Sapiens: A Brief History of Humankind
Yuval Noah Harari
Sapiens: một Lịch sử Ngắn gọn của loài Người
Phần Bốn
Cuộc Cách mạng Khoa học
Hình 32.
Alamogordo, 16 July 1945, 05:29:53. Tám giây sau khi quả bom nguyên tử đầu tiên
đã phát nổ. Nhà vật lý nguyên tử Robert Oppenheimer, sau khi nhìn vụ nổ, đã trích
dẫn từ Bhagavad Gita: ‘Bây giờ tôi trở
thành Thần Chết, kẻ Huỷ diệt của những Thế giới.” [1]
14
Khám phá sự Không-biết
Hãy nói, nếu
một nông dân Spain đã bắt đầu ngủ một giấc dài trong năm 1000 và thức dậy 500
năm sau, với những tiếng ồn ào của những thủy thủ của Columbus [2], đang lên những thuyền Niña, Pinta và Santa Maria, với ông ta thế giới đã có vẻ vẫn khá quen thuộc. Dẫu có
nhiều thay đổi về kỹ thuật, cách cư xử xã hội, và những ranh giới chính trị, người
ngủ quên, như Rip Van Winkle [3], của thời Trung cổ này, sẽ cảm thấy
không xa lạ, lạc lõng, vẫn như ở nhà. Nhưng nếu đã có một trong những thủy thủ của
Columbus rơi vào một giấc ngủ tương tự và thức dậy với tiếng nhạc chuông của
iPhone, thế kỷ XXI; ông đã có thể tìm thấy chính mình trong một thế giới kỳ lạ
vượt quá sự hiểu biết. “Đây có phải thiên đàng?” Ông cũng có thể đã tự hỏi
mình. “Hay có lẽ – địa ngục?”.
500 năm vừa qua
đã chứng kiến một sự tăng trưởng phi thường và chưa từng có trong quyền năng
con người. Trong năm 1500, đã có khoảng 500 triệu người Homo Sapiens trên toàn thế giới. Ngày nay, có 7 tỉ. [4] Tổng giá trị của hàng hóa và
dịch vụ được loài người sản xuất trong năm 1500 ước tính vào khoảng 250 tỉ đồng,
tính bằng tiền đôla ngày nay .[5] Ngày nay, giá trị của một năm sản
xuất của con người là gần $ 60 trillion. [6] Trong năm 1500, loài người tiêu thụ
khoảng 13 trillion calori năng lượng mỗi ngày. Ngày nay, chúng ta tiêu thụ
1.500 trillion calori một ngày. [7] (Hãy nhìn lại những con số này –
dân số đã tăng lên gấp 14 lần, sản xuất gấp 240 lần, và tiêu thụ năng lượng gấp
115 lần.)
Giả sử một
chiến hạm thời nay duy nhất đã được đem trở lại thời Columbus. Trong một vài
giây, nó có thể biến những thuyền Niña, Pinta và Santa Maria thành những mảnh
ván bập bềnh trên biển; và sau đó đánh chìm những lực lượng hải quân của tất cả
những cường quốc trên thế giới vào thời đó, mà không bị một vết trầy nào. Năm tàu
chở hàng thời nay đã có thể chở tất cả hàng hóa của toàn thể hạm đội thương mại
thế giới thời đó. [8] Một máy cômputơ thời nay có thể dễ
dàng lưu trữ tất cả chữ và số trong tất cả những bản thảo và cuộn sách trong tất
cả mọi thư viện thời Trung cổ, và vẫn còn dư chỗ. Bất kỳ một nhà băng lớn nào ngày
nay, cũng giữ nhiều tiền hơn so với tất cả số tiền cộng chung của những vương
quốc của thế giới trước thời hiện nay .[9]
Năm 1500, ít
những thành phố có hơn 100.000 dân. Hầu hết những tòa nhà được xây bằng đất, gỗ
và rơm; một tòa nhà ba tầng đã là một tòa nhà chọc trời. Những đường phố là những
lối đi bằng đất bẩn cứng, bụi bặm trong mùa hè và lầy lội vào mùa đông, ngược
xuôi những người đi bộ, ngựa, dê, gà và một vài xe kéo. Những tiếng ồn đô thị
phổ thông nhất là tiếng người và động vật, cùng với tiếng búa và tiếng cưa. Lúc
mặt trời lặn, hình ảnh thành phố tối đen, với thỉnh thoảng một vài ngọn nến hay
ánh đuốc bập bùng trong bóng tối. Nếu một cư dân của một thành phố như vậy có
thể thấy Tokyo thời nay, New York hay Mumbai, cô ấy sẽ nghĩ gì?
Trước thế kỷ
thứ mười sáu, không có con người nào đã từng đi vòng quanh quả đất. Điều này đã
thay đổi vào năm 1522, khi đoàn thuyền thám hiểm của Magellan đã về lại Spain
sau một hành trình 72.000 km. Phải mất ba năm và mất mạng sống của gần như tất
cả đoàn thuỷ thủ, gồm cả chính Magellan. [10] Năm 1873, Jules Verne có thể tưởng
tượng Phileas Fogg, một nhà mạo hiểm người England giàu có, có lẽ chỉ có thể có
khả năng đi vòng quanh toàn thế giới trong tám mươi ngày [11]. Ngày nay bất cứ ai có mức thu nhập
trung lưu, cũng có thể an toàn và dễ dàng đi vòng quanh thế giới chỉ trong vòng
bốn mươi tám giờ.
Năm 1500,
con người đã bị dán chặt vào bề mặt của quả đất. Họ có thể xây những tháp cao, và
leo núi, nhưng bầu trời được dành cho những loài chim, những thần tiên, và những
gót. Ngày 20 tháng 7 năm 1969 con người đặt chân lên mặt trăng. Đây không chỉ
là một thành tích lịch sử, nhưng một kỳ công của tiến hóa và ngay cả của vũ trụ.
Trong suốt 4 tỉ năm trước của tiến trình tiến hóa, không một sinh vật nào đã
thành công ngay cả trong sự rời khỏi bầu khí quyển của quả đất, và chắc chắn
không một sinh vật nào để lại dấu chân đi, hay vệt vòi quét trên mặt trăng.
Trong hầu hết
lịch sử, con người không biết gì về 99,99 phần trăm của những sinh vật trên
hành tinh này – cụ thể là, những vi sinh vật. Điều này không phải vì chúng
không là sự bận tâm của chúng ta. Mỗi người trong chúng ta mang hàng tỉ những sinh
vật đơn bào bên trong mình, và chúng không chỉ là những “kẻ đi xe nhờ” tự do. Chúng
là những người bạn tốt nhất của chúng ta, và cũng là những kẻ thù nguy hiểm nhất.
Một số chúng tiêu hóa thức ăn của chúng ta, và làm sạch ruột của chúng ta,
trong khi một số khác gây những đau ốm và bệnh dịch. Thế nhưng, đã chỉ đến năm
1674, mắt người đầu tiên mới nhìn thấy một vi sinh vật, khi Anton van
Leeuwenhoek liếc qua kính hiển vi tự chế của ông, và giật mình khi thấy cả một
thế giới của những sinh vật nhỏ bé lao nhao trong một giọt nước. Trong 300 năm
sau đó, con người đã biết làm quen với một số lượng lớn những loài vi sinh vật.
Chúng ta đã thành công để đánh bại hầu hết những bệnh truyền nhiễm nguy hiểm nhất
mà chúng gây ra, và đã khai thác được những vi sinh vật trong những dịch vụ của
y học và kỹ nghệ. Ngày nay chúng ta có kỹ thuật dùng bacteria để sản xuất thuốc, sản xuất nhiên liệu sinh học và diệt những
ký sinh trùng.
Nhưng khoảnh
khắc duy nhất đáng chú ý và định nghĩa rõ ràng nhất cho 500 năm qua đã đi đến thời
điểm 05:29:45 ngày 16 tháng 7 năm 1945. Đúng giây phút đo, những nhà khoa học USA
đã cho nổ quả bom nguyên tử đầu tiên tại Alamogordo, tiểu bang New Mexico. Từ
thời điểm đó trở đi, loài người có khả năng không chỉ để thay đổi tiến trình lịch
sử, nhưng để chấm dứt nó.
Tiến trình lịch
sử đã dẫn đến Alamogordo, và lên mặt trăng, được biết như cuộc Cách mạng Khoa học.
Trong cuộc cách mạng này loài người đã thu được những quyền năng khổng lồ mới, bằng
sự đầu tư những nguồn lực vào nghiên cứu khoa học. Đó là một cuộc cách mạng, vì
cho đến khoảng năm 1500, con người trên khắp thế giới nghi ngờ khả năng của họ
để có được những quyền năng mới về y tế, quân sự và kinh tế. Trong khi những chính
quyền và những người bảo trợ giàu có phân phát quỹ tài chính cho kinh phí về
giáo dục, học thuật, mục đích đã là, nói chung, để gìn giữ những khả năng hiện
có, hơn là để có được những khả năng mới. Những nhà cai trị thời trước thời nay,
điển hình đưa tiền cho những nhà chăn chiên, những triết gia và những nhà thơ với
hy vọng rằng họ sẽ hợp pháp hóa sự cai trị của mình và duy trì trật tự xã hội.
Ông đã không mong đợi họ để khám phá ra những loại thuốc mới, tạo ra những vũ
khí mới, hoặc kích thích tăng trưởng kinh tế.
Trong năm thế
kỷ vừa qua, con người ngày càng đi đến tin tưởng rằng họ có thể tăng lên những khả
năng của mình bằng sự đầu tư vào nghiên cứu khoa học. Đây không chỉ là tin tưởng
mù quáng – nó đã nhiều lần được chứng minh thực nghiệm. Càng nhiều bằng chứng có
ở đó, càng nhiều nguồn lực hơn của những người giàu có và những chính phủ sẵn
sàng đưa vào khoa học. Chúng ta hẳn đã không bao giờ có thể đi bộ trên mặt
trăng, có kỹ thuật trên những vi sinh vật và bom nguyên tử nếu đã không có những
đầu tư như vậy. Chính phủ USA, lấy thí dụ, trong nhiều chục năm gần đây, đã
phân bổ hàng tỉ đôla để vào ngành nghiên cứu vật lý nguyên tử. Kiến thức sản
xuất bởi nghiên cứu này đã đem cho khả năng xây dựng những nhà máy điện nguyên
tử, cung cấp điện giá rẻ cho những ngành kỹ nghệ USA, đóng thuế cho chính phủ USA,
dùng một số của những tiền thuế này để tài trợ cho những nghiên cứu tiếp theo về
vật lý nguyên tử.
Quyền năng -----------> Tài Nguyên
^ /
\
\
/
Nghiên Cứu <---
Hình bên:
Vòng phản hồi của cuộc cách mạng khoa học. Khoa học cần nhiều hơn chỉ là nghiên
cứu để tiến bộ. Nó tuỳ thuộc vào việc tăng cường lẫn nhau giữa khoa học, chính
trị và kinh tế. Những tổ chức chính trị và kinh tế cung cấp những nguồn tài
nguyên mà nếu không có thì nghiên cứu khoa học gần như là không thể. Đổi lại,
nghiên cứu khoa học cung cấp những quyền năng mới sẽ được dùng, trong số những sự
việc khác, để có được những nguồn lực mới, một số trong đó được tái đầu tư vào việc
nghiên cứu.
Tại sao con
người thời nay phát triển một tin tưởng ngày càng tăng vào trong khả năng của họ
để có được những quyền năng mới qua sự nghiên cứu? Những gì đã đúc thành sự kết
buộc giữa khoa học, chính trị và kinh tế? Chương này nhìn vào bản chất độc đáo
của khoa học thời nay, ngõ hầu đi đến một phần của trả lời. Hai chương tiếp
theo xem xét sự thành hình của liên minh giữa khoa học, những đế quốc Europe và
kinh tế của chủ nghĩa tư bản.
Người Ngu dốt
Loài người
đã tìm kiếm để tìm hiểu vũ trụ, ít nhất kể từ cuộc Cách mạng Nhận thức. Những tổ
tiên chúng ta đã dành rất nhiều thời giờ và nỗ lực trong cố gắng để khám phá những
quy luật vốn chúng cai quản thế giới tự nhiên. Nhưng khoa học thời nay khác với
tất cả những truyền thống kiến thức trước đây trong ba phương cách quan trọng:
a. Sự sẵn
sàng để thừa nhận sự thiếu hiểu biết. Khoa học thời nay dựa trên pháp lệnh Latin
vẫn dùng trong toà án ignoramus – “chúng
tôi không biết”. [12] Nó giả định rằng chúng ta không biết
gì về tất cả mọi sự vật viêc. Ngay cả còn nghiêm khắc phê phán hơn, nó chấp nhận
rằng những sự vật việc mà chúng ta nghĩ rằng chúng ta biết vẫn có thể được chứng
minh là sai, khi chúng ta đạt được thêm kiến thức nhiều hơn. Không có khái niệm,
ý tưởng, hay lý thuyết nào là thiêng liêng hay bất khả xâm phạm, và vượt ngoài thử
thách.
b. Vai trò Trung
tâm của quan sát và toán học. Sau khi đã thừa nhận sự thiếu hiểu biết, khoa học
thời nay có mục đích hướng đến tiếp nhận kiến thức mới. Nó làm như vậy bằng sự
thu tập những quan sát, và sau đó dùng những dụng cụ của toán học để kết nối những
quan sát này vào trong những lý thuyết toàn diện, tổng quát
c. Sự thu nhận
những quyền năng mới. Khoa học thời nay không hài lòng với việc tạo dựng những
lý thuyết. Nó dùng những lý thuyết này với mục đích có được những quyền năng mới,
và đặc biệt để phát triển những kỹ thuật mới.
