Sapiens: A Brief History of Humankind
Yuval Noah Harari
Sapiens: một Lịch sử Ngắn gọn của loài Người
15
Hôn
nhân giữa Khoa học và Đế quốc
Mặt trời và quả đất cách nhau bao xa ? Đó là một câu hỏi lôi cuốn nhiều nhà thiên văn ở đầu thời hiện nay , đặc biệt sau khi Copernicus đã biện luận rằng mặt trời, chứ không phải quả đất, nằm ở trung tâm của vũ trụ. Một số nhà thiên văn và toán học đã cố gắng để tính khoảng cách này, nhưng những phương pháp của họ đã cho những kết quả rất khác biệt. Một phương cách tin cậy rằng có thể đo đúng được, sau cùng đã đưa ra vào giữa thế kỷ XVIII. Mỗi năm, Venus đi ngang qua không gian đối diện trực tiếp giữa mặt trời và quả đất. Thời gian đi ngang qua [1] sẽ khác biệt nếu nhìn từ những điểm xa nhau trên mặt đất, vì sự khác biệt nhỏ trong góc nhìn của người quan sát nó. Nếu có nhiều quan sát của lần đi qua này được thực hiện từ những lục địa khác nhau, tất cả những gì phải làm là lượng giác học đơn giản để tính khoảng cách chính xác giữa chúng ta và mặt trời.
Những nhà thiên văn dự đoán rằng lần đi qua kế tiếp của Venus sẽ xảy ra vào những năm 1761 và 1769. Vì vậy, những đoàn thám hiểm từ Europe đã được gửi đi khắp thế giới để quan sát, từ nhiều điểm càng xa nhất có thể được càng tốt. Năm 1761, những nhà khoa học đã quan sát từ Siberia, Bắc America, Madagascar và Nam Africa. Khi năm 1769 đến gần, cộng đồng khoa học Europe dồn một nỗ lực tối cao, và những nhà khoa học đã được gửi đi thật xa như miền bắc Canada, và California (lúc đó còn là một vùng hoang dã). Hàn lâm viện Hoàng gia London về Cải thiện Kiến thức về Tự nhiên đã kết luận rằng điều này vẫn chưa đủ. Để có được những kết quả chính xác nhất, điều bắt buộc là phải gửi một nhà thiên văn xuống tận vùng tây-nam biển Pacific.
Mặt trời và quả đất cách nhau bao xa ? Đó là một câu hỏi lôi cuốn nhiều nhà thiên văn ở đầu thời hiện nay , đặc biệt sau khi Copernicus đã biện luận rằng mặt trời, chứ không phải quả đất, nằm ở trung tâm của vũ trụ. Một số nhà thiên văn và toán học đã cố gắng để tính khoảng cách này, nhưng những phương pháp của họ đã cho những kết quả rất khác biệt. Một phương cách tin cậy rằng có thể đo đúng được, sau cùng đã đưa ra vào giữa thế kỷ XVIII. Mỗi năm, Venus đi ngang qua không gian đối diện trực tiếp giữa mặt trời và quả đất. Thời gian đi ngang qua [1] sẽ khác biệt nếu nhìn từ những điểm xa nhau trên mặt đất, vì sự khác biệt nhỏ trong góc nhìn của người quan sát nó. Nếu có nhiều quan sát của lần đi qua này được thực hiện từ những lục địa khác nhau, tất cả những gì phải làm là lượng giác học đơn giản để tính khoảng cách chính xác giữa chúng ta và mặt trời.
Những nhà thiên văn dự đoán rằng lần đi qua kế tiếp của Venus sẽ xảy ra vào những năm 1761 và 1769. Vì vậy, những đoàn thám hiểm từ Europe đã được gửi đi khắp thế giới để quan sát, từ nhiều điểm càng xa nhất có thể được càng tốt. Năm 1761, những nhà khoa học đã quan sát từ Siberia, Bắc America, Madagascar và Nam Africa. Khi năm 1769 đến gần, cộng đồng khoa học Europe dồn một nỗ lực tối cao, và những nhà khoa học đã được gửi đi thật xa như miền bắc Canada, và California (lúc đó còn là một vùng hoang dã). Hàn lâm viện Hoàng gia London về Cải thiện Kiến thức về Tự nhiên đã kết luận rằng điều này vẫn chưa đủ. Để có được những kết quả chính xác nhất, điều bắt buộc là phải gửi một nhà thiên văn xuống tận vùng tây-nam biển Pacific.
Hàn lâm viện
Hoàng gia giải quyết bằng gửi một nhà thiên văn nổi tiếng, Charles Green, đến
Tahiti, và đã không quản nỗ lực cũng chẳng ngại tốn kém. Nhưng khi đã tài trợ một
chuyến thám hiểm đắt tiền như vậy, hầu như vô nghĩa nếu chỉ dùng nó để làm một
việc duy nhất là quan sát thiên văn. Do đó, đi kèm với Charles Green là một
nhóm 8 nhà khoa học khác, từ một số ngành học, đứng đầu là hai nhà thực vật học
Joseph Banks và Daniel Solander. Nhóm nghiên cứu cũng gồm những hoạ sĩ được
giao việc làm vẽ những hoạ đồ về những vùng đất, thực vật, động vật và những tộc
người mới, mà những nhà khoa học chắc chắn sẽ gặp gỡ. Được trang bị những thiết
bị khoa học tân tiến nhất vốn Nhà băng và Hội Hàn lâm Hoàng gia có thể mua được,
đoàn thám hiểm đã đặt dưới chỉ huy của thuyền trưởng James Cook, một người đi
biển kinh nghiệm cũng như một nhà địa lý và dân tộc học chuyên môn. [2]
Đoàn thám hiểm
rời England năm 1768, từ Tahiti quan sát Venus đi ngang vào năm 1769, trinh sát
một số quần đảo ở Pacific, đến thăm Australia và New Zealand, và trở về England
vào năm 1771. Nó mang theo một số lượng rất lớn dữ liệu thiên văn học, địa lý,
khí tượng học, thực vật, động vật và nhân chủng học. Những tìm tòi của nó có những
đóng góp rất lớn vào một số ngành học, nẩy bùng óc tưởng tượng của người Europe
trước những câu chuyện kinh ngạc thần diệu của vùng biển Nam Pacific, và gây hứng
khởi cho những thế hệ tương lai của những nhà tự nhiên học và thiên văn học.
Một trong những
lĩnh vực được hưởng lợi từ cuộc thám hiểm Cook đã là y học. Vào thời đó, những
con tàu dương buồm ra khơi đến những bờ xa xôi, biết rằng hơn một nửa đoàn thuỷ
thủ của họ sẽ chết dọc đường. Kẻ thù không phải là những người bản xứ tức giận,
những tàu chiến đối phương, hay những biến chứng của bệnh nhớ nhà. Nhưng một
căn bệnh bí ẩn gọi là scurvy. Những
người ngã bệnh này, uể oải lờ đờ và chán nản, nướu răng và những mô tế bào mềm
khác chảy máu. Khi bệnh tiến triển, răng rụng, lở loét xuất hiện và họ sốt nặng,
vàng da, và chân tay mất cử động. Giữa thế kỷ XVI và XVIII, bệnh scurvy được ước tính đã cướp đi sinh mạng
của khoảng 2 triệu thủy thủ. Không ai biết những gì gây ra nó, và bất kể những
chữa trị đã được thử, những thủy thủ tiếp tục chết hàng loạt. Bước ngoặt đã xảy
đến năm 1747, khi một y sĩ người England, James Lind, đã tiến hành một thí nghiệm
có kiểm soát với những thủy thủ đã nhiễm bệnh. Ông tách họ ra thành nhiều nhóm,
và cho mỗi nhóm một điều trị khác biệt. Một trong những nhóm thí nghiệm đã được
hướng dẫn để ăn những loại trái cây trong chi cam quít (citrus), một phương thuốc dân gian phổ biến cho scurvy. Những bệnh nhân trong nhóm này mau
hồi phục. Lind không biết những trái cây chi cam quýt có gì mà thân thể của những
thủy thủ đã thiếu, nhưng bây giờ chúng ta biết rằng nó là vitamin C. Một danh
sách những thức ăn uống thông thường trên tàu biển, điển hình tại thời đó, đã đặc
biệt thiếu những loại thực phẩm giàu chất dinh dưỡng thiết yếu này. Trên những
chuyến đi biển dài, thủy thủ thường sống bằng bánh bíchquy và thịt bò khô, và hầu
như không ăn trái cây, hoặc rau.
Những thí
nghiệm của Lind không thuyết phục được Hải quân Hoàng gia, nhưng thuyết phục được
James Cook. Ông quyết tâm để chứng minh vị y sĩ này đúng. Ông chất lên thuyền của
ông một lượng lớn sauerkraut, thứ bắp
cải muối chua, và ra lệnh cho những thủy thủ của ông ăn thật nhiều trái cây
tươi và rau quả mỗi khi đoàn thám hiểm có dịp ghé bờ. Cook đã không mất một thủy
thủ độc nhất nào vì bệnh scurvy.
Trong những chục năm sau đó, tất cả những hải quân trên thế giới đều tiếp nhận
khẩu phần đi biển này của Cook, và đã cứu được vô số mạng sống của những thủy
thủ và hành khách.[3]
Tuy nhiên,
đoàn thám hiểm Cook có một kết quả khác, ít tử tế hơn nhiều. Cook không chỉ là
một nhà hàng hải và địa lý có kinh nghiệm, nhưng cũng là một sĩ quan hải quân.
Hàn lâm viện Hoàng gia tài trợ một phần lớn chi phí của chuyến thám hiểm, nhưng
chính con thuyền đã được Hải quân Hoàng gia cung cấp. Hải quân cũng phái một
đoàn gồm 85 thủy thủ và lính thủy quân lục chiến với vũ khí đầy đủ, và trang bị
con thuyền với pháo binh, súng trường, thuốc súng và những loại vũ khí khác. Phần
lớn những dữ liệu thông tin được thu thập trong cuộc thám hiểm, đặc biệt là những
dữ liệu thiên văn, địa lý, khí tượng và nhân chủng –hiển nhiên đã có những giá
trị về chính trị và quân sự. Việc tìm ra một điều trị hiệu quả cho bệnh scurvy cũng góp phần rất lớn vào sự kiểm
soát của England với những đại dương khắp thế giới, và với khả năng của nó để gửi
quân đội sang những đại dương ở mặt bên kia thế giới. Cook đã tuyên xưng cho England
rất nhiều quần đảo và vùng đất do ông “tìm ra”, đáng chú ý nhất là Australia.
Chuyến thám hiểm của Cook đã đặt nền móng cho sự chiếm đóng của England ở vùng
tây-nam Pacific; cho sự chinh phục Australia, Tasmania, và New Zealand; cho sự
định cư hàng triệu người Europe trên những thuộc địa mới; và cho sự hủy diệt của
những văn hóa và hầu hết dân cư bản địa của những thuộc địa này. [4]
Trong những
thế kỷ theo sau cuộc thám hiểm Cook, vùng đất màu mỡ nhất của Australia và New
Zealand đã bị những người định cư Europe tước khỏi tay những cư dân trước đây của
chúng. Dân số của khối cư dân bản địa giảm đi, đến 90 phần trăm, và những người
sống sót đã phải chịu một chế độ đàn áp chủng tộc khắc nghiệt. Đối với những thổ
dân của Australia, và những người Maori của New Zealand, đoàn thám hiểm Cook đã
là khởi đầu của một thảm họa mà sau đó họ đã không bao giờ hồi phục.
Một số phận
còn thê thảm hơn đã giáng xuống những người bản địa của đảo Tasmania. Sau khi
đã tồn tại hàng 10.000 năm trong cô lập tuyệt diệu, họ đã hoàn toàn bị xoá sạch,
cho đến người nam, nữ và trẻ em cuối cùng, chỉ trong một thế kỷ kể từ khi đoàn thám
hiểm Cook đến nơi. Những người định cư Europe đầu tiên chở họ ra khỏi những phần
giàu nhất của hòn đảo, và sau đó, vẫn thèm muốn ngay cả những vùng hoang còn lại,
đã săn lùng, bắt giết họ một cách hệ thống. Một ít sống sót đã bị lùa vào một
trại tập trung của hội truyền đạo nhà thờ, nơi người truyền giáo, dù đầu óc đầy
những ý định tốt nhưng đặc biệt không chút cởi mở, đã cố gắng tẩy não họ, ép buộc
họ sống theo cách của thế giới (Europe Kitô) thời nay. Những người Tasmania sống
sót đã được hướng dẫn để đọc và viết, để theo đạo Kitô, và những ‘kĩ năng’ như
may quần áo, và canh tác. Nhưng họ đã từ chối để học những điều đó. Họ đã trở
nên u buồn hơn, thôi không sinh con, mất tất cả quan tâm vào đời sống, và cuối
cùng đã chọn con đường duy nhất thoát khỏi thế giới thời nay của khoa học và
tiến bộ – cái chết. [5]
Than ôi,
khoa học và tiến bộ theo đuổi họ ngay cả sang tận thế giới bên kia. Những xác
chết của những người Tasmania cuối cùng đã bị những nhà nhân chủng học và quản
thủ viện bảo tàng thu giữ, nhân danh khoa học. Chúng đã được mổ xẻ, cân và đo,
và phân tích trong những khảo cứu của giới bác học. Những chiếc sọ và xương,
sau đó được đưa vào trưng bày trong những viện bảo tàng, và những bộ sưu tập
nhân chủng học. Chỉ đến năm 1976, viện bảo tàng Tasmania mới chịu thua, cho
chôn cất hài cốt của bà Truganini, người bản địa Tasmania cuối cùng, đã chết từ
một trăm năm trước đó. Hội đồng những nhà giải phẫu hoàng gia England giữ chặt
những mẫu da và mái tóc của bà, cho đến năm 2002.
Có phải con
thuyền Cook đã là một thám hiểm khoa học được một lực lượng quân sự bảo vệ, hay
một đoàn thám hiểm quân sự với một số nhà khoa học đã cùng đi theo chiến thuyền?
Điều đó giống như hỏi bình xăng của bạn là đầy một nửa, hay vơi một nửa. Nó là
cả hai. Cách mạng Khoa học và chủ nghĩa đế quốc thời nay đã không thể tách rời.
Những người như thuyền trưởng James Cook và nhà thực vật học Joseph Banks đều
khó có thể phân biệt giữa khoa học và đế quốc. Cũng không thể, người phụ nữ bất
hạnh Truganini.
Tại sao Europe?
Sự kiện là
những người từ một đảo lớn ở phía bắc biển Atlantic đã chinh phục một đảo lớn ở
phía nam của Australia là một trong những chuyện đã xảy ra kỳ dị hơn cả của lịch
sử. Không lâu trước đoàn thám hiểm của Cook, quần đảo England và Tây Europe nói
chung, đã là những vùng xa xôi, bùn lầy nước đọng của thế giới Mediterranean. Rất
ít có gì quan trọng từng bao giờ xảy ra ở đó. Ngay cả đế quốc Rome – đế quốc Europe
quan trọng duy nhất trước thời ngày nay – hầu hết của cải giàu có của nó đã lấy
từ đóng góp của những tỉnh thuộc địa ở Bắc Africa, Balkan, và Trung Đông của
nó. Còn những tỉnh miền Tây Europe của Rome là một vùng “Viễn Tây” nghèo, đóng
góp ít, ngoại trừ khoáng sản và nô lệ. Vùng Bắc Europe đã là quá hẻo lánh và
hoang dã, khiến nó ngay cả đã không đáng bõ công chinh phục.
Chỉ đến cuối
thế kỷ XV, Europe mới đã trở thành một môi trường tăng trưởng sôi động, đầy những
phát triển quân sự, kinh tế, văn hóa và chính trị quan trọng. Giữa những năm
1500 và 1750, Tây Europe đã đạt được đà, và trở thành ông chủ của ‘Thế giới
Ngoài’, có nghĩa là hai lục địa Bắc và Nam America và những đại dương. Tuy
nhiên, ngay cả khi đó Europe cũng vẫn không sánh được với những cường quốc Asia.
Europe thành công trong sự chinh phục America và đạt được ưu thế trên biển, chủ
yếu là những cường quốc Asia đã cho thấy ít có quan tâm đến chúng. Đầu kỷ
nguyên thời ngày nay là một thời hoàng kim của đế quốc Ottoman ở Mediterranean,
đế quốc Safavid ở Persia, đế quốc Mughal ở India, và những triều đại Ming và
Qing ở Tàu. Chúng đã mở rộng lãnh thổ của chúng một cách đáng kể, và đạt mức
tăng trưởng dân số và kinh tế chưa từng có. Năm 1775, Asia chiếm 80 phần trăm của
kinh tế thế giới. Chỉ hai nền kinh tế kết hợp của India và Tàu đã chiếm hai phần
ba sản lượng toàn cầu. Trong khi đó, Europe là một “người lùn” về kinh tế. [6]
Trung tâm
quyền lực thế giới chỉ chuyển sang Europe, khoảng giữa những năm 1750 và 1850,
khi người Europe làm nhục những cường quốc Asia trong một loạt những chiến
tranh, và xâm chiếm phần lớn Asia. Đến năm 1900, Europe kiểm soát chặt chẽ kinh
tế, và hầu hết lãnh thổ của thế giới. Năm 1950, Tây Europe cùng USA đã chiếm
hơn một nửa sản lượng toàn cầu, trong khi đó, phần của nước Tàu đã giảm xuống chỉ
còn 5 %. [7] Dưới vòm che chở của Europe, nổi lên một trật tự
và văn hóa mới trên toàn thế giới. Ngày nay, tất cả mọi người, đến một mức độ lớn
hơn nhiều, so với họ thường muốn thừa nhận, là đều trong trang phục, tư tưởng
và thẩm vị theo Europe. Họ có thể là quyết liệt chống Europe trong lời nói của
họ, nhưng hầu như tất cả mọi người trên hành tinh có quan điểm chính trị, y học,
chiến tranh và kinh tế qua đôi mắt Europe, và lắng nghe âm nhạc được viết theo
thang âm Europe, với những lời nhạc trong ngôn ngữ Europe. Ngay cả nền kinh tế
Tàu ngày nay đang phát triển, nó có thể sớm lấy lại ví trí hàng đầu của nó trên
thế giới, cũng được xây dựng trên một mô hình Europe veed sản xuất và tài
chính.
