Bertrand Russell
Lịch sử Triết học phương Tây
(tiếp theo … )
Quyển Một – Triết học Cổ thời
Phần II. Socrates, Plato, và Aristotle
Chương 21. Chính trị học của Aristotle
Tập sách Politics của
Aristotle vừa đáng chú ý và vừa quan trọng – đáng chú ý vì cho thấy những thiên
kiến thông thường có chung của những người Hylạp học thức trong thời của ông,
và quan trọng vì là một nguồn của nhiều những nguyên tắc vốn chúng vẫn còn có
ảnh hưởng cho đến tận cuối thời Trung cổ. Tôi không nghĩ có nhiều trong đó có
thể là một sử dụng thực tế bất kỳ nào cho một chính khách của thời nay, nhưng
có rất nhiều vốn chiếu ánh sáng trên những xung đột của những phe phái trong
những phần khác nhau của thế giới Hylạp. Không có nhiều lắm sự nhận biết về
những phương pháp của chính quyền trong những nhà nước không-Hylạp. Đúng là có
ám chỉ tới Egypt, Babylon, Persia, và Carthage, nhưng ngoại trừ trong trường
hợp của Carthage, chúng chỉ một chút gọi là có lệ. Không có đề cập đến
Alexander, và thậm chí không có đến được một nhận thức dù thoáng qua nhất về sự
chuyển đổi toàn vẹn mà ông đã đương gây ra trên thế giới. Toàn bộ thảo luận là quan
tâm với những nhà nước đô thị [1],
và không có sự dự liệu về sự lỗi thời của chúng. Hylạp, do phân chia của nó vào
thành những đô thị độc lập, là một phòng thí nghiệm của thử nghiệm chính trị,
nhưng không có gì vốn từ những thí nghiệm này đã liên quan đến mà đã được hiện
hữu từ thời của Aristotle cho đến tận sự trỗi dậy của những đô thị Ý vào thời
Trung cổ. Trong nhiều đường lối, kinh nghiệm mà Aristotle kêu gọi đến thì thích
hợp với thế giới hiện đại tương đối hơn là so với bất cứ thế giới nào đã hiện hữu
trong suốt một nghìn năm trăm sau khi quyển sách đã được viết.
Chúng ta học được, Thales bị chế diễu
vì sự đói nghèo của ông, nên ông đã mua chịu tất cả những nhà-ép dầu ô liu theo
kế hoạch sắp đặt, và sau đó có thể độc quyền tính giá những ai muốn thuê chúng
để sử dụng . Ông đã làm điều này để cho thấy rằng những triết gia có thể
kiếm tiền, và nếu như họ có vẫn còn nghèo, đó là vì họ có một cái gì đó quan
trọng hơn cả sự giàu có để suy nghĩ đến. Tất cả điều này, tuy nhiên, chỉ là
nhân câu chuyện, giờ là lúc để đi đến với những vấn đề nghiêm trang hơn nhiều;
Tập sách bắt đầu bằng chỉ ra sự quan
trọng của Nhà nước, nó là loại cao nhất của cộng đồng, và nhắm đến cái tốt cao
nhất. Theo thứ tự thời gian, gia đình đến trước, nó được xây dựng trên hai quan
hệ cơ bản, của người nam và người nữ, của người chủ và nô lệ, vốn cả hai đều là
tự nhiên. Nhiều những gia đình kết hợp làm một ngôi làng, một số làng, một Nhà
nước, với điều kiện là kết hợp đem lại lớn đủ để được độc lập tự túc. Nhà nước,
mặc dù ra đời trong thời gian muộn hơn so với gia đình, nhưng lại là trước
nó, và thậm chí trước cả cá nhân, do bản chất; bởi vì đối với “những gì mỗi
sự-vật là khi được phát triển đầy đủ, chúng ta gọi là bản chất của nó”, và xã
hội con người, được phát triển đầy đủ, là một nhà nước , và toàn bộ là trước so
với phần. Khái niệm liên quan đến ở đây là của cơ thể sinh vật [3]:
một bàn tay, khi cơ thể bị huỷ hoại, chúng ta được bảo, là thôi không còn là
một bàn tay. Điều ngụ ý là rằng một bàn tay được định nghĩa bởi mục đích của nó
– đó là nắm nhặt – vốn chỉ có thể thực hiện được khi nối liền với một cơ thể
sống. Trong cùng phương cách như thế, một cá nhân không thể hoàn thành cứu cánh
của mình trừ khi ông ta là một phần của một nhà nước. Người nào là người đã
thành lập Nhà nước, Aristotle nói, là người lớn lao nhất trong những người làm
việc thiện, bởi vì nếu không có pháp luật, con người là con vật tồi tệ
nhất của những động vật, và sự hiện hữu của pháp luật phụ thuộc vào Nhà nước.
Nhà nước không phải chỉ đơn thuần là một xã hội để trao đổi và phòng ngừa tội
phạm: “Cứu cánh của nhà nước là một đời sống tốt.... Và Nhà nước là sự hợp nhất
của những gia đình và những làng mạc trong một cuộc sống hoàn hảo và-độc lập tự
túc đầy đủ, qua đó chúng ta hàm nghĩa là một đời sống hạnh phúc và danh dự
“(1280b). “Một xã hội chính trị hiện hữu vì lợi ích của những hành động cao
quý, không phải của chỉ đơn thần là sự kết thân đồng hành” (1281a).
Một nhà nước là được tạo thành gồm
những hộ gia đình [4], mỗi
trong số đó bao gồm một gia đình, thảo luận về chính trị nên bắt đầu với gia
đình. Phần lớn của thảo luận này có liên quan với chế độ nô lệ – bởi vì trong
thời cổ, những người nô lệ đã luôn luôn được nhận xem như là phần của gia đình.