Cách mạng
Khoa học đã không là một cách mạng về tri thức. Trên tất cả, nó đã là một cách mạng về sự không biết. Khám phá lớn
lao đã phóng đi cuộc Cách mạng Khoa học đã là sự khám phá rằng loài người không
biết những trả lời cho những câu hỏi quan trọng nhất của họ. [13]
Những truyền
thống tri thức trước thời hiện nay, như đạo Islam, đạo Kitô, đạo Phật và tư
tưởng Confucius, đã khẳng định rằng tất cả mọi sự vật việc nếu là quan trọng để
biết về thế giới đều đã biết được rồi. Những gót vĩ đại, hoặc một Gót toàn
năng, hoặc những người khôn ngoan trong quá khứ đã sở hữu tất cả sự khôn ngoan
bao trùm tất cả, vốn họ đã dùng cách gọi là “sự vén lên cho thấy”, cho chúng ta
biết ở những ghi chép trong những kinh điển và trong những truyền thống truyền
khẩu. Những con người tầm thường, được sinh ra rồi phải chết đi, đã đạt được kiến
thức bằng cách đào sâu vào những bản văn cổ xưa và những truyền thống này, và
hiểu biết chúng cho đúng. Đã là điều không thể tưởng tượng được rằng sách Thánh,
kinh Koran, hay kinh Veda đã bỏ thiếu một bí mật chủ yếu nào của vũ trụ – một
bí mật mà có thể vẫn chưa được những sinh vật bằng xương bằng thịt khám phá .
Những truyền
thống tri thức thời cổ nhìn nhận chỉ có hai loại không-hiểu-biết. Thứ nhất, một
cá nhân có thể không biết gì về một
gì đó quan trọng. Để có được kiến thức cần thiết, tất cả những gì người ấy cần
làm là đi hỏi một ai đó khôn ngoan hơn. Đã không có sự cần thiết để khám phá những
điều mà chưa ai từng biết. Lấy thí dụ, nếu một người nông dân, ở một làng vùng Yorkshire
thế kỷ XIII, muốn biết loài người đã có nguồn gốc thế nào, ông ta đã tự cho rằng
rằng truyền thống đạo Kitô nắm giữ trả lời dứt khoát. Tất cả những ông đã phải
làm là đi hỏi nhà chăn chiên ở làng mình.
Thứ hai, một truyền thống toàn bộ có thể là không biết gì về những sự vật việc không quan trọng. Theo định nghĩa, bất cứ
sự vật việc nào những gót vĩ đại, hay những người khôn ngoan trong quá khứ, nếu
đã không buồn nói cho chúng ta biết là đều không quan trọng. Lấy thí dụ, nếu người
nông dân Yorkshire của chúng ta muốn biết loài nhện dệt lưới của chúng như thế
nào, điều đó là không có nghĩa lý, ích lợi gì đến phải cất công đi hỏi nhà chăn
chiên, vì không có trả lời cho câu hỏi này trong bất kỳ những sách thánh Kitô
nào. Điều đó không có nghĩa, tuy nhiên, rằng những sách thánh Kitô là thiếu xót.
Đúng hơn, nó có nghĩa là sự hiểu biết về loài nhện dệt lưới nhện như thế nào thì
không quan trọng. Sau cùng tất cả, Gót tất biết rất rõ cách loài nhện làm việc
đó như thế nào. Nếu đây đã là một mẩu kiến thức quan trọng cần phải thông tin, nếu
nó cần thiết cho sự cứu rỗi và sự thịnh vượng cho con người, Gót ắt đã gồm một
giải thích đầy đủ thông xuốt trong quyển sách Thánh rồi.
Đạo Kitô đã không
cấm người ta nghiên cứu loài nhện. Nhưng những học giả về loài nhện – nếu có bất
kỳ một ai như vậy, vào thời Trung cổ Europe – đã phải chấp nhận vai trò bên lề
của họ trong xã hội, và tính không liên can, quan hệ gì của những tìm ra của họ
với những chân lý vĩnh cửu của đạo Kitô. Bất kể điều gì một học giả có thể khám
phá được về loài nhện, hay loài bướm, hay loài chim sẻ trên đảo Galápagos, rằng
kiến thức đó đã chỉ hơn những chi tiết tầm thường vô vị một chút, không đặt
thêm gì vào những chân lý nền tảng của xã hội, chính trị và kinh tế.
Trong thực tại,
mọi sự vật việc đã hoàn toàn không bao giờ đơn giản như thế. Trong mọi thời đại,
ngay cả thời sùng tín tôn giáo và bảo thủ nhất, đã có những người là người đã biện
luận rằng đã có những sự vật việc quan trọng, nhưng toàn bộ truyền thống của họ đã không biết gì về chúng. Tuy nhiên,
những người như vậy thường bị đẩy ra ngoài lề, hoặc bị ngược đãi – nếu không, họ
thành lập một truyền thống mới và bắt đầu biện luận rằng họ đã biết tất cả những gì có đó phải cần biết. Lấy thí dụ, nhà
tiên tri Muhammad đã bắt đầu sự nghiệp tôn giáo của mình bằng lên án những đồng
bào Arab của ông, vì họ sống trong sự thiếu hiểu biết về chân lý thần linh. Nhưng
đồng thời, chính Muhammad rất nhanh chóng đã bắt đầu biện luận rằng ông biết toàn vẹn chân lý, và những người
theo ông bắt đầu gọi ông là “Nhà tiên tri Cuối cùng”. [14] Từ đó về sau, đã không cần những sự
vén lên cho thấy [15] nào nữa, ngoài những gì đã được
vén lên cho thấy, hay đã tiết lộ riêng cho Muhammad .
Khoa học thời
ngày nay là một truyền thống tri thức độc nhất, bởi nó công khai thú nhận sự
thiếu hiểu biết tập thể liên quan đến
những câu hỏi quan trọng nhất. Darwin
không bao giờ cho rằng ông là “nhà sinh vật học cuối cùng”, hay ông đã giải quyết
được câu đố bí ẩn của sự sống, cho bây giờ và mãi mãi. Sau những thế kỷ nghiên
cứu khoa học rộng rãi, những nhà sinh học thú nhận rằng họ vẫn không có bất kỳ
giải thích giá trị nào về bộ óc đã tạo ra ý thức như thế nào. Những nhà vật lý thú
nhận rằng họ vẫn không biết những gì gây ra Big
Bang, hoặc làm thế nào để kết hợp cơ học quantum cho thuận hợp với thuyết tương đối tổng quát.
Trong những
trường hợp khác, những lý thuyết khoa học tranh thắng đều được bàn cãi lớn tiếng
trên cơ bản của những bằng chứng mới nổi lên liên tiếp. Một thí dụ điển hình là
những tranh luận về cách nào tốt nhất để điều hành nền kinh tế. Dẫu mỗi cá nhân
những nhà kinh tế có thể khẳng định rằng phương pháp của họ là tốt nhất, quan
điểm chính thống thay đổi với mỗi khủng hoảng tài chính và thị trường chứng
khoán xì hơi nhanh như sủi bong bóng, và thường đã được chấp nhận rằng lời phán
cuối cùng về kinh tế vẫn còn chưa nói ra.
Vẫn còn những
trường hợp khác, trong đó những lý thuyết đặc biệt, được những bằng chứng giá
trị hỗ trợ trước sau liên tục, khiến tất cả những lựa chọn thay thế khác từ lâu
đã bị bỏ rơi bên lề đường. Những lý thuyết như thế được chấp nhận như là sự thật
– nhưng tất cả mọi người đều đồng ý rằng nếu có bằng chứng mới xuất hiện nhưng
mâu thuẫn với lý thuyết đó, nó sẽ phải được sửa đổi, hoặc loại bỏ. Những thí dụ
tốt về trường hợp này là lý thuyết địa chất về cấu tạo vỏ quả đất [16], và thuyết tiến hóa [17].
Sự sẵn sàng thú
nhận sự thiếu hiểu biết đã làm khoa học thời nay thành năng động hơn, dẻo dai hơn,
và tò mò sáng tạo hơn hơn bất kỳ truyền thống tri thức nào trước đó. Điều này
đã mở rộng khả năng của chúng ta to lớn vô cùng, để hiểu thế giới làm việc thế
nào, và khả năng của chúng ta để phát minh những kỹ thuật mới. Nhưng nó trình
bày với chúng ta một vấn đề nghiêm trọng vốn hầu hết tổ tiên chúng ta đã không phải
đối ứng. Giả định thời nay của chúng ta rằng chúng ta không biết về tất cả mọi sự
vật việc, và rằng ngay cả những kiến thức mà chúng ta đang có là nhất thời,
kéo dài đến những huyền thoại chung được cùng chia sẻ, vốn đem lại khả năng cho
hàng triệu người lạ mặt để hợp tác hiệu quả với nhau. Nếu bằng chứng cho thấy rằng
nhiều trong số những huyền thoại đó là đáng nghi ngờ, làm thế nào chúng ta có
thể giữ xã hội vào cùng với nhau? Làm thế nào những cộng đồng, những quốc gia
và những hệ thống quốc tế của chúng ta có thể hoạt động?
Tất cả những
nỗ lực thời nay để ổn định trật tự chính trị xã hội đã không có lựa chọn nào khác,
nhưng phải dựa vào một trong hai phương pháp không khoa học:
a. Lấy một
lý thuyết khoa học, và đi ngược lại với những thực hành phổ thông trong khoa học,
tuyên bố rằng đó là một chân lý cuối cùng
và tuyệt đối. Đây là phương pháp được những người Nazi dùng (những người
tuyên bố rằng những chính sách kỳ thị chủng tộc của họ là những hệ luận của những
thực tại sinh học), và những người Cộng Sản (những người tuyên bố rằng Marx và
Lenin đã tiên đoán những chân lý kinh tế tuyệt đối, chúng không bao giờ có thể phản
bác được).
b. Đem đặt nó
ra ngoài khoa học, và sống phù hợp với một sự
thật tuyệt đối không khoa học. Đây là chiến lược của chủ nghĩa nhân bản tự
do, xây dựng trên một tin tưởng giáo điều vào những giá trị độc đáo và những
quyền bất khả xâm phạm của con người – một lý thuyết vốn có ít nhiều lúng túng với
tất cả những nghiên cứu khoa học về Homo
Sapiens.
Nhưng điều đó
không khiến chúng ta ngạc nhiên. Ngay cả bản thân khoa học cũng phải dựa vào những
tin tưởng tôn giáo và hệ ý thức để biện minh, và tài trợ cho nghiên cứu của nó.
Văn hóa thời
nay, dù sao đi nữa, đã vẫn sẵn sàng ôm đón lấy sự thiếu hiểu biết, đến một chừng
mức lớn hơn nhiều so với bất kỳ nền văn hóa nào trước đó. Một trong những điều
đã làm cho trật tự xã hội thời nay có thể giữ được là sự lan rộng của một tin
tưởng gần như tôn giáo trong kỹ thuật và trong những phương pháp nghiên cứu
khoa học, vốn đã thế chỗ, đến một một chừng mức nào đó, tin tưởng vào những chân
lý tuyệt đối.
Giáo điều khoa học
Khoa học thời
nay không có giáo điều. Tuy nhiên, nó có một lõi chung gồm những phương pháp
nghiên cứu, vốn tất cả đều dựa trên sự thu thập những quan sát thực nghiệm – những
gì chúng ta có thể xem nhìn, nghe biết, nhận xét, theo dõi, ý thức được với ít
nhất một trong những giác quan của chúng ta – và đặt chúng vào với nhau, với sự
giúp đỡ của những dụng cụ toán học.