Những người trong
vùng đất hình dạng như một “ngón tay lạnh lẽo” của đại lục Eurasia đã thoát khỏi
góc hẻo lánh của thế giới của họ, và đã chinh phục thành công toàn thế giới,
như thế nào? Những nhà khoa học Europe thường được cho là có nhiều công trạng. Điều
không thể nghi ngờ rằng, từ năm 1850 trở đi, sự thống trị Europe, đến một mức độ
lớn, nằm trên những tổ hợp quân sự-kỹ nghệ-khoa học và kỹ thuật thần diệu. Tất
cả những đế quốc thành công vào cuối thời hiện nay, đều cấy trồng nghiên cứu
khoa học với hy vọng gặt hái những kỹ thuật đổi mới, và nhiều nhà khoa học đã
dành hầu hết thời gian của họ, làm việc trong những lĩnh vực vũ khí, y học, và máy
móc cho những ông chủ đế quốc của họ. Một câu nói phổ biến giữa những người
Europe trước những kẻ địch người Africa là, “Dù gì có thể xảy ra đi nữa, nhưng chúng
ta có súng máy, và họ không có”. Kỹ thuật dân sự đã quan trọng không kém. Thực
phẩm đóng hộp nuôi binh lính, đường sắt và tàu hoả vận chuyển quân đội, và lương
thực của họ, trong khi một kho những loại thuốc mới chữa bệnh cho quân sĩ, cả bộ
lẫn thuỷ, và những kỹ sư hoả xa. Những tiến bộ hậu cần này đã đóng một vai trò
quan trọng hơn, trong sự chinh phục Africa của Europe, so với những cỗ súng
máy.
Nhưng đó
không phải là trường hợp trước 1850. Những tổ hợp quân sự-kỹ nghệ-khoa học vẫn
còn trong trứng nước; những thành quả kỹ thuật của Cách mạng Khoa học vẫn chưa
chín mùi; và khoảng cách kỹ thuật giữa những cường quốc Europe, Asia và Africa
là nhỏ. Năm 1770, James Cook chắc chắn đã có kỹ thuật tốt hơn nhiều so với của những
thổ dân Australia, nhưng những người đế quốc Tàu và đế quốc Ottoman cũng thế. Tại
sao sau đó thuyền trưởng James Cook khám phá chiếm làm thuộc địa Australia,
nhưng không pthuyền biển trưởng Wan Zhengse hay thuyền trưởng Hussein Pasha? [8] Quan trọng hơn, nếu năm 1770 Europe
đã không có lợi thế về kỹ thuật đáng kể so với những người Muslim, India và
Tàu, làm thế nào họ đã thành công trong những thế kỷ tiếp theo để mở ra một khoảng
cách lớn như vậy, giữa họ và tất cả phần thế giới còn lại?
Tại sao những
tổ hợp quân sự-kỹ nghệ-khoa học đã bừng nở ở Europe hơn là ở India? Khi England
nhảy vọt về trước, tại sao France, Germany và US đã nhanh chóng đi theo, trong
khi Tàu vẫn tụt phía sau? Khi khoảng cách giữa những quốc gia kỹ nghệ và phi-kỹ
nghệ đã rõ ràng trở thành yếu tố kinh tế và chính trị, tại sao những Nga, Italy
và Austria đã thành công trong việc lấp bằng nó, trong khi Persia, Egypt và đế
quốc Ottoman đã thất bại? Sau hết, kỹ thuật của đợt sóng kỹ nghệ đầu tiên tương
đối là đơn giản. Tại sao đã rất khó khăn cho nước Tàu, hay đế quốc Ottoman, để
thiết kế những động cơ hơi nước, chế tạo những súng máy, và đặt những tuyến đường
sắt?
Đường sắt giao
thông đầu tiên trên thế giới mở cho thương mại năm 1830, ở England. Đến năm
1850, những nước phương Tây đã chằng chịt với gần 40.000 km đường sắt – nhưng
toàn thể Asia, Africa và America Latin chỉ có 4.000 km đường sắt. Trong năm
1880, phương Tây tự hào có hơn 350.000 km đường sắt, trong khi đó trong phần
còn lại của thế giới đã chỉ có 35.000 km đường xe lửa (và hầu hết trong số này
được người England đặt ở India) . [9] Đường sắt đầu tiên ở Tàu chỉ mở vào
năm 1876. Đó là 25 km và do người Europe xây dựng – nhưng chính phủ Tàu hủy bỏ nó
vào năm sau. Năm 1880 Đế quốc Tàu đã không có lấy được một tuyến đường sắt hoạt
động. Tuyến đường sắt đầu tiên ở Persia chỉ được xây dựng năm 1888, và nó nối với
Tehran với một thánh địa đạo Islam, khoảng 10 km về phía nam thủ đô này. Nó được
một công ty của Belgium xây dựng và điều hành. Năm 1950, tổng số mạng lưới đường
sắt của Persia đã lên tới chỉ 2.500 km ít ỏi, trong một nước có kích thước bằng
7 lần England.[10]
Người Tàu và
người Persia đã không thiếu những phát minh kỹ thuật loại giống như động cơ hơi
nước (vốn nó có thể được sao chép nếu muốn, hoặc mua lại). Họ đã thiếu những
giá trị, những huyền thoại, những guồng máy tư pháp và những cấu trúc chính trị
xã hội phức tạp vốn phải mất nhiều thế kỷ mới thành hình và trưởng thành ở
phương Tây, và chúng không thể sao chép và lĩnh hội nhanh chóng. France và US
nhanh chóng theo bước chân của England, vì người France và người US đã chia sẻ cùng
những huyền thoại và những cấu trúc xã hội quan trọng nhất với người England.
Người Tàu và người Persia không thể bắt nhanh kịp, vì họ đã suy nghĩ và tổ chức
xã hội của họ khác biệt. [11]
Giải thích
này chiếu thêm ánh sáng trên giai đoạn từ 1500 đến 1850. Trong thời kỳ này, Europe
đã không được hưởng bất kỳ lợi thế nào rõ ràng về kỹ thuật, chính trị, quân sự
và kinh tế hơn những cường quốc Asia, thế nhưng đại lục này tạo dựng được một tiềm
năng độc đáo, sự quan trọng của nó đột nhiên trở nên rõ ràng quanh những năm1850.
Sự ngang bằng thấy bên ngoài giữa Europe, Tàu và thế giới Islam vào năm 1750 đã
là một ảo ảnh. Hãy tưởng tượng hai người xây tháp, mỗi người bận rộn xây những
tòa tháp rất cao. Một người dùng gỗ và gạch, trong khi người kia dùng thép và
bê tông. Lúc đầu, giữa hai phương pháp dường như không có nhiều khác biệt, vì cả
hai tháp đều lên cao dần với tốc độ tương tự, và đạt độ cao tương tự. Tuy
nhiên, một khi vượt qua lằn mức then chốt quyết định, tháp gỗ và gạch không thể
chịu được sức đè nặng và sụp đổ, trong khi tháp thép và bê tông cao dần, tầng này
trên tầng kia, cao vút theo tầm mắt có thể nhìn thấy.
Tiềm năng nào
đã phát triển ở Europe đầu thời hiện nay khiến nó có khả năng sau này thống trị
thế giới cuối thời hiện nay? Câu hỏi này có hai trả lời bổ túc cho nhau: khoa học
thời nay và chủ nghĩa tư bản. Những người Europe đã quen với suy nghĩ và hành xử
trong lối của khoa học và chủ nghĩa tư bản, ngay cả trước khi họ được hưởng bất
kỳ một ưu thế kỹ thuật quan trọng nào đáng kể. Khi vận may đột nhiên về kỹ thuật
đã bắt đầu, những người Europe có thể kiểm soát và xử dụng nó giỏi hơn nhiều so
với bất kỳ ai khác. Vì vậy, đó là hầu như hoàn toàn không phải ngẫu nhiên mà
khoa học và chủ nghĩa tư bản đã thành hình di sản quan trọng nhất vốn chủ nghĩa
đế quốc Europe đã để gia tài lại cho thế giới sau-Europe của thế kỷ XXI. Europe
và những người Europe thôi không cai trị thế giới nữa, nhưng khoa học và tư bản
đang phát triển mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Những chiến thắng của chủ nghĩa tư bản
được xem xét trong chương sau. Chương này dành riêng cho câu chuyện tình giữa
chủ nghĩa đế quốc Europe và khoa học thời nay.
Não thức của Chinh phục
Khoa học thời
nay phát triển mạnh mẽ trong những đế quốc và nhờ những đế quốc Europe. ngành tri
thức chuyên môn này rõ ràng là mang nợ rất lớn với những truyền thống khoa học
thời cổ, như của cổ điển Greece, Tàu, India và Islam, nhưng tính cách độc đáo của
nó bắt đầu thành hình chỉ trong thời đầu thời hiện nay, song song với sự bành
trướng đế quốc của Spain, Portugal, England, France, Russia và Netherland.
Trong đầu thời hiện nay, những người Tàu, India, Muslim, người bản địa America,
và người những quần đảo Polynesia đã tiếp tục làm những đóng góp quan trọng cho
cuộc Cách mạng Khoa học. Những hiểu biết sâu xa của những nhà kinh tế Muslim đã
được Adam Smith và Karl Marx nghiên cứu, những điều trị những thày thuốc người
bản địa America đi tiên phong, đã tìm thấy đường của chúng đưa vào những văn bản
y học tiếng England, và những dữ liệu trích từ những nguồn Polynesia thông thạo
đã cách mạng ngành nhân loại học ở phương Tây. Nhưng cho đến giữa thế kỷ XX, những
người thu nhặt và kết hợp vô số chi ly phức tạp những khám phá khoa học này, tạo
lập những ngành khoa học trong tiến trình đó, đã là những trí tuệ tinh hoa và điều
hành ưu tú của những đế quốc toàn cầu Europe. Thế giới Viễn Đông và Islam cũng
đào tạo được những não thức thông minh và hiếu kỳ như của những người Europe.
Tuy nhiên, giữa những năm 1500 và 1950, chúng đã không sản xuất được bất cứ gì,
ngay cả dẫu chỉ gần đến với vật lý Newton hay sinh học Darwin.
Điều này
không có nghĩa rằng những người Europe có một gene duy nhất cho khoa học, hoặc rằng họ sẽ mãi mãi thống trị những
ngành nghiên cứu vật lý và sinh học. Cũng giống như đạo Islam đã bắt đầu như một
độc quyền của người Arab, nhưng sau đó đã lần lượt được người Turk và Persia nắm
giữ, nên khoa học thời nay đã bắt đầu như một sản phẩm đặc biệt của Europe,
nhưng ngày nay đang trở thành một công trình phức tạp nhiều tộc người.
Những gì đã
đúc nên sự ràng buộc lịch sử giữa khoa học thời nay và chủ nghĩa đế quốc Europe?
Kỹ thuật là một yếu tố quan trọng trong thế kỷ XIX và XX, nhưng ở đầu thời hiện
nay, nó đã có mức quan trọng giới hạn. Yếu tố quan trọng đã là những nhà thực vật
học đi tìm cây cỏ, và những sĩ quan hải quân đi tìm thuộc địa, họ cùng chia sẻ
một đầu óc suy nghĩ tương tự. Cả hai, nhà khoa học và kẻ chinh phục đã bắt đầu
bằng thú nhận sự thiếu hiểu biết – họ đều nói rằng, “Tôi không biết ngoài kia
có những gì”. Cả hai đều cảm thấy bắt buộc phải đi ra ngoài kia, và tạo những
khám phá mới. Và cả hai đều hy vọng những kiến thức mới được thu nhận như thế
sẽ làm cho họ thành những người chủ của thế giới.
Chủ nghĩa đế
quốc Europe đã hoàn toàn không giống như tất cả những dự án đế quốc khác trong
lịch sử. Những người tìm đế quốc trước đây đã có khuynh hướng cho rằng họ đã biết
thế giới rồi. Chinh phục chỉ đơn thuần đã xử dụng và truyền bá quan điểm của họ
về thế giới. Người Arab, lấy kể một thí dụ, đã không chinh phục Egypt, Spain
hay India để khám phá một gì đó mà họ không biết. Người Rome, Mongol và Aztecs
ngấu nghiến chinh phục những đất mới để tìm kiếm quyền lực và sự giàu có –
không phải kiến thức. Ngược lại, những đế quốc Europe lên đường đi đến những
bờ biển xa xôi trong hy vọng có được kiến thức mới cùng những đất mới.
James Cook đã
không là nhà thám hiểm đầu tiên nghĩ theo lối này. Những nhà du hành Portugal
và Spain vào thế kỷ XV và XVI đã làm như vậy. Hoàng tử Henry the Navigator và
Vasco da Gama đã thám hiểm những bờ biển Africa, và trong khi làm vậy, đoạt quyền
kiểm soát những quần đảo và hải cảng. Christopher Columbus “tìm ra” America và
ngay lập tức tuyên bố chủ quyền trên những vùng đất mới cho nhà vua của Spain.
Ferdinand Magellan tìm thấy một con đường vòng quanh thế giới, và đồng thời đặt
nền móng cho sự chinh phục của Spain trên quần đảo quần đảo Philippines.
Với thời
gian trôi qua, chinh phục kiến thức và chinh phục lãnh thổ đã trở nên càng gắn
bó chặt chẽ với nhau hơn. Trong thế kỷ XVIII và XIX, hầu hết những thám hiểm
quân sự quan trọng, rời Europe đến những vùng đất xa, đều đã có những nhà khoa
học đi theo trên boong tàu, là người đi không phải để chiến đấu nhưng để làm những
khám phá khoa học. Khi Napoleon xâm lăng Egypt năm 1798, ông đem theo 165 học
giả với ông. Trong số những sự việc khác, họ đã thành lập một ngành học hoàn
toàn mới, Egypt học, và làm được những đóng góp quan trọng cho việc nghiên cứu
về tôn giáo, ngôn ngữ học và thực vật học.
Năm 1831, Hải
quân Hoàng gia gửi thuyền HMS Beagle
để vẽ bản đồ những vùng bờ biển Nam America, quần đảo Falklands và quần đảo Galápagos.
Hải quân England cần kiến thức này để chuẩn bị tốt hơn trong trường hợp xảy
ra chiến tranh. Thuyền trưởng của tàu, là người một nhà khoa học tài tử, đã quyết
định thêm một nhà địa chất học vào đoàn thám hiểm, để nghiên cứu những cấu tạo địa
chất mà họ có thể gặp trên đường đi. Sau khi một số nhà địa chất chuyên nghiệp
từ chối lời mời của ông, thuyền trưởng đã trao việc này cho một người mới 22 tuổi,
vừa tốt nghiệp đại học Cambridge, Charles Darwin. Darwin đã từng theo học để định
trở thành một parson, một thày chăn chiên phản thệ thuộc hội nhà thờ England,
nhưng quan tâm nhiều về địa chất và khoa học tự nhiên hơn về những sách Thánh. Ông
đã nhảy vào cơ hội, và những gì còn lại đã là lịch sử. Thuyền trưởng đã dành thời
giờ của mình dọc hành trình vẽ những bản đồ quân sự, trong khi Darwin thu thập
những dữ liệu thực nghiệm và xây dựng những hiểu biết sâu xa mà cuối cùng sẽ trở
thành thuyết Tiến hóa.
Ngày 20 tháng
7 năm 1969, Neil Armstrong và Buzz Aldrin đặt chân lên mặt trăng. Trong những
tháng trước đó, dẫn đến cuộc thám hiểm này của họ, những nhà phi hành của phi
thuyền Apollo 11 đã được huấn luyện trong một sa mạc hẻo lánh có địa thế giống-mặt
trăng ở vùng viễn Tây USA. Khu vực này là nơi có nhiều cộng đồng người người bản
địa America, và có một câu chuyện – hay truyền thuyết – mô tả một cuộc gặp gỡ
giữa những nhà phi hành và một trong những người dân địa phương.
Một ngày nọ,
khi họ đang được huấn luyện, những nhà phi hành ngẫu nhiên gặp một cụ già người
bản địa America. Cụ hỏi họ họ đang làm gì ở đó. Họ trả lời rằng họ là phần của
một chương trình nghiên cứu thám hiểm, trong thời gian ngắn sẽ đi lên thám hiểm
mặt trăng. Khi cụ già nghe nói thế, cụ đã im lặng trong vài phút, và sau đó hỏi
những nhà phi hành xem nếu họ có thể làm ơn làm cho cụ một việc.
“Cụ muốn gì?”
