmas vì không nhận được một phần năm của phiếu kết tội.
Ông ta thẩm định hình phạt là án chết. Vậy hãy như thế đi. Phản thẩm định nào đây tôi nên đề nghị với quí vị, thưa quí vị bồi thẩm? Rõ ràng nó sẽ phải là một hình phạt xứng đáng cho tôi, và có phải tôi đáng phải chịu xử chết, hoặc phải nộp phạt bởi vì tôi đã cố tình không sống một đời im lặng, nhưng đã xao lãng những gì bận rộn hầu hết mọi người: sự giàu có, công việc gia đình, chức vị của tướng lãnh, hoặc của nhà hùng biện chính trị, hoặc trong những cơ quan khác, những club chính trị và những phe phái xã hội, vốn hiện hữu trong thành phố? Tôi nghĩ chính mình quá chân thực, khó sống xót nếu tôi tự mình bận rộn với những điều đó. Tôi đã không theo con đường đó vốn có thể đã làm cho tôi thành vô dụng hoặc với quí vị hoặc với chính bản thân tôi, nhưng tôi đã đi đến từng mỗi quí vị trong riêng tư, và đã bàn bạc với người ấy những gì tôi nói là lợi ích lớn nhất, bằng cách cố gắng thuyết phục ông ta đừng chăm sóc với bất kỳ tài sản nào của mình trước khi chăm sóc chính mình, xem mình có là tốt và khôn ngoan nhiều đến như có thể được hay chưa, đừng có quá chăm sóc với những sở hữu của thành phố nhiều hơn với chính thành phố, và chăm sóc cho những thứ khác trong cùng một lối. Có những gì tôi xứng đáng với tư cách là một người như vậy? Một vài điều tốt, thưa quý vị đoàn bồi thẩm, nếu tôi thực sự phải làm một thẩm định theo như những công lao đáng thưởng của tôi, và cái-gì-đó thích hợp. Những gì phù hợp với một ân nhân nghèo là người cần sự nhàn rỗi để khuyên nhủ quí vị? Không có gì là phù hợp hơn, thưa quý vị, là cho một người như thế được đãi ăn trong dinh Prytaneum [3], rất phù hợp nhiều với ông ta, hơn với bất cứ ai trong quí vị đã giành được một chiến thắng tại Olympia với một cặp hoặc một đoàn ngựa. Những người chiến thắng ở Olympia làm quí vị nghĩ mình sung sướng, tôi làm cho quí vị được sung sướng [4]. Bên cạnh đó, ông ta không cần thực phẩm, nhưng tôi cần. Vì vậy, nếu tôi phải làm một thẩm định cho đúng với những gì tôi xứng đáng, tôi định giá nó như vầy: những bữa ăn miễn phí trong dinh Prytaneum.
Khi tôi nói điều này, quí vị có thể nghĩ rằng, như tôi đã nói về những kêu gọi đến thương hại và những cầu xin, rằng tôi nói ngạo mạn, nhưng đó là không phải đâu, thưa quí vị đoàn bồi thẩm, mà đúng hơn là như thế này: Tôi tin rằng tôi không bao giờ cố ý làm điều sai trái với bất cứ ai bao giờ, nhưng tôi không thuyết phục quí vị về điều này, vì chúng ta đã nói chuyện với nhau không hơn một thời gian ngắn. Nếu pháp luật đã là với chúng ta, như nó là ở nơi khác [5] , rằng một phiên tòa xử án tử hình không nên chỉ một ngày, nhưng trong nhiều ngày, quí vị sẽ được thuyết phục, nhưng bây giờ không phải là dễ dàng để xua tan những vu khống lớn lao trong một thời gian ngắn. Vì tôi tin chắc rằng tôi không làm điều sai trái với ai, tôi có lẽ chắc không làm điều sai trái với bản thân mình, để nói rằng tôi xứng đáng một vài điều tà ác và làm một vài thẩm định đánh giá loại như thế về ngược bản thân mình. Tôi phải nên sợ những gì? Rằng tôi phải gánh chịu hình phạt Meletus đã đánh giá chống lại tôi, vốn với nó, tôi nói rằng tôi không biết liệu nó là tốt hay xấu? Vậy sau đó có phải tôi nên chọn một điều gì đó ưa thích hơn so với điều này, mà tôi biết rất rõ là một tai ác và định giá hình phạt với điều đó hay không? Phạt tù? Tại sao tôi phải sống trong nhà tù, luôn luôn phải là đối tượng của những quan tòa, của nhóm Mười Một người [6] ? Phạt tiền và phạt tù cho đến khi tôi trả xong tiền phạt? Đó sẽ là cùng một điều tương tự với tôi, vì tôi không có tiền. Ra khỏi Athens sống lưu vong? Bởi vì quí vị có lẽ có thể chấp nhận giá đó.