Con người
trong suốt lịch sử, đã thu thập những quan sát thực nghiệm, nhưng sự quan trọng
của những quan sát này thường là giới hạn. Tại sao phí những nguồn lực quý giá để
tìm có những quan sát mới, khi chúng ta đã có tất cả những trả lời chúng ta cần
có? Nhưng khi con người thời nay đi đến phải thừa nhận rằng họ không biết những
trả lời cho một số câu hỏi rất quan trọng, họ thấy là cần thiết để tìm kiếm kiến thức hoàn toàn mới. Dẫn đến hệ quả
là, phương pháp nghiên cứu bao trùm thời nay mặc nhiên thừa nhận sự thiếu xót của
những kiến thức cũ. Thay vì nghiên cứu những truyền thống cũ, nhấn mạnh hiện
nay đặt trên những quan sát và những thí nghiệm mới. Khi quan sát ngày nay va
chạm với truyền thống trước đây, chúng ta dành ưu tiên cho quan sát ngày nay.
Dĩ nhiên, những nhà vật lý phân tích quang phổ của những thiên hà xa xôi, những
nhà khảo cổ phân tích những tìm được từ một thành phố thời đại đồ Đồng, và những
nhà chính trị học nghiên cứu sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản, đều không gạt bỏ
truyền thống. Họ bắt đầu bằng nghiên cứu những gì những người khôn ngoan trong
quá khứ đã nói và viết. Nhưng từ năm đầu tiên ở trường đại học, những nhà vật
lý, nhà khảo cổ và những nhà chính trị học có tham vọng đều được dạy rằng đó là
nhiệm vụ của họ để đi xa hơn những gì Einstein, Heinrich Schliemann và Max
Weber đã từng biết.
Chỉ những quan
sát đơn thuần, tuy nhiên, không phải là tri thức. Để hiểu được vũ trụ, chúng
ta cần phải nối những quan sát vào trong những lý thuyết toàn diện. Truyền thống
trước đây thường xây dựng lý thuyết của họ trong những thuật ngữ cảu những câu
chuyện. Khoa học thời nay dùng toán học.
Có rất ít những
phương trình, biểu đồ và tính toán trong sách Thánh, kinh Koran, kinh Vedas hoặc
những kinh điển Confucius. Khi những huyền thoại và kinh điển truyền thống đặt định
những luật lệ chung, những luật lệ này được trình bày trong hình thức kể chuyện
chứ không phải hình thức toán học. Thế nên, một nguyên lý cơ bản của đạo Mani khẳng
định rằng thế giới là một chiến tranh giữa Thiện và Ác. Một quyền năng Ác tạo
ra vật chất, trong khi một quyền năng Thiện tạo ra tinh thần. Con người bị kẹt
giữa hai sức mạnh này, và nên chọn Thiện thay vì Ác. Tuy nhiên, nhà tiên tri
Mani đã không có cố gắng nào để đưa ra một công thức toán học có thể dùng để tiên
đoán những lựa chọn của con người, bằng cách định lượng sức mạnh tương ứng của
hai quyền năng này. Ông không bao giờ tính toán rằng “lực tác động lên một con
người bằng gia tốc của tinh thần của người ấy chia cho khối lượng của cơ thể của
người ấy”.
Đây đúng là
những gì những nhà khoa học tìm để hoàn thành. Trong năm 1687, Isaac Newton đã xuất
bản những Nguyên tắc Toán học của Triết học
Tự nhiên, [18] có thể coi là quyển sách quan trọng
nhất trong lịch sử thời nay. Newton đã trình bày một lý thuyết tổng quát về
chuyển động và thay đổi. Sự vĩ đại của lý thuyết của Newton là khả năng của nó
để giải thích và tiên đoán những chuyển động của tất cả những vật thể trong vũ
trụ, từ những quả táo rơi, đến những ngôi sao băng, dùng ba định luật toán học
rất đơn giản:
1. ∑
F = 0
2. ∑
F = ma
3. F1,2
= −F2,1
(F và a là những véctơ lực)
Từ đó về sau,
bất cứ ai nếu muốn hiểu và tiên đoán sự chuyển động của một đạn đại bác, hoặc một
hành tinh, giản dị chỉ phải đo khối lượng, hướng chuyển động, gia tốc của đối
tượng, và những lực tác động lên nó. Bằng cách đưa những con số này vào những phương
trình Newton, vị trí tương lai của những đối tượng có thể tiên đoán được. Nó
làm việc giống như ảo thuật. Chỉ vào khoảng cuối thế kỷ XIX, những nhà khoa học
mới gặp một vài quan sát đã không phù hợp chặt chẽ với những luật của Newton,
và những điều này dẫn đến những cuộc cách mạng tiếp theo trong vật lý – lý thuyết
tương đối và cơ học quantum.
Newton đã
cho thấy rằng quyển sách của Tự nhiên được viết bằng ngôn ngữ của toán học. Một
số chương sách (lấy thí dụ) cô đọng thành những phương trình gọn gàng rõ ràng;
nhưng những học giả là những người đã từng cố gắng để thu giảm sinh học, kinh tế
học và tâm lý học xuống thành những phương trình Newton gọn ghẽ, đã tìm ra rằng
những ngành học này có mức độ phức tạp khiến một tham vọng như vậy là hoài công.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là họ buông bỏ toán học. Một nhánh toán học mới
đã phát triển trong vòng 200 năm qua, để giải quyết những khía cạnh phức tạp
hơn này của thực tại: toán học thống kê.
Năm 1744,
hai nhà chăn chiên dòng Presbyterian ở Scotland, Alexander Webster và Robert
Wallace, đã quyết định thành lập một quỹ bảo hiểm nhân thọ, nhằm cung cấp tiền
hưu cho những góa phụ và trẻ mồ côi của những thày chăn chiên đã chết. Họ đề nghị
rằng mỗi giáo sĩ trong giáo phái của họ sẽ phải đóng một phần nhỏ trong thu nhập
của mình vào quỹ, quỹ đó sẽ đem đầu tư. Nếu một nhà chăn chiên chết, vợ ông sẽ nhận
được tiền trả, tính theo cổ phần trong tiền sinh lời của quỹ bảo hiểm. Điều này
sẽ cho phép họ sống thoải mái cho phần đời còn lại của mình. Tuy nhiên, để ấn định
những thày chăn chiên phải đóng bao nhiêu, để quỹ sẽ có đủ tiền để thực hiện trách
nhiệm này của nó, Webster và Wallace đã cần phải có khả năng để dự đoán sẽ có
bao nhiêu giáo sĩ chết mỗi năm, bao nhiêu góa phụ và trẻ mồ côi họ sẽ bỏ lại đằng
sau, và những quả phụ đó sẽ sống lâu hơn những người chồng đã chết của họ bao
nhiêu năm nữa.
Hãy lưu ý những
gì hai giáo sĩ này đã không làm. Họ đã không cầu nguyện Gót với ước mong trả lời
sẽ được biết bằng sự vén lên cho thấy. Họ cũng không tìm trả lời trong sách
Thánh, hay trong những tác phẩm của những nhà gót-học thời cổ. Họ cũng không đi
vào một tranh luận triết học trừu tượng. Là những người dân xứ Scotland, họ thuộc
loại người thực tiễn. Vì vậy, họ đã liên lạc với Colin Maclaurin, một giáo sư
toán học ở đại học Edinburgh. Cả ba người sau đó đã thu thập dữ liệu về độ tuổi
mà người ta thường chết, và dùng những dữ diệu này để tính toán xem có bao
nhiêu giáo sĩ sẽ rơi vào trường hợp xảy ra là chết trong một năm bất kỳ nào.
Công việc của
họ được xây dựng trên một số những phát triển quan trọng trong lĩnh vực thống
kê và xác suất. Một trong những khám phá này là Luật của những Số lớn của Jacob Bernoulli [19]. Bernoulli đã đưa vào hệ thống
nguyên lý rằng trong khi có thể là khó khăn để tiên đoán chắc với chắn chắn một
biến cố duy nhất, chẳng hạn như cái chết của một người đặc biệt nào đó, điều đã
có thể là tiên đoán được với nhiều chính xác về hệ quả trung bình xảy ra của
nhiều những biến cố tương tự. Đó là, trong khi Maclaurin không thể dùng toán học
để tiên đoán xem liệu Webster và Wallace sẽ chết vào năm tới hay không, ông có
thể, nếu có đủ dữ liệu, bảo Webster và Wallace sẽ có bao nhiêu giáo sĩ giáo
phái Presbyterian ở Scotland gần như chắc chắn chết vào năm tới. May mắn, họ đã
có những dữ liệu thiết lập sẵn để họ có thể dùng. Những bảng thống kê được Edmond
Halley công bố 50 năm trước đã chứng tỏ đặc biệt hữu ích. Halley đã phân tích hồ
sơ của 1.238 ca sinh và 1.174 ca tử, mà ông thu được từ thành phố Breslau, Germany.
Những bảng thống kê của Halley đã làm điều có thể để thấy được rằng, lấy thí dụ,
một người hai mươi tuổi, có tỉ lệ 1: 100 xảy ra, có thể chết trong một năm nhất
định, nhưng một người năm mươi tuổi, tỉ lệ có thể xảy ra là 01:39.
Từ những con
số này, Webster và Wallace đã kết luận rằng, tính trung bình, ở bất kỳ thời điểm
nào, sẽ có 930 thày chăn chiên giáo phái Presbyterian ở Scotland vẫn tiếp tục sống,
và một con số trung bình là 27 thày chăn chiên sẽ bị chết trong mỗi năm, 18 người
trong số họ sẽ để lại những góa phụ. Năm trong số những người không bỏ lại góa
phụ sẽ bỏ lại những trẻ em mồ côi, và hai trong số những những góa phụ sống sót
cũng sẽ không sống lâu hơn những đứa con từ những hôn nhân trước là những trẻ
chưa được 16 tuổi. Họ tính toán thêm xem thời gian sẽ kéo dài nhất có thể là bao
lâu, trước khi những quả phụ này chết, hoặc tái giá (trong cả hai trường hợp, sẽ
thôi, không trả tiền hưu nữa). Những con số này đã làm cho Webster và Wallace có
khả năng để ấn định món tiền sẽ là bao nhiêu, cho những thày chăn chiên gia nhập
quỹ hưu bổng của họ sẽ phải đóng, ngõ hầu sẽ ứng cấp cho những người thân yêu của
họ. Bằng việc đóng góp 2 £ 12 s. 2d. [20] một năm, một thày chăn chiên
có thể bảo đảm rằng người vợ góa của ông sẽ nhận được ít nhất là £ 10 một năm –
một số tiền lớn trong những ngày đó. Nếu ông nghĩ đó là không đủ, ông có thể chọn
đóng nhiều hơn, lên đến một mức độ 6 £
11s. 3d. một năm – có thể bảo đảm người vợ góa của ông sẽ nhận được một món
tiền lại còn hậu hĩ hơn nhiều, là £ 25 một năm.
Theo tính
toán của họ, đến năm 1765, Quỹ Dự phòng cho Vợ goá Con côi của những thày Chăn
chiên Hội Nhà thờ Scotland sẽ có vốn tổng cộng là 58.348 £. Tính toán của họ đã
được chứng minh chính xác đến tuyệt vời, gây sửng sốt đến kinh ngạc. Khi năm đó
đến, vốn của quỹ đứng ở mức £ 58,347 – chỉ ít hơn £ 1, so với dự đoán! Điều này
ngay cả còn tốt hơn so với những lời tiên tri của Habakkuk, Jeremiah hay thánh
chiên John [21]. Ngày nay, quỹ Webster và Wallace,
được gọi đơn giản là “Widows Scotland”, là một trong những công ty hưu bổng và
bảo hiểm lớn nhất trên thế giới. Với tài sản trị giá £ 100 tỉ, nó bảo hiểm
không chỉ những góa phụ người xứ Scotland, nhưng cho bất cứ ai sẵn sàng mua hợp
đồng bảo hiểm của nó. [22]
Tính toán
xác suất, loại như hai thày chăn chiên Scotland đã dùng, đã trở thành nền tảng
của khoa học không chỉ đơn thuần là của ngành toán học về kế toán bảo hiểm [23], vốn hết sức thiết yếu cho ngành
kinh doanh hưu trí và bảo hiểm, nhưng cũng cho khoa học về nhân khẩu học (Robert
Malthus, một thày chăn chiên hội nhà thờ Kitô England, thành lập) [24]. Nhân khẩu học, đến phiên nó, là nền
tảng trên đó Charles Darwin (người chỉ thay đổi hoàn cảnh một tí nữa, hẳn đã
thành một thày chăn chiên của hội nhà thờ Kitô England rồi!) xây dựng thuyết Tiến
hóa của ông. Trong khi chưa có những phương trình dự đoán loại sinh vật nào sẽ tiến
hoá dưới một tập hợp đặc biệt gồm những điều kiện, những nhà di truyền học dùng
toán xác suất để tính toán khả năng một đột biến đặc thù sẽ lan rộng trong một
dân số nhất định nào đó. Những mô hình xác suất tương tự đã trở thành hết sức quan
trọng trong kinh tế học, xã hội học, tâm lý học, chính trị học và xã hội học,
và những khoa học tự nhiên khác. Ngay cả vật lý, cuối cùng cũng thêm vào những
phương trình cổ điển của Newton với những đám mây xác suất của cơ học quantum.