Họ hỏi. “Vâng,” ông cụ nói, “những người cùng bộ tộc của tôi tin rằng những thần
tinh linh thiêng sống trên mặt trăng. Tôi đã tự hỏi nếu quí ông có thể chuyển một
thông điệp quan trọng từ dân tộc chúng tôi đến họ”.
“Thông điệp
gì?” những nhà phi hành hỏi.
Ông cụ già
thốt ra lời về một gì đó bằng ngôn ngữ bộ lạc của cụ, và sau đó yêu cầu những
nhà phi hành lập đi lập lại câu nói đó nhiều lần, cho đến khi họ thuộc lòng nó
thật chính xác.
“Nó có nghĩa
gì vậy?” những nhà phi hành hỏi thêm.
“Ồ, tôi
không thể nói cho những ông nghe. Đó là một bí mật chỉ có bộ lạc chúng tôi và
những thần tinh linh thiêng trên mặt trăng mới được phép biết”.
Khi họ trở về
căn cứ, những nhà phi hành đã cố và tìm mãi, cho đến khi họ kiếm được một người
có thể nói ngôn ngữ của bộ lạc đó, và nhờ người này dịch thông điệp bí mật này.
Sau khi lập lại những gì họ đã thuộc lòng, người thông dịch đã không nhịn được,
bắt đầu phá ra cười lớn không ngừng được. Khi người thông dịch này đã bình tĩnh
lại, những nhà phi hành hỏi người này nó có nghĩa là gì. Người thông dịch giải
thích rằng câu nói họ đã thuộc lòng rất cẩn thận đó, nói: “Đừng tin dẫu một lời
duy nhất nào những người này đang nói với bạn. Họ đã đến để lấy cắp đất đai của
bạn”.
Những Bản đồ có Khoảng trống
Não thức “khám
phá và chinh phục” thời hiện nay được minh họa khéo léo bằng sự phát triển của những
bản đồ thế giới. Nhiều văn hóa đã vẽ những bản đồ thế giới từ lâu trước thời hiện
nay . Rõ ràng, không một nào trong những văn hoá này thực sự biết được toàn thể
thế giới. Không văn hóa Asia-Africa nào đã biết về America, và không văn hóa America
nào đã đã biết về Asia-Africa. Những khu vực xa lạ đã chỉ giản dị được bỏ qua,
hoặc vẽ đầy những quái vật và những kỳ quan tưởng tượng. Những bản đồ này không
có những khoảng trống. Chúng đã cho ấn tượng về một sự thân thuộc với toàn thể
thế giới.
Trong những
thế kỷ XV và XVI, người Europe bắt đầu vẽ bản đồ thế giới với rất nhiều những
khoảng trống – một chỉ định về sự phát triển của đầu óc khoa học, cũng như của
động lực đế quốc của Europe. Những bản đồ trống đã là một bước phá vỡ về tâm lý
và tư tưởng, một sự thừa nhận rõ ràng rằng những người Europe đã không biết gì
về những phần rộng lớn của thế giới.
Bước rẽ ngoặt
quan trọng đã đến vào năm 1492, khi từ Spain, Christopher Columbus đã dương buồm
đi về hướng Tây, tìm một con đường mới đến Đông Asia. Columbus vẫn tin vào những
bản đồ ‘đầy đủ’ cũ của thế giới. Khi dùng chúng, Columbus tính toán rằng Japan ắt
phải có vị trí khoảng 7.000 km về phía tây của Spain. Trong thực tế, đó là hơn
20.000 km và toàn thể một lục địa còn chưa biết, đã phân cách Đông Asia với Spain.
Ngày 12 tháng 10 năm 1492, vào khoảng 2:00 sáng, đoàn thám hiểm Columbus va vào
một lục địa chưa biết. Juan Rodriguez Bermejo, đứng canh trên cột buồm của tàu
Pinta, nhìn thấy một hòn đảo ngày nay chúng ta gọi là đảo Bahamas, và hét lên “Đất!
Đất!”
Columbus tin
rằng ông đã đến một đảo nhỏ ngoài khơi bờ biển Đông Asia. Ông gọi những người ông
gặp ở đó là những “người India”, vì ông nghĩ rằng mình đã đổ bộ lên India –
vùng ngày nay chúng ta còn gọi là Đông India [12], hoặc quần đảo Antilles. Columbus ôm
lầm lẫn này cho đến hết đời ông. Ý tưởng rằng ông đã tìm ra một lục địa hoàn
toàn không biết, là một gì đó không thể tưởng được với ông, và với nhiều người
cùng thế hệ ông. Trong hàng nghìn năm, không riêng những nhà tư tưởng, và những
học giả vĩ đại nhất, mà ngay cả quyển sách Thánh “không thể sai lầm” cũng đã biết
đến chỉ Europe, Africa và Asia. Có thể nào tất cả đều đã sai lầm? Có thể nào quyển
sách Thánh đã bỏ mất một nửa thế giới? Nó sẽ tựa như, nếu trong năm 1969, trên
đường tới mặt trăng, phi thuyền Apollo 11 đã va vào một mặt trăng trước giờ
chưa biết, cũng quay quanh quả đất, vốn tất cả những quan sát thiên văn trước
đây, cách nào đó, đã không nhìn ra. Trong sự từ chối của ông, không thú nhận sự
thiếu hiểu biết, Columbus đã vẫn là một con người Trung cổ. Ông được thuyết phục
rằng ông đã biết trọn thế giới, và ngay cả sự khám phá lớn lao của chính ông cũng
thất bại, đã không thuyết phục được ông nghĩ khác đi.
Hình 36. Một
bản đồ thế giới của Europe từ năm 1459 (Europe nằm ở góc trên bên trái). Bản đồ
được lấp đầy với những chi tiết, ngay cả khi nó mô tả khu vực hoàn toàn xa lạ với
người Europe, như Nam Africa.
Con người thời
nay đầu tiên là Amerigo Vespucci, một thủy thủ người Italy, đã tham gia vào nhiều
cuộc thám hiểm tới America trong những năm 1499-1504. Giữa những năm 1502 và
1504, hai bản văn mô tả những thám hiểm này đã được xuất bản ở Europe. Chúng đã
được quy cho Vespucci. Những bản văn này lập luận rằng những vùng đất mới được Columbus
tìm ra không phải là những đảo ngoài khơi bờ biển Đông Asia, mà đúng hơn là
toàn bộ một lục địa vốn sách Thánh, những nhà địa lý cổ điển, và Europe đương
thời, tất cả đều chưa biết đến. Năm 1507, được những lập luận này thuyết phục,
một người làm bản đồ đáng phục, tên là Martin Waldseemüller, đã công bố một bản
đồ thế giới được cập nhật, đầu tiên cho thấy nơi những đội thuyền đi về hướng
tây Europe đã lên bờ như thuộc một lục địa riêng biệt. Sau khi vẽ nó xong,
Waldseemüller phải cho lục địa này một tên gọi. Tin tưởng lầm lẫn rằng Amerigo
Vespucci đã là người tìm ra lục địa, Waldseemüller đặt tên lục địa này, để vinh
danh Vespucci – là “America”. [13] Bản đồ Waldseemüller trở nên rất phổ
biến, và đã được nhiều nhà vẽ bản đồ khác sao chép, truyền bá tên ông đã đặt
cho vùng đất mới. Có một công lý nên thơ trong thực tế, là một phần tư của thế
giới, và hai trong số bảy lục địa của nó, được đặt theo tên một người Italy ít
tiếng tăm, có tuyên bố độc nhất để thành nổi tiếng là ông đã có can đảm để nói,
“Chúng ta không biết.” [14] . « « «
Tìm ra America
đã là biến cố nền tảng của Cách mạng Khoa học. Nó không chỉ đã dạy người Europe
nghiêng sang chọn những quan sát trong ngày nay thay vì từ những truyền thống của
quá khứ, nhưng khao khát chinh phục châu America, cũng buộc người Europe tìm kiến
thức mới với tốc độ chóng mặt. Nếu họ thực sự muốn kiểm soát những vùng lãnh
thổ mới rộng lớn, họ phải thu thập những khối lượng khổng lồ gồm những dữ liệu
mới về địa lý, khí hậu, thực vật, động vật, ngôn ngữ, văn hóa và lịch sử của lục
địa mới. Những kinh sách thánh Kitô, những sách địa lý, và những truyền thống khẩu
truyền cổ xưa đã có rất ít giúp đỡ.
Từ đó về sau,
không chỉ những nhà địa lý Europe, nhưng những học giả Europe, trong gần như tất
cả những lĩnh vực khác của kiến thức, đều bắt đầu vẽ những bản đồ với những
khoảng trống, để sau sẽ điền vào. Họ bắt đầu thừa nhận rằng những lý thuyết của
họ đã không phải là hoàn hảo, và có những điều quan trọng mà họ đã không biết.
Những người
Europe đã được những điểm còn bỏ trắng trên bản đồ thu hút, như thể chúng là những
nam châm, và họ đã kịp thời bắt đầu điền vào chúng. Trong suốt thế kỷ XV và XVI,
những nhà thám hiểm Europe đi quanh Africa, khám phá America, vượt qua biển
Pacific và India, và tạo ra một mạng lưới gồm những căn cứ và thuộc địa trên
toàn thế giới. Họ đã thực sự thiết lập những đế quốc toàn cầu đầu tiên, và đan
vào nhau mạng lưới thương mại toàn cầu đầu tiên. Những viễn chinh đế quốc của Europe
đã chuyển đổi lịch sử thế giới: từ một loạt những lịch sử của những dân tộc và
những văn hóa cô lập, nó đã trở thành lịch sử của một xã hội loài người duy nhất
kết hợp thống nhất.
Hình 37. Bản
đồ thế giới của Salviati, 1525. Trong khi bản đồ thế giới năm 1459 đầy những lục
địa, đảo và giải thích chi tiết, bản đồ Salviati chủ yếu là trống rỗng. Con mắt
dõi dọc về phía nam theo bờ biển America, cho đến khi nó mất dần vào trống rỗng.
Bất cứ ai nếu nhìn vào bản đồ và có dẫu chỉ tò mò tối thiểu đều muốn hỏi, “Quá khỏi
điểm này là gì?” Bản đồ không trả lời. Nó mời những người quan sát ra khơi và
tìm cho ra.
Những thám
hiểm khám phá-và-chinh phục này của những người Europe đã quá quen thuộc với
chúng ta khiến chúng ta có khuynh hướng bỏ qua, không xem chúng đúng đã là phi
thường thế nào. Không gì giống chúng đã từng xảy ra trước đây. Những chiến dịch
viễn chinh để chinh phục không phải là một công việc đảm nhận tự nhiên. Trong
suốt lịch sử, hầu hết những xã hội loài người đã quá bận rộn với những xung đột
địa phương và những tranh cãi với lân cận khiến chúng không bao giờ đã xem xét
đến thám hiểm và chinh phục những vùng đất xa xôi. Hầu hết những đế quốc mở rộng
kiểm soát của chúng chỉ trên những khu vực láng giềng trực tiếp của chúng – nếu
chúng có mở ra đến những vùng đất xa xôi chỉ giản dị là vì những khu vực lân cận
trực tiếp chúng đã tiếp tục mở rộng. Do đó, những người Rome chinh phục Etruria
để bảo vệ Rome (c.350-300 TCN). Sau đó, họ đã chinh phục thung lũng Po để bảo vệ
Etruria (c.200 TCN). Tiếp đó họ đi đến chinh phục vùng Provence để bảo vệ thung
lũng Po (c.120 TCN), rồi xứ Gaul để bảo vệ Provence (c.50 TCN), và đảo England
để bảo vệ xứ Gaul (c. 50 AD). Phải mất 400 năm để đi từ Rome đến London. Trong năm
350 TCN, không có người Rome nào trong đầu mang ý tưởng dùng thuyền đi thẳng tới
đảo England để chinh phục nó.
Đôi khi một
người cai trị hoặc mạo hiểm đầy tham vọng sẽ bắt tay vào một chiến dịch có mục
tiêu chinh phục nằm rất xa, nhưng những chiến dịch như vậy thường theo sau những
con đường quân sự đã bước mòn chân, hay thương mại quen thuộc. Những chiến dịch
của đại đế Alexander, lấy thí dụ, đã không dẫn đến việc thành lập một đế quốc mới,
nhưng đúng hơn là sự tiếm quyền một đế quốc đang hiện hữu – đó của người Persia.
Những tiền lệ gần nhất với những đế quốc Europe thời nay đã là những đế quốc hàng
hải thời cổ của Athens và Carthage, và đế quốc hàng hải thời Trung cổ của
Majapahit, vốn nắm thống trị trên nhiều phần của quần đảo Indonesia trong thế kỷ
XIV. Tuy nhiên, ngay cả những đế quốc này hiếm khi mạo hiểm vào vùng biển chưa
biết – những khai thác hàng hải của họ đã là những đảm nhận ở địa phương khi so
với những kế hoạch mạo hiểm trên thế giới rộng lớn của những người Europe thời
nay.
Nhiều học giả
cho rằng chuyến đi của đô đốc Zheng He, triều Ming nước Tàu, đã báo trước và
làm lu mờ những hành trình khám phá của người Europe. Giữa những năm 1405 và
1433, Zheng dẫn 7 đoàn thuyền biển khổng lồ từ Tàu đến những nơi xa xôi của biển
India. Đoàn lớn nhất trong số này gồm gần 300 thuyền, và chở gần 30.000 người. [15] Họ đã đến thăm Indonesia, Sri
Lanka, India, Vịnh Persia, Biển Đỏ và Đông Africa. Những thuyền của Tàu bỏ neo ở
Jedda, hải cảng chính của Hejaz, và ở Malindi, trên bờ biển Kenya. Đội thuyền của
Columbus năm1492 – trong đó bao gồm ba thuyền biển nhỏ với số người 120 thủy thủ
– đã giống như một bộ ba con muỗi, so với những con rồng Zheng He đã điều khiển.
[16]
Tuy nhiên có
một sự khác biệt rất quan trọng. Zheng He đã thăm dò những đại dương, và trợ
giúp những nhà cầm quyền thân Tàu, nhưng ông đã không cố gắng chinh phục, hoặc
định cư ở những nước ông đến thăm. Hơn nữa, những thám hiểm của Zheng He đã
không có gốc rễ sâu trong chính trị và văn hóa Tàu. Khi phái nắm quyền ở Beijing
thay đổi trong những năm 1430, những lãnh chúa mới đột ngột đã chấm dứt hoạt động.
Đoàn thuyền lớn bị tháo dỡ, kiến thức kỹ thuật và địa lý quan trọng bị mất,
và không có nhà thám hiểm Tàu nào với tầm vóc và phương tiện như vậy, đã bao giờ
lại lần nữa khởi hành từ một hải cảng của Tàu. Những nhà cai trị Tàu trong những
thế kỷ sau, giống như hầu hết những nhà cai trị Tàu trong những thế kỷ trước, chú
tâm và tham vọng của họ giới hạn vào những vùng lân cận trực tiếp với “Đế quốc
Nằm Giữa” này.
Những thám
hiểm của Zheng He chứng minh rằng Europe đã không hưởng một kỹ thuật dẫn đầu vượt
bực. Những gì đã làm những người Europe là siêu việt ngoại hạng đã là tham vọng
vô song và vô độ của họ để khám phá và chinh phục. Dẫu họ đã có thể có khả
năng, những người Rome đã không bao giờ cố gắng để chinh phục India hay
Scandinavia, những người Persia đã không bao giờ cố gắng để chinh phục
Madagascar hay Spain, và những người Tàu đã không bao giờ cố gắng để chinh phục
Indonesia hay Africa. Hầu hết những nhà cai trị Tàu đã bỏ mặc ngay cả Japan gần
bên, với cơ cấu của riêng nó.[17] Không có khác thường đặc biệt về điều
đó. Điều kỳ lạ đó là những quốc gia Europe đầu thời hiện nay đã nhiễm một cơn sốt
kích thích họ dong buồm đến những vùng đất xa xôi và hoàn toàn không biết, đầy
những văn hóa xa lạ, nhảy một bước lên những bãi biển của chúng, và ngay lập tức
long trọng loan báo: “Tôi tuyên đòi tất cả lãnh thổ này cho nhà vua của tôi!”
Xâm lăng từ ngoài không gian
Khoảng năm
1517, những người Spain thực dân, ở quần đảo Caribbean, bắt đầu nghe được những
tin đồn mơ hồ về một đế quốc hùng mạnh đâu đó trong trung tâm đất liền Mexico.
Chỉ vẻn vẹn bốn năm sau, kinh thành Aztec là một khối đổ nát bốc khói còn cháy
âm ỉ, đế quốc Aztec đã là một sự kiện của quá khứ, và Hernán Cortés làm lãnh
chúa một đế quốc Spain mới ở Mexico bao la.
Những người
Spain đã không ngưng, dù để chúc mừng chính họ, hoặc ngay cả để lấy lại nhịp thở
bình thường của họ. Họ lập tức đã bắt đầu những chiến dịch khám phá và chinh phục
về mọi hướng. Những nhà cai trị trước đây của Trung America – những người
Aztec, Toltecs, Maya – gần như không biết có Nam America hiện hữu, và chưa bao
giờ thực hiện bất kỳ nỗ lực nào để chinh phục nó, trong suốt 2.000 năm. Tuy
nhiên, trong vòng chỉ ít hơn mười năm, sau chinh phục Mexico của Spain,
Francisco Pizarro đã tìm ra đế quốc Inca ở Nam America, đánh bại nó trong năm
1532.