Chế độ nô lệ là thiết thực và đúng [5],
nhưng những nô lệ bẩm sinh phải thấp kém hơn người chủ. Do bẩm sinh, một số
người đã được đánh dấu (riêng) ra để chịu phục tùng, một số khác để đóng vai
cai trị; người nào thành kẻ-ấy là do bản chất không bởi tự mình riêng, nhưng
một người nào khác thành một nô lệ là bởi vì bản chất bẩm sinh [6].
Nô lệ không nên là người Hylạp, nhưng thuộc về một chủng tộc thấp kém với tinh
thần kém cỏi hơn (1255a, và 1330a). Tốt hơn cả cho gia súc là khi được con
người quản trị, và cũng thế, khi những người có bản chất tự nhiên thấp kém được
những người cao cấp hơn cai trị họ. Có thể được phép hỏi không biết liệu việc
thực hành bắt nô lệ trong số những tù nhân chiến tranh là có chính đáng hay
không; quyền lực, như đã đem lại chiến thắng trong chiến tranh, dường như ngụ ý
có đức hạnh cao cấp, nhưng điều này không phải luôn luôn là đúng. Tuy nhiên,
chiến tranh chỉ là công chính [7]
khi tiến hành chống lại những người, mặc dù bởi bản chất là chủ định để được
cai trị, nhưng sẽ không chịu khuất phục (1256b); và trong trường hợp này, nó
ngụ ý, sẽ được quyền bắt những người bị chinh phục làm nô lệ. Điều này sẽ xem
ra như đủ để biện minh cho bất kỳ một kẻ chinh phục nào đã từng sống, bởi vì
không có quốc gia nào sẽ thừa nhận rằng bởi bản chất tự nhiên nó được chủ định
để bị cai trị, và bằng chứng duy nhất cho thấy bản chất tự nhiên sẽ phải rút ra
được từ kết quả của chiến tranh. Thế nên, trong mỗi cuộc chiến, những kẻ chiến
thắng ở bên đúng, phải, công chính và những kẻ bại trận ở bên sai trái. Thỏa
đáng lắm đấy chứ!
Kế tiếp đến một thảo luận về thương
mại, vốn nó có ảnh hưởng sâu xa trong đó chịu ảnh hưởng sâu sắc lối lý luận quỉ
biện trong học thuật kinh viện trung cổ [8] .
Có hai lối sử dụng của một sự vật, một là thích đáng, một là không thích đáng;
lấy thí dụ một đôi giày, có thể bị làm mòn, đó là sử dụng thích đáng của nó,
hoặc đem mua bán trao đổi, đó là sử dụng không thích đáng của nó. Điều này dẫn
đến sau đó rằng có một-cái-gì đó bị hạ cấp về một người thợ giày, vốn là người
phải trao đổi mua bán giày của mình để kiếm sống. Mua bán thương mại lẻ, chúng
ta được bảo, không phải là một phần tự nhiên của nghệ thuật làm giàu (1257a).
Đường lối tự nhiên để làm giàu là từ sự quản lý khéo léo nhà cửa và đất đai.
Với sự giàu có thể tạo nên trong lối này thì có một giới hạn, nhưng với những
gì có thể được tạo nên bằng thương mại thì không có giới hạn. Thương mại phải
dính líu với tiền bạc, nhưng sự giàu có không phải là thu nhặt những đồng
tiền đúc. Sự giàu có bắt nguồn từ thương mại là xứng đáng bị khinh ghét, bởi vì
nó là không tự nhiên. “Cái loại đáng khinh ghét nhất, và với lý do lớn nhất, là
cho vay lấy lãi [9], vốn nó
tạo một lợi nhuận ra ngay từ chính đồng tiền, và không từ đối tượng tự nhiên
của nó. Bởi vì tiền được chủ định sẽ đem dùng trong trao đổi, nhưng không phải
để tăng lời lấy lãi. ... Trong tất cả những phương thức làm giàu, đây là cái
phản tự nhiên nhất” (1258).
Những gì đã đến từ châm ngôn này, bạn
có thể đọc trong Tôn giáo và sự nổi lên của chủ nghĩa tư bản của
Tawney [10]. Nhưng
trong khi phần lịch sử của ông là đáng tin cậy, bình luận của ông có một sự
thiên vị, nghiêng về có lợi cho những gì là tiền tư bản.
“Cho vay nặng lãi” có nghĩa tất cả
sự cho vay tiền lấy lãi, không như bây giờ chỉ có nghĩa là cho vay với mức lãi
cắt cổ. Từ thời Hylạp cho tới ngày nay, nhân loại, hay ít nhất là phần có kinh
tế phát triển hơn trong số họ, đã được phân chia thành những con nợ và những
chủ nợ; những con nợ đã không chấp thuận về lãi xuất, và những chủ nợ đã chấp
thuận nó. Trong hầu hết những trường hợp, những chủ đất đã là những con nợ,
trong khi những người dấn thân vào thương mại là những chủ nợ. Những quan điểm
của những triết gia, với vài ngoại lệ, đã có trùng hợp với quyền lợi tiền bạc
của giai cấp của họ. Những triết gia Hylạp thuộc về, hoặc đã được thu dụng, làm
việc, với lớp địa chủ, do đó họ không chấp thuận lợi tức lãi xuất. Những triết
gia trung cổ đã là những người, hay thày chăn chiên, trong hội Nhà thờ, và tài
sản của Hội Nhà thờ là chủ yếu trong đất đai, cho nên họ thấy không có lý do để
xem xét lại quan điểm của Aristotle. Phản đối của họ với cho vay nặng lãi được
tăng cường thêm bởi chủ trương bài-Dothái, bới phần lớn những vốn lưu động nhất
là của người Dothái. Giới tăng lữ và những vương hầu đã có những cãi vã của họ,
đôi khi rất đắng cay, nhưng họ có thể cùng kết hợp chống lại người Dothái hiểm
độc nào đó, những người đã buộc dính họ trên một vụ mùa có thu hoạch xấu, bằng
những phương tiện của vay mượn tiền bạc, và coi rằng người này xứng đáng với
một phần thưởng cho tính keo kiệt của ông ta.