Chúng ta đơn
thuần chỉ cần nhìn vào lịch sử của giáo dục để nhận ra tiến trình này đã đem
chúng ta đi xa đến đâu. Trong suốt chiều dài lịch sử, toán học là một lĩnh vực như
bí truyền mà ngay cả những người có học cũng ít khi nghiên cứu kỹ lưỡng. Trong
thời Trung cổ Europe, lôgích, ngữ pháp và tu từ học, thành cốt lõi của giáo dục,
trong khi việc giảng dạy toán học hiếm khi vượt quá giới hạn của số học và hình
học đơn giản. Không ai học nghiên cứu thống kê. Vị vua cai trị không thể tranh
cãi của tất cả những ngành khoa học là gót học.
Ngày nay, ít
sinh viên theo học môn tu từ; môn lôgích thì giới hạn trong ban triết học, và môn
gót học, dạy về gót và những tin tưởng về gót, chỉ dạy trong những trường chuyên
đào tạo giáo sĩ của đạo Juda hay đạo Kitô. Nhưng ngày càng nhiều sinh viên, được
khích lệ – hay bị ép buộc – để theo học toán học. Có một chiều cuốn đi không thể
cưỡng lại đối với những ngành khoa học chính xác – định nghĩa như ‘chính xác’ bởi
chúng dùng những dụng cụ toán học. Ngay cả lĩnh vực nghiên cứu mà là một phần của
truyền thống nhân văn, chẳng hạn như nghiên cứu về ngôn ngữ của con người (ngôn
ngữ học) và tâm lý con người (tâm lý học), ngày càng dựa vào toán học, và tìm
cách thể hiện mình là khoa học chính xác.Nnhững giảng khóa về Thống kê, hiện
nay là phần của những đòi hỏi cơ bản, không chỉ trong vật lý và sinh học, mà
còn trong tâm lý học, xã hội học, kinh tế học và chính trị học.
Trong danh sách
những giảng khóa của khoa Tâm lý tại trường đại học của tôi, giảng khóa đòi hỏi
đầu tiên trong chương trình là “Giới thiệu về Thống kê và Phương pháp luận
trong Nghiên cứu Tâm lý”. Sinh viên tâm lý năm thứ hai phải theo học “Phương
pháp Thống kê trong Nghiên cứu Tâm lý”. Confucius, Phật, và cả Giêsu lẫn
Muhammad ắt đều sẽ bị bối rối, nếu bạn nói với họ rằng để hiểu được não thức
con người, và muốn chữa trị những chứng bệnh của nó, trước tiên bạn phải học môn
Toán Thống kê.
Tri thức là Sức mạnh
Hầu hết mọi
người đều gặp nhiều vất vả để thấu hiểu khoa học thời nay, vì ngôn ngữ toán học
của nó là khó khăn cho não thức của chúng ta nắm bắt, và những kết quả của nó
thường mâu thuẫn với nghĩa lý thông thường. Trong số 7 tỉ người trên thế giới, bao
nhiêu người thực sự hiểu cơ học quantum, sinh học tế bào hoặc kinh tế vĩ mô? Dẫu
vậy, khoa học vẫn được hưởng uy tín to lớn vì những quyền năng mới nó mang lại
cho chúng ta. Những vị chủ tịch và những tướng lãnh có thể không hiểu vật lý nguyên
tử, nhưng họ có một thấu hiểu hữu hiệu về những gì những bom nguyên tử có thể
làm được.
Năm 1620,
Francis Bacon đã công bố một bản tuyên ngôn khoa học, nhan đề Novum Organum [25]. Trong đó, ông lập luận rằng “tri
thức là sức mạnh”. Thử nghiệm thực sự của “tri thức” không phải là liệu nó có
đúng thực hay không, nhưng liệu nó có trao quyền năng cho chúng ta hay không. Những
nhà khoa học thường cho rằng không có lý thuyết nào là 100 phần trăm chính xác.
Do đó, sự đúng thực là một thử nghiệm tồi nếu dành cho tri thức. Thử nghiệm thực
sự là sự tiện ích. Một lý thuyết, nếu cho chúng ta khă năng làm những điều mới,
tạo thành kiến thức.
Qua nhiều thế
kỷ, khoa học đã cung cấp cho chúng ta nhiều dụng cụ mới. Một số là những dụng cụ
tinh thần, chẳng hạn những gì dùng để dự đoán tỉ lệ tử vong, và tăng trưởng
kinh tế. Ngay cả quan trọng hơn là những dụng cụ kỹ thuật. Kết nối đã rèn đúc
giữa khoa học và kỹ thuật thì quá mạnh mẽ khiến ngày nay mọi người có khuynh hướng
nhầm lẫn giữa hai. Chúng ta thường nghĩ rằng không thể nào phát triển những kỹ
thuật mới mà không có nghiên cứu khoa học, và rằng có rất ít lý do để nghiên cứu,
nếu nó không dẫn đến những kỹ thuật mới.
Trong thực tế,
liên hệ giữa khoa học và kỹ thuật là một hiện tượng rất gần đây. Trước năm
1500, khoa học và kỹ thuật đã là những lĩnh vực hoàn toàn riêng biệt. Khi Bacon
nối chúng vào nhau, ở đầu thế kỷ thứ XVII, đó đã là một ý tưởng cách mạng.
Trong những thế kỷ XVII và XVIII liên hệ này đã chặt chẽ, nhưng những nút buộc được
thắt chặt chỉ trong thế kỷ XIX. Ngay cả vào năm 1800, hầu hết những lãnh tụ, những
người muốn có một quân đội mạnh, và hầu hết những nhà tư bản quyền thế, những
người muốn có một doanh nghiệp thành công, đều đã không màng đến việc tài trợ
cho nghiên cứu trong vật lý, sinh học hay kinh tế.
Tôi không có
ý cho rằng không có ngoại lệ với quy luật này. Một nhà sử học giỏi có thể tìm
thấy tiền lệ cho tất cả mọi sự vật việc. Nhưng một nhà sử học lại còn giỏi hơn nếu
biết khi nào những tiền lệ này chỉ là những lạ lẫm thoả óc tò mò, chúng che tối
bức tranh lớn. Nói tổng quát, hầu hết những lãnh tụ và những nhà kinh doanh trước
thời nay đã không tài trợ cho nghiên cứu về bản chất của vũ trụ ngõ hầu để phát
triển những kỹ thuật mới, và hầu hết những nhà tư tưởng đã không cố gắng chuyển
dịch những khám phá của họ vào thành những dụng cụ máy móc kỹ thuật mới lạ. Những
nhà cai trị tài trợ những tổ chức giáo dục với uỷ thác đã là để truyền bá kiến
thức truyền thống cho mục đích làm vững chắc những trật tự hiện có.
Đây và kia, ở
những nơi khác nhau, người ta đã phát triển những kỹ thuật mới, nhưng những nơi
đó, thường đã do những thợ thủ công ít học sáng tạo, bằng làm thử và chữa sai lầm,
chứ không phải bởi những học giả theo đuổi nghiên cứu khoa học có hệ thống. Những
nhà sản xuất xe bò kéo hay xe ngựa kéo, vẫn tiếp tục làm cùng loại xe kéo, với
cùng loại vật liệu, năm này sang năm khác. Họ đã không dành một vài phần trăm tiền
lãi hàng năm của họ để nghiên cứu và phát triển những loại xe mới. Kiểu xe cũng
thỉnh thoảng được cải tiến, nhưng thường nhờ vào sự khéo léo của vài người thợ
mộc địa phương, những người chưa bao giờ đặt chân vào một trường đại học, và
ngay cả không biết đọc.
Đây là sự thật
trong khu vực nhà nước cũng như tư nhân. Trong khi đó, những quốc gia thời nay mời
gọi những nhà khoa học của họ để cung cấp những giải pháp trong hầu hết mọi
lĩnh vực của chính sách quốc gia, từ năng lượng, tới sức khỏe, tới rác thải, những
vương quốc thời cổ ít khi làm như vậy. Sự tương phản giữa thời đó và bây giờ thì
lớn tiếng nhất trong chế taọ vũ khí. Khi tổng thống sắp mãn nhiệm Dwight
Eisenhower báo động vào năm 1961 về sức mạnh ngày càng tăng của những nhóm kết
hợp kỹ nghệ-quân sự, ông đã chừa bỏ một phần của phương trình. Ông đáng lẽ phải
báo động đất nước của ông về sự có mặt của những nhóm kết hợp khoa học-kỹ nghệ-vũ
khí, vì những chiến tranh ngày nay là những sản xuất của khoa học. Những lực lượng
quân sự trên thế giới khởi đầu, tài trợ kinh phí và chỉ đạo một phần lớn nghiên
cứu khoa học và phát triển kỹ thuật của loài người.
Khi Thế chiến
I sa lầy trong những trận đánh hào luỹ giằng co dai dẳng không dứt, cả hai bên đều
gọi đến những nhà khoa học để phá vỡ thế bế tắc và cứu đất nước. Những người trong
giới áo khoác trắng đã trả lời kêu gọi, và từ những phòng thí nghiệm tuôn ra một
dòng chảy không dứt những những vũ khí mới kinh ngạc: máy bay chiến đấu, khí độc,
xe tăng, tàu ngầm, súng liên thanh, đại bác, súng máy, và bom, tất cả hiệu quả
hơn bao giờ.
Hình 33. Tên
lửa V-2 của Germany sẵn sàng trên dàn phóng. Nó đã không đánh bại quân Đồng
minh, nhưng nó nuôi hy vọng của Germany vào một phép màu kỹ thuật cho đến những
ngày cuối cuộc chiến.
Khoa học đã
đóng một vai trò lại còn lớn hơn trong Thế chiến II. Đến cuối năm 1944, Germany
đã thua trận và thảm bại sắp xảy ra. Một năm trước đó, những bạn đồng minh của
Germany, những người Italy, đã lật đổ Mussolini và đầu hàng quân Đồng Minh.
Nhưng Germany tiếp tục chiến đấu, dẫu quân đội England, USA và Sôviết đã đang dần
khép chặt vòng vây. Một lý do khiến quân đội và dân chúng Germany không nghĩ rằng
tất cả đã thất bại, vì họ tin rằng những nhà khoa học Germany sắp sửa đảo ngược
tình thế, với cái gọi là những vũ khí thần kỳ, như tên lửa V-2, và máy bay phản
lực.
Trong khi Germany
đã đang làm việc trên những tên lửa và máy bay phản lực, dự án Manhattan của USA
đã phát triển thành công bom nguyên tử. Đến khi bom sẵn sàng, vào đầu tháng tám
năm 1945, Germany đã đầu hàng, nhưng Japan vẫn còn tiếp tục chiến đấu. Quân đội
USA sủa soạn chiếm quần đảo mẹ của Japan. Những người Japan thề sẽ chống trả
xâm lăng và chiến đấu đến chết, và đã có mọi lý do để tin rằng đó là đe dọa
không chỉ trên miệng lưỡi. Những tướng lãnh USA nói với Tổng thống Harry S.
Truman rằng một cuộc xâm chiếm Japan sẽ tổn phí mạng sống một triệu binh sĩ USA,
và sẽ kéo dài chiến tranh sang đến năm 1946. Truman đã quyết định dùng loại bom
mới. Hai tuần và hai quả bom nguyên tử sau đó, Japan đã đầu hàng vô điều kiện
và chiến tranh chấm dứt.
Nhưng khoa học
không chỉ là về những vũ khí tấn công chết người. Nó cũng đóng một vai trò quan
trọng trong những phòng vệ của chúng ta. Ngày nay, nhiều người US tin rằng giải
pháp cho chiến tranh khủng bố là kỹ thuật hơn là chính trị. Họ tin rằng chỉ cần
thêm hàng triệu đôla nhiều hơn nữa, cho kỹ nghệ kỹ thuật nano, và USA có thể gửi
những con ruồi-bay-do-thám bionic vào mỗi hang động ở Afghanistan, Yemen, và đồn
trại ở Bắc Africa. Khi như thế đã xong, những người tiếp nối Osama Bin Laden sẽ
không thể pha một tách cà phê mà không có một ruồi-bay-do-thám CIA bay qua,
truyền những thông tin quan trọng này trở lại tổng hành dinh ở Langley. Phân bổ
hàng triệu đôla khác để nghiên cứu bộ óc, và mỗi sân bay có thể được trang bị
những máy dò FMRI cực kỳ tinh vi, ngay lập tức có thể nhận ra được những suy
nghĩ tức giận và hận thù trong não bộ con người. Điều đó thực sự sẽ thành không?