Nếu như những
người Aztec và Incas đã cho thấy quan tâm nhiều hơn một chút đến thế giới quanh
họ – và nếu như họ đã biết người Spain đã làm những gì với những láng giềng của
họ – họ đã có thể chống lại sự xâm lăng của Spain kiên trì và hiệu quả hơn.
Trong những năm, giữa hành trình đầu tiên của Columbus đến America (1492) và cuộc
đổ bộ của Cortés ở Mexico (1519), những người Spain đã xâm chiếm hầu hết những
quần đảo vùng Caribbean, thiết lập một chuỗi những thuộc địa mới. Đối với những
người bản xứ bị khuất phục, những thuộc địa này là địa ngục trần gian. Họ đã bị
cai trị bằng một bàn tay sắt của những thực dân tham lam và vô đạo, những người
đã nô lệ họ và đẩy họ vào làm việc trong những hầm mỏ và đồn điền, giết bất cứ
ai dù chỉ một phản ứng nhỏ. Hầu hết khối cư dân bản địa chẳng bao lâu đã chết gần
sạch, hoặc do những điều kiện làm việc khắc nghiệt, hoặc độc hại của những bệnh
mới theo đến cùng những thuyền đổ bộ của những kẻ xâm lược. Trong vòng hai mươi
năm, gần như toàn bộ dân số bản địa Caribbean bị xóa sạch. Những người Spain thực
dân đã bắt đầu phải nhập cảng những phu nô lệ từ Africa đến, để lấp chỗ trống.
Sự diệt chủng
này đã diễn ra ngay trên ngưỡng cửa của chính đế quốc Aztec, nhưng khi Cortés đổ
bộ lên bờ biển phía đông của đế quốc, những người Aztec đã tuyệt không biết gì
về họ. Sự kiện những người Spain đến đây đã tương đương với một cuộc xâm lăng của
người hành tinh xa lạ từ ngoài không gian. Người Aztec đã chắc chắn rằng họ biết
toàn thể thế giới, và rằng họ cai trị hầu hết thế giới đó. Với họ, đó đã là điều
không thể tưởng tượng được rằng ngoài cương vực của họ lại có thể hiện hữu bất
cứ gì giống như những người Spain này. Khi Cortés và đồng đội đặt chân lên bãi
biển đầy nắng, ngày nay là của thành phố Vera Cruz, đó đã là lần đầu tiên những
người Aztec gặp đám người thuộc một sắc dân không biết, hoàn toàn xa lạ.
Người Aztec
đã không biết phản ứng ra sao. Họ đã có khó khăn để quyết định nếu những người
lạ này là ai. Không giống như tất cả những giống người họ đã biết, những người
lạ này có da trắng. Họ cũng có rất nhiều lông mặt. Một số có tóc màu mặt trời. Họ
có mùi hôi khủng khiếp. (Vệ sinh của người bản địa tốt hơn rất nhiều so với của
người Spain. Khi những người Spain đầu tiên đến Mexico, những người bản địa đã
được chỉ định để mang những bình nhang đi theo những người Spain bất cứ nơi nào
họ đi đến. Người Spain đã nghĩ đó là một dấu hiệu của sự tôn sùng linh thiêng.
Chúng ta biết từ những dân bản địa rằng họ đã thấy những người mới đến có mùi
không thể chịu nổi.)
Văn hóa vật vất
của những người xa lạ này lại còn khiến những người bản xứ nhiều bối rối hơn. Họ
đến bằng những thuyền khổng lồ, giống những gì người Aztec đã không bao giờ từng
tưởng tượng, chứ đừng nói đến việc đã từng nhìn thấy. Họ cỡi trên lưng những
con vật to lớn và khiếp sợ, nhanh như gió. Họ có thể làm sấm và sét từ những
cây gậy kim loại sáng bóng. Họ có những thanh kiếm dài lấp lánh, và áo giáp
không thể xuyên thủng, chống lại chúng, những kiếm gỗ và giáo gắn đá lửa nhọn của
người bản xứ đều đã là vô dụng.
Một số người
Aztec đã nghĩ rằng đây phải là những gót. Những người khác biện luận rằng họ là
những quỷ thần, hay những hồn ma của những người chết, hoặc những thầy phù thủy
quyền năng. Thay vì tập trung tất cả những lực lượng sẵn có và quét sạch những
người Spain, người Aztec đã chần chừ cân nhắc, chậm chạp phí thì giờ, và đã thương
lượng. Họ đã thấy không có lý do gì để phải vội vàng. Sau tất cả, Cortés đã có
không hơn 550 người Spain với ông ta. 550 người thì có thể làm gì được với một
đế quốc của hàng triệu người? [18]
Cortés dĩ nhiên,
cũng như họ, không biết gì về người Aztec, nhưng ông và những người của ông, đã
nắm được những ưu thế đáng kể so với những đối thủ. Trong khi những người Aztec
đã không có kinh nghiệm để chuẩn bị cho sự xuất hiện của những người trông rất lạ
lùng, như đến từ ngoài hành tinh, và có mùi hôi thối này, những người Spain biết
rằng quả đất là đầy những khu vực gồm những người chưa biết, và không ai có
chuyên môn hơn họ trong việc xâm lược những vùng đất xa lạ và đối phó với những
tình thế vốn họ hoàn toàn không biết gì. Đối với những người Europe đi chinh phục
thời nay, như những nhà khoa học Europe thời nay, lao đầu vào sự không biết đã
là rất sôi nổi thích thú đầy hào hứng.
Vì vậy, khi
Cortés buông neo ngoài khơi bãi biển đầy nắng đó, tháng 7 / 1519, ông đã không
ngần ngừ để hành động. Giống như một người ngoài hành tinh trong truyện khoa học
giả tưởng xuất hiện từ con thuyền vũ trụ của mình, ông tuyên bố với người dân địa
phương kinh hoàng: “Chúng ta đến trong hòa bình. Đưa chúng ta đến người lãnh đạo
của bạn.” Cortés giải thích rằng ông là một sứ giả hòa bình từ vị vua vĩ đại của
Spain, và yêu cầu một cuộc tiếp xúc ngoại giao với người cai trị Aztec,
Montezuma II. (Đây là một lời nói dối vô liêm sỉ. Cortés đã dẫn đầu một đoàn
thám hiểm độc lập gồm những người thám hiểm tham lam. Nhà vua Spain chưa bao giờ
nghe nói về Cortés, cũng như về những người Aztec.) Cortés đã được cho một vài hướng
dẫn, thực phẩm và một số viện trợ quân sự từ những kẻ địch địa phương của những
người Aztec. Sau đó ông tiến về phía thủ đô Aztec, thủ phủ lớn Tenochtitlan.
Người Aztec đã
để những người lạ này đi trên đường đến tận kinh đô, sau đó kính cẩn dẫn người lãnh
đạo của đám này đến gặp hoàng đế Montezuma. Giữa khi đang nói chuyện, Cortés ra
hiệu, và những người Spain trang bị vũ khí sắt thép đã tàn sát những vệ sĩ của
Montezuma (những người võ trang chỉ với những gậy gỗ, và những lưỡi đá sắc).
Người khách danh dự đã bắt giữ người chủ nhà tiếp đón mình làm người tù.
Cortés là
bây giờ trong một tình thế rất tế nhị. Đã bắt được hoàng đế, nhưng Cortés bị đối
phương bao vây, gồm hàng chục ngàn chiến binh giận dữ, hàng triệu thường dân
thù địch, và toàn bộ một lục địa mà Cortés thực sự không biết gì cả. Ông chỉ có
trong tay mình vài trăm người Spain, và lực lượng Spain tiếp viện gần nhất là ở
Cuba, cách đó hơn 1.500 km.
Cortés giữ
Montezuma sống như người tù trong cung điện, nhưng bề ngoài làm như thể nhà vua
vẫn tự do và cai quản, và như thể người “đại sứ của Spain” đã không gì nhiều
hơn là một người khách. Đế quốc Aztec là một chính thể cực kỳ tập trung, và
tình thế chưa từng có này làm nó tê liệt. Montezuma tiếp tục cư xử như ông vẫn
cai trị đế quốc, và tầng lớp những thiểu số chọn lọc ưu tú Aztec đã tiếp tục
tuân lệnh ông, có nghĩa là họ tuân lệnh Cortés. Tình trạng này kéo dài vài
tháng, trong thời gian đó Cortés tra hỏi Montezuma và những tùy tùng của nhà
vua, huấn luyện những người thông dịch một số những ngôn ngữ địa phương khác biệt,
và gửi những đoàn thám hiểm Spain nhỏ đi mọi hướng, để trở thành quen biết với
đế quốc Aztec và những bộ lạc, những dân tộc khác biệt, và những thành phố nó
cai trị.
Cuối cùng nhóm
thiểu số chọn lọc ưu tú của dân Aztec nổi dậy chống lại Cortés và Montezuma, bầu
một vị hoàng đế mới, và đuổi những người Spain khỏi thành Tenochtitlan. Tuy
nhiên, bây giờ đã có rất nhiều vết nứt xuất hiện trong cơ cấu phức tạp của để
quốc. Cortés dùng những kiến thức đã đạt được để nong những vết nứt ra cho lớn
hơn, và cắt đế quốc từ bên trong. Ông đã thuyết phục nhiều dân tộc bị trị của đế
quốc nhập với mình chống lại lớp chọn lọc ưu tú Aztec cầm quyền. Những người bị
trị đã tính sai một cách tai hại. Họ ghét những người Aztec, nhưng không biết
gì về Spain, hay sự diệt chủng những người Spain đã gây ra ở quần đảo Caribbean.
Họ cho rằng với sự giúp đỡ của Spain, họ có thể thoát khỏi ách cai trị của những
người Aztec. Ý tưởng rằng những người Spain sẽ thế chỗ những người Aztec không
bao giờ xảy ra với họ. Họ đã chắc chắn rằng nếu Cortés và vài trăm tay sai của
ông này, nếu gây ra bất kỳ rắc rối nào, đều có thể bị họ áp đảo dễ dàng. Những
dân nổi loạn đã cung cấp cho Cortés một đội quân gồm hàng chục ngàn quân lính
người địa phương, và với sự giúp đỡ của họ, Cortés đã bao vây Tenochtitlan và đã
chiếm kinh thành.
Giai đoạn
này, ngày càng nhiều hơn những quân lính và những người định cư Spain bắt đầu đến
Mexico, một số từ Cuba, những số khác đến thẳng từ Spain. Khi những dân chúng địa
phương nhận ra những gì đã xảy ra thì đã quá muộn. Trong một thế kỷ sau cuộc đổ
bộ ở Vera Cruz, số cư dân bản địa America đã rút xuống, chỉ còn rất ít, đã mất khoảng
90 phần trăm, chủ yếu do những bệnh mới lạ đã đến America cùng những người xâm
lược. Những người bản địa sống sót thấy chính họ dưới sự kiểm soát và điều khiển
của một chế độ tham lam và kỳ thị chủng tộc, còn tồi tệ hơn nhiều so với những
người Aztec.
Mười năm sau
khi Cortés đặt chân lên Mexico, Pizarro đã đến bờ biển của đế quốc Inca. Ông có
rất ít binh sĩ, còn ít hơn cả của Cortés – đoàn viễn chinh của ông chỉ có 168
người! Tuy nhiên, Pizarro đã được hưởng lợi từ tất cả những kiến thức và kinh
nghiệm thu được trong những xâm lăng trước đó. Những người Inca, ngược lại, tuyệt
không biết gì về số phận của những người Aztec. Pizarro đã lấy cắp ý tưởng của Cortés.
Ông tuyên bố mình là một sứ giả hòa bình của vua Spain, mời vua Inca,
Atahualpa, đến một cuộc nói chuyện ngoại giao, và sau đó bắt cóc nhà vua.
Pizarro tiếp tục hành trình chinh phục một đế quốc đã tê liệt, với sự giúp đỡ của
những đồng minh địa phương. Nếu những dân tộc bị trị của đế quốc Inca biết số
phận của những người ở Mexico, họ tất đã không ném hết số phận của họ vào tay
những người xâm lược. Nhưng họ đã không biết.
Những dân tộc
bản địa America không phải là những người duy nhất phải trả một giá đắt cho nhãn
quan địa phương hạn hẹp của họ. Những đế quốc vĩ đại của Asia – Ottoman,
Safavid ở Persai, Mughal ở India, và Tàu – rất nhanh chóng đã nghe rằng những người
Europe đã tìm ra được một gì đó rất lớn. Tuy nhiên, họ cho thấy ít quan tâm đến
những khám phá này. Họ tiếp tục tin rằng thế giới quay quanh Asia, và không có
nỗ lực nào để tranh giành với những người Europe nhằm kiểm soát America hoặc những
đường biển mới ở Atlantic và Pacific. Ngay cả vương quốc nhỏ ở Europe như
Scotland và Denmark cũng đã gửi một vài đoàn thám hiểm loại khám phá-và-chinh
phục tới America, nhưng không một thám hiểm để thăm dò hay chinh phục nào đã từng
gửi tới America từ thế giới Islam, India hay Tàu. Cường quốc không-Europe đầu
tiên đã cố gắng gửi một đoàn thám hiểm quân sự đến America là Japan. Điều đó đã
xảy ra vào tháng Sáu năm 1942, khi một đoàn thám hiểm của Japan đã chinh phục
Kiska và Attu, hai hòn đảo nhỏ ngoài khơi bờ biển Alaska, bắt giữ 10 binh sĩ US
và một con chó. Người Japan không bao giờ tiến được chút gần hơn nào nữa với đất
liền America.
Thật khó có
thể biện luận rằng những người Ottoman hay Tàu đã là quá xa, hoặc là họ thiếu khả
năng kỹ thuật, kinh tế hay quân sự. Những nguồn tài lực đã gửi Zheng He từ Tàu
đến Đông Africa trong những năm 1420 là đã đủ để đến được America. Người Tàu chẳng
qua là đã không quan tâm. Bản đồ thế giới đầu tiên của Tàu cho thấy trong đó có
America đã không được phát hành cho đến tận năm 1602 – và khi đó nhờ một nhà
truyền đạo người Europe!
Trong 300
năm, những người Europe đã vui hưởng làm chủ nhân không thể tranh cãi ở America
và Oceania, ở biển Atlantic và Pacific. Những cuộc đấu tranh đáng kể trong những
vùng đó đã chỉ là giữa những cường quốc Europe khác nhau. Sự giàu có và những tài
nguyên những người Europe đã tích lũy cuối cùng cũng cho họ khả năng xâm lược Asia,
đánh bại những đế quốc của Asia, và chia phần giữa họ với nhau. Khi những người
Ottoman, Persia, India và Tàu tỉnh dậy và bắt đầu chú ý, khi đó đã quá muộn.
Chỉ trong thế
kỷ XX, những văn hoá không-Europe đã tiếp nhận một tầm nhìn toàn cầu thực sự.
Đây đã là một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến sự sụp đổ của quyền bá chủ của
Europe. Thế nên, trong cuộc chiến tranh giành độc lập của Algeria (1954-1962), những
du kích Algeria đã đánh bại một quân đội France có lợi thế áp đảo về số lượng, kỹ
thuật và kinh tế. Những người Algeria đã thắng, vì họ đã được một mạng lưới chống
thực dân toàn cầu hỗ trợ, và vì họ đã tìm ra cách làm thế nào để khai thác
phương tiện truyền thông trên thế giới cho vận động của họ – cũng như dư luận quần
chúng ở chính France. Sự thất trận vốn miền Bắc Việt Nam tí hon đã giáng đòn xuống
khổng lồ USA cũng đã dựa trên một chiến lược tương tự. Những lực lượng du kích này
cho thấy rằng ngay cả những siêu cường cũng có thể bị đánh bại nếu một cuộc đấu
tranh địa phương đã trở thành một vận động toàn cầu. Nó là lý thú để ngẫm nghĩ
về những gì đã có thể xảy ra nếu như Montezuma đã có khả năng để vận động dư luận
công chúng ở Spain, và được sự hỗ trợ từ một trong những đối thủ của Spain – như
Portugal, France, hay đế quốc Ottoman.
Những loài nhện hiếm và những chữ viết không đọc
được
Khoa học thời
nay và những đế quốc thời nay đều đã được một thứ cảm xúc bồn chồn không yên
thúc đẩy rằng có lẽ một gì đó quan trọng chờ đợi ngoài xa kia sau đường chân trời
– một gì đó mà họ tốt hơn nên khám phá và làm chủ. Tuy nhiên, sự liên kết giữa
khoa học và đế quốc đã đi vào sâu hơn nhiều. Không chỉ là động lực, nhưng cũng những
thực hành của những người xây dựng đế quốc đã chằng chịt ràng buộc rối rắm với của
những nhà khoa học. Đối với người Europe thời nay, xây dựng một đế quốc là một
dự án (có tính) khoa học, trong khi thiết lập một ngành khoa học là một dự án (có
tính) đế quốc
Khi người
Muslim chinh phục India, họ đã không mang theo những nhà khảo cổ để nghiên cứu theo
hệ thống về lịch sử India, những nhà nhân chủng học để nghiên cứu văn hóa India,
những nhà địa chất để nghiên cứu thổ nhưỡng India, hay những nhà động vật học
nghiên cứu động thực vật India. Khi người England xâm chiếm India, họ đã làm tất
cả những điều này. Ngày 10/Apr/1802, đã khởi đầu cuộc “Khảo sát Lớn của India” [19] đã được khởi động. Nó kéo dài sáu
mươi năm. Với sự giúp đỡ của hàng chục ngàn người lao động, học giả và người hướng
dẫn bản địa, người England đã cẩn thận lập bản đồ toàn bộ India, đánh dấu biên
giới, đo những khoảng cách, và ngay cả lần đầu tiên tính toán chiều cao chính
xác của Everest và những đỉnh núi Himalaya khác. Người England thăm dò những
nguồn lực quân sự của những tỉnh India, và vị trí của những mỏ vàng của chúng,
nhưng họ cũng gian nan, vượt khó khăn để thu thập thông tin về loài nhện hiếm của
India, để lập danh mục về những loài bướm đầy màu sắc, để truy dõi những gốc cổ
của những ngôn ngữ India đã bị quên mất, và để đào xới những di tích bị bỏ quên.