Với thời Cải cách, tình thế đã thay
đổi. Nhiều những người theo đạo Tin lành sốt sắng đã là những người trong giới
kinh doanh, với họ chuyện cho vay với tiền lãi là thiết yếu. Do đó đầu tiên là
Calvin, và sau đó những ông “thánh” Tin Lành khác đã đồng ý thừa nhận lãi suất.
Cuối cùng, hội Nhà thờ Catô đã bắt buộc phải làm theo cho phù hợp, bởi vì những
điều ngăn cấm cũ không còn phù hợp nữa với thế giới hiện đại.Những triết gia,
những người có thu nhập có nguồn gốc từ những đầu tư của những trường đại học,
đã nghiêng sang ủng hộ lãi xuất từ đó bởi vì họ thôi không còn là những tăng lữ
nữa, và do đó thôi kết nối với giới địa chủ. Trong mỗi giai đoạn, đã có rất
giàu có những lý luận lý thuyết để hỗ trợ những quan điểm kinh tế thuận lợi
Utopia của Plato đã bị Aristotle chỉ trích
trên nhiều nền tảng khác nhau. Đầu tiên có một bình luận rất đáng chú ý rằng nó
đem cho tính duy nhất quá nhiều cho Nhà nước, và sẽ nên đem cho nó vào một cá
nhân. Tiếp đến có loại thuộc lập luận phản đối việc đề nghị bãi bỏ gia đình mà
nó là xảy ra tự nhiên với tất cả mọi người đọc. Plato nghĩ rằng, bằng cách chỉ đơn
thuần đem danh hiệu “con trai” cho tất cả những người đến tuổi là làm cho họ có
thể có được “tính-làm-con”, thứ một người sẽ có được từ hướng toàn bộ nhiều
những tình cảm mà những người hiện nay có đối với những con trai thực sự của
họ, và tương ứng như thế, liên quan đến danh hiệu “cha”. Aristotle, trái lại,
nói rằng những gì là phổ biến chung với số lượng lớn nhất nhận được sự chăm sóc
ít nhất, và rằng nếu những “con trai” là phổ biến, là con chung với nhiều người
“cha”, họ sẽ bị xao nhãng trong phổ biến, thà là tốt hơn để làm một người anh
em họ trong thực tế, hơn là làm một “con trai” theo ý nghĩa của Plato; Chương
trình của Plato sẽ làm tình yêu thành nước lã. Sau đó có một luận chứng lạ lùng
rằng, bởi vì kiêng tránh chuyện ngoại tình là một đức hạnh, nó sẽ là một điều
đáng tiếc để có một hệ thống xã hội mà hủy bỏ đức hạnh này, và những tật xấu tương
ứng (1263b). Sau đó, chúng ta được hỏi: nếu những phụ nữ là của chung, ai sẽ
quản lý gia đình? Một lần, tôi đã viết một bài luận, tên là “Kiến trúc và hệ
thống xã hội”, trong đó tôi đã chỉ ra rằng tất cả những ai là người kết hợp
chủ nghĩa cộng sản với việc bãi bỏ của gia đình, cũng ủng hộ những nhà ở cộng
đồng cho số lượng lớn, với những nhà bếp cộng đồng, những phòng ăn, phòng, và
những nhà giữ trẻ cộng đồng. Hệ thống này có thể được mô tả như là chế độ nhà
tu với không có đời sống độc thân. Nó là cần thiết để thực hiện nên kế hoạch
của Plato, nhưng nó chắc chắn không phải là không-thể-có-được nhiều hơn so với
nhiều những điều khác mà ông đã đề xuất.
Chủ nghĩa cộng sản của Plato làm
Aristotle bực tức. Ông nói, nó sẽ dẫn đến tức giận với những người lười biếng,
và tới cái thứ cãi cọ mà phổ thông giữa những người cùng đi du lịch chung. Điều
tốt hơn là nếu mỗi người quan tâm chỉ với những gì là công chuyện của riêng
mình. Bất động sản nên được tư hữu, nhưng mọi người nên được huấn luyện về lòng
nhân từ làm thế nào về phần cho phép việc sử dụng nó sẽ phần lớn là công cộng.
Lòng nhân từ và rộng lượng là những đức hạnh, và nếu không có sở hữu tư nhân đi
kèm, chúng là không thể nào có được. Cuối cùng chúng ta được bảo rằng, nếu kế
hoạch của Plato đã được tốt, một người nào đó hẳn đã nghĩ về chúng từ sớm hơn [11].
Tôi không đồng ý với Plato, nhưng nếu bất cứ điều gì có thể làm cho tôi đồng ý
như vậy, nó sẽ là của những lập luận của Aristotle chống lại ông.
Như chúng ta đã thấy trong liên hệ
với chế độ nô lệ, Aristotle không phải là người tin vào sự bình đẳng. Chấp nhận
như thế, tuy nhiên về đối tượng bất bình đẳng của nô lệ và phụ nữ, nó vẫn còn
một câu hỏi liệu có phải tất cả những công dân nên được bình đẳng về
chính trị hay không. Ông nói có một số người suy nghĩ rằng điều này là đáng
mong muốn, trên nền tảng rằng tất cả những cuộc cách mạng đều lần lượt quay
sang sự quy định về sở hữu tài sản. Ông bác bỏ lập luận này, khẳng định rằng
những tội ác lớn nhất là do sự dư thừa đúng hơn là do sự mong muốn; không có con
người nào trở thành một bạo chúa chỉ nhằm để tránh cảm giác lạnh lẽo.