Ai biết được. Có khôn ngoan hay không để phát triển ruồi-dọ-thám bionic và máy
dò đọc-suy nghĩ? Không nhất thiết. Có thể là vnhư thế, nhưng khi bạn đọc những
dòng này, bộ quốc phòng USA đang chuyển hàng triệu đôla cho kỹ thuật nano và những
phòng thí nghiệm não, để làm việc trên những ý tưởng này và những ý tưởng khác cùng
loại như vậy.
Ám ảnh này với
kỹ thuật quân sự – từ xe tăng, đến bom nguyên tử, đến ruồi-bionic do thám – là
một hiện tượng đáng ngạc nhiên gần đây. Cho đến thế kỷ XIX, phần lớn những cách
mạng quân sự là sản phẩm của những thay đổi về tổ chức chứ không phải về kỹ thuật.
Khi những nền văn minh xa lạ gặp nhau lần đầu tiên, khoảng cách kỹ thuật đôi
khi đóng một vai trò quan trọng. Nhưng ngay cả trong những trường hợp như vậy, ít
có ý tưởng về sự cố tình tạo ra hoặc mở rộng khoảng cách như vậy. Hầu hết những
đế quốc không nổi lên nhờ vào sự thần kỳ kỹ thuật, và những nhà cai trị của chúng
đã không nghĩ nhiều đến việc cải tiến kỹ thuật. Người Arab đã không đánh bại đế
quốc Sassanid nhờ có cung hoặc kiếm siêu việt hơn, những triều đình Seljuks
không có lợi thế kỹ thuật hơn những triều đình Byzantines, và những người Mongol
đã không chinh phục Tàu với sự giúp đỡ của một số vũ khí khéo léo mới. Thực sự,
trong tất cả những trường hợp này, phe bại trận đã có những và kỹ thuật quân sự
và dân sự cao hơn nhiều so với phe thắng trận.
Quân đội Rome
là một thí dụ tốt đặc biệt. Đó là quân đội giỏi nhất trong thời của nó, nhưng
nói về kỹ thuật, Rome đã không vượt Carthage, Macedonia hay đế quốc Seleucid. Ưu
điểm của nó đã nằm ở sự tổ chức hiệu quả, kỷ luật sắt và nguồn trữ lượng nhân lực
khổng lồ. Quân đội Rome chưa bao giờ dựng một cơ quan nghiên cứu và phát triển,
và vũ khí của nó, ít hay nhiều, vẫn như vậy trong những thế kỷ đầu cho đến cuối.
Nếu những quân đoàn của Scipio Aemilianus – vị tướng đã san bằng thành Carthage
và đánh bại những người Numantia trong thế kỷ thứ hai TCN – đã đột nhiên xuất hiện
500 năm sau, trong thời của đại đế Constantine, Scipio đã có thể có một cơ may
đánh bại Constantine. Bây giờ hãy tưởng tượng sẽ xảy ra điều gì đối với một vị
tướng từ vài thế kỷ trở lại đây – nói thí dụ, Napoleon – nếu ông dẫn quân của ông
chống lại một lữ đoàn thiết giáp thời nay. Napoleon là một nhà chiến thuật lỗi
lạc, và những quân nhân của ông là những chuyên nghiệp bén nhọn, nhưng khả năng
của họ sẽ trở thành vô dụng trước những loại vũ khí thời nay.
Như ở Rome,
cũng như ở Tàu thời cổ: hầu hết những tướng lãnh và những triết gia đều đã
không nghĩ rằng trách nhiệm của họ là phát triển những vũ khí mới. Phát minh
quân sự quan trọng nhất trong lịch sử của Tàu là thuốc súng. Tuy nhiên, với hiểu
biết tốt nhất của chúng ta, thuốc súng được những nhà luyện giả kim Đạo giáo
tìm thuốc trường sinh đã phát minh do ngẫu nhiên. Sự nghiệp về sau của thuốc
súng lại còn đáng nói hơn. Người ta có thể nghĩ rằng những nhà luyện giả kim Đạo
giáo đã có thể làm nước Tàu thành bá chủ thế giới. Trong thực tế, người Tàu đã dùng
hợp chất mới này chủ yếu chỉ để làm pháo đốt chơi! Ngay cả khi nhà Tống [26] sụp đổ trước cuộc xâm lăng của Mongol,
không hoàng đế nào đã thiết lập một dự án giống như Manhattan của thời Trung cổ,
để cứu đế quốc, bằng cách phát minh một loại vũ khí huỷ diệt có thể đẩy tất cả
mọi người đến ngày tận thế. Chỉ trong thế kỷ XV – khoảng 600 năm sau khi phát
minh thuốc súng – súng đại bác đã trở thành một yếu tố quyết định trên chiến
trường Asia-Africa. Tại sao đã mất thời gian quá lâu như thế, để tiềm năng chết
người của chất nổ này mới được đưa vào dùng trong quân sự? Vì nó đã xuất hiện trong
một thời gian không có vua nào, cũng không nhà bác học nào, cũng không có nhà
buôn nào nghĩ rằng kỹ thuật quân sự mới này có thể cứu họ, hoặc làm giàu cho họ.
Tình trạng
đã bắt đầu thay đổi trong thế kỷ XV và XVI, nhưng phải thêm một thời gian 200
năm nữa trôi qua, trước khi hầu hết những nhà cai trị mới đã cho thấy rõ có bất
kỳ chú ý nào trong tài trợ sự nghiên cứu và phát triển những loại vũ khí mới. Tổ
chức điều động chuyển vận và chiến lược đã tiếp tục có ảnh hưởng lớn hơn nhiều
trên kết quả của chiến tranh so với kỹ thuật. Bộ máy quân sự của Napoleon vốn
nghiền nát quân đội của những cường quốc Europe tại Austerlitz (1805) đã được
trang bị, ít hay nhiều hơn, cùng những loại vũ khí tương tự như những đội quân
của Louis XVI đã dùng. Bản thân Napoleon, dẫu là một pháo thủ, đã có ít quan
tâm đến những loại vũ khí mới, dẫu những nhà khoa học và nhà phát minh đã cố gắng
thuyết phục ông ta để tài trợ cho sự phát triển của máy bay, tàu ngầm và tên lửa.
Khoa học, kỹ
nghệ và kỹ thuật quân sự đã gắn bó với nhau chỉ với sự ra đời của hệ thống chủ
nghĩa tư bản và Cách mạng Kỹ nghệ. Tuy nhiên, một khi quan hệ này đã được thiết
lập, nó đã nhanh chóng chuyển dạng thế giới.
Lý tưởng về sự Tiến bộ
Cho đến khi
có Cách mạng Khoa học, hầu hết những nền văn hóa của con người đều đã không tin
vào sự tiến bộ. Họ đã nghĩ rằng thời hoàng kim đã trong quá khứ, và rằng thế giới
đã trì trệ, nếu không nói là đang xấu đi. [27] Tuân thủ nghiêm ngặt với sự khôn
ngoan đã được thời gian đãi lọc, có lẽ có thể đem những thời hoàng kim tốt đẹp thời
xa xưa trở lại, và sự khéo léo của con người có thể hình dung sẽ cải thiện được
điều này hay khía cạnh kia của đời sống hàng ngày. Tuy nhiên, điều xem là không
thể, là tri thức thực dụng của con người có thể thắng được những vấn đề cơ bản
của thế giới. Nếu ngay cả Muhammad, Giêsu, Phật và Confucius – những người biết
tất cả mọi sự vật việc đã có để biết – đã không thể xóa bỏ nạn đói, bệnh tật,
nghèo khổ và chiến tranh khỏi thế giới này, làm sao chúng ta có thể mong đợi tự
mình làm được như vậy?
Nhiều tín
ngưỡng tin rằng một ngày nào đó một đấng cứu thế [28] sẽ xuất hiện, và chấm dứt tất cả những
chiến tranh, nạn đói và ngay cả cả cái chết. Nhưng ý niệm rằng loài người có thể
làm như thế, bằng sự khám phá kiến thức mới và phát minh những dụng cụ mới là
còn tồi tệ hơn là lố bịch – đó là ngạo mạn. Câu chuyện tháp Babel, câu chuyện
Icarus, câu chuyện Golem [29], và vô số huyền thoại khác đã dạy mọi
người rằng bất kỳ nỗ lực để vượt qua những giới hạn con người, chắc chắn sẽ dẫn
đến sự thất vọng và thảm họa.
Khi văn hóa thời
nay thú nhận rằng đã có rất nhiều sự vật việc quan trọng vốn đã vẫn không biết,
và khi thừa nhận về thiếu hiểu biết đó đã kết hôn với ý tưởng rằng những khám
phá khoa học có thể đem cho chúng ta những sức mạnh mới, người ta đã bắt đầu ngờ
rằng sau cùng tiến bộ thực sự có thể thực hiện được, dẫu gì đi nữa. Khi khoa học
đã bắt đầu giải quyết một vấn đề nan giải này sau một vấn đề nan giải khác, nhiều
người đã trở thành được thuyết phục rằng con người có thể vượt qua – bất kỳ và
tất cả – những vấn đề, bằng cách tiếp thụ và áp dụng kiến thức mới. Nghèo, bệnh,
chiến tranh, đói, già và bản thân cái chết, đều đã không phải là số phận không
thể tránh khỏi của loài người. Chúng giản dị đã chỉ là những quả thành từ sự
thiếu hiểu biết của chúng ta.
Một thí dụ nổi
tiếng là tia chớp. Nhiều văn hóa cho rằng tia sáng chớp (đi kèm với tiếng sấm)
đã là cái búa của một gót tức giận, dùng để trừng phạt những kẻ tội lỗi. Vào giữa
thế kỷ XVIII, trong một trong những thí nghiệm nổi tiếng nhất trong lịch sử
khoa học, Benjamin Franklin đã thả một chiếc diều trong một cơn bão có sấm chớp
để thử nghiệm giả thuyết rằng tia chớp chỉ giản dị là một dòng điện tích. Những
quan sát thực nghiệm của Franklins, cùng với kiến thức của ông về những tính
chất của năng lượng điện, cho phép ông phát minh cột thu lôi và như thế, tước bỏ
khí giới của những gót.
Nghèo đói là
một thí dụ điển hình khác. Nhiều văn hóa đã xem sự nghèo đói là một phần tất yếu,
không thể tránh, của thế giới không hoàn hảo này. Theo sách Thánh mới, ngay trước
khi bị đóng đinh, một người phụ nữ xức cho Christ với dầu quý trị giá 300 bạc denarii. Những học trò của Giêsu đã mắng
người phụ nữ vì đã lãng phí một số tiền rất lớn như thế, thay vì đem cho người
nghèo, nhưng Giêsu đã bào chữa cho bà ấy, nói rằng “Người nghèo, ngươi sẽ luôn
luôn có với ngươi, và ngươi có thể giúp đỡ họ bất cứ lúc nào ngươi muốn. Nhưng ngươi
sẽ không phải luôn luôn có ta”. [30] Ngày nay, ngày càng ít người,
bao gồm cả ngày càng ít và ít hơn những người Kitô, đồng ý với Giêsu về vấn đề
này. Nghèo ngày càng được xem như là một vấn đề kỹ thuật, có thể thay đổi cải
tiến được. Đó là khôn ngoan phổ thông rằng những chính sách dựa trên những tìm tòi
mới nhất trong những ngành nông học, kinh tế, y học và xã hội học có thể loại bỏ
đói nghèo.
Và quả thực
như vậy, nhiều nơi trên thế giới đã được giải thoát khỏi những hình thức tồi tệ
nhất của sự thiếu thốn. Trong suốt lịch sử, những xã hội đã điêu đứng vì hai loại
nghèo: nghèo xã hội, nó kềm giữ một số
người không có được những cơ hội vốn sẵn có với những người khác; và nghèo sinh học, nó đặt chính những đời sống
của những cá nhân trong nguy cơ do thiếu thức ăn và chỗ ở. Có lẽ nghèo xã hội
không bao giờ có thể loại trừ được, nhưng nghèo sinh học đã là một sự kiện của quá
khứ ở nhiều nước trên thế giới.
Cho đến gần
đây, hầu hết mọi người lơ lửng rất gần với đường chuẩn của cái nghèo sinh học, nếu
dưới đường đó, một người thiếu mức calori đủ để duy trì sự sống cho lâu dài. Ngay
cả chỉ những tính toán sai lầm nhỏ, hay những bất hạnh, cũng có thể dễ dàng đẩy
người ta, xuống thấp hơn đường chuẩn, vào nạn đói. Thiên tai và thảm họa do con
người tự gây ra, thường xuyên đẩy toàn bộ dân chúng xuống vực thẳm, gây ra hàng
triệu người chết. Ngày nay hầu hết dân chúng trên thế giới có một mạng lưới an
toàn căng dài bên dưới họ. Những cá nhân được bảo vệ khỏi bất hạnh cá nhân bằng
bảo hiểm, an sinh xã hội do nhà nước tài trợ, và rất nhiều những tổ chức ngoài
chính quyền (NGO) địa phương và quốc tế. Khi tai họa giáng sấm sét xuống toàn
thể một khu vực, những nỗ lực cứu trợ toàn cầu thường thành công trong việc
ngăn chặn thảm cảnh tồi tệ nhất. Mọi người vẫn bị khổ sở với rất nhiều những sỉ
nhục, mất phẩm giá, và những bệnh tật liên quan đến nghèo túng, nhưng trong hầu
hết những quốc gia thanh bình, không ai phải chịu chết đói. Thực sự, trong nhiều
xã hội, nhiều người đang có nguy cơ bị chết vì bệnh béo phì hơn vì đói ăn.