Tôi phải có một lòng yêu thích không thông thường với cuộc sống, thưa quí vị bồi thẩm, để hết sức là vô lý như thế, khi giả định rằng những người khác sẽ dễ dàng khoan thứ có tôi bên cạnh và trò chuyện, trong khi quí vị, những công dân cùng thành phố của tôi, không có khả năng chịu đựng họ, nhưng thấy họ là một gánh nặng và bực bội với họ, thế nên quí vị đang tìm cách để loại bỏ họ. Còn lâu mới thế, thưa quí vị. Nó sẽ là một đời sống đẹp ở tuổi của tôi để bị đuổi khỏi một thành phố này sau một thành phố khác, vì tôi biết rất rõ rằng bất cứ nơi nào tôi đi đến, những người trẻ sẽ nghe trò chuyện của tôi như họ nghe ở đây. Nếu tôi đuổi chúng đi, tự chúng sẽ thuyết phục những huynh trưởng của chúng đuổi tôi đi khỏi, nếu tôi không đuổi chúng đi, những người cha và họ hàng của chúng sẽ đuổi tôi, nhân danh chúng.
Có lẽ một ai đó có thể nói: Nhưng Socrates, nếu ông rời chúng ta ra đi, liệu ông có thể sẽ sống lặng lẽ, thôi không nói? Bây giờ đây là điểm khó khăn nhất để thuyết phục một số quí vị về nó. Nếu tôi nói rằng không thể nào tôi giữ im lặng được, bởi vì đó có nghĩa là không tuân theo lệnh gót, quí vị sẽ không tin tôi và sẽ nghĩ rằng tôi mỉa mai lừa dối [7]. Mặt khác, nếu tôi nói rằng đó là thức ăn ngon bổ nhất cho một người để thảo luận về đức hạnh mỗi ngày, và về những điều khác vốn quí vị nghe tôi trò chuyện và nghiệm xét chính bản thân tôi và những người khác; bởi vì với con người đời sống không suy nghiệm là không xứng đáng sống [8], quí vị sẽ tin tôi thậm chí lại còn ít hơn.
Những gì tôi nói là đúng, thưa quí vị, nhưng không phải dễ dàng để thuyết phục quí vị. Đồng thời, tôi không quen với việc nghĩ rằng tôi đáng nhận bất kỳ một hình phạt nào. Nếu tôi có tiền, tôi sẽ đánh giá hình phạt với số tiền tôi có thể trả, vì như thế sẽ không tổn hại tôi, nhưng tôi không có đồng nào, trừ khi quí vị sẵn sàng để định giá phạt ở khoản tiền tôi có thể trả, và có lẽ tôi có thể trả quí vị một đồng mina bạc [9]. Vì vậy, đó là đánh giá của tôi.
Plato ở đây, thưa quí vị bồi thẩm, và Crito, và Critoboulus, và Apollodorus đặt giá với tôi tiền phạt là ba mươi đồng mina bạc, và họ sẽ đứng ra bảo lãnh cho khoản tiền. Vậy thì, đó là đánh giá của tôi, và họ sẽ đảm bảo đóng phạt đầy đủ.