Một chính phủ là tốt khi nó hướng tới
cái tốt cho của cả cộng đồng, là xấu khi nó quan tâm chỉ cho chính nó. Có ba
loại chính phủ là tốt: chính phủ theo chế độ quân chủ, chính phủ theo chế độ
quý tộc, và polity (chính thể) [12];
có ba chính phủ là xấu: chuyên chế, đầu sỏ (tập đoàn thủ lĩnh), và dân chủ [13].
Ngoài ra cũng có nhiều những hình thức hỗn hợp trung gian. Điều sẽ được quan
sát thấy rằng những chính phủ tốt và xấu được định nghĩa bởi những phẩm chất
luân lý của những người nắm quyền của nó, không phải bởi hình thức của hiến
pháp. Điều này, tuy nhiên, chỉ có một phần đúng sự thật. Một chính phủ quí tộc
là một cai trị bởi những người có phẩm hạnh. Một chính phủ theo lối tập đoàn
lãnh đạo là một cai trị bởi người giàu có, và Aristotle không xem đức hạnh đồng
nghĩa chặt chẽ với giàu có. Những gì ông chủ trương, theo như học thuyết trung
bình vàng (của ông), là một thẩm quyền ôn hòa điều độ vừa phải thì rất có thể
được liên kết với đức hạnh: “Nhân loại không thu tập hay giữ gìn luân lý với sự
giúp đỡ của những tiện nghi bên ngoài, nhưng những tiện nghi bên ngoài với sự
giúp đỡ của đức hạnh, và hạnh phúc, cho dù bao gồm trong lạc thú hay đức hạnh,
hoặc cả hai, thì thường thường được tìm thấy hơn trong những người là những ai
có vun trồng văn hóa cao nhất trong não thức và trong nhân cách của họ, và chỉ
có một phần chia vừa phải mức trung bình của những tiện nghi bên ngoài, hơn là
trong số những người sở hữu những tiện nghi bên ngoài đến một mức độ nhiều vô
dụng, nhưng thiếu xót trong những phẩm chất cao hơn” (1323a, b). Thế nên, có
một sự khác biệt giữa sự cai trị của tốt nhất (quý tộc) và của giàu nhất (tập
đoàn thủ lĩnh), bởi vì tốt nhất có khả năng chỉ có những tài sản trung bình.
Ngoài ra còn có một sự khác biệt giữa dân chủ và chính thể đô thị, ngoài sự
khác biệt về luân lý trong chính phủ, bởi vì những gì Aristotle gọi là “chính
thể” giữ lại một số yếu tố của tập đoàn thủ lĩnh (1293b). Nhưng giữa chế độ
quân chủ và chuyên chế, sự khác biệt duy nhất là luân lý.
Ông nhấn mạnh trong việc phân biệt
chính thể tập đoàn thủ lĩnh và dân chủ bởi tình trạng kinh tế của đảng cầm
quyền: có tập đoàn thủ lĩnh khi giới giàu nắm quyền mà không có quan tâm đến
giới nghèo, dân chủ khi quyền lực nằm trong tay của giới nghèo khó và họ làm
ngơ trước quyền lợi của giới giàu.
Chính quyền quân chủ là tốt hơn so
với của quý tộc, chính quyền quý tộc là tốt hơn so với chính quyền polity. Tuy
nhiên, tham nhũng đến bậc nhất nhất là tồi tệ nhất, vì vậy độc tài là tồi tệ
hơn tập đoàn thủ lĩnh, và tập đoàn thủ lĩnh là tệ hơn so với dân chủ. Bằng lối
này, Aristotle đi đến một chống cự cho dân chủ; bởi vì tất cả những chính quyền
thực tế là xấu, và do đó, trong số những chính phủ thực tế, những chính quyền
dân chủ có xu hướng là tốt nhất.
Khái niệm về dân chủ của Hylạp đã
trong nhiều đường lối cực đoan hơn của chúng ta, lấy thí dụ, Aristotle nói rằng
bầu các quan tòa là có tính tập đoàn lĩnh đạo, trong khi nó là dân chủ để bổ
nhiệm họ bằng cách rút thăm. Trong những nền dân chủ cực đoan, hội đồng của
những công dân đã là ở trên pháp luật, và đã quyết định mỗi vấn đề một cách độc
lập với nhau. Những tòa án của thành Athens đã cấu thành bởi một số lớn rộng
những công dân được lựa chọn bằng rút thăm, không được luật gia nào giúp đỡ; dĩ
nhiên, những người này có khả năng bị xoay chuyển bởi sự hùng biện hay bởi tình
cảm phe nhóm. Khi dân chủ bị chỉ trích, nó phải được hiểu rằng là có nghĩa gồm
những sự việc thuộc vào loại này.
Có một thảo luận dài về những nguyên
nhân của cách mạng. Ở Hylạp, những cuộc cách mạng đã là thường xuyên như đã là
trước đây ở châu Mỹ La tinh, và do đó Aristotle đã có một kinh nghiệm phong phú
để từ đó rút ra những suy luận. Nguyên nhân chính là sự xung đột giữa những
người theo chế độ tập đoàn thủ lĩnh và những người dân chủ. Dân chủ, Aristotle
nói, phát sinh từ niềm tin rằng những người, ai là bình đẳng tự do [14]
nên được bình đẳng về mọi phương diện; chế độ tập đoàn thủ lĩnh, từ sự kiện là
những người nào là người ở cấp cao hơn trong một vài phương diện tuyên đòi quá
mức.. Cả hai đều có một thứ công lý, nhưng không phải là thứ tốt nhất. “Vì vậy
cả hai bên, bất cứ khi nào phần chia của họ trong chính phủ không phù hợp với
những ý tưởng đã được thai nghén trước của họ, khuấy động lên cuộc những cách mạng”
(1301a). Những chính phủ dân chủ có khả năng ít gánh chịu những cuộc cách mạng
hơn của những tập đoàn thủ lĩnh,, bởi vì những tập đoàn thủ lĩnh có thể tan rã
với nhau. Những tập đoàn thủ lĩnh xem dường như thường đã là những đồng bạn
dũng mãnh. Trong một số thành phố, chúng ta được bảo, họ thề một lời nguyền:
“Tôi sẽ là một kẻ thù địch với dân chúng, và sẽ nghĩ ra tất cả những tác hại
đối với họ nếu tôi có thể”. Ngày nay, những người phản động không thẳng thắn
như vậy.