Trong tất cả
những vấn đề hiện ra bên ngoài như không thể nào giải quyết được của loài người,
một vấn đề vẫn trêu gan tranh luận khích bác, thú vị và quan trọng nhất: vấn đề
của bản thân cái chết. Trước kỷ nguyên thời nay, hầu hết những tôn giáo và những
hệ ý thức đã mặc nhiên tiếp nhận rằng cái chết là số phận không thể tránh khỏi của
chúng ta. Hơn nữa, hầu hết những tín ngưỡng đã biến cái chết vào thành nguồn
chính của ý nghĩa trong đời sống. Hãy thử tưởng tượng đạo Islam, đạo Kitô, hay
tôn giáo Egypt thời cổ, trong một thế giới không có cái chết. Những tín điều này
đều dạy người ta rằng họ phải đi đến chấp nhận cái chết, và cắm những hy vọng của
họ vào thế giới bên kia, hơn là tìm cách thắng vượt cái chết, và sống đời đời ở
đây trên quả đất này. Những não thức giỏi nhất đã bận rộn để tìm kiếm ý nghĩa của
cái chết, nhưng không phải cố gắng để thoát khỏi nó.
Đó là chủ đề
của huyền thoại sơ khai nhất còn lưu truyền đến chúng ta – huyền thoại
Gilgamesh của Sumer thời cổ. Anh hùng của văn minh Sumer là con người mạnh nhất
và có khả năng nhất trên thế giới, vua Gilgamesh của thành Uruk, người có thể
đánh bại bất cứ ai trong trận chiến. Một ngày, người bạn thân nhất của
Gilgamesh, Enkidu, chết. Gilgamesh ngồi cạnh xác chết và quan sát nó trong nhiều
ngày, cho đến khi ông nhìn thấy một con dòi rơi khỏi lỗ mũi của bạn mình. Tại
thời điểm đó, một nỗi kinh hoàng khủng khiếp bám chặt lấy Gilgamesh, và ông quyết
tâm rằng chính ông sẽ không bao giờ chết. Ông sẽ, bằng cách nào đó, tìm được một
cách để đánh bại cái chết. Gilgamesh sau đó đã thực hiện một hành trình đi đến tận
cùng của vũ trụ, giết những sư tử, chiến đấu với những người bọ cạp, và tìm lối
của ông xuống thế giới bên kia. Ở đó, ông đã đập vụn những người khổng lồ bằng
đá của Urshanabi, và người chèo thuyền trên con sông của những người chết, và đã
gặp Utnapishtim, người sống sót cuối cùng của trận lũ nguyên thủy. Tuy nhiên,
Gilgamesh đã thất bại trong săn tìm của mình. Ông trở về nhà tay không, vẫn là
kẻ có sống chết như bao giờ, nhưng với một đúc kết khôn ngoan mới. Khi những gót
tạo ra con người, Gilgamesh đã học được, họ đã đặt cái chết như vận mệnh không
thể tránh khỏi của con người, và con người phải học cách sống với nó.
Những tông đồ
của sự tiến bộ không chia sẻ thái độ chủ bại này. Đối với những con người khoa
học, cái chết không phải là một định mệnh không thể tránh khỏi, nhưng chỉ đơn
thuần là một vấn đề kỹ thuật. Người ta chết không phải vì những gót ra sắc lệnh
đó, nhưng do những thất bại nhiều loại khác nhau về kỹ thuật – một cơn đau tim,
bệnh ung thư, bị nhiễm trùng. Và mọi vấn đề kỹ thuật đều có một giải pháp kỹ thuật.
Nếu tim đập yếu và không đều, một máy tạo nhịp tim có thể dùng kích thích nó, hoặc
thay thế nó bằng một trái tim mới. Nếu ung thư lan tràn, những tế bào ung thư
có thể bị giết chết bằng thuốc, hoặc phóng xạ. Nếu bacteria sinh sôi nảy nở, chúng
có thể kềm chế bằng thuốc kháng sinh. Đúng vậy, hiện nay chúng ta không thể giải
quyết được tất cả những vấn đề kỹ thuật. Nhưng chúng ta đang làm việc về việc
đó. Những trí tuệ giỏi nhất của chúng ta không phí thời gian của họ trong cố gắng
đem lại ý nghĩa cho cái chết. Thay vào đó, họ đang bận rộn nghiên cứu hệ thống
sinh lý, nội tiết và di truyền gây bệnh và tuổi già. Họ đang phát triển những
loại thuốc mới, những phương pháp điều trị cách mạng, và những cơ quan nhân tạo
sẽ kéo dài cuộc sống của chúng ta, và một ngày sẽ có thể đánh bại chính thần chết
Grim Reaper.
Cho đến gần
đây, bạn hẳn đã không nghe những nhà khoa học, hay bất cứ ai khác, nói rất thẳng
thừng. “Đánh gục cái Chết ?! Vô nghĩa gì đâu! Chúng ta chỉ cố gắng để chữa bệnh
ung thư, bệnh lao và bệnh Alzheimer”, họ đã nhấn mạnh. Mọi người đã tránh những
vấn đề về cái chết, vì mục tiêu xem dường quá khó nắm bắt. Tạo ra làm gì những
kỳ vọng không hợp lý? Tuy nhiên bây giờ chúng ta đang ở một điểm, nơi chúng ta
có thể nói thẳng về điều đó. Dự án dẫn đầu của Cách mạng Khoa học là để cho loài
người đời sống vĩnh cửu. Ngay cả khi giết cái chết có vẻ như một mục tiêu xa vời,
chúng ta đã đạt được rồi những điều vốn một vài thế kỷ trước không thể tưởng tượng
được. Trong năm 1199, vua Richard the Lionheart đã bị một mũi tên bắn ngập vào
vai trái ông. Ngày nay, chúng ta sẽ bảo rằng ông bị một thương tích nhỏ. Nhưng
trong năm 1199, trong sự vắng mặt của thuốc kháng sinh và phương pháp khử trùng
hiệu quả, vết thương nhỏ trong da thịt này đã bị nhiễm trùng, và bệnh thối và
chết mô tế bào (gangrene) bắt đầu. Cách duy nhất để ngăn chặn sự lan rộng
của gangrene trong thế kỷ XII ở Europe là cắt bỏ chân hay tay bị nhiễm
trùng, nhưng không thể làm được với nhà vua khi chỗ nhiễm trùng là ở một bên
vai. Chứng thối mô bắp thịt lan truyền qua cơ thể của Lionheart, và không ai có
thể giúp nhà vua. Ông chết trong đau đớn hai tuần sau đó.
Gần đây nhất
là vào thế kỷ XIX, những y sĩ giỏi nhất vẫn không biết làm thế nào để ngăn ngừa
nhiễm trùng và ngăn chặn sự thối rữa của những mô tế bào (putrefaction). Trong những bệnh viện ở chiến trường, những y sĩ thường
xuyên cắt tay và chân của những người lính dù chỉ bị những vết thương dẫu nhỏ, ở
bắp thịt chân hay tay, sợ bị gangrene Những giải thuật cắt bỏ này, cũng
như tất cả những phương thức y tế khác (như nhổ răng), đã được thực hiện mà
không có bất kỳ loại thuốc gây mê nào. Những thuốc gây mê đầu tiên – ether,
chloroform và morphine – được đưa vào dùng thường xuyên trong y học phương Tây
chỉ vào giữa thế kỷ XIX. Trước khi chloroform ra đời của, bốn người lính đã phải
giữ chặt một đồng bạn trúng thương, trong khi y sĩ cưa bỏ chân hay tay bị
thương. Vào buổi sáng sau trận Waterloo (1815), những đống tay và chân bị cưa bỏ
có thể được nhìn thấy cạnh những bệnh viện ở chiến trường. Trong những ngày đó,
những thợ mộc và những người thợ của những lò thịt, khi nhập ngũ thường được gửi
đến phục vụ trong những binh đoàn y tế, vì giải phẫu đã đòi hỏi không nhiều so
với cách bạn biết khéo léo với những lưỡi dao và cưa.
Trong hai thế
kỷ kể từ Waterloo, mọi sự vật việc đã thay đổi đến không còn nhận ra. Thuốc uống,
thuốc tiêm và những giải phẫu tinh vi cứu chúng ta khỏi một loạt những bệnh tật
và thương tích vốn một lần đã từng giáng một bản án tử hình không thể tránh. Chúng
cũng bảo vệ chúng ta chống lại vô số những đau nhức và những bệnh lặt vặt hàng
ngày, mà những người trước thời chúng ta, đều chỉ đơn giản chấp nhận chúng như
là phần của cuộc sống. Tuổi thọ trung bình khoảng 25-40 năm, tăng lên khoảng 67,
trên toàn thế giới, và khoảng 80, trong những nước của thế giới phát triển.[31]
Cái chết đã chịu
sự thối lui tồi tệ nhất của nó trong đấu trường của trẻ em tử vong. Cho đến thế
kỷ XX, khoảng giữa 1/4 và 1/3 số trẻ em của những xã hội canh nông đã không bao
giờ sống đến tuổi trưởng thành. Chúng chết hầu hết vì những bệnh trẻ em như bạch
hầu, sởi và đậu mùa. Trong England thế kỷ XVII, tỉ lệ là 150/1,000 những trẻ sơ
sinh chết trong năm đầu tiên của chúng, và 1/3 của tất cả những trẻ em đã chết
trước khi chúng đến 15 tuổi. [32] Ngày nay, chỉ có 5 trong số
1.000 trẻ em England chết trong năm đầu tiên của chúng, và chỉ 7 trong 1.000 chết
trước năm 15 tuổi. [33]
Chúng ta có
thể nắm tốt hơn được tác động đầy đủ của những con số này bằng cách bỏ sang một
bên những con số thống kê, và kể vài câu chuyện. Một thí dụ điển hình là gia
đình của Vua Edward I (1237-1307) và vợ ông, nữ hoàng Eleanor (1241-1290) của England.
Con cái của họ được hưởng những điều kiện và môi trường nuôi dưỡng tốt nhất của
thời Trung cổ Europe có thể cung cấp được. Họ sống trong những cung điện, ăn thực
phẩm nhiều như họ thích, có nhiều quần áo ấm, có lò sưởi với những bệ chất đầy
đồ gia dụng, nước sạch nhất có thể có, một đội quân của những gia nhân và những
y sĩ tốt nhất. Những nguồn tài liệu đề cập đến 16 đữa con, Nữ hoàng Eleanor
sinh khoảng giữa những năm 1255 và 1284:
1. Một người con gái vô danh, sinh năm 1255, đã chết khi sinh.
2. Người con gái Catherine, đã chết lúc hoặc một tuổi hoặc ba tuổi.
3. Một người con gái, Joan, chết vào tháng thứ sáu.
4. Một người con trai, John, đã chết lúc 5 tuổi.
5. Một người con trai, Henry, đã chết lúc 6 tuổi
6. Một người con gái, Eleanor, chết lúc 29 chín tuổi.
7. Một người con gái vô danh chết khi 5 tháng.
8. Một người con gái, Joan, đã chết lúc 35 tuổi.
9. Một người con trai, Alphonso, chết lúc 10 tuổi.
10. Một người con gái, Margaret, đã chết ở tuổi 58.
11. Một người con gái, Berengeria, chết khi 2 tuổi.
12. Một người con gái vô danh đã chết ngay sau khi sinh.
13. Người con gái Mary, đã chết ở tuổi 53.
14. Một người con trai vô danh đã chết ngay sau khi sinh.
15. Một người con gái, Elizabeth, đã chết khi 34 tuổi.
16. Một người con trai, Edward.
Người trẻ nhất,
Edward, là người đầu tiên trong số những con trai sống qua được những năm nguy
hiểm của tuổi thơ, và khi cha ông chết, ông nối ngôi, là vua Edward II. Nói
cách khác, Eleanor đã phải mất mười sáu lần cố gắng, để thực hiện nhiệm vụ cơ bản
nhất của một nữ hoàng England – cung cấp cho chồng mình một người thừa kế nam.