[Đoàn bồi thẩm bây giờ bỏ phiếu một lần nữa và xử Socrates tội chết]
3. Phát biểu những suy nghĩ cuối
3.1 Với những người kết án chết (361)
Để chỉ trong một thời gian ngắn ngủi, thưa quí vị bồi thẩm, quí vị sẽ thu tập được tiếng tăm và tội lỗi, dưới con mắt của những người muốn bôi nhọ thành phố, vì đã giết Socrates [10], một con người khôn ngoan, bởi vì họ, những người muốn chửi rủa quí vị sẽ nói rằng tôi là khôn ngoan ngay cả nếu tôi không phải thế. Nếu quí vị đã chịu đợi chỉ một thời gian ngắn, điều này sẽ xảy ra theo cách riêng của nó. Quí vị thấy tuổi của tôi, rằng tôi đã quá già và gần kề cái chết. Tôi nói điều này không với tất cả quí vị, nhưng với những người kết tội tôi với án chết, và với cùng những thành viên đoàn bồi thẩm này tôi nói: Có lẽ quí vị nghĩ rằng tôi đã bị kết án vì thiếu những lời nói thuộc loại như vốn đã có thể thuyết phục được quí vị, nếu như tôi đã nghĩ tôi đã nên nói, hay làm tất cả những gì tôi có thể để tránh bản án của tôi. Còn xa mới đến thế. Tôi bị kết tội không vì tôi thiếu lời nói, nhưng thiếu sự trâng tráo và sự không biết thẹn, và sự tự nguyện để nói với quí vị những gì quí vị sẽ hết sức hài lòng nghe từ tôi, những than van và những nước mắt và nói và làm nhiều điều mà tôi nói là không xứng đáng với tôi, nhưng mà quí vị đã quen nghe từ những người khác. Tôi không nghĩ rằng, sự nguy hiểm lúc ấy nên khiến cho tôi làm bất cứ điều gì hèn kém, và giờ đây cũng chẳng làm tôi hối tiếc về tính chất của những lời tôi tự cãi. Tôi thà chết sau khi tự cãi theo kiểu này còn hơn sống sau khi tự cãi theo kiểu khác. Cả tôi cũng như bất cứ người nào khác, hoặc trong tòa án hoặc chiến tranh, đều không nên xoay sở để tránh cái chết với bất cứ giá nào. Thật vậy, trong trận chiến thường rõ ràng là người ta có thể thoát khỏi cái chết bằng cách ném bỏ vũ khí của mình rồi quay sang khẩn cầu những người đuổi theo mình, và có rất nhiều cách để tránh cái chết trong tất cả những loại nguy hiểm nếu một người sẽ đánh bạo làm hoặc nói bất cứ điều gì để tránh nó. Không phải là khó khăn để tránh cái chết, thưa quý vị đoàn bồi thẩm, là nhiều khó khăn hơn để tránh sự gian ác, vì nó chạy nhanh hơn cái chết. Chậm và già như tôi, tôi đã bị chụp bắt bởi cái đuổi theo chậm hơn, trong khi những người buộc tội tôi, thông minh và sắc sảo, đã bị chụp bắt bởi cái nhanh hơn, sự tà ác. Giờ đây, tôi rời quí vị, bị kết án chết bởi quí vị, nhưng họ bị chân lý kết án là gian ác và bất công. Vì vậy, tôi duy trì định giá của tôi, và họ duy trì của họ. Điều này có lẽ đã phải xảy ra, và tôi nghĩ nó là như nó nên là.
Bây giờ tôi muốn nói lời tiên tri với những ai là người kết án tôi, vì tôi đang ở tại điểm khi con người nói lời tiên tri nhiều nhất, khi họ sắp chết. Tôi nói, thưa quý vị, với những người đã bỏ phiếu để giết tôi, báo thù đó sẽ xảy đến với quí vị ngay lập tức sau cái chết của tôi, một sự trả thù phải gánh chịu khó khăn hơn nhiều so với những gì quí vị đã cáng đáng để giết tôi. Quí vị đã làm điều này với tin tưởng rằng quí vị sẽ tránh không phải đưa ra một giải thích về đời quí vị, nhưng tôi duy trì rằng điều hoàn toàn trái ngược sẽ xảy ra với quí vị. Sẽ có nhiều người hơn để nghiệm xét quí vị, những người mà bây giờ tôi kéo lùi lại, nhưng quí vị đã không nhận thấy. Họ sẽ là khó khăn hơn để đối phó với vì họ sẽ trẻ hơn, và quí vị sẽ bực bội họ nhiều hơn. Quí vị sai lầm nếu quí vị tin rằng bằng cách giết người quí vị sẽ ngăn chặn bất cứ ai để khỏi đến trách mắng quí vị vì không sống trong con đường ngay đúng. Để thoát khỏi những nghiệm xét như vậy là không thể và cũng không tốt, nhưng là tốt nhất và dễ nhất là không làm mất uy tín những người khác, nhưng chuẩn bị cho mình được tốt nhất như có thể tốt được. Với lời tiên tri này với quí vị, những người đã kết án tôi, tôi từ giã quí vị.