Ba điều cần thiết để ngăn chặn cách
mạng được là tuyên truyền của chính quyền trong giáo dục, tôn trọng pháp luật,
ngay cả trong những việc nhỏ, và công chính trong luật pháp và hành chính,
nghĩa là, “bình đẳng theo tỷ lệ, và để cho mỗi người vui hưởng những gì của
riêng mình “(1307a, 1307b, 1310a). Aristotle dường như đã không bao giờ nhận ra
những khó khăn của “bình đẳng theo tỷ lệ”. Nếu điều này là công lý đích thực,
tỷ lệ phải thuộc về đức hạnh. Bây giờ đức hạnh thì khó đo lường, và là
một vấn đề tranh cãi phe phái thiên lệch. Trong thực tế chính trị, do đó, đức
hạnh có xu hướng được đo bằng mức thu nhập; sự phân biệt giữa chế độ quý tộc và
chế độ tập đoàn thủ lĩnh, mà Aristotle cố gắng để làm, chỉ có thể có được, chỗ
nào có một lớp quý tộc cha truyền con nối được thiết lập rất vững chắc. Thậm
chí dẫu cho như thế sau đó, ngay sau khi hiện hữu một lớp giai cấp đông đảo của
người giàu có không phải là quý tộc, họ phải được chấp nhận vào giới quyền lực,
vì sợ họ làm một cuộc cách mạng. Giới những nhà quý tộc truyền thừa không có
thể duy trì lâu dài quyền lực của họ, trừ chỗ nào đất đai hầu như là nguồn duy
nhất của sự giàu có. Tất cả mọi sự bất bình đẳng xã hội, về lâu dài, là sự bất
bình đẳng về thu nhập. Đó là phần thuộc về biện luận cho dân chủ; rằng những cố gắng để
có một “công lý theo tỷ lệ” đã dựa trên bất kỳ một giá trị nào khác ngoài sự
giàu có, thì chắc chắn bị phá vỡ. Những người bào chữa cho chế độ tập đoàn thủ
lĩnh giả vờ rằng thu nhập là tỷ lệ thuận với giá trị luân lý, phẩm hạnh; nhà
tiên tri đã nói rằng ông đã chưa bao giờ từng thấy một người có đạo đức ngay
thẳng xin bánh để ăn [15],
và Aristotle nghĩ rằng những người tốt đó thu thập đúng vừ phải trong thu nhập
của ông ta, chẳng quá nhiều mà cũng không quá ít. Những những quan điểm như thế
là phi lý. Mỗi một loại “công lý” khác nào nếu ngoài tuyệt đối bình đẳng, trong
thực tế, sẽ ban thưởng, cho một số phẩm lượng hoàn toàn khác với đức hạnh, và
vì thế phải bị lên án.
Có một tiết sách thú vị đáng chú ý về
chế độ chuyên chế. Một bạo chúa ham muốn giàu có, trong khi một nhà vua ham
muốn danh dự. Bạo chúa có những quân bảo vệ là những người lính đánh thuê,
trong khi nhà vua có những quân bảo vệ là những công dân. Những bạo chúa hầu
hết là những kẻ mị dân, vốn là những người có được quyền lực bằng những hứa hẹn
bảo vệ người dân chống lại những quí tộc. Trong một giọng điệu, mỉa mai thay,
theo lối Machiavelli, Aristotle giải thích những gì một bạo chúa phải làm gì để
duy trì quyền lực. Ông phải ngăn chặn sự trỗi dậy của bất kỳ người nào có tài
năng công trạng khác thường, bằng xử tử hoặc ám sát nếu cần thiết. Ông đã phải
cấm những tập hợp ăn uống chung, câu lạc bộ, và bất kỳ giáo dục nào có khả năng
sản xuất những tình cảm thù địch. Phải là tuyệt không có những hội họp, hay bàn
luận văn chương. Ông phải ngăn ngừa đừng cho dân chúng thân thiết hiểu biết lẫn
nhau, và buộc họ phải sinh hoạt trong công khai tại cổng (dinh thự) của mình.
Ông nên sử dụng gián điệp, giống như những nữ thám tử ở Syracuse. Ông phải gieo
trồng những bất đồng cãi vã, và làm thần dân mình nghèo yếu. Ông nên giữ dân
chúng bận rộn trong những công trình lớn lao, như là các vua Egypt đã làm trong
việc xây dựng những kim tự tháp. Ông nên cho phụ nữ và nô lệ có quyền lực, để
họ làm những người dọ thám lấy tin. Ông nên gây chiến tranh, để dân chúng mình
có thể có cái gì để làm, và được luôn luôn muốn có một nhà lãnh đạo (1313a, b).
Nó là một hồi tưởng buồn bã rằng đoạn
này, trong toàn bộ tập sách, là một đoạn thích hợp nhất cho tới ngày nay.
Aristotle kết luận rằng không có sự tai ác (nào là) quá lớn đói với một bạo
chúa. Tuy nhiên có đó, ông nói, một phương pháp khác để gìn giữ một chính quyền
chuyên chế, cụ thể là sự tiết chế ôn hoà và làm ra vẻ sùng đạo. Không có quyết
định về phần phương pháp nào có khả năng chứng minh là thành công hơn cả.