Mẹ của Edward II đã phải là một người phụ nữ đặc biệt với kiên nhẫn và dũng cảm
khác thường. Không như người phụ nữ mà Edward II đã chọn làm vợ, Isabella, em
gái vua France. Bà đã ám hại Edward II khi ông 43 tuổi.[34]
Với kiến
thức tốt nhất chúng ta có được, Eleanor và Edward I đã là một cặp vợ chồng khỏe
mạnh và không vướng bệnh di truyền nào có thể gây tử vong cho con cái. Tuy
nhiên, 10 trong số 16 – 62 phần trăm – đã chết trong thời thơ ấu. Chỉ có 6 con
sống được quá tuổi 11, và chỉ có 3 – chỉ có 18 phần trăm – sống quá tuổi 40.
Ngoài những trường hợp sinh nở này, Eleanor rất có thể đã có một số trường hợp
bị sẩy thai. Tính trung bình, Edward I và Eleanor mất một đứa con mỗi ba năm,
mười đứa trẻ, đứa này tiếp đứa kia. Đó là điều một người làm cha mẹ ngày nay gần
như không thể nào tưởng tượng được nữa, về sự mất mát như thế đó.
Dự án
Gilgamesh sẽ thực hiện trong bao lâu – sự tìm kiếm sự bất tử – mới đi đến hoàn
thành? Một trăm năm? Năm trăm năm? Một nghìn năm? Chúng ta hãy nhớ lại ít ỏi biết
bao chúng ta đã biết về cơ thể con người vào năm 1900, và bao nhiêu kiến thức
chúng ta đã đạt được chỉ trong một thế kỷ duy nhất, chúng ta sẽ có lý do cho sự
lạc quan. Những bác học về kỹ thuật di truyền gần đây đã thành công trong việc
tăng gấp đôi tuổi thọ trung bình của một loài sâu, loài Caenorhabditis elegans. [35] Có thể nào họ cũng sẽ làm tương tự như thế cho loài
Homo Sapiens? Những nhà chuyên môn kỹ
thuật nano đang phát triển một hệ thống
miễn dịch bionic, gồm hàng triệu nano-robot,
những robot sẽ sống ở cơ thể của chúng ta, sẽ thông những mạch máu bị nghẽn, sẽ
chống những virus và những bacteria, loại bỏ những tế bào ung thư, và ngay cả đảo
ngược tiến trình đưa đến già lão của con người. [36] Một vài học giả, nghiêm trang cho biết rằng đến
khoảng năm 2050, một số người sẽ trở thành a-mortal,
không-già-chết (không phải immortal, bất tử, vì họ vẫn có thể chết vì một tai
nạn nào đó, (xe cán nát, máy bay rớt cháy tiêu xác, ...) nhưng không-già-chết,
có nghĩa là không còn có những thương tích, bệnh tật nghiêm trọng nữa, khiến đời
sống của họ có thể bình thường kéo dài được đến vô hạn). [37]
Dù dự án
Gilgamesh có thành công hay không, từ viễn cảnh của lịch sử, đó là điều hết sức
lý thú hấp dẫn để thấy rằng hầu hết những tôn giáo và những hệ tư tưởng cuối thời
hiện nay, đã làm xong rồi việc đem cái Chết và Đời-sau ra khỏi phương trình cuộc
đời. Cho đến tận thế kỷ XVIII, những tôn giáo đều coi cái chết và hậu quả của
nó là trung tâm cho ý nghĩa của đời sống. Bắt đầu từ thế kỷ XVIII, những tôn
giáo và hệ tư tưởng như chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa nam nữ
bình đẳng đã mất tất cả những bận tâm về thế giới bên kia. Những gì đích xác sẽ
xảy ra với một người theo chủ nghĩa cộng sản sau khi ông hay bà ta chết? Những
gì sẽ xảy ra với một người theo chủ nghĩa tư bản? Những gì sẽ xảy ra với một người
theo chủ thuyết nữ quyền? Không ích gì để tìm kiếm trả lời trong những tác phẩm
của Marx, Adam Smith hay Simone de Beauvoir. Hệ tư tưởng thời nay duy nhất vẫn
thưởng cho cái chết một vai trò trung tâm là chủ nghĩa dân tộc. Trong những giờ
phút thi vị và tuyệt vọng hơn của nó, chủ nghĩa dân tộc hứa rằng bất cứ ai chết
cho dân tộc sẽ mãi mãi sống trong ký ức tập thể của nó. Tuy nhiên, lời hứa này
rất mù mờ đến nỗi ngay cả những người theo chủ nghĩa dân tộc cũng thực sự không
biết phải giải thích, hay nghĩ nó là gì.
Ông chồng già giàu sụ của Khoa học
Chúng ta
đang sống trong một thời đại kỹ thuật. Nhiều người đã tin chắc rằng khoa học và
kỹ thuật nắm giữ những trả lời cho tất cả những vấn đề của chúng ta. Chúng ta chỉ
phải để cho những nhà khoa học và kỹ thuật tiếp tục với công việc của họ, và họ
sẽ tạo ra thiên đường ở đây trên mặt đất. Nhưng khoa học không phải là một công
trình khi thực hiện sẽ diễn ra trên một vài tầng hiện hữu của luân lý hay tinh
thần vượt cao hơn so với phần còn lại của hoạt động con người. Giống như tất cả
những phần khác của văn hóa chúng ta, nó được định hình bởi những chú tâm của lợi
ích về kinh tế, chính trị và tôn giáo.
Khoa học là
một công việc rất tốn kém. Một nhà sinh học để tìm hiểu những hệ thống miễn dịch
của con người, đòi hỏi phải có những phòng thí nghiệm, với những ống nghiệm,
hóa chất và kính hiển vi điện tử, chưa kể đến những nhân viên phụ tá phòng thí
nghiệm, thợ điện, thợ ống nước và những lao công quét dọn. Một nhà kinh tế tìm
kiếm mô hình thị trường tín dụng phải mua những cômputơ, thiết lập những ‘nhà
băng dữ liệu' khổng lồ, và phát triển những prôgram dùng những dữ liệu phức tạp
này để trả lời những câu hỏi nghiên cứu. Một nhà khảo cổ học người muốn hiểu được
hành vi của những người săn bắn hái lượm thời cổ, phải đi đến những vùng đất xa
xôi, đào xới những phế tích cổ xưa, và định ngày tháng xương hóa thạch và những
dụng cụ tạo tác. Tất cả những điều này đều tốn rất nhiều tiền.
Trong suốt
500 năm qua, khoa học thời nay đã đạt được những kỳ diệu, nhờ phần lớn vào sự trợ
giúp sẵn sàng của những chính phủ, những doanh nghiệp, những tổ chức và những
nhà tài trợ tư nhân, trút hàng tỉ đôla vào nghiên cứu khoa học. Những tỉ đôla này
đã làm được nhiều hơn trong việc lập biểu đồ vũ trụ, vẽ bản đồ những hành tinh,
và thêm danh mục vào vương quốc những động vật, nhiều hơn so với những gì Galileo
Galilei, Christopher Columbus và Charles Darwin đã làm. Nếu những thiên tài đặc
biệt này đã chưa bao giờ từng ra đời, những viễn kiến của họ có lẽ cũng có thể đã
xảy ra với những người khác. Nhưng nếu những nguồn tài chính thích ứng đã không
có, không trí tuệ sáng chói nào có thể bù đắp cho điều đó. Nếu Darwin chưa bao
giờ từng ra đời, lấy thí dụ, ngày nay chúng ta tất xem thuyết tiến hóa là từ
Alfred Russel Wallace, người đã đi đến ý tưởng về tiến hóa qua chọn lọc tự
nhiên, độc lập với Darwin, và chỉ một vài năm sau đó. Nhưng nếu những cường quốc
Europe đã không tài trợ những nghiên cứu địa lý, động vật và thực vật vòng
quanh thế giới, Darwin lẫn Wallace đều sẽ không có những dữ liệu thực nghiệm cần
thiết để phát triển thuyết tiến hóa. Có lẽ rằng ngay cả thuyết này cũng chưa được
tìm đến.
Tại sao hàng
tỉ bạc đã bắt đầu chảy từ những kho bạc của chính phủ và doanh nghiệp vào những
phòng thí nghiệm và những trường đại học? Trong giới học thuật, nhiều người đủ
ngây thơ để tin vào khoa học thuần túy. Họ tin rằng chính phủ và những doanh
nghiệp hoàn toàn vị tha, đã cho họ tiền để theo đuổi bất cứ những dự án nghiên
cứu nào đánh đúng tưởng tượng, ưa thích của họ. Nhưng điều này khó diễn tả được
những thực tế của sự tài trợ cho kinh phí khoa học.
Hầu hết những
nghiên cứu khoa học được tài trợ vì một vài ai đó tin rằng chúng có thể giúp đạt
được một số mục tiêu chính trị, kinh tế, hay tôn giáo. Lấy thí dụ, trong thế kỷ
XVI, những nhà vua và những nhà băng dồn những nguồn lực to lớn để tài trợ những
thám hiểm địa lý trên thế giới, nhưng không dành một xu nào cho nghiên cứu tâm
lý trẻ em. Điều này là vì những vị vua và những nhà băng đã phỏng đoán rằng phát
kiến về kiến thức địa lý mới sẽ cho phép họ chinh phục những vùng đất mới và
thiết lập những đế quốc thương mại, trong khi họ không thể thấy bất kỳ lợi nhuận
nào trong việc tìm hiểu tâm lý trẻ em.
Trong những năm
1940, những chính phủ của USA và Sôviết dồn những nguồn lực to lớn để nghiên cứu
vật lý nguyên tử nhưng không cho ngành khảo cổ học dưới nước. Họ phỏng đoán rằng
nghiên cứu vật lý nguyên tử sẽ giúp họ phát triển vũ khí nguyên tử, trong khi
khảo cổ học dưới nước khó có thể giúp thắng những chiến tranh. Những nhà khoa học
chính họ không phải luôn luôn nhận ra được những lợi ích chính trị, kinh tế và
tôn giáo vốn kiểm soát dòng chảy của đồng tiền; nhiều nhà khoa học, trong thực
tế, hành động từ sự tò mò trí tuệ tinh khiết. Tuy nhiên, hiếm khi có những nhà
khoa học ra lệnh định đoạt chương trình nghiên cứu khoa học.
Ngay cả nếu
chúng ta muốn tài trợ khoa học thuần túy không bị ảnh hưởng bởi những lợi ích
chính trị, kinh tế, tôn giáo, có lẽ sẽ cũng là điều không thể. Sau hết, những
nguồn lực của chúng ta đều có giới hạn. Hãy thử hỏi một nghị sĩ hãy phân bổ
thêm một triệu đôla vào quỹ Khoa học Quốc gia cho nghiên cứu cơ bản, và ông sẽ
chính đáng hỏi lại rằng liệu số tiền đó sẽ tốt hơn nên đổ vào tài trợ cho huấn
luyện giáo chức, hoặc nên dành vào việc giảm thuế cần thiết cho một nhà máy hiện
đang gặp khó khăn trong đơn vị cử tri của ông. Để điều hướng những nguồn lực giới
hạn, chúng ta phải trả lời những câu hỏi như “Điều gì quan trọng hơn?” Và “Điều
gì là tốt?” Và đây không phải là những câu hỏi khoa học. Khoa học có thể giải
thích những gì hiện hữu trong thế giới, những sự việc xảy ra làm sao, và những
gì có thể có trong tương lai. Theo định nghĩa, nó không có kỳ vọng để biết những
gì nên có trong tương lai. Chỉ có những
tôn giáo và hệ tư tưởng mới tìm cách trả lời những câu hỏi như vậy.
Hãy xem xét
tình thế khó xử sau đây: hai nhà sinh học trong cùng ban của một phân khoa đại
học, có những kỹ năng chuyên môn giống nhau, cả hai đều đã nộp đơn xin một khoản
trợ cấp hàng triệu đôla để tài trợ cho những dự án nghiên cứu thời nay của họ.
Giáo sư Slughorn muốn nghiên cứu một bệnh nếu nhiễm vào bầu vú bò, giảm 10% mức
sản xuất sữa của chúng. Giáo sư Sprout muốn nghiên cứu xem liệu những con bò có
bị đau đớn gì về tinh thần hay không, khi chúng bị tách khỏi những con bê của
chúng. Giả sử rằng số tiền có giới hạn, và rằng không thể nào tài trợ cho cả
hai dự án nghiên cứu, dự án nghiên cứu nào nên được tài trợ?
Không có trả
lời khoa học cho câu hỏi này. Chỉ có những trả lời chính trị, kinh tế và tôn
giáo. Trong thế giới ngày nay, điều rõ ràng là Slughorn có một may mắn nhiều hơn
để nhận tiền. Không phải vì bệnh vú bò thì đáng chú ý về khoa học hơn so với tâm
lý loài bò, nhưng do ngành kỹ nghệ sữa, vốn chờ sẵn để được hưởng lợi đến từ
nghiên cứu, có nhiều ảnh hưởng về chính trị và kinh tế hơn so với nhóm vận động
bảo vệ quyền sống của loài vật [38].