3.1 Với những người tha bổng (140)
Tôi nên lấy làm hân hạnh để thảo luận về những gì đã xảy ra với những người đã bỏ phiếu cho tôi trắng án, đương khi những viên chức toà án bận rộn và tôi chưa phải rời đi trên đường đến cái chết của tôi. Vậy nào, thưa quí vị, ở lại cùng tôi một lúc, không có gì ngăn cản chúng ta nói chuyện với nhau, trong khi được cho phép như thế. Quí vị, với tư cách những bạn bè của tôi, tôi muốn cho thấy ý nghĩa của những gì đã diễn ra. Một điều đáng ngạc nhiên đã xảy ra với tôi, qui vị thẩm phán - quí vị, tôi sẽ chính đáng gọi là những thẩm phán [11]. Trong tất cả những lần trước đó khả năng tiên tri quen thuộc của tôi, biểu hiện tinh thần của tôi, thường xuyên phản đối tôi, ngay cả trong những vấn đề nhỏ, khi tôi sắp sửa làm điều gì đó sai trái, nhưng bây giờ, như quí vị có thể nhìn thấy cho chính quí vị, tôi đã phải chạm mặt với những gì người ta có thể nghĩ rằng, và những gì thường được nghĩ rằng, là tệ hại nhất của những tai ác, nhưng dấu hiệu thần linh của tôi đã không phản đối tôi, dù hoặc là khi tôi đã rời nhà lúc bình minh, hoặc khi tôi đã đi vào tòa án, hoặc bất cứ lúc nào mà tôi đã sắp nói điều gì đó trong bài phát biểu của tôi. Ấy thế nhưng trong những đàm thoại khác, nó thường giữ tôi ngừng lại ở giữa lúc tôi đương nói, nhưng giờ đây nó đã không phản đối lấy một lời hoặc một hành động của tôi. Quí vị nghĩ gì về lý do của điều này? Tôi sẽ cho quí vị biết. Những gì đã xảy ra với tôi cũng có thể là một điều tốt, và những ai đó trong chúng ta là những người tin rằng cái chết là một điều ác chắc chắn là nhầm lẫn. Tôi có bằng chứng thuyết phục về điều này, bởi vì không thể nào mà dấu hiệu quen thuộc của tôi đã không phản đối tôi, nếu như tôi đã không sắp sửa làm những gì là đúng.
Chúng ta hãy cùng suy tưởng theo lối này, cũng vậy nữa, rằng có hy vọng tốt đẹp cái chết là một phước lành, vì nó là một trong hai điều: hoặc chết là không-gì cả, và không có nhận thức về bất cứ điều gì, hoặc nó là, như chúng ta được bảo, một thay đổi và một đổi chỗ cho những linh hồn từ nơi này đến nơi khác. Nếu nó là hoàn toàn thiếu nhận thức, giống như một giấc ngủ không mơ, vậy sau đó cái chết sẽ là một lợi thế lớn. Vì tôi nghĩ rằng nếu người ta phải chọn ra một đêm, trong thời gian đó một người ngủ ngon và không mơ, đặt bên cạnh những đêm và những ngày khác của đời mình, và sau đó xem có bao nhiêu những ngày và những đêm đã được tốt hơn và dễ chịu hơn so với đêm (ngủ không mơ) đó, không chỉ với một người ẩn dật vô danh, nhưng cả với những vị vua chúa vĩ đại cũng sẽ tìm thấy chúng dễ dàng để so đếm với những ngày và đêm khác. Nếu cái chết là như thế này, tôi nói nó là một lợi thế, bởi vì tất cả vĩnh cửu lúc đó sẽ xem dường không hơn là chỉ một đêm. Nếu, mặt khác, cái chết là một sự thay đổi từ đây đến nơi khác, và những gì người ta bảo chúng ta là đúng thật, và tất cả những người đã chết ở đó, còn có thể có phước lành nào to lớn hơn thế nữa, thưa quí vị bồi thẩm? Nếu bất cứ ai đến cõi Hades sẽ thoát khỏi những người tự xưng mình là thẩm phán ở