Mohenjo-daro đã là một trong những thành phố quan trọng
hàng đầu của nền văn minh ở thung lũng sông Indus, đã phát triển thịnh vượng trong
nghìn năm thứ ba TCN, và đã bị huỷ hoại vào khoảng năm 1900 TCN. Không ai trong
số những người cai trị của India trước-Bristish – không phải những Mauryas,
cũng không những Guptas, cũng không những Sultan Delhi, cũng không triều đại những
Mughal vĩ đại – đã ném thêm một cái nhìn thứ hai trên những hoang phế này.
Nhưng một khảo sát về khảo cổ của người England đã chú ý đến di tích này, năm
1922. Một đoàn nghiên cứu người England sau đó đã khai quật, và khám phá được nền
văn minh vĩ đại đầu tiên của India, vốn không người India nào đương thời khi đó
đã biết đến.
Một thí dụ
khác nói về óc tò mò khoa học của người England là sự mở code ẩn trong những chữ hình nêm [20]. Đây là chữ viết chính được dùng khắp
Trung Đông trong gần 3.000 năm, nhưng người cuối cùng có thể đọc được nó, có thể
đã chết khoảng thời gian đâu đó, trong những năm đầu của nghìn năm thứ nhất. Kể
từ đó, dân chúng trong khu vực này thường xuyên gặp những chữ khắc hình nêm,
trên những tượng, dinh thự, bia, di tích cổ và những chậu vỡ. Nhưng họ hoàn
toàn không có một ý tưởng nào về cách đọc những nét khắc lạ, giống những vết trầy
xước có góc cạnh này; và theo như chúng ta biết, họ cũng chưa bao giờ từng cố gắng.
Chữ khắc hình nêm được những người Europe chú ý vào năm 1618, khi người đại sứ của
Spain tại Persia đi thăm những di tích của thành Persepolis cổ, ở đó ông đã thấy
những dòng chữ khắc mà không ai có thể giải thích được cho ông. Tin tức về những
chữ viết không đọc được này đã lan rộng trong giới những nhà bác học Europe, và
khơi động óc tò mò của họ. Năm 1657, những học giả Europe đã công bố bản dịch đầu
tiên của một bản văn chữ hình nêm từ Persepolis. Ngày càng có nhiều bản dịch khác
theo sau, và trong gần hai trăm năm, những học giả phương Tây đã cố gắng để mở code ẩn của chúng. Không ai thành
công.
Trong những
năm 1830, một sĩ quan người England, tên là Henry Rawlinson, đã được gửi đến Persia
để giúp nhà vua (shah) xứ này đào tạo
quân đội Persia theo phong cách Europe. Trong thời gian ông rảnh rỗi, Rawlinson
đã đi thăm khắp Persia, và một ngày ông được một người hướng dẫn địa phương đưa
đến một vách đá trong dãy núi Zagros, và chỉ cho ông thấy Hình Khắc trên Vách đá
Behistun [21] vĩ đại. Cao khoảng 15 mét, rộng 25
mét, nó được khắc cao trên mặt vách đá, theo lệnh của vua Darius I, vào khoảng năm
500 TCN. Nó được viết bằng những chữ hình nêm, trong ba thứ tiếng: tiếng Persia
cổ, tiếng Elamite và tiếng Babylon. Hình khắc trên Vách Đá này là rất quen thuộc
với những người dân địa phương, nhưng không ai có thể đọc được nó. Rawlinson đã
tự thuyết phục rằng nếu ông có thể mở code ẩn những bản văn đó, sẽ cho phép ông
và những học giả khác có thể đọc được rất nhiều những bia ký, và những bản văn vốn
vào thời điểm đó đã được tìm thấy trong vùng Trung Đông, mở một cánh cửa vào một
thế giới cổ đã bị quên mất.
Bước đầu
tiên trong việc mở code ẩn của chữ viết
đã là để đưa ra một bản sao chính xác để có thể gửi về Europe. Rawlinson đã bất
chấp ngay cả cái chết để làm như vậy, leo thang cao với đến những vách đá dốc thẳng
đứng để sao chép những chữ cái kỳ lạ. Ông đã thuê một số người dân địa phương để
giúp ông, đáng chú ý nhất là một cậu bé người Kurd đã trèo đến hầu hết những phần
không thể trèo đến được của vách đá, để sao chép những phần trên vòm của những
ghi khắc. Năm 1847, dự án đã hoàn tất, và một bản sao đầy đủ và chính xác đã được
gửi về Europe.
Rawlinson đã
không ngưng nghỉ ngơi trên vòng laurels
[22] của mình. Là một sĩ quan quân đội,
ông phải thực hiện những nhiệm vụ quân sự và chính trị, nhưng bất cứ khi nào
ông có chút thì giờ rảnh rỗi, ông hết sức suy nghĩ về thứ chữ viết bí mật, khó
khăn này. Ông đã cố gắng thử phương pháp này đến phương pháp kia, và cuối cùng đã
thành công mở code ẩn phần tiếng Persia cổ của những ghi khắc trên vách núi.
Đây là đơn giản nhất, vì tiếng Persia cổ đã không khác biệt mấy so với tiếng Persia
thời nay, vốn Rawlinson biết rõ. Một hiểu biết của phần Persian cổ đã cho ông
chìa khóa cần thiết để mở khóa những bí mật của những phần tiếng Elamite, và Babylon.
Cánh cửa lớn mở toang, và vội vã đi ra những tiếng nói cổ xưa, nhưng sống động
– những hàng quán náo nhiệt của người Sumer, những tuyên bố của những vị vua
Assyrian, những lập luận của những giới chức thành Babylon. Nếu không có nỗ lực
của những con người trong đế quốc Europe thời nay, như Rawlinson, chúng ta sẽ
không biết nhiều về số phận của những đế quốc Trung Đông thời cổ.
Một học giả khác
đáng ghi nhận là William Jones. Jones đã tới India vào tháng Sep/ 1783 để phục
vụ như một thẩm phán tại Tòa án tối cao của Bengal. Ông đã được những kỳ diệu của
India quyến rũ say đắm, trong vòng chưa đầy sáu tháng sau khi đến nơi, ông đã
thành lập Học hội Asia. [23] Tổ chức học tập này được dành để
nghiên cứu những nền văn hóa, lịch sử và xã hội của Asia, và đặc biệt là của India.
Trong vòng hai năm, Jones công bố những khảo sát của ông về ngôn ngữ Sanskrit, đi tiên phong trong khoa học về
ngôn ngữ học so sánh [24].
Trong những ấn
phẩm của ông, Jones đã chỉ ra sự tương đồng đáng ngạc nhiên giữa Sanskrit, ngôn ngữ India thời cổ vốn đã
trở thành tiếng mẹ thiêng liêng của nghi lễ Hindu, và những ngôn ngữ của Greece
và Latin, cũng như những tương đồng giữa tất cả những ngôn ngữ này và tiếng Gothic,
Celtic, tiếng Persia, tiếng Germany, tiếng France và tiếng England. Thế nên,
trong Sanskrit, ‘mẹ’ là ‘matar’, trong tiếng Latin nó là ‘mater’, và trong Celtic cổ nó là ‘mathir’. Jones đã phỏng đoán rằng tất cả
những ngôn ngữ này tất phải có chung một nguồn gốc, phát triển từ cùng một tổ
tiên cổ, nay đã bị quên mất. Như thế, ông là người đầu tiên, ấn định những gì
sau này được gọi là hệ ngôn ngữ Ấn-Âu.
Nghiên cứu của
Jones là một dấu mốc quan trọng, không chỉ đơn thuần là do giả thuyết táo bạo
(và chính xác) của ông, những cũng do những phương pháp theo trình tự ông đã
phát triển để so sánh những ngôn ngữ. Nó đã được những học giả khác chấp nhận, khiến
họ có được khả năng để nghiên cứu hệ thống sự phát triển của tất cả những ngôn
ngữ trên thế giới.
Ngôn ngữ học
nhận được sự hỗ trợ quyền thế nhiệt tình. Những đế quốc Europe tin rằng để cai
trị hiệu quả, họ phải biết những ngôn ngữ và văn hóa của những đối tượng bị trị
của họ. Những công chức người England đến India đã được cho là phải dành đến ba
năm trong một trường đại học Calcutta, nơi mà họ học hỏi luật của đạo Hindu và đạo
Islam bên cạnh luật của England; Sanskrit, Urdu và Persia cùng với tiếng Greece
và Latin; và văn hóa tiếng Tamil, Bengali và Hindustani cùng với toán học, kinh
tế và địa lý. Nghiên cứu về ngôn ngữ học cung cấp sự giúp đỡ vô giá trong việc
hiểu rõ cấu trúc và ngữ pháp của những ngôn ngữ địa phương.[25]
Nhờ công việc
của những người như William Jones và Henry Rawlinson, những người Europe xâm lược
biết đế quốc của họ rất rõ. Hơn nữa, thực vậy còn hiểu rõ, hơn bất kỳ những người
xâm lược nào rước đó, hay hơn ngay cả chính dân bản xứ [26]. Tri thức vượt trội của họ có lợi
thế thực tế rõ ràng. Nếu không có kiến thức như vậy, có nhiều phần không xảy
ra là một số rất nhỏ người England đã có thể thành công trong việc cai quản,
đàn áp và khai thác khối đông đảo hàng trăm triệu người India, trong hai thế kỷ.
Trong suốt thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, ít hơn 5.000 viên chức người England,
khoảng 40,000-70,000 quân lính người England, và có lẽ thêm 100.000 những người
giới kinh doanh England, cùng tuỳ tùng, vợ con là đủ để chinh phục và thống trị
tổng số lên đến 300 triệu người India. [27]
Tuy nhiên,
những lợi thế thực tiễn này đã không phải là lý do duy nhất khiến những đế quốc
đã tài trợ nghiên cứu về ngôn ngữ học, thực vật học, địa lý và lịch sử. Không
kém phần quan trọng đã là sự kiện rằng khoa học đã đem cho những đế quốc sự biện
minh qua hệ ý thức. Người Europe thời nay đều tin rằng có được kiến thức mới
là luôn luôn tốt. Sự kiện rằng những đế quốc sản xuất một dòng liên tục của tri
thức mới đã dán nhãn cho chúng là những gánh vác lớn lao đầy tiến bộ và tích cực.
Ngay cả ngày nay, lịch sử của những khoa học như địa lý, khảo cổ học và thực vật
học không thể tránh khỏi nhắc đến công lao của những đế quốc Europe, ít nhất là
gián tiếp. Lịch sử của thực vật học có rất ít để nói về sự đau khổ của người thổ
dân Australia, nhưng thường tìm một vài lời tử tế nói về James Cook và Joseph
Banks.
Hơn nữa, những
kiến thức mới được những đế quốc đã tích lũy bởi đã khiến có thể, ít nhất là
về mặt lý thuyết, để làm lợi cho dân chúng bị chinh phục, và mang lại cho họ những
lợi ích của sự “tiến bộ” – để cung cấp cho họ y tế và giáo dục, để xây dựng những
tuyến đường sắt và kinh đào, để bảo đảm công bình và thịnh vượng. Những người đế
quốc tuyên bố rằng đế quốc của họ không phải là những doanh nghiệp bao la của khai
thác bóc lột, nhưng đúng hơn là những dự án vị tha, đã thực hiện vì lợi ích của
những chủng tộc không-Europe – trong những lời của Rudyard Kipling, “Gánh nặng
của Người Da Trắng”:
Khoác lên gánh nặng của Người Da Trắng -
Gửi tới những dòng dõi tốt nhất của bạn -
Hãy buộc những con trai bạn vào lưu vong
Để phục vụ nhu cầu của những kẻ bạn giam giữ ;
Để phục dịch trong những yên cương nặng nề,
Trên đám người xao xuyến phập phồng và man dại -
Dân chúng mặt u sầu, mới-bắt của bạn,
Nửa-quỉ ma, và nửa-con trẻ.
Dĩ nhiên, những
sự kiện thường đi ngược lại huyền thoại này. Người England đã chinh phục
Bengal, tỉnh giàu nhất India, trong 1764. Những nhà cai trị mới đã quan tâm rất
ít với những gì ngoại trừ làm giàu bản thân. Họ đã thông qua một chính sách
kinh tế tai hại khiến một vài năm sau đó đã dẫn đến sự bùng nổ của Nạn Đói lớn Bengal.
Nó bắt đầu vào năm 1769, đạt mức độ thảm khốc trong năm 1770, và kéo dài cho đến
năm 1773. Có khoảng 10 triệu người Bengal, một phần ba dân số của tỉnh, đã chết
trong thảm hoạ này. [28]
Sự thực,
không phải là câu chuyện của áp bức và bóc lột, cũng không phải của “Gánh nặng
của Người Da Trắng” hoàn toàn thuận hợp với những sự kiện thực tại. Những đế quốc
Europe đã làm rất nhiều những sự việc khác biệt trên một quy mô lớn rộng như vậy,
khiến bạn có thể tìm thấy nhiều những thí dụ để ủng hộ bất cứ gì bạn muốn nói về
chúng. Bạn nghĩ rằng những đế quốc này là tàn ác quái đản như quỉ, đã reo rắc chết
chóc, áp bức và bất công trên thế giới? Bạn có thể dễ dàng lấp đầy một bộ bách
khoa toàn thư với những tội ác của chúng. Bạn muốn lập luận rằng trên thực tế chúng
đã cải thiện những điều kiện sinh sống của những đối tượng bị trị của chúng, với
những loại thuốc mới, những điều kiện kinh tế tốt hơn, và an ninh trật tự lớn
hơn? Bạn có thể lấp đầy một bộ bách khoa toàn thư khác, với những thành tựu của
chúng. Nhờ vào sự hợp tác chặt chẽ với khoa học, những đế quốc này nắm giữ quá
nhiều quyền lực và đã thay đổi thế giới, đến một mức độ mà có lẽ chúng có thể
không chỉ giản dị được dán nhãn là tốt hay xấu. Chúng đã tạo ra thế giới như
chúng ta biết nó, bao gồm cả những hệ ý thức chúng ta dùng để đánh giá chúng.
Nhưng khoa học
cũng được những con người của những đế quốc đã dùng để hướng tới những mục đích
u tối hơn. Những nhà sinh học, nhân chủng học và ngay cả cả những nhà ngôn ngữ đã
được cung cấp bằng chứng khoa học rằng người Europe là vượt trên tất cả những
chủng tộc khác, và do đó có quyền (nếu không có lẽ, là nhiệm vụ) để cai trị họ.
Sau khi William Jones lập luận rằng tất cả những ngôn ngữ Ấn-Âu bắt nguồn từ một
ngôn ngữ sơ khai duy nhất, nhiều học giả đã háo hức để khám phá xem ai dân tộc
nào là những người đã từng nói ngôn ngữ đó. Họ nhận thấy rằng những người nói
tiếng Sanskrit sớm nhất, là những người từ Trung Asia đã xâm chiếm India hơn
3.000 năm trước, họ đã tự gọi mình là
Arya. Những người nói tiếng Persia đầu tiên, đã tự gọi mình là Airiia. Những học giả Europe do đó phỏng
đoán rằng những người nói ngôn ngữ nguyên thủy, vốn đã sinh ra cả Sanskrit lẫn
tiếng Persia (cũng như Greek, Latin, Gothic và Celtic) đã phải tự gọi mình là
người Aryan. Nó có thể là một trùng hợp
ngẫu nhiên hay không nếu những người đã sáng lập những văn minh tuyệt vời của
India, Persia, Greece và Rome, đều tất cả là những người Aryan?
Tiếp theo, những
học giả người England, France và Germany đã kết hôn lý thuyết ngôn ngữ về những
người Aryan siêng năng cần mẫn khéo kỹ thuật, với thuyết chọn lọc tự nhiên của
Darwin, và nêu lên rằng những Aryan đã không chỉ là một nhóm ngôn ngữ, nhưng cũng
là một thực thể sinh học – một chủng tộc. Và không chỉ một chủng tộc bất kỳ
nào, nhưng một chủng tộc sinh ra để làm chủ, vóc dáng cao, tóc vàng, mắt xanh,
làm việc chăm chỉ, và là những con người hết sức duy lý trí, là giống người đã nổi
lên từ sương mù Bắc Europe, để đặt những nền tảng cho văn hóa trên toàn thế giới.