Có một luận chứng dài để chứng minh
rằng chinh phục nước ngoài không phải là mục đích của Nhà nước, cho thấy rằng
nhiều người đã chấp nhận quan điểm đế quốc. Có một ngoại lệ, nó là đúng: chinh
phục những “nô lệ bẩm sinh” là đúng và công chính. Theo quan điểm của
Aristotle, điều này sẽ biện minh cho những chiến tranh chống lại những dân man
rợ, nhưng không chống lại người Hylạp, bởi vì không có người Hylạp là “nô lệ
bẩm sinh”. Nói chung, chiến tranh chỉ là một phương tiện, không phải là một mục
đích, thành phố trong địa thế cô lập, nơi đó không thể bị chinh phục, có thể là
được hạnh phúc; Những Nhà nước sống trong địa thế cô lập không cần phải là
không hoạt động. Gót và vũ trụ là hoạt động, mặc dù cả hai không thể có chuyện
chinh phục nước ngoài. Thế nên, hạnh phúc mà một Nhà nước nên tìm kiếm, mặc dù
chiến tranh đôi khi có thể là một phương tiện cần thiết để đi đến nó, nhưng
không nên là chiến tranh, nhưng nên là những hoạt động hòa bình.
Điều này dẫn đến câu hỏi: một nhà
nước nên lớn rộng đến chừng nào? Chúng ta được bảo, những thành phố lớn không
bao giờ được cai quản cho tốt đẹp, bởi vì một số quá lớn dân chúng không thể có
trật tự được. Một nhà nước nên lớn rộng vừa đủ để có thể tự túc hoặc ít hoặc
nhiều, nhưng không quá lớn cho chính phủ có hiến pháp. Nó nên được là nhỏ đủ
cho những công dân có thể hiểu cá tính của nhau, nếu không thế, lẽ đúng phải sẽ
không được thực hiện trong các cuộc bầu cử, và kiện tụng. Lãnh địa nên là nhỏ
đủ để nhìn bao quát được toàn bộ của nó từ một đỉnh đồi. Chúng ta được bảo cả
hai điều, rằng nó nên tự túc được (1326b), và rằng nó nên có thương mại xuất
cảng và nhập cảng (1327a), trong đó có vẻ là một sự phản nghịch điều trước với
điều sau.
Những người phải làm ăn để kiếm sống
không nên được nhận làm công dân. “Những công dân không nên sống cuộc đời của
những thợ máy hay những người buôn bán, vì đời sống như vậy là đê tiện và thù
nghịch với đức hạnh”. Họ cũng không nên là những người làm ruộng, bởi vì họ cần
có thời giờ nhàn nhã. Những công dân nên sở hữu tài sản, nhưng những người làm
ruộng nên là những nô lệ thuộc về một chủng tộc khác (1330a). Những chủng tộc ở
phía Bắc, chúng ta được bảo, có tinh thần; những chủng tộc ở phía Nam, thông
minh, thế nên những nô lệ nên là thuộc những chủng tộc phía Nam, vì nó là bất
tiện nếu những nô lệ lại có tinh thần. Chỉ duy có người Hylạp là vừa có tinh
thần vừa thông minh; họ thì được lãnh đạo tốt hơn là những sắc dân man rợ, và
nếu được thống nhất, họ có thể cai trị toàn thế giới (1327b). Một người đã có
thể đã mong đợi ở điểm này có một vài bóng gió ám chỉ tới Alexander, nhưng đã
không có.
Về phần kích thước của nhà nước, trên
một trình độ khác nhau, Aristotle phạm vào cùng một lỗi lầm mà nhiều người theo
chủ nghĩa tự do hiện đại đã phạm phải. Một nhà nước phải có khả năng để bảo vệ
chính mình trong chiến tranh, và thậm chí, nếu như có bất kỳ văn hóa tự do nào
để gìn giữ cho được sống còn [16], bảo
vệ tự thân nó với không quá nhiều khó khăn. Điều này đòi hỏi một nhà nước lớn
rộng đến đâu, phụ thuộc vào kỹ thuật của chiến tranh và công nghiệp. Trong thời
của Aristotle, Nhà nước Thành phố đã lỗi thời vì nó không thể tự bảo vệ chống
lại Macedonia. Trong thời chúng ta, Hylạp như một toàn bộ, bao gồm cả
Macedonia, là lỗi thời trong ý hướng này, như đã được chứng minh mới gần đây [17]. Để
biện hộ cho sự độc lập toàn vẹn của Hylạp, hoặc bất kỳ nước nhỏ nào khác, bây
giờ cũng là vô ích như biện hộ cho sự độc lập toàn vẹn cho một thành phố duy
nhất, mà lãnh thổ có thể được nhìn bao quát toàn bộ từ một điểm cao. Không thể
nào có độc lập thật sự ngoại trừ một nhà nước hoặc liên minh đủ mạnh, bởi những
nỗ lực của chính nó, để đẩy lùi tất cả mọi nỗ lực chinh phục từ nước ngoài.
Không gì nhỏ hơn so với Mỹ và Đế quốc Anh kết hợp lại sẽ thỏa mãn đòi hỏi này,
và có lẽ ngay cả điều này sẽ cũng còn là một đơn vị quá nhỏ.