đây, và sẽ tìm thấy những thẩm phán đích thực, những người được nói là ngồi xét xử ở nơi ấy, Minos, và Radamanthus, và Aeacus, và Triptolemus [12], và những vị nửa-gót [13] khác, những người đã sống ngay thẳng mẫu mực trong xuốt đời họ, điều đó có sẽ là một loại thay đổi tệ hay không? Lại nữa, một ai trong quí vị sẽ đánh đổi những gì để được bầu bạn cạnh bên với Orpheus và Musaeus , Hesiod và Homer [14]? Tôi sẵn sàng chết nhiều lần nếu đó là sự thật. Nó sẽ là một cách tuyệt vời cho tôi để tiêu thì giờ của tôi bất cứ khi nào tôi gặp Palamedes và Ajax [15], con trai của Telamon, và bất kỳ những ai khác là những người thời xưa, họ đã chết qua một kết án bất công, để so sánh kinh nghiệm của tôi với của họ. Tôi nghĩ rằng sẽ thoải mái dễ chịu. Quan trọng nhất, tôi có thể dành nhiều thời gian của tôi tra vấn và nghiệm xét dân chúng ở đó, như tôi làm ở đây, về phần ai trong số họ là khôn ngoan, và ai là những người nghĩ mình là, nhưng không là khôn ngoan [16].
Có phải người ta sẽ không buông bỏ, thưa quí vị bồi thẩm, cho cơ hội xét nghiệm người đã dẫn đầu cuộc viễn chinh vĩ đại chống lại Troy, hoặc Odysseus, hoặc Sisyphus [17], và vô số không đếm được những kẻ nam và người nữ mà người ta có thể nhắc đến. Nó sẽ là một hạnh phúc lạ thường để nói chuyện với họ, ở bên cạnh họ và xét nghiệm họ. Trong bất kỳ trường hợp nào đi nữa, họ chắc chắn sẽ không bắt một ai phải chết vì làm như vậy. Họ sung sướng ở đấy hơn chúng ta ở đây trong những khía cạnh khác, và với phần thời gian còn lại, họ là bất tử, thực vậy, nếu những gì chúng ta được nghe kể là sự thật.
Quí vị cũng vậy, phải là có lấy hy vọng tốt về phần cái chết, thưa quí vị trong đoàn bồi thẩm, và giữ một sự thực này trong tâm trí, rằng một người tốt không có thể bị làm thương tổn được trong đời sống hoặc trong cõi chết, và những công việc của người ấy không bị những vị gót quên lãng. Những gì đã xảy ra với tôi giờ đây đã không tự nó xảy ra ngẫu nhiên, nhưng là rõ ràng với tôi rằng đó là tốt hơn cho tôi chết bây giờ và để thoát khỏi phiền hà lo lắng[18]. Đó là lý do tại sao dấu hiệu thiêng liêng của tôi đã không phản đối tôi ở bất cứ điểm nào. Vì vậy, tôi chắc chắn không tức giận với những người kết án tôi, hoặc với những người buộc tội tôi. Dĩ nhiên đó không phải là mục đích của họ khi họ đã buộc tội và đã kết án tôi, nhưng họ nghĩ rằng họ đã làm tổn thương tôi, và với điều này, họ xứng đáng bị trách. Chỉ nhiều đến chừng này tôi yêu cầu họ: khi những con trai tôi lớn lên, trả thù cho chính mình bằng cách làm cho chúng cùng một loại khổ nhọc mà tôi gây ra cho quí vị, nếu quí vị nghĩ rằng chúng chăm sóc với tiền bạc hoặc bất cứ điều gì khác hơn là chăm sóc cho đức hạnh, hoặc nếu chúng nghĩ rằng chúng là một ai đó khi chúng không là ai. Hãy trách mắng chúng như tôi trách quí vị, rằng chúng không quan tâm đến những điều đúng, và nghĩ rằng chúng có thế giá trong khi chúng không có giá trị dù bất cứ điều gì. Nếu quí vị làm điều này, tôi sẽ được vị đối xử một cách công bằng, và cả những con trai của tôi cũng được thế.