Đáng tiếc, người Aryan đã xâm chiếm India và Persia, đã kết hôn với người bản xứ
địa phương mà họ gặp trong những vùng đất này, mất đi màu da trắng và mái tóc
vàng, và mất cùng với chúng óc duy lý và tính cần mẫn của họ. Những nền văn
minh India và Persia sau đó như thế đã suy tàn. Tại Europe, mặt khác, những người
Aryan đã gìn giữ được sự thuần chủng của họ. Đây là lý do khiến những người
Europe đã thành công trong sự chinh phục thế giới, và tại sao họ thích hợp với
việc cai trị thế giới – miễn là họ phải cẩn thận đề phòng, đừng để pha trộn với
những chủng tộc thấp kém.
Những thuyết
kỳ thị chủng tộc loại như vậy, nổi bật và được ngưỡng mộ trong nhiều chục năm,
đã trở thành bị ghét cay ghét đắng, như một nguyền rủa chung giữa những nhà
khoa học và chính trị. Con người tiếp tục tiến hành một cuộc đấu tranh anh dũng
chống sự kỳ thị chủng tộc mà không nhận thấy rằng cục diện mặt trận đã thay đổi,
và rằng chỗ đứng của kỳ thị chủng tộc trong tư tưởng đế quốc hiện đã được thay
thế bằng “kỳ thị văn hoá”.[29] Không có từ ngữ như vậy, nhưng đã đến
lúc chúng ta ghép đặt ra nó. Trong giới chọn lọc ưu tú của thời nay, những khẳng
định về những giá trị tương phản của những nhóm người khác biệt, gần như luôn
luôn diễn đạt về sự khác biệt lịch sử giữa những nền văn hóa, chứ không phải là
sự khác biệt sinh học giữa những chủng tộc. Chúng ta không còn nói, “Nó ở trong
máu của họ.” Chúng ta nói, “Đó là trong văn hóa của họ.”
Thế nên, những
đảng cánh hữu Europe, vốn phản đối sự nhập cư của những người Muslim, thường cẩn
thận để tránh nhắc đến từ ngữ kỳ thị chủng tộc. Những người soạn diễn văn của Marine
le Pen [30] sẽ bị tống ra cửa, ngay tại chỗ, nếu
họ đề nghị lãnh tụ của Mặt trận Quốc gia lên truyền hình để tuyên bố rằng, “Chúng
ta không muốn những dân Semite thấp
hèn đó pha loãng máu Aryan của chúng ta, và làm hư hoại văn minh Aryan của
chúng ta.” [31] Thay vào đó, Mặt trận Quốc gia France, Đảng Dutch
cho Tự do, Liên minh vì Tương lai của Austria, và những gì giống như họ, có
khuynh hướng biện luận rằng văn hóa phương Tây, như nó đã tiến hoá ở Europe, được
đặc trưng bởi những giá trị dân chủ, khoan dung và bình đẳng giới tính, trong
khi đó văn hóa Muslim, đã tiến hoá ở Trung Đông, được đặc trưng bởi chính trị phân
chia thứ bậc, óc cuồng tín, và ghét phái nữ. Bởi hai nền văn hóa rất khác biệt,
và bởi nhiều người nhập cư Muslim không muốn (và có lẽ không thể) tiếp nhận những
giá trị của phương Tây, họ không nên được cho phép nhập cư, kẻo họ kích động những
xung đột nội bộ, và ăn mòn nền móng của dân chủ và chủ nghĩa tự do của Europe.
Những lập luận
của những người kỳ thị văn hoá như vậy
được bồi thêm dưỡng chất bằng những nghiên cứu khoa học, trong khoa học nhân
văn và khoa học xã hội, vốn nhấn mạnh nổi bật vào những gì được gọi là sự đụng
độ của những nền văn minh, và sự khác biệt nền tảng giữa những văn hóa khác biệt.
Không phải tất cả những nhà sử học và nhân chủng học đều chấp nhận những lý
thuyết này, hay ủng hộ những xử dụng chính trị của chúng. Nhưng trong khi những
nhà sinh học ngày nay có một thời gian dễ dàng từ bỏ sự kỳ thị chủng tộc, giản
dị là sự giải thích rằng khác biệt sinh học giữa những quần thể con người ngày
nay là rất nhỏ nhặt, nó là khó khăn hơn cho những nhà sử học và nhân chủng học
để khước từ kỳ thị văn hoá. Sau tất cả, nếu sự khác biệt giữa những văn hóa của
con người là nhỏ nhặt tầm thường, tại sao chúng ta phải trả công cho những nhà
sử học và nhân chủng học để nghiên cứu chúng?
Những nhà
khoa học đã cung cấp cho những dự án đế quốc với kiến thức thực tiễn, biện
minh hệ ý thức và những tiện ích kỹ thuật. Nếu không có sự đóng góp này sẽ rất
đáng ngờ nếu Europe đã có thể chinh phục được thế giới. Những người đi xâm
lăng, chinh phục đã đền đáp bằng cung cấp cho những nhà khoa học những dữ liệu thông
tin và sự bảo vệ, hỗ trợ tất cả những loại dự án kỳ lạ và hấp dẫn, và quảng bá
cách suy nghĩ khoa học đến những góc xa xôi của quả đất. Nếu không có sự ủng hộ
của đế quốc, đó là nghi ngờ liệu khoa học thời nay đã có thể tiến rất xa. Có rất
ít những lĩnh vực khoa học mà đã không bắt đầu đời sống của chúng như những bầy
tôi trung thành của sự bành trướng đế quốc, và đã không mang nợ một tỉ lệ rất lớn
của những khám phá, sưu tập, dinh thự và những tài trợ công trình nghiên cứu
hàn lâm thông thái của chúng với sự giúp đỡ hào phóng của những sĩ quan quân đội,
thuyền trưởng hải quân và những thống đốc thuộc địa.
Điều này rõ
ràng không phải là toàn bộ câu chuyện. Khoa học đã được những tổ chức khác hỗ
trợ, không chỉ những đế quốc. Và những đế quốc Europe đã nổi lên và đã phát triển
mạnh mẽ cũng nhờ những yếu tố khác hơn khoa học. Đằng sau sự gia tăng nhanh
chóng của khoa học và đế quốc, ẩn núp một sức mạnh quan trọng đặc biệt: chủ
nghĩa tư bản. Nếu đã không vì những doanh nhân tìm cách kiếm tiền, Columbus tất
đã không tới America, James Cook đã không đến Australia, và Neil Armstrong hẳn
đã không bao giờ làm được bước đi ngắn đó trên mặt trăng.
16
Tín ngưỡng Tư bản
Tiền đã là bản
chất thiết yếu cho cả xây dựng những đế quốc lẫn thúc đẩy khoa học. Nhưng có phải
tiền là mục tiêu cuối cùng của những công trình đảm đương lớn lao này, hay có lẽ
chỉ là một sự cần thiết nguy hiểm?
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Apr/2015 - đọc lại Oct/2018)
(Apr/2015 - đọc lại Oct/2018)
[1] của một chấm đen in trên nền mặt trời
[2] James Cook (1728-1779) thuyền trưởng hải
quân hoàng gia England, nhà thám hiểm, nhà chuyên môn bản đồ học nổi tiếng. Ông
đã thực hiện nhiều thám hiểm tới những biển Pacific, Antarctic, Arctic, và vòng
quanh thế giới.
Hành trình
đầu tiên (1768-1771), ông đi thuyền tới Tahiti để quan sát Venus khi nó đi
ngang qua giữa Quả đất và Mặt trời (để cố gắng xác định khoảng cách giữa Quả
đất và Mặt trời). Trong chuyến đi này, ông cũng lập bản đồ New Zealand và Đông
Australia. Thám hiểm thứ hai (1772-1775) đã đưa ông đến Antarctica và đảo
Easter. Thám hiểm cuối cùng (1776-1779) với ý định tìm kiếm một đường hàng hải
Tây bắc Bắc America đến Asia. Không thành công, về đến quần đảo Sandwich
(Hawaii), và ở đây ông đã bị một đám đông thổ dân giết chết, khi đang cố gắng
bắt giữ một tù trưởng dân địa phương làm con tin, để đòi lại một chiếc thuyền
buồm bị họ đánh cắp.
[3] [Stephen R. Bown,
Scurvy: How a Surgeon, a Mariner and a
Gentleman Solved the Greatest Medical Mystery of the Age of Sail (New York:
Thomas Dunne Books, St. Martin’s Press, 2004); Kenneth John Carpenter, The His tory of Scurvy and Vitamin C (Cambridge: Cambridge University Press,
1986).]
[4] [James Cook, The Explorations of Captain James Cook in
the Pacific, as Told by Selections of his Own Journals 1768–1779, ed.
Archibald Grenfell Price (New York: Dover Publications, 1971), 16–17; Gananath
Obeyesekere, The Apotheosis of Captain
Cook: European Mythmaking in the Pacific (Princeton: Princeton University
Press, 1992), 5; J. C. Beaglehole, ed., The Journals of Captain James Cook on
His Voyages of Discovery, vol. 1 (Cambridge: Cambridge University Press, 1968),
588]
[5] Diệt chủng ở Tasmania: Tasmania là một hòn đảo núi ngoài khơi,
cách bờ biển nam Australia 320 km, bởi một vùng biển nhiều bão tố, eo biển
Bass. Tasmania được hình thành khoảng 10.000 năm trước, khi thời kỳ băng hà cuối
cùng kết thúc, và mực nước biển trên thế giới dâng cao khoảng 130 mét, làm chìm
giải đất nối liền đảo này với lục địa Australia. Khoảng 25,000 năm trước đó, những
thổ dân từ đông nam Australia đã băng qua giải đất này, đến định cư ở
Tasmania. Người Europe tìm ra nó vào năm 1642, khi ấy, họ ước định có khoảng
6.000 người sống trên đảo, nguồn gốc tương tự như những thổ dân Australia. Dân
trên đảo sử dụng những khí cụ thời nguyên thuỷ, cổ xưa hơn bất cứ dân tộc nào
khác được biết trong thời hiện đại, họ chế tạo chỉ một vài công cụ đơn giản bằng
gỗ và đá, vẫn sinh hoạt theo một kinh tế hái lượm săn bắt thời cổ, dù linh động
với những thay đổi khí hậu đột ngột, và biến đổi địa hình lớn lao, đã giúp họ tồn
tại, suốt 10.000 năm, nhưng không có tiếp xúc nào với thế giới bên ngoài, hoàn
toàn cô lập với phần còn lại của loài người, cho đến khi người Europe bắt đầu đặt
chân lên đảo này.
Tương tự như ở
Australia, nơi hàng trăm bộ lạc thổ dân bị tiêu diệt sau khi thực dân England
xâm chiếm lục địa này, nơi những thổ dân đã có một đời sống rất khác biệt với
hàng ngàn người England định cư ở Australia vào đầu thế kỷ 19. Những người định
cư đã thành lập những trang trại bao la, trên những gì đã từng là vùng đất nông
nghiệp tập thể của những người bản địa, dẫn đến những tranh chấp, thách thức và
cuối cùng phá hủy xã hội du mục của dân bản địa. Những xung đột dẫn đến những
phản ứng bạo động giữa cả hai bên, tuy nhiên những người định cư đã thắng thế dễ
dàng, những dân cư bản địa bị đẩy xa đến những vùng hẻo lánh hơn, khí hậu khắc
nghiệt hơn, kém màu mỡ hơn. Sau một chuyến thăm Australia, Charles Darwin cho
biết, “cái chết theo đuổi những người bản địa ở mọi nơi có bước chân người
Europe.” Ông đã gặp những người Europe định cư trên những vùng đất săn bắn và
hái lượm, và những vùng mộ địa thiêng liêng của những dân bản địa. Những người
định cư Europe đã trục xuất người dân bản địa khỏi đất đai của họ, và trong quá
trình đó, nhiều thổ dân đã bị chết vì bệnh tật, vì họ không có khả năng miễn dịch
với những bệnh người Europe mang đến, vì đói, và vì bị săn lùng giết hại, trong
một cuộc đấu tranh quyền lực vô vọng. Nói chung,người England , cũng như những
thực dân da trắng Europe khác, đã nhìn những thổ dân da màu thuộc địa, như những
chủng tộc thấp kém hơn, và đối xử với họ rất tàn nhẫn.
Xung đột đầu tiên
giữa thổ dân Tasmania và người Europe là vào năm 1772, khi những thuỷ thủ người
Pháp, do Marion du Fresne dẫn đầu, đã đổ bộ ngắn ngủi lên bờ biển phía đông
Tasmania (Marion du Fresne bị thương ở Tasmania, và 3 tháng sau, bị thổ dân
Maori giết ở quần đảo New Zealand). Hơn ba mươi năm kế tiếp, những người Europe
thỉnh thoảng đã đến bờ biển Tasmania, và đã có những xung đột giữa những thổ
dân Tasmanian và những người mới đến, những xung đột thường liên quan đến đất
đai hay phụ nữ, hai đối tượng thèm muốn của những người thực dân Europe. Nhưng
xung đột đã bùng nổ lớn rộng, chỉ sau khi người England thiết lập định cư vĩnh
viễn trên bờ sông Derwent, Tasmania,vào tháng 9/1803, hai mươi lăm năm sau cuộc
đổ bộ lên Botany Bay ở New South Wales, Australia. Trong ý định thiết lập một nền
kinh tế nông nghiệp, họ đã chở đến Tasmania những tội phạm đã bị đẩy khỏi lục địa
Australia vì đã phạm những tội nghiêm trọng để cung ứng nhân lực lao động, và một
số lượng nhỏ những thợ săn hải cẩu, và săn cá voi, Cuộc gặp gỡ này giữa hai quần
thể dân cư cực kỳ khác nhau đã là “giết người” ngay từ đầu. Xung đột chết người
đầu tiên ngày nay được gọi là “Thảm sát Risdon”, đã mở đầu cho những gì lớn rộng
hơn, được gọi là “chiến tranh với người da đen” diễn ra sau đó. Đến giữa năm
1820 nhữngngười England định cư đã toả rộng khắp đảo Tasmania, với nông nghiệp
và chăn nuôi, lên cả vùng đất cao Highland Lakes. Trong khi những đại điền chủ
xâm chiếm những vùng đất săn bắn công cộng của thổ dân với một nỗ lực nhằm trục
xuất họ khỏi lãnh thổ sinh sống của họ, những người làm công trồng tỉa và chăn
nuôi đã săn bắt những phụ nữ và trẻ em, trẻ người bản xứ, trẻ em cho nhu cầu nô
lệ lao động, và phụ nữ cho nhu cầu tình dục, hoặc bằng vũ lực hoặc bằng trao đổi
như hàng hóa. Đương nhiên những người Tasmania chống trả, họ đã tấn công những
trang trại và nông dân, gia súc và những người chăn nuôi, giết, đốt và phá hủy
bất cứ gì họ có thể. Nhữngngười England phản ứng mạnh mẽ và triệt để hơn. Người
England có vũ khí nên thắng thế dễ dàng, những người Tasmania rút về chiến thuật
du kích, vốn họ thành thạo ẩn nấp và phục kích trên địa hình quen thuộc của họ.
Đối với những người Tasmania đầu tiên là gắng đẩy lui những người mới đến khỏi
lãnh thổ của mình, nhưng với nhữngngười England , mục tiêu là tiêu diệt những
thổ dân Tasmania. Họ bắn những người Tasmania, “như bắn chim sẻ”. Một người
chăn cừu đơn độc giết 19 người Tasmania với một khẩu súng trường. Bốn người
chăn cừu khác phục kích một nhóm người bản địa, giết chết 30 người, ném xác xuống
vách đá ngày nay gọi là Victory Hill.
Những người
Tasmania đã cố gắng chống trả, và như là một phần của nỗ lực để ngăn chặn sự
leo thang chiến tranh, tháng 4/1828 thống đốc Arthur ra lệnh rằng tất cả người
Tasmania phải rời khỏi những phần đất trên đảo có người Europe định cư. Để thực
thi sắc lệnh này, chính phủ thuộc địa đã lập những “đội tuần tra” gồm những tù
nhân do cảnh sát dẫn đầu. Những đội tuần tra này đã săn đuổi và giết hại những
người Tasmania, vì những binh sĩ có quyền, ngay lập tức, giết bất kỳ người
Tasmania nào, họ gặp trong những khu vực định cư. Sau đó, một mức giá được ấn định
cho mỗi đầu người thổ dân: năm bảng England cho một người lớn, hai bảng cho một
đứa trẻ bị bắt sống. Những đuổi bắt này đã được biết đến như là “đánh bắt người
da đen”. Nó đã trở thành một công việc kinh doanh cho cả những đội tuần tra tư
nhân và chính phủ. Những người xâm lược gồm những dân thuộc địa, quân đội lẫn
tư nhân. Một ủy ban đã được thành lập để nghiên cứu một chính sách chính thức về
vấn đề đối xử với dân bản địa. Những chọn lựa đưa ra là: (a) bắt những người bản
địa và bán họ như những nô lệ, (b) đầu độc họ, và (c) dùng chó săn để săn bắt,
đánh bẫy, hay bắn chết họ. Cuối cùng, ủy ban quyết định tiếp tục dùng cảnh sát
đi lùng bắt và giải thưởng như trên.