Tập sách, dưới hình thức trong đó
chúng ta có nó, dường như còn là dở dang, chưa hoàn thành, đã kết thúc với một
thảo luận về giáo dục. Giáo dục, tất nhiên, chỉ dành cho trẻ em sẽ thành những
công dân, những nô lệ có thể được giảng dạy những nghệ thuật hữu ích, như nấu
ăn, nhưng những môn này không là phần của giáo dục. Những công dân phải được
năn theo khuôn với hình thức của chính phủ vốn dưới đó họ sinh sống, và dó đó,
nên có những khác biệt tùy thuộc với thành phố đương bàn luận tập đoàn lãnh đạo
hay dân chủ. Tuy nhiên, trong thảo luận, Aristotle giả định rằng tất cả những
công dân sẽ có một phần chia của quyền lực chính trị. Trẻ em nên học hỏi những
gì là hữu dụng cho chúng, nhưng không tầm thường thô tục, lấy thí dụ, chúng
không nên được giảng dạy bất kỳ kỹ năng nào khiến cơ thể thành biến dạng xấu
đi, hoặc những gì sẽ giúp chúng có khả năng để kiếm tiền. Họ phải thực tập điền
kinh trong điều độ, nhưng không phải đến mức nhắm trở thành có kỹ năng chuyên
nghiệp; những đứa trẻ đã được huấn luyện cho những thi tài Olympic đã bị thương
tổn sức khỏe, như được cho thấy bởi thực tế là những ai đã là kẻ chiến thắng
như trẻ em trai, là hầu như không bao giờ sau đó lại chiến thắng như là người
nam trưởng thành nữa. Trẻ em nên học vẽ, ngõ hầu có thể nhận biết cái đẹp của
hình thể con người, và chúng nên được dạy dỗ để biết đánh giá cao hội họa và
điêu khắc như là những thể hiện của những ý tưởng luân lý. Chúng có thể học hát
và chơi nhạc cụ, đủ để có thể thưởng thức âm nhạc một cách phê phán, nhưng
không phải đủ để thành những diễn viên chuyên nghiệp có tay nghề cao; bởi vì
không có ai là những người tụ do lại chơi đàn hoặc say sưa hát, trừ khi họ say
rượu. Tất nhiên, chúng phải học đọc và viết, mặc dù tính hữu ích của những nghệ
thuật này. Nhưng mục đích của giáo dục là “đức hạnh”, không phải sự hữu ích.
Những gì Aristotle hàm nghĩa là “đức hạnh”, ông đã nói với chúng ta trong tập Ethcis,
vốn tập này (Politics) này thường xuyên đề cập.
Những giả định cơ bản, trong Politics
của ông, rất khác với của bất kỳ người viết hiện đại nào. Mục đích của Nhà
nước,. trong quan điểm của ông, là để sản xuất những con người quí phái phong
nhã có văn hóa [18] – những
người kết hợp tinh thần quí tộc với lòng yêu chuộng sự học hỏi và những khoa
nghệ thuật. Sự kết hợp đã là hiện thân, trong sự hoàn hảo cao nhất của nó,
trong Athens của thời Pericles, không phải trong quảng đại dân chúng, nhưng
trong số những người rộng rãi có ăn có mặc. Nó bắt đầu phân hủy trong những năm
cuối của Pericles. Quảng đại quần chúng, những người không có văn hoá, đã quay
sang chống lại với những bạn bè của Pericles, là người đã bị đẩy đến chống đỡ
cho những đặc quyền của giới giàu, bằng những phản bội, ám sát, chế độ chuyên
quyền bất chính, và những phương pháp khác không phải là rất cao thượng cho
lắm. Sau cái chết của Socrates, những mù quáng cố chấp của nnền dân chủ Athena
đã thu giảm nhỏ, và Athens vẫn còn là trung tâm của nền văn hóa cổ đại, nhưng
quyền lực chính trị đã dời đi nơi nào khác.Trong suốt thời cổ đại về sau này,
quyền lực và văn hóa đã thường thường là phân rẽ riêng biệt: quyền lực nằm
trong tay thô cứng của những người lính, văn hoá thuộc về những người Hylạp bất
lực, thường là những nô lệ. Điều này là chỉ là một phần đúng thực sự với Rome
trong những ngày huy hoàng vĩ đại của nó, nhưng nó dứt khoát là sự thật rõ ràng
trước thời của Cicero và sau thời của Marcus Aurelius. Sau cuộc xâm lăng của
những dân dã man, những “quý ông”, những người quí phái phong nhã, đã là những
dân “rợ” dã man phía Bắc, những con người của văn hóa tinh tế là thuộc giới
tăng lữ các dòng tu phía Nam. Tình trạng tổng quát này đã tiếp tục kéo dài,
nhiều hơn hoặc ít hơn, cho đến thời kỳ Phục hưng, khi những những người thế
tục, không theo giáo hội đã bắt đầu thu tập văn hóa. Từ thời Phục hưng trở đi,
quan niệm về chính phủ của Hylạp bởi những người quí phái phong nhã dần dần
chiếm ưu thế hơn và rồi nhiều hơn nữa, đạt tột đỉnh của nó vào thế kỷ thứ mười
tám.
Nhiều những lực lượng khác nhau đã
chấm dứt tình trạng tổng quát này. Thứ nhất, chế độ dân chủ, như được thể hiện
trong cuộc cách mạng Pháp và những gì xảy ra sau đó của nó. Những con người quí
phái phong nhã có văn hóa, giống như sau thời đại của Pericles, đã phải chống
đỡ bảo vệ những đặc quyền của họ đối với số đông dân chúng, và trong quá trình
này, thôi không còn là một trong hai, hoặc là quý ông, hay có văn hóa. Một
nguyên nhân thứ hai là sự trỗi dậy của chủ nghĩa kỹ nghệ công nghiệp, với một
kỹ thuật khoa học rất khác với văn hóa truyền thống. Một nguyên nhân thứ ba là
giáo dục phổ thông, vốn trao cho quyền lực để đọc và viết, nhưng không trao cho
văn hóa, điều này đã tạo khả năng có một loại mỵ dân thực hành một loại tuyên
truyền mới , như đã thấy trong những chế độ độc tài.
Cho cả hai, tốt lẫn xấu, do đó, thời
của những con người quí phái phong nhã có văn hóa là quá khứ.
Chương 22 Lôgích học của Aristotle
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
[1] Polis: City states: tổ chức chính trị đặc
biệt của cổ Hylạp thường gồm một thành phố và những vùng phụ cận của nó như một nhà nước độc lập.