Bây giờ lúc ra đi đã đến. Tôi đi để chết, quí vị đi để sống. Ai trong chúng ta đi đến phần số tốt hơn thì không người nào biết, chỉ trừ gót.
Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất
(Sep/2011)
[1] Bổi thẩm đoàn bỏ phiếu, và kết quả là phán quyết có tội. Meletus đề nghị phạt tử hình. Trong trường hợp này - luật pháp của Athens cho phép Socrates được tự đề nghị một lựa chọn thay thế khác, hay một hình phạt khác (đi đày, phạt tiền…), - gọi là phản thẩm định - như Socrates sẽ tiến hành trong phần kế tiếp. Sau đó đoàn bồi thẩm sẽ cân nhắc giữa hình phạt của hai bên đã đề nghị – chọn hình phạt nào xem ra thỏa đáng và tương xứng hơn cả.
[2] 501 phiếu, 280 thuận (có tội) và 221 chống – thực sự chênh lệch để đi đến quyết định là 30 phiếu.
[3] Prytaneum: mỗi thành phố Hylạp có một tòa nhà thường làm nơi cư ngụ cho người giữ chức vụ tương đương với thị trưởng (chief magistrate), cũng là nơi đặt bàn thờ và được xem như nhà chính của toàn thể cộng đồng – có thể xem như tương đương với đình làng của chúng ta trước kia, hay với tòa thị chính ngày nay ở mỗi thành phố hiện đại (chỉ khác là có người ở). Prytaneum của Athens, tòa nhà nằm ở phía sườn đông bắc của Acropolis, là tượng trưng cho trung tâm của Athens; là nơi tổ chức những vui chơi giải trí công cộng thường; các đại sứ, quan khách ngoại quốc, và những người có công với thành phố được vinh dự khoản đãi ở đó - đặc biệt trong dịp chào mừng những lực sĩ Olympic đã đoạt chiến thắng về thành phố.
[4] Theo Socrates, những nhà quán quân từ Olympia đem vinh dự về cho thành phố và “làm” quí vị “nghĩ” là quí vị sung sướng, không đâu – tôi mới làm quí vị sung sướng – bằng thúc đẩy quí vị trau dồi đạo đức. Đó là bắt đầu quan niệm Socrates phát biểu ở đây - Sung sướng và hạnh phúc (đích thực) dựa trên đạo đức (chân thực) – về sau, khi sang đến những nhà triết học phái Stoics – Sung sướng và hạnh phúc hoàn toàn dựa trên đạo đức.
[5] Sparta có luật loại tương tự như vậy.
[6] Xem chú thich trong Crito - tôi dịch sau đây.
[7] “eironeia” – từ cổ, ngoài nghĩa mỉa mai châm biếm, còn có nghĩa nói một điều gì đó với dụng ý lừa dối.
[8] Chúng ta gặp ở đây phát biểu nổi tiếng nhất – thường được trích dẫn như tiểu biểu cho Socrates – “the unexamined life is not worth living for a man” – “ho dè anexétastos bíos ou biôtòs anthrópô” - (“ὁ δὲ ἀνεξέταστος βίος οὐ βιωτὸς ἀνθρώπῳ”) - (Harold North Fowler - trong Loeb Classical Library edition) – tôi dịch sát theo bản Anh ngữ của Grube là - “với con người đời sống không suy nghiệm là không xứng đáng sống”.
Nên chú ý – “bios” có nghĩa là “cách sống, lối sống” – (“way of life”) – không phải hiểu là sự sống như trong “biology” (bios +logy). Cũng thế Socrates dùng từ “anthrópos” – có nghĩa “ người, giống người”- trong Anh ngữ là “man, human being” và Latin là “homo”, khác hơn là từ “anér”, - người đàn ông (“man, male” - Latin: vir). Sau nữa, khi dịch “xứng đáng sống” – từ bản dịch Anh ngữ “worth living” – trong gốc Hylạp chỉ có một từ là “biôtós”, nghĩa là “có thể sống, đáng để sống” - “to be lived, worth living”; vậy nếu dịch cho thật sát với ý trong gốc Hylạp sẽ là “Đời sống không suy nghiệm thì không sống được cho con người”.