Khởi đầu, số những
kẻ đến định cư xâm chiếm đất đai còn thấp, nhưng đã tăng lên đến 3.000 vào năm
1818, 13.000 vào năm 1824, và 23.500 vào năm 1830, trong đó 75% là những tội
nhân đã có tiền án. Cùng với sự gia tăng dân số định cư, số cừu chăn nuôi cũng
tăng theo, từ con số không vào năm 1803, đến 54.000 vào năm 1816, đến một triệu
vào năm 1830. Tới năm 1830 tất cả những khu vực săn bắn lớn của thổ dân đã bị
xâm chiếm. Năm 1803, dân số thổ dân là khoảng 6.000, đến năm 1818 chỉ còn ít
hơn 2000 người, và đến năm 1829 chỉ còn khoảng 400 người Tasmania. Vào năm
1830, George Augustus Robinson, một nhà truyền giáo đã được giao nhiệm vụ, có
chính phủ thuộc địa tài trợ, để gom nhặt tất cả những dân bản địa Tasmania còn
lại, và đưa họ đến tập trung trên một hòn đảo nhỏ, Flinders, 50 km phía bắc đảo
Tasmania.
Robinson dù được
trả công một số tiền lớn, nhưng đã hành động không phải không có thiện ý đối với
những người Tasmania. Được một phụ nữ bản xứ là Truganini giúp đỡ, ông đã tập hợp
được những người bản địa còn lại, trước bằng sự thuyết phục rằng số phận của họ
sẽ tồi tệ hơn nếu họ không đầu hàng, và sau bằng những đe dọa dữ dội. Nhiều
trong số những người này đã chết trên đường đi đến trại tập trung; chỉ một số
khoảng 200 sống sót. Từ năm 1832, số người sống sót này, đã được đưa tới một
nhà tù ngoài trời, tại một địa điểm gọi là Wybalenna, trên đảo Flinders, trong
eo biển Bass. Ở đảo Flinders, Robinson đã tìm cách để đổi đạo, và để giáo dục
“văn minh” cho những người sống sót này. Hòn đảo được điều hành tương tự như một
nhà tù lộ thiên. Điều kiện sống rất khắc nghiệt, liên tục dưới gió bão, và hầu
như không có nước ngọt. Trẻ em buộc phải sống tách biệt khỏi cha mẹ, để tạo điều
kiện cho việc học tập theo”văn minh” của người Europe Kitô. Khan hiếm thức ăn dẫn
đến thiếu dinh dưỡng, và bệnh tật xuất hiện, tất cả như tiếp tay vào việc giết
chết những người bản địa nhanh hơn, và nhiều hơn. Đến năm 1847, như một biện
pháp cắt giảm chi phí, 45 người sống sót còn lại của trại đã được chuyển về
Oyster Cove, phía nam của Hobart, và đặt họ trong một trại tù vốn đã bị bỏ
hoang từ lâu, vì nó luôn luôn ẩm ướt và bị mối đục khoét. Người cuối cùng, xem
như thừa kế trọn vẹn huyết thống của 6000 thổ dân Tasmania mới 80 năm trước, là
một phụ nữ, bà Truganini, đã qua đời ở Hobart, thủ đô Tasmania, vào năm 1876.
[6] [“Mark, Origins of the Modern World, 81.]
[7] [Christian, Maps of Time, 436.]
[8] Hussein Pasha: Đô đốc Hussein Pasha: tư lệnh
hạm đội Ottoman, còn nhắc tên trong trong hải chiến Tendra, tháng 9/1790, biển
Black Sea, trong chiến tranh Russia-Turk (1787-1792).
Wan Zhengse: Zheng
He (1371-1433/1435 ), hay Cheng Ho (Trịnh Hòa), người Muslim (Hui), thái giám,
nhà hàng hải, nhà thám hiểm, nhà ngoại giao, và đô đốc hải quân trong thời kỳ đầu
nhà Minh nước Tàu. Zheng chỉ huy một đoàn tàu ngoại giao, gồm 7 chuyến đi, những
năm 1405-1433, từ Tàu sang Trung Đông, theo con đường biển thương mại sẵn có, dọc
theo những quốc gia trong vùng biển Đông Nam Asia, Nam Asia, Trung Đông, và
Đông Africa.
[9] [John Darwin, After Tamerlane: The Global History of
Empire Since 1405 (London: Allen Lane, 2007), 239.]
[10] [Soli Shahvar,
‘Railroads i. The First Railroad Built and Operated in Persia’, in the Online
Edition of Encyclopaedia Iranica,
last modified 7 April 2008, http://www.iranicaonline.org/articles/railroads-i;
Charles Issawi, ‘The Iranian Economy 1925–1975: Fifty Years of Economic
Development’, in Iran under the Pahlavis,
ed. George Lenczowski (Stanford: Hoover Institution Press, 1978), 156.]
[11] Như vậy, Việt nam thời Nguyễn nằm trong
trường hợp chung của Asia Africa chậm tiến, chỉ trừ Nhật bản Meiji là một
trường hợp ngoại lệ?
[12] East Indies - gần đây có những ‘chuyện kể’ mới – cho rằng tên gọi West Indies là để
phân biệt với East Indies – cả hai nằm trên cùng vĩ tuyến
[13] Chúng ta, theo phiên âm Tàu!, với Tàu, America khi là châu Mỹ (美洲), khi là USA (美国) như trong United States of America. Theo
tôi không nên dịch những tên gọi, người hay đất, nhưng giữ tên gốc: châu
America, nước U.S. Người Tàu gọi những nước láng giềng của chúng ta như
Thailand, Lào, Campuchia, Malaysia, bằng cách đặt tên cho họ, không gọi như họ
tự xưng (Thái quốc, Lão qua, Cao Mên, Mã lai Tây á - 泰国, 老挝, 高棉, 马来西亚),may mắn là chúng ta không theo Tàu!; Khi
gọi tên một nước theo âm Tàu (Gia nã đại, Ái Nhĩ Lan, Mễ Tây Cơ, Á Căn Đình...)
có thể có nghĩa là chúng ta, có tri thức hạn hẹp, không trực tiếp biết về những
nước đó, nhưng chỉ biết qua người Tàu, nhìn thế giới qua mắt của Tàu! Thêm nữa,
nếu phiên âm, dùng phiên âm trực tiếp của chúng ta thì hay hơn ( Ca-na-da, Ai
rơ lân, Méc-xi-cô, Ác-giăng-ti-na,..)
[14] Amerigo Vespucci (1454-1512) là một nhà
thám hiểm người Italy, người đầu tiên nhận ra châu America tách biệt với lục
địa Asia. Châu America đã được đặt theo tên ông năm 1507, khi nhà làm bản đồ
người Germany là Martin Waldseemüller, cho in bản đồ đầu tiên đã dùng tên “America”
để gọi Thế giới Mới.
Trong
chuyến thám hiểm đầu tiên của ông (cho Spain, 1499-1500), Vespucci là hoa tiêu
dưới dưới sự chỉ huy của Alonso de Ojeda. Trong chuyến đi này, Ojeda và
Vespuzci đã tìm ra những cửa sông Amazon và Orinoco ở Nam America, nhưng vẫn
còn nghĩ đó là phần của Asia. Trong chuyến thám hiểm thứ hai của ông (cho
Portugal, 1501-1502 ), ông vẽ bản đồ một số bờ biển phía đông của Nam America,
và khi đó, mới nhận ra nó không phải là phần của Asia, nhưng của một Thế giới
Mới.
[15] [Mark, Origins of the Modern World, 46.]
[16] [Kirkpatrick
Sale, Christopher Columbus and the
Conquest of Paradise (London: Tauris Parke Paperbacks, 2006), 7–13.]
[17] Chúng ta biết triều Yuan, đã từng đem
quân vượt biển đánh Champa (để đánh Đại Việt ngược từ dưới phía nam lên trên),
và hai lần từng sửa soạn đánh Japan (đoàn thuyền viễn chinh hai lần vượt biển đều
bị bão làm gián đoạn, Điều này khiến triều Yuan sau đó phải gác bỏ nỗ lực xâm
lăng. Người Japan gọi đây là những “gió thần” đã bảo vệ đất nước họ (か み か ぜ 神 風 kamikaze). Nhưng nếu theo dòng lý luận của tác giả
ở những chương trước, có thể xem đây là một ngoại lệ, và triều Nguyên (hoàng đế
Mongolia) không phải là một triều đình Hán đích thực. Chúng ta có thể đồng ý với
tác giả, và cũng thêm giải thích khác, tổng quát, về đế quốc Tàu. Cho đến cuối
thế kỷ XIX, Tàu vẫn là một đế quốc nông nghiệp, một cường quốc về dân số, nên đế
quốc này chỉ xâm lăng những nước láng giềng lân cận, trên đất liền, để chiếm đất
canh nông. Họ lơ là với những hải đảo lớn lân cận của chính họ (Taiwan, Hainan)
vì chúng là những đảo núi, không có đất màu thuận lợi để trồng lúa, và đó cũng
là lý do, khiến họ “bỏ mặc” Japan, vì trước sau Japan là một quần đảo không có
đồng bằng lớn, thiếu đất canh tác.
[18] Mục tiêu chính của cuộc chinh phục châu Mỹ
của Spain, là (a) truyền bá đạo Catô và (b) tìm kiếm những nguồn tài nguyên
thiên nhiên mới và những kim loại quý. Trong cuộc chinh phục thế giới mới, người
Spain đã khuất phục và đánh bại những nền văn minh Inca ở Peru, Aztec ở Mexico,
và nền văn minh Maya ở Yucatan. Năm 1519, Hernán Cortés từ Cuba đến Mexico, với
11 thuyền buồm, 550 người đàn ông, và 16 con ngựa – những con ngựa đầu tiên
trên lục địa Mỹ. Trong vòng hai năm, những conquistadores, những kẻ chinh phục,
đã nắm quyền kiểm soát vương quốc Aztec, ngày nay bao gồm Mexico và gần hết
Trung America.
Ngày 13 Aug/1521, kinh thành
Tenochtitlan cuối cùng rơi vào tay những conquistadores, tên gọi dành
cho những người Spain xâm chiếm và huỷ hoại Mexico (và Peru sau này). Trong
vòng chưa đầy hai giờ, Cortés nói là đã tàn sát sáu ngàn người đang tụ tập
trong sân một đền thờ. Tất cả những quý tộc và lãnh đạo ưu tú của Aztec bị giết
sạch. Vào thành phố vừa chinh phục, Cortés sau này đã viết: “Bạn không thể đặt
chân xuống mà không đạp lên một xác người Indian”. Hơn 40.000 thây người thối rữa
rải rác khắp thành phố vừa bị phá hủy tan hoang, và những xác chết nổi đầy
trong kênh và hồ nước. Những thành phố Aztec khác ngay sau đó cũng bị tiêu huỷ,
và trọn vẹn khiến tất cả những gì đứng vững trước đó đều nằm trong những đống đổ
nát. Những thành phố tráng lệ và đế quốc nguy nga của nó đi đến một kết thúc thảm
thương và khốc liệt.
Nếu lịch sử thời trước-Columbus
của Mesoamerica (Trung America) là mờ tối, đó là vì ngay lập tức sau cuộc chinh
phục, đã có một chủ ý tàn khốc là xoá sạch tất cả những chứng tích của những nền
văn minh trước đó. Điền hình là nhà chăn chiên cao cấp hàng tỉnh của xứ Spain Mới
(Mexico), Juan de Zumárraga, đã ra lệnh đốt cháy tất cả những thư tịch, tài liệu,
bị hội nhà thờ coi là những “công trình của Ma quỷ”. Óc cuồng tín Catô trong
tay những tín đồ nhiệt thành này, đã phá hủy tất cả những đền và tượng.
Zumárraga báo cáo với cấp trên, vào năm 1531, rằng một mình ông đã san bằng 500
ngôi đền và phá hủy hơn 20,000 tượng thần bản địa. Những conquistadores không
chỉ phá huỷ những văn minh ở Trung America, nhưng cũng bóp méo hình ảnh của
chúng, qua sự tập trung vào tường thuật những chi tiết chọn lọc, vốn người Âu
thời đó cho là xấu xa, và cũng phóng đại vượt quá tỷ lệ. Cụ thể, là sự giết người
để hy sinh, vốn Aztec thời ấy có lẽ còn thực hành, dù mức độ phổ thông ít nhiều
vẫn còn nhiều nghi ngờ; chi tiết này được nhắc và nhấn mạnh hầu như trong mọi dịp
nói về người Aztec (và cho đến ngày nay), nhưng chưa bao giờ được dõi theo mắt
nhìn theo thời gian của lịch sử và xã hội, để hiểu được lý do và giải thích hợp
lý, trong đó có những tính chất, thuộc loại như thế, có thể được khoan thứ ít
nhiều. Sự hy sinh con người không phải là không biết tới ở Europe và trong đế
quốc Rome. Người Ki tô, có thể do tự kỷ ám thị (hàng ngày vẫn được chuyện giết
người qua hình ảnh Giêsu trên gái gỗ, và cũng luôn được nhắc nhở qua “bí tích
thánh thể” vốn bản chất là một hiện tượng mê tín, trong đó những tín đồ uống
máu, ăn thịt giáo chủ của mình để là một với vị này), và từng có thói quen thêu
dệt về người Jew và chuyện “phỉ báng máu” (blood libel). Người Spain chỉ đơn giản
quên đi cho tiện lợi, cũng như cũng tiện lợi quên đi, không nhắc gì nhiều đến
những hành xử tàn bạo súc vật, vô nhân đạo với những dân bản địa Trung America,
dẫn đến tội ác diệt chủng và diệt văn hoá nhiều dân tộc bản địa châu Mỹ.
Sau cuộc chinh phục, hay đúng
hơn xâm lược này, công việc quan trọng đầu tiên của người Spain đã là tái thiết,
xoa dịu, và đổi đạo. Kinh thành Tenochtitlan đã bị cướp phá và đốt trụi, dân
chúng đã bị đẩy khỏi hay trốn thoát thành phố. Trong một chính sách có chủ ý,
những thực dân Spain đã quyết tâm phá hủy tất cả những gì nhắc nhở đến văn minh
Aztec trong quá khứ, những viên đá vỡ từ những đền đài cũ, cũng không để yên,
nhưng dùng làm vật liệu xây dựng Thành phố Mexico. Thành phố mới này và hàng
trăm thị trấn đã được kiến trúc theo những đồ thị từ Spain, mỗi thị trấn có một
công trường lớn, trung tâm hành chính tôn giáo, bao quanh là một mạng lưới đường
phố dân cư và thương mại. Những nhà chăn chiên Catô đã đến Mexico cùng những
conquistadores, không chậm trễ bắt tay ngay vào công việc ép buộc tôn giáo của
họ cho những người bản địa, từ nay tất cả phải là những con chiên, phải theo một
tôn giáo duy nhất là Catô. Đổi đạo hàng loạt như thế, đã thành một hiện tượng
hàng ngày trong nhiều chục năm ở thuộc địa mới này. Trong sự đổi đạo cho hàng
triệu người, hội nhà thờ cũng lập nhiều tu viện, và cũng xây dựng hàng chục
ngàn nhà thờ mới (chỉ năm 1800, số lượng đạt 12.000 nhà thờ!), thường ở những
khu vực chọn lựa, trước đây đã xem là đất thiêng liêng với những người Indian,
như trên đỉnh đồi có những tháp bị phá huỷ, hay trên nền những đền thờ bị san bằng,
như thế, thập giá mới của gót mới, của những kẻ chiến thắng, ngạo nghễ trên những
dấu tích đã chôn vùi, của những gót cũ, của dân bị trị đã bại trận!
Sau khi Cortés chinh phục đế
quốc Aztec trong vòng một năm, phải mất thêm 25 năm nữa để chinh phục đế quốc
Maya trong bán đảo Yucatán. Chinh phục đế quốc Maya xong, công việc đầu tiên là
tiến hành hệ thống tìm và đốt tất cả những văn bản tôn giáo ở đây, công việc
này đã hữu hiệu kéo dài trong nhiều chục năm. Hai biến cố điển hình đáng ghi nhớ
là (a) đốt cháy thư viện Maya ở Yucatán, nơi tập trung và gìn giữ những bản thảo
cổ vô giá, năm 1562 thư viện này đã thành đống tro. (b) Cùng năm đó, Diego de
Landa, một tu sĩ dòng Phanxicô đã cho lập một toà án dị giáo và đốt tất cả những
bản thảo Maya, mọi loại, treong đó có ít nhất là 40 bộ sách tôn giáo quí hiếm
chép tay (codices), và những tượng thần của dân bản xứ. Sự huỷ hoaị diệt
văn hoá này diễn ra trong công trường Mani ở Yucatán. Những bộ sách bị đốt ở
đây đều là những bản văn duy nhất, nội dung chứa đựng những gì bây giờ sẽ là
tài liệu vô giá về lịch sử cổ đại, thần thoại, y học, thiên văn học, khoa học,
tôn giáo và triết học của những nền văn minh Trung America. Sự tiêu hủy những
biểu tượng và chữ viết tượng hình này cũng vĩnh viễn xóa sạch hiểu biết về ngôn
ngữ Maya. Số phận của những người Maya cũng được định đoạt dễ dàng và nhanh
chóng, Những quí tộc và giới lãnh đạo Maya đều bị giết chết, chung số phận với
của quí tộc và giới lãnh đạo người Aztec, dân chúng Maya còn lại, dù không chống
đối nào về chính trị, nhưng có tội còn xem dường còn nặng hơn, là giữ tín ngưỡng
cổ truyền của họ, những ai nếu không chịu từ bỏ tín ngưỡng cũ, sau khi bị tra tấn
khủng khiếp, đều bị đốt chết trong đám lửa. Đó có lẽ là may mắn, vì theo những
ghi chép về thời này, may còn sót lại, từ những nhân chứng người Spain, thuật
cách tra tấn của De Landa là treo những người Maya và buộc những tảng đá lớn
vào chân họ, đánh họ bằng gậy, và nếu họ vẫn không từ bỏ những gót họ vẫn tin
tưởng, họ được tắm bằng sáp nóng đang nấu chảy. Sự man rợ loại như vậy, khiến
dư luận đã đi đến gọi ông về Spain, nhưng ông xoay sở trở lại thuộc địa cũ, và
còn được phong chức là vị chăn chiên cao cấp hàng tỉnh đầu tiên của Yucatán.