Ngày nay chúng ta dùng từ “chính trị” vốn
nó có nguồn gốc từ tiếng Hylạp “politicos”, có nghĩa là 'của, hoặc liên
quan đến, các Polis ". Từ Polis của Hylạp thường được dịch
sang Anh ngữ là “thành phố-nhà nước” (city-state) – có lẽ ngườiTàu dịch
là thành quốc, dịch như vậy chỉ để lấy có thôi, nhưng không thực có nghĩa như polis).
Từ này cũng được dịch là “thành phố” hoặc giữ nguyên là “Polis”
trong Anh ngữ. Thực ra, không dịch trọn ý được vì polis là một tổ chức
chính trị, có tư cách quốc gia độc lập trên một lĩnh thổ chỉ bằng diện tích của
một đô thị lớn, tổ chức chính trị này hết sức đặc biệt, nay không còn tồn tại nữa,
của cổ Hylạp. Điển hình là hai polis nổi tiếng Athens và Sparta, chúng có những
những tương giao nội tại kết chặt, trong đó mối quan tâm chính trị, tôn giáo và
văn hóa đã gắn bó chặt chẽ với nhau.
[2] Halitosis
[3] Organism – sinh thể, cơ thể, cơ cấu sinh vật
sống.
[4] Household: tất cả những người sống dưới
cùng một mái nhà – gồm cùng gia đình – cha mẹ và con cái nam nữ (family) và
không cùng gia đình (gia nhân, nô lệ).
[5] Quan niệm của Aristotle và cũng là của Hylạp
thời ông (và còn mãi sau này phản ánh trong các tập sách bible, cả mới và cũ).
[6] Câu này
tối nghĩa, theo tôi hiểu, một người thành nên là tự do hay nô lệ là do bản chất
bẩm sinh, không do ý muốn, dĩ nhiên, của người ấy; và Aristotle lại cho rằng
dân Hylạp như ông thì không là, hay không có, bản chất nô lệ, cũng nhắc lại người
cổ Hylạp xem các dân tộc khác, ngay cả dân Macedonian của Alexander, là “dã
man” – đây là nghĩa gốc của từ “barbarian”.
[7] Just –
chú ý khái niệm chiến tranh là đúng/sai – công chính hay không công chính –
trong triết học phương Tây.
Tôi nghĩ,
nói chung giữa con người, không có chiến tranh nào là đúng, công chính; trừ trường
hợp tự vệ, chống xâm lăng. Tất cả các cuộc chiến tranh của người Tàu, Pháp, Mỹ
với Việt nam là gây hấn trắng trợn xâm lăng tham lam, là “bẩn thỉu”( “la guerre
sale”) – là “dơ dáy”(“the dirty war”). Đây cũng là quan niệm của giới tiến bộ
hiện nay ở các nước phương Tây.
Những
hình thức chiến tranh này dễ nhận diện, nhưng còn những chiến tranh khác –
trong kinh tế (bao vây kinh tế, cấm vận), trong văn hóa, tín ngưỡng [các đoàn
truyền giáo (Kitô, Tin lành)], tuyên truyền tư tưởng (Khổng học), trong tôn
giáo (tại Trung Đông, Balkan,…). Tất cả rất phức tạp, nên rất khó nhận diện,
ngay cả với những nạn nhân trực tiếp của chúng.
[8] Scholastic casuistry – lý luận quỉ biện (詭辯術) – the
use of subtle, sophisticated, and sometimes deceptive argument and reasoning,
especially on moral issues, in order to justify something or mislead somebody.
[9] Usury.
[10] Richard Henry Tawney, Religion and the
Rise of Capitalism
[11] CTTG –
Cf. The Noodle’s Oration trong Sydney Smith; “Nếu đề nghị đã là vững chắc, có
thể nào những người Saxon đã bỏ qua nó ư? Có thể nào những người Dane đã làm
ngơ trước nó ư? Thế rồi có thể nào nó đã thoát được sự khôn ngoan của người
Norman hay sao?” (Tôi dẫn theo trí nhớ).
(Nghĩa là lý luận của Aristotle xử dụng để
chống lại Plato tệ quá – mặc dù nội dung là đúng, nhưng lý luận như thế –
Russell dẫn trên – chỉ khiến người nghe đâm quay ngược lại, đồng ý với những gì
Aristotle đang chống ).
[12] Polity –
Popular government in the common interest Aristotle calls “polity”; he reserves
the word “democracy” for anarchic mob rule. polity is characterized as a
kind of "mixed" constitution typified by rule of the
"middle" group of citizens, a moderately wealthy class between the
rich and poor (Politics IV.11).
[13] Tyranny,
oligarchy (oligoi, i.e., một vài), democracy (dêmos, i.e., dân
chúng).
Người
lãnh đạo
|
Nguyên
dạng
|
Biến dạng
|
Một người
|
Kingship
|
Tyranny
|
Vài người
|
Aristocracy
|
Oligarchy
|
Nhiều
người
|
Polity
|
Democracy
|
[14] Những công dân tự do của polis.
[15] Câu trong kinh thánh – Psalm 37:23-26
[16] Một quốc
gia độc lập đích thực – tối thiểu phải về cả hai phương diện: lãnh thổ và
văn hóa. Nhấn mạnh này của Russell, không phải của Aristotle.
Phải chăng chúng ta thường quên, hay coi nhẹ
yếu tố thứ hai, vì quá khó khăn và không đủ năng lực, thiếu ý chí?
[17] CTTG –Điều
này đẫ viết vào tháng Năm, 1941.
(vào ngày 6 April 1941, Germany cùng Italy
đã xâm lăng và chiếm trọn Greece, liên quân quốc xã và phát xít đã đánh băng
qua Bulgaria và Yugoslavia. Quân đội liên hiệp Anh và Hylạp chống trả nhưng đã
không thành công).
[18] Cultured gentleman.