Ngày nay, câu này được hiểu rộng, có lẽ quá rộng, ra ngoài ý ban đầu của Socrates, theo ông, đời sống phải được xét nghiệm, phân tích, tra hỏi – có thể là tự mình, hoặc có thể là với người khác, như ông – điển hình là elenchus dùng lôgích để phản chứng, đối chứng – Socratic method (cũng gọi là phương pháp elenchus, hay elenctic method) xem bài dịch Euthyphro – tôi dịch trước đây, là một thí dụ điển hình cho phương pháp này. Ông thường dùng phương pháp vấn đáp này – gồm những chuỗi câu hỏi - để dẫn người đối thoại dần đến nhận thức được những gì mình tin tưởng về một đề tài nào đó, thường là đạo đức hay nhận thức, cho người đối thoại nhận thức được thực ra chưa biết hay không biết, và trong tiến trình như thế, ý tưởng có thể sáng tỏ thêm, nhưng không bao giờ đi đến kết luận, trong các đàm thoại Socrates thường đi đến một aporia – ngõ cụt. Hai bên kẻ đáp người hỏi lại gãi đầu, tạm chia tay – nhưng lần này hình ảnh mỗi người là - những người suy nghiệm - bắt đầu tự hỏi và như trong tương lai rồi sẽ hỏi tiếp!
[9] [Một mina là 100 drachmas, tương đương với 25 đô la, mặc dù thời ấy mãi lực có thể gấp năm lần nhiều hơn, so với của chúng ta ngày nay. Trong trường hợp nào đi nữa, là một con số nhỏ hết sức lố bịch, tức cười trong trường hợp này.]
[10] Số phiếu lần thứ hai này là : 361 (án chết) và 140 (tha bổng)
[11] judge: Socrates chỉ gọi những người xử ông trắng án là quan tòa – thẩm phán - thôi, hiểu như những người biết pháp luật và công lý.
[12] Minos, và Radamanthus, và Aeacus: là ba vị quan tòa xét xử người chết ở cõi âm. Họ vốn là những người thường, con của Zeus, đã được phong chức đó vì khi còn sống, họ đã thiết lập luật pháp trên mặt đất. Aeacus còn là người giữ chìa khóa cõi âm của Haides, và là phán quan của những người châu Âu, Radamanthus, của những người châu Á, và Minos là vị phán quyết cuối cùng. Có nguồn cho vị phán quan thứ tư là Triptolemus. Triptolemus: thần thoại Hy lạp – vị nửa-gót được – vốn trước là một hoàng tử Eleusis , Demeter yêu thích, đã gửi dạy loài người thuật canh nông: gieo hạt giống trồng lúa mì, xay lúa mì.
[13] demi-gods – nửa-gót - trước đây theo Tàu, đã thường dịch là bán-thần.
[14] Orpheus: thi sĩ, ca nhạc sĩ; khi người yêu là Eurydice chết, ông xuống tận cõi âm của Hades để tìm và xin nàng về lại dương gian. Musaeus: hay Musaeus xứ Ephesus : nhà thơ. Hesiod và Homer: hai nhà thơ nổi danh của cổ Hylạp
[15] Ajax hoặc Aias: là một anh hùng trong thần thoại Hy Lạp, con trai của Telamon và Periboea và vua của Salamis . Ông đóng một vai trò quan trọng trong Iliad của Homer và trong Epic Cycle, một loạt các bài thơ sử thi về cuộc chiến thành Troy . Bạn thân của Ajax là Achilles đã bị Paris giết, và Ajax đã mang xác nhà vô địch trở lại trại quân Hylạp và dành áo giáp của Achilles trong khi Odysseus chiến đấu đẩy lui quân địch. Sau đó Ajax và Odysseus dành nhau bộ áo giáp này. Để phân đinh, những người Hylạp quyết định bằng bỏ phiếu, và kết quả áo giáp về tay Odysseus. Tức giận bởi quyết định này, Ajax định tấn công quân đội Hy Lạp đêm đó. Tuy nhiên, Athena, nữ thần của trí tuệ đã làm Ajax tạm thời mất trí, và ông đã tấn công một đàn cừu. Sau khi tỉnh, ông rất xấu hổ, đã tự tử.