Sau đó, ông viết Relación de las cosas de Yucatán (Chi tiết về Yucatán),
vô tình hay cố ý, nó đã hé lộ một số chi tiết về sinh hoạt của người Maya ở
Yucatán.
Những
conquistadores tìm thấy thích thú trong việc phát minh ra tất cả những loại tàn
ác quái đản. Một tu sĩ người Spain, Bartolome de las Casas, trong quyển The Devastation của Indies, kể cho chúng
ta một chứng kiến về những giết người bản xứ lạ lùng và cuồn tín như thế nào. Lời
ông như sau:
“Trong ‘chuồng của
những con chiên’ này, trong vùng đất này của những người nhu mì bị ruồng bỏ, đã
có một số người Spain đến, những người ngay lập tức cư xử như những con thú
hoang đói khát săn mồi, những con chó sói, hổ, sư tử đã bị bỏ đói nhiều ngày.
Và người Spain đã cư xử không có cách nào khác, trong suốt bốn mươi năm qua,
cho đến thời điểm hiện tại, vì họ vẫn đang hoạt động như những con thú hoang
đói khát, giết hại, khủng bố, gây đau đớn, tra tấn, và tiêu diệt những dân tộc
bản địa, làm tất cả điều này với những cách thức quái dị nhất, và hầu hết những
phương pháp đa dạng mới nhất của sự tàn ác, đều chưa bao giờ từng nhìn thấy hoặc
nghe nói về trước, và đến một mức độ như vậy, rằng ‘đảo này của Hispaniola’ một
lần quá đông dân (có một dân số mà tôi ước tính là hơn ba triệu dân), hiện nay
có một số dân chỉ hai trăm người. ...
Đối với đại lục rộng
lớn [Mexico] ... Chúng tôi có thể ước tính rất chắc chắn, trung thực rằng trong
bốn mươi năm đã trôi qua, với những hành động ghê gớm của những người Kitô, đã
giết hại một cách bất công hơn mười hai triệu người đàn ông, phụ nữ và trẻ em.
Thật ra, tôi tin rằng không cố gắng để đánh lừa bản thân mình, rằng số người bị
giết là giống như mười lăm triệu. ...
Lý do của họ để
tiêu diệt và phá hủy một số lượng vô hạn những linh hồn, là những người Kitô có
một mục đích cuối cùng, là để chiếm được vàng, và chất đầy lên mình, sưng vù với
sự giàu có, trong một thời gian rất ngắn, và do đó có một bất động sản tăng lên
đến mức thật cao, không tương xứng với công lao của họ. Nên giữ trong tâm trí rằng
lòng tham vô độ của họ, và tham vọng, vĩ đại nhất từng thấy trên thế giới, là
nguyên nhân của những hành xử tàn nhẫn ác độc của họ. Và cũng còn có thể, do
vùng đất này quá giàu và may mắn, dân bản địa quá hiền lành và nhẫn nại, quá dễ
dàng bị khuất phục, khiến những người Spain chúng ta thội không còn đối đãi với
họ cao hơn so với những dã thú. Và tôi nói điều này từ kiến thức của riêng
tôi, về những hành vi tôi đã chứng kiến. Nhưng tôi đã không nên nói “hơn những
dã thú”, nhờ ơn Gót, họ đã đối xử với những con thú còn với một vài tôn trọng;
Tôi nên nói, thay vào đó, như “hơn cục phân trên công trường.” ...
Người Indian đã bắt
đầu tìm cách để đẩy những người Kitô ra khỏi vùng đất của họ. ... Và những người
Kitô, có ngựa, kiếm và giáo nhọn của họ, bắt đầu thực hiện những thảm sát và những
tàn ác lạ lùng với họ. Họ tấn công những thị trấn và không chừa trẻ con, cũng
không chừa người già, cũng không chừa phụ nữ mang thai, cũng không chừa phụ nữ
đang trên giường sản phụ, không chỉ đâm họ, và chặt chân tay họ. nhưng cắt họ
ra từng mảnh, như thể đối phó với những con cừu trong lò mổ. Họ đánh cá với
nhau, xem ai là người, với một nhát kiếm, có thể xẻ một người đàn ông thành
hai, hoặc có thể cắt đầu hay moi hết ruột ra ngoài chỉ với một mũi giáo. Họ giằng
trẻ từ ngực của mẹ chúng, nắm chúng bằng hai chân, và đập đầu chúng vào những
vách đá cheo leo, hoặc giật lấy chúng bằng tay và ném chúng xuống những con
sông, gầm lớn với tiếng cười và nói khi những đứa trẻ rơi xuống nước, “Chết sôi
trong đó, đám con của ma quỷ!”. Những đứa trẻ khác họ xiên vào thanh gươm cùng
với người mẹ và bất cứ ai khác là, người ngẫu nhiên gần đó. Họ làm một số dàn
treo cổ, rộng bề ngang, nhưng bề cao thấp, khiến chân nạn nhân bị treo cổ chỉ gần
chạm đất, họ xâu chuỗi những nạn nhân của họ thành những đám 13 người một, để
tưởng nhớ đấng Cứu Chuộc của chúng ta và mười hai sứ đồ của Ngài, sau đó chất củi
dưới chân những người này, đốt sống. Với những người khác họ buộc rơm, hoặc bọc
toàn cơ thể của những người này trong rơm, châm lửa đốt. Với nhiều người khác nữa,
tất cả những người mà họ muốn bắt sống, họ cắt đứt tay và treo chúng quanh cổ nạn
nhân, nói rằng, “Đi đi, mang thông điệp đi đi”, có nghĩa là, Đem những tin tức
này cho những người Indian đã bỏ trốn lên núi. Họ thường đối xử với những thủ
lĩnh và quý tộc trong cách sau đây: họ làm một mạng lưới bằng những thanh gỗ mỏng
xếp đan vào nhau, đặt nó trên những chạc gỗ có đầu tách đôi, sau đó trói chặt
những nạn nhân vào mạng lưới và đốt một ngọn lửa cháy âm ỉ bên dưới, để chầm chậm,
nóng lên từng chút một, khiến những kẻ bị giam cầm đó phải hét trong tuyệt vọng
và thống khổ, linh hồn của họ phải thoát ra khỏi xác họ.”
Bartolome de las
Casas cũng mô tả cửa hàng thịt, trong đó bán thịt người làm thức ăn cho chó
(“Hãy cắt cho tôi một phần tư tên đốn mạt kia”, một khách hàng nói, “cho đến
khi tôi có thể giết chết một vài tên cho riêng tôi”). Ông viết một chi tiết
khác: “Những thuyền trưởng của những con tàu chở nô lệ, đã định hướng không cần
la bàn hay bản đồ, thay vào đó, họ chỉ cần theo vết của những xác chết đang nổi
đã bị ném xuống biển từ con tàu đang đi đằng trước họ. Những nhà vua bản địa được
hứa hòa bình để ra hàng nhưng sau đó bị giết sạch. Có những gia đình tất cả tự
treo cổ trong tuyệt vọng. Vua chiên Vatican ủy quyền cho hai vương triều (Spain
và Portugal) đi chinh phục, và thậm chí nô dịch những dân ngoại đạo, gây hại
cho danh tiếng của Christ.”
Một đặc tính của thuộc địa
Mexico là vị trí và quyền lực của hội nhà thờ Catô, có ảnh hưởng lớn lao trên hầu
như mọi lĩnh vực của đời sống. Hội nhà thờ thiết lập những bệnh viện, tu viện,
và trường học trong những khu đô thị, thành lập những cơ quan thực hiện công cuộc
truyền giáo trên khắp đất nước. Họ đã mở rộng sự kiểm soát của Spain trên những
người bản xứ, đã thay thế văn hoá bản xứ bằng văn hóa và ngôn ngữ Spain trong
khi đổi tất cả sang đạo Kitô. Ban đầu, hội nhà thờ còn bênh vực quyền lợi của
dân bản địa, nhưng sau đó quay dần sang quan tâm nhiều hơn với tiền bạc. Bất kỳ
nỗ lực nào nhằm cải tiến sự đối xử với những dân bản địa, đơn giản như con người,
trong mọi trường hợp, đều bị những chủ đất Spain phản đối dữ dội, với những chủ
đất này, người bản xứ còn bị xem kém hơn những máy móc canh tác. Đến cuối thời
kỳ thuộc địa, hội nhà thờ sở hữu hơn một nửa số đất đai và sự giàu có trong nước.
Mặc dù thuộc địa Mexico giàu nhất trong tất cả những thuộc địa Spain, của cải của
nó tập trung chỉ trong tầng lớp thiểu số chọn lọc địa phương, và thực dân ở
chính quốc Spain. Dưới sự cai trị trực tiếp của Spain, Mexico bị đánh thuế nặng
nề, và hoàn toàn không có quyền tự chủ. những tầng lớp xã hội xếp đặt theo một
hệ thống đẳng cấp, gồm: gachupines (người gốc Spain sống ở Mexico) trên
đỉnh, tiếp theo là những criollos (crioh-yoh) hay creoles (người
gốc Spain nhưng sinh ở Mexico), sau đến là dân pha trộn, mestizo, thấp
nhất là khối những Indios (người gốc bản địa) và những người da đen gốc
Africa (nô lệ nhập cảng). Tất cả những vị trí trong chính trị, hành chính cũng
như trong hội nhà thờ, đều do những gachupines chiếm giữ..
[19] The Great Survey
of India hay The Great Trigonometrical Survey of India
[20] decipher: chuyển, mở những code, hay những dấu
hiệu, ký tự, vốn xưa có ý nghĩa nhưng nay đã mất, sang ngôn ngữ ngày nay, chữ
viết ngày nay, sau khi hiểu được, và dịch được chúng.
cuneiform: chữ khắc hình nêm (cuneiformis, < Latin “cuneus” = ‘miếng gỗ/kim loại để chêm/gài
cho chặt.’)
[21] Behistun Inscription
[22] Đã dịch là “nguyệt quế” (theo Tàu, dù vẫn
có ý không ưa những gì của Tàu), tôi giữ chữ gốc (Latin “laurus”). Laurel (nghĩa
chữ): chỉ sự tự hào nhưng cũng có ý kiêu căng. Thời Greek cổ, những người nổi
tiếng thường đội một vòng laurel (vòng
kết bằng lá laurel xanh) để phô trương sự nổi tiếng , cho thấy mình khác
(trên/giỏi hơn) người khác. Tập tục đó là nguồn gốc của những huy chương thể
thao, quân đội,....
[23] Asiatic Society
[25] Tương tự, Pháp cũng mở những trường huấn
luyện những nhân viên thuộc địa ở Đông Dương. Trong Saigon, Cochinchina, đầu
tiên là Trường Hậu bổ - Collège des Stagiaires (do Luro phụ trách, sau chuyển
giao cho Trương Vĩnh Ký, vốn là nhân viên thông dịch cho những phái đoàn ngoại
giao Pháp từ trước chiến tranh, nay được giữ chức “giáo sư ngôn ngữ Đông
phương” của trường này); nhìn lại như thế để thấy toàn bộ bối cảnh những vai trò
“văn hoá” vẫn được gán cho những nhân vật như Petrus Ký, .. và những giá trị
những “tài liệu học thuật”, điển hình do người này soạn như: Abrégé de grammaire annamite , Voyage au
Tonkin en 1876, Guide de la conversation annamite, Phép lịch sự An Nam, Cours
de la langue mandarine ou des caractères chinois , Cours d’histoire annamite ,
Đại Nam tam thập nhất tỉnh thành đồ, Cours de littérature annamite, Cours de
géographie générale de l’Indochine, Grand Dictionnaire Annamite-Français,...
đều trước và sau, tất cả chỉ dành cho những học trò của trường nói trên (Việt
lẫn Pháp), đào tạo những thông ngôn và những nhân viên giúp việc cho bộ máy
thống trị thuộc địa mới thiết lập.
Cũng tương
tự như vậy, cần có những cái nhìn thực sự khách quan hơn nữa, về những nhân vật
và những tác phẩm loại như: P. Gourou: Les
Paysans du Delta tonkinois, hay L. Cadière (la Société des Missions
Etrangères de Paris): Croyances et
pratiques religieuses des Annamites dans les environs de Hué, ...Những tác
phẩm của những nhân vật này nhắm đến một loại độc giả khác, và phục vụ những
mục tiêu khác, tất cả là hiển nhiên, và cũng hiển nhiên hơn, không nhằm mục
tiêu nào, dành cho độc giả nào, là của và cho và thuộc những gì bản xứ hay
thuộc địa. Những hiểu biết trong Les
Paysans du Delta tonkinois không đưa đến thay đổi nào trong hệ thống hành
chính thuộc địa Pháp về việc, thí dụ, cải tiến quản lý hệ thống đê điều sông
Hồng vốn đã có từ hàng trăm năm trước, sau 1936, năm tập sách trên xuất bản,
thỉnh thoảng đê sông Hồng vẫn vỡ, vẫn gây lụt lội, vẫn mất mùa cho những vùng
dân cư của nó. Trong suốt gần một trăm năm cai trị,người Francechỉ xây được một
cây cầu sắt làm đường xe hoả độc nhất vượt sông Hồng, trong một dự dịnh thất
bại, định nối đồng bằng Tonkin với Vân nam và Quảng Châu, nhằm mở rộng thương
mại với phần hẻo lánh miền nam nước Tàu (dự án nối thượng nguồn Mekong với
Saigon – từ Ernest Doudart de Lagrée, thuyền trưởng, côn trùng học, người Pháp,
tương đương với những khuôn mặt nửa thực dân nửa khoa học như tác giả nhắc một
sốngười England nổi tiếng trên). Còn những hiểu biết, nếu có và nếu không thiên
kiến, trong Croyances et pratiques
religieuses des Annamites dans les environs de Hué chắc chắn trước tiên
giúp những nhà truyền giáo Kitô, không phải những tín đồ Kitô mới ở thuộc địa
được họ “khai sáng”, vì những người này đã bỏ những tín ngưỡng mô tả trong đó,
với thái độ của người vừa thoát được gánh nặng hổ thẹn của quá khứ (nhìn như
một mớ mê tín lạc hậu).
Trong những
năm 1930 – tống số nhữngngười Franceở Đông Dương là khoảng trên dưới 40 nghìn
người, và nếu tính chỉ những người Việt (không kể Lao và Cambodge) khoảng 20
triệu, như thế tỉ lệ cai trị/bị trị là 2%. Chỉ xấp xỉ 2 phần trăm, nhưng những
kẻ thống trị dễ dàng đàn áp, tiêu diệt những khởi nghĩa bạo động, từ Sô Viết
Nghệ Tĩnh, đến Yên bái, đến Thái nguyên, đến Yên thế. Đặc biệt, năm 1930, ở Yên
bái, dùng máy chém tối tân đem sang từ Pháp, hậu thân khoa học của những dàn
treo cổ hay đốt người ngoài trời thời Trung cổ Europe, họ ung dung gom dẫn 12
anh hùng chúng ta, hành hình ngoài trời, rồi ngạo nghễ, những thực dân và cố
đạo, đứng chống ba toong nhìn những chiếc đầu rơi, trong đó có của Nguyễn thái
Học, Phó đức Chính như thành tích của mình. Đây là “Máy Pháp lan sang để chém người....” sau lần chém 6 anh hùng khác
ngay trước nhà giam Hoả Lò Ha nội, trong đó có Ký Con Đoàn Trần Nghiệp. Trước
sau vẫn là khủng bố - giết sạch, bắt trọn, và đày ải tất cả viễn xứ. Thế nên,
những người Việt được cơ hội có những tri thức địa lý về những đất nước xa lạ
đầu tiên (Guyane,, Réunion, Comores Madagascar, Tahiti,....) ắt đã phải xảy ra
dưới thời đế quốc Pháp, phải là những tù nhân chính trị, hay may mắn, an ủi
hơn, là những nô lệ lao động (Nouvelle Caledonie)!
[26] Người bản xứ có cần những tri thức như
thế để tự cai trị mình không?, ở lúc ấy, nơi ấy?
[27] [Edward M. Spiers, The Army
and Society: 1819–1914 (London: Longman, 1980), 121; Robin Moore, ‘Imperial
India, 1858–1914’, in The Oxford History
of the British Empire: The Nineteenth Century, vol. 3, ed. Andrew Porter
(New York: Oxford University Press, 1999), 442.]
[28] [Vinita
Damodaran, ‘Famine in Bengal: A Comparison of the 1770 Famine in Bengal and the
1897 Famine in Chotanagpur’, The Medieval
History Journal 10:1–2 (2007), 151.]
[29] culturism = culture + ism, tác giả đặt ra như ông nói
trên, tương tự như racism = race+ ism
[30] Marine Le Pen: luật sư, chính trị gia, bà
là chủ tịch Mặt trận Quốc gia (National Front) của nước Pháp
[31] Những dân tộc nói tiếng Semitic, đặc biệt chỉ những người Jew và
Arab; vốn tự cho là dòng dõi của Shem, con trai trưởng của Noah (những nhân vật
truyền thuyết kể trong sách Thánh Hebrew)