Palamedes: thần thoại Hy lap - Palamedes phát minh vào tất cả những lĩnh vực của đời sống. Ông là người phát hiện ra đếm và tiền đúc, trọng lượng và cách đo lường (cũng được gán cho Hermes) và thứ bậc quân đôi và trò chơi của pessoi (tiền thân của cờ vua). Và một phương pháp nhất định pha trộn rượu theo tỷ lệ từ 2 đến 5 thuộc về ý tưởng của ông.
Câu chuyện về sống và chết của Palamedes đã được giữ trong truyền thống Hy Lạp. Theo đó tường thuật vua Agamemnon của xứ Mycenaea đã gửi Palamedes đến Ithaca để mang Odysseus, tham dự cuộc chiến thành Troy sắp xảy ra. Vua Odysseus đã không muốn tham chiến, do đó, ông giả vờ điên, cày ruộng với muối. Palamedes, biết điều này là giả tạo, dùng mẹo đặt con trai nhỏ của Odysseus là Telemachos trước ách của vua, khiến Odysseus ngay lập tức ngừng làm việc và không thể dấu là mình không điên. Tuy nhiên, Odysseus không bao giờ tha thứ Palamedes những gì đã làm cho ông. Trong cuộc chiến thành Troy, khi Palamedes khuyên họ trở về nhà, Odysseus giấu vàng trong lều Palamedes, giả mạo một lá thư làm hại ông, cáo buộc ông tội phản quốc, và do thế Palamedes đã bị lên án và bị ném đá đến chết.
Socrates nhắc những người đã chết oan ức – bất công – như chính ông cũng sắp sửa.
[16] Chúng ta thường nói là - chết cũng không chừa! – Chưa biết có cõi chết hay không, nhưng vị triết gia của chúng ta đã sửa soạn tiếp tục hành nghề như cũ! Ít nhất, Socrates cũng tin tưởng – nếu có cõi bên kia - ở đấy vẫn có những kẻ ngu, người dại, và những kẻ hợm hĩnh, chân thực tưởng là mình khôn ngoan, có thể dạy đời, cứu đời!
[17] Odysseus (Ulysses trong tiếng Latin) là vị vua của vương quốc đảo Ithaca . Ông là một trong những nhà lãnh đạo nổi bật nhất Hy Lạp trong cuộc chiến thành Troy , và là người anh hùng trong Odyssey của Homer. Ông nổi tiếng về thông minh, khôn ngoan, và tài hùng biện. Dù miễn cưỡng tham gia cuộc viễn chinh; Odysseus đã chiến đấu anh dũng trong cuộc chiến thành Troy . Ông cũng là người khởi ý làm những ngựa gỗ, chiến thuật mai phục nổi tiếng lịch sử đưa người Hylạp đến chiến thắng cuối cùng.
Hành trình hồi hương - mười năm đầy những biến cố của Odysseus từ Troy về Ithaca , là thiên sử thi, anh hùng ca Odyssey.
Sisyphus: thần thoại Hy lạp – vốn là vua xứ Corinth đã bị các vị gót trừng phạt một hình phạt đặc biệt: lăn một tảng đá lên núi chỉ để cho rơi xuống trở lại – mãi mãi như thế ở cõi âm của Hades.
[18] “phiền hà lo lắng”: Chúng ta chỉ có thể đoán những gì là “phiền hà lo lắng”. The như Apology của Xenophon, có thể hiểu đó là những khó nhọc của tuổi già. Socrates không muốn thấy mình suy nhược và rồi mắt mờ, tai nghễnh ngãng. Hãy đừng quên là biến cố đã gần 2500 năm trước, dù là ở Athens, con người sống lâu như Socrates không nhiều, và trong bài cãi, cho ta thấy những người nghe trẻ hơn ông nhiều. Theo quan điểm của Xenophon, Socrates chon cái chết vì muốn tránh tuổi già suy nhược có lẽ đã đến với ông rồi.