Có lẽ trong
một xã hội Hindu nghiêm ngặt, bò là loài vật linh thiêng, hoặc trong một xã hội
tôn trọng quyền sống của loài vật, Giáo sư Sprout sẽ có một cơ may tốt hơn.
Nhưng chừng nào bà sống trong một xã hội đề cao giá trị trong tiềm năng thương
mại của sữa bò và sức khỏe của những công dân của họ, hơn là trong cảm xúc của loài
bò, tốt nhất là bà nên viết lại đề nghị nghiên cứu của bà, về phần kêu gọi đến những
giả định này. Lấy thí dụ, bà có thể viết rằng “suy thoái tinh thần dẫn đến sự sụt
giảm trong sản xuất sữa. Nếu chúng ta hiểu được thế giới tinh thần của con bò sữa,
chúng ta có thể phát triển những loại thuốc tâm thần cải thiện tâm trạng của chúng,
như thế tăng sản lượng sữa lên đến 10 phần trăm. Tôi ước tính rằng có một thị
trường thế giới, khoảng 250 triệu đôla hàng năm, cho những thuốc tâm thần cho
loài bò”.
Khoa học
không thể tự thiết lập những ưu tiên riêng của nó. Nó cũng không có khả năng
xác định để làm những gì với những khám phá của nó. Lấy thí dụ, từ một quan điểm
thuần túy khoa học, vẫn chưa rõ chúng ta nên làm những gì với sự hiểu biết của
chúng ta ngày càng tăng trong di truyền học. Chúng ta có nên dùng kiến thức
này để chữa bệnh ung thư, hay để tạo ra một giống siêu nhân từ kỹ thuật biến đổi
gene, hay để thiết kế loài bò sữa với bầu vú cực lớn? Rõ ràng là một chính quyền
tự do, một chính quyền cộng sản, một chính quyền Nazi và một công ty kinh doanh
tư bản sẽ dùng những khám phá khoa học rất giống nhau cho những mục đích hoàn
toàn khác nhau, và không có lý do khoa học
nào để nói rằng nên thích một cách dùng này hơn những cách dùng khác.
Vắn tắt,
nghiên cứu khoa học có thể phát triển chỉ trong liên minh với một số tôn giáo
hay hệ ý thức. Hệ ý thức biện minh cho những chi phí của những nghiên cứu. Đổi
lại, những hệ ý thức ảnh hưởng đến những chương trình hoạt động khoa học, và
quyết định phải làm gì với những khám phá. Thế nên, để thấu hiểu loài người đã đi
đến được Alamogordo [39]
và mặt trăng như thế nào – chứ không phải một bất kỳ nào trong số những điểm đến
có thể thế chỗ – đó là không đủ để chỉ khảo sát những thành tựu của những nhà vật
lý học, sinh học và xã hội học. Chúng ta phải đưa vào xem xét những sức mạnh tư
tưởng, chính trị và kinh tế, chúng định dạng cho vật lý, sinh học và xã hội học,
đẩy chúng theo những hướng nhất định, trong khi bỏ qua những hướng khác.
Hai sức mạnh
đặc biệt đáng để chúng ta chú ý: chủ nghĩa đế quốc và chủ nghĩa tư bản. Cái
vòng phản hồi lẫn nhau, giữa khoa học, đế quốc và tư bản, đã được cho là động
cơ chính của lịch sử trong 500 năm qua. Những chương tiếp theo phân tích hoạt động
của nó. Đầu tiên, chúng ta sẽ tìm hiểu guồng máy hai cánh quạt turbine của khoa
học và đế quốc đã được khoá rập vào nhau như thế nào, và sau đó tìm hiểu cả hai
đã bám lên cái bơm lấy tiền của chủ nghĩa tư bản như thế nào.
15
Hôn nhân giữa Khoa học và Đế quốc
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Apr/2015 - đọc lại Oct/2018)
(Còn tiếp ... →)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
(Còn tiếp ... →)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] J. Robert Oppenheimer (1904-1967) nhà vật
lý người US, được biết đến như là “cha đẻ của bom nguyên tử”. Oppenheimer là
giám đốc khoa học của Dự án Manhattan, chương trình của Hoa Kỳ trong Thế chiến
II để phát triển những loại vũ khí nguyên tử đầu tiên. Câu này thường được cho
là của Oppenheimer vào dịp thử bom nguyên tử (plutonium bomb) thành công đầu
tiên, ở địa điểm thí nghiệm Trinity, tiểu bang New Mexico vào năm 1945, sau đó
Tổng thống Mỹ Truman đã cho lệnh thả bom nguyên tử xuống Hiroshima và Nagasaki
ở Japan, giết chết hơn 200.000 người, trong đó có rất nhiều phụ nữ và trẻ em.
Trong một chương trình truyền hình năm 1965 về những khoảnh khắc sau thí nghiệm
ỏ Trinity, Oppenheimer đã nói: “Chúng tôi biết thế giới sẽ không còn là như cũ
nữa. Một vài người cười, một vài người khóc. Hầu hết mọi người đều im lặng. Tôi
nhớ một dòng từ thánh thư Hindu, Bhagavad
Gita. Vishnu đang cố gắng thuyết phục vị hoàng tử rằng người này phải làm
nhiệm vụ của mình, và để gây ấn tượng với người ấy, Vishnu đã hiện ra trong một
hình dạng có rất nhiều cánh tay của mình và nói, “Bây giờ ta trở thành Thần
Chết, kẻ huỷ diệt những thế giới” (BhG.XI.32) .Tôi giả sử tất cả chúng tôi đều
nghĩ thế, trong cách này hay cách khác”.
(Nhưng cũng
chính câu này, tuy nói về sự tận cùng của thế giới, nay đã được dịch hiểu với
một ý nghĩa có phần hơi khác; như lời Krishna, tự nói về mình, trong đoạn XI,
câu 32, thành: “Ta là Thời gian (trở thành già lão), nguyên nhân lớn lao đáng
sợ của sự huỷ diệt của thế giới”. Tất cả như thế sẽ thuận hợp với những câu
khác trong Bhagavad Gita: Krishna đến
thế gian để tiêu diệt thế giới. Ông nói về mình (BhG.XI.32) “Ta là Thời gian
thành già lão để hủy diệt thế giới”. Nhưng ai đang bị hủy diệt? Đấng sáng tạo
(Brahman) là Tất cả và ngự bên trong tất cả mọi người (Atman) - do đó đó là sự
xuất hiện kín đáo của Đấng Một, vốn được sinh ra và chết đi. Việc đến và đi của
con người là vô thường (BhG.II.16). Chưa bao giờ có một thời gian khi đó chúng
ta đã không phải tất cả hiện hữu như Đấng Một, và không bao giờ sẽ có một thời
gian khi chúng ta chấm dứt hiện hữu (BhG.II.12).)
[2] Christopher Columbus (1451-1506) là một
nhà thám hiểm, công dân thành Genoa, người Italy. Dưới sự bảo trợ của vua
Ferdinand II, và nữ hoàng Isabella I, Hoàng gia Catô của những xứ Aragon,
Castile và Leon ở Spain, đặc biệt từ nữ hoàng Isabella, có ngân quỹ phần lớn từ
sự ngược đãi tôn giáo, cưỡng bức đổi đạo, những toà án dị giáo Spain; thành quả
của những giết hại, trục xuất, và chiếm hữu tái sản của những người Jew (đạo
Juda), và Moors (đạo Islam). Columbus đã đứng ra tổ chức đoàn thuyền vượt biển
Atlantic vào năm 1492, với hy vọng tìm được một con đường mới, đi về phía Tây,
đến India (để mua bán gia vị). Ông đã thực hiện tổng cộng bốn chuyến đi đến
vùng biển Caribbean và Nam America trong những năm 1492-1504. Tất cả đã mở
đường cho sự huỷ hoại, diệt chủng, diệt văn hoá tàn khốc những dân tộc bản địa
ở Trung và Nam America, sau đó cũng mở đường cho sự thám hiểm của những nước
Europe khác, để khai thác, và thuộc địa châu America. Ông từ lâu vẫn được xưng
tụng là người “tìm ra” Tân Thế giới, mặc dù những người Vikings, như Leif
Eriksson, đã đến Bắc America năm thế kỷ trước đó.
Trong chuyến đi đầu tiên, Christopher
Columbus có ba thuyền: Niña, Pinta, và Santa Maria. Khởi hành từ Palos de la Frontera, Spain, vào
ngày 03 tháng 8, 1492. Con thuyền chính của ông, Santa Maria có 52 người trên
thuyền, trong khi hai thuyền khác, Nina và Pinta có thuỷ thủ đoàn18 người.
Ngày
11 Tháng Mười năm 1492, họ tìm thấy quần đảo Caribbean ngoài khơi vùng đông nam
của lục địa Bắc America. Họ đã lên một hòn đảo họ gọi là Guanahani, nhưng sau
đó Columbus đổi tên là San Salvador. Họ đã gặp những người da đỏ địa phương hiền
lành Taino, nhiều người trong số họ đã bị đoàn Columbus bắt và sau đó bán làm
nô lệ. Columbus nghĩ rằng mình đã đến được một vùng thuộc India, Asia, và đã
gọi là khu vực này Indies, và gọi là cư dân của nó là người Indian!
[3] Nhân vật trong truyện ngắn cùng tên
của Washington Irving, Rip Van Winkle
khởi hứng từ truyện cổ dân gian Germany. Câu chuyện về một người đàn ông ngủ,
một cách bí ẩn, một giấc dài 20 năm, để khi tỉnh dậy, thấy chính mình trong một
thế giới đã thay đổi.
[4] [David Christian,
Maps of Time: An Introduction to Big
History (Berkeley: University of California Press, 2004), 344–5; Angus
Maddison, The World Economy, vol. 2
(Paris: Development Centre of the Organization of Economic Co-operation and
Development, 2001), 636; ‘Historical Estimates of World Population’, USA Census
Bureau, accessed 10 December 2010,
http://www.census.gov/ipc/www/worldhis.html.]
[5] [Maddison, The World Economy, vol. 1, 261.]
[6] [‘Gross Domestic Product 2009’, the World Bank, Data and
Statistics, accessed 10 December 2010,
http://siteresources.worldbank.org/DATASTATISTICS/Resources/GDP.pdf]
[7] [Christian, Maps of Time, 141.]
[8] [The largest
contemporary cargo ship can carry about 100,000 tons. In 1470 all the world’s
fleets could together carry no more than 320,000 tons. By 1570 total global
tonnage was up to 730,000 tons (Maddison, The World Economy, vol. 1, 97).]
[9] [The world’s
largest bank – the Royal Bank of Scotland – has reported in 2007 deposits worth
$1.3 trillion. That’s five times the annual global production in 1500. See
‘Annual Report and Accounts 2008’, the Royal Bank of Scotland, 35, accessed 10
December 2010,
http://files.shareholder.com/downloads/RBS/626570033}0}278481/eb7a003a-5c9b-41ef-bad3–81fb98a6c823/RBS_GRA_2008_09_03_09.pdf.]
[10] Ferdinand Magellan (1480 - 1521): nhà
hàng hải và thám hiểm người Portugal; đã dong buồm đi vòng quanh quả đất dưới
lá cờ của cả hai nước Portugal (1505-1513) và Spain (1519-1521). Từ Spain, ông
đi thuyền vượt biển Atlantic, quanh Nam America, tìm ra ra eo biển Magellan, và
qua eo biển này sang biển Pacific. Sau khi đặt chân lên Cebu, quần đảo
Philippines, Magellan với cuồng tín tôn giáo đã quyết định đổi đạo những người
bản xứ sang đạo Kitô. Một số cư dân bản địa đồng ý, trong khi những người khác
đã không - và gây ra chia rẽ trong dân chúng địa phương. Vua Cebu đã trở thành
tín đồ Kitô, và tìm cách đánh chiếm nhóm láng giềng, những người Mactan, vì họ
đã không đổi đạo. Những người Cebu yêu cầu Magellan tham gia với họ trong chiến
đấu này, và ngược với lời khuyên của những người trong đoàn của mình, ông đã đồng
ý. Magellan dẫn đầu cuộc tấn công, tin rằng súng đạn Europe của ông sẽ bảo đảm
một chiến thắng nhanh chóng. Những người Mactan, tuy nhiên, đã chiến đấu quyết
liệt, và bắn Magellan với một mũi tên độc. Magellan chết vì vết thương trên,
ngày 27 tháng 4 năm 1521. Sau khi ông bị thổ dân giết chết ở Cebu, Philippines,
một trong những con tàu của ông tiếp tục hướng về phía tây, về lại Spain, hoàn
thành hành trình vòng quanh Quả đất đầu tiên.
Giống như nhiều
người cùng thời, Magellan toan tính tìm ra một tuyến đường biển mới, từ phương
Tây đến “Quần đảo Gia vị” ở Indonesia. Thay vào đó, Magellan đã kết thúc chứng
minh rằng thế giới quả thực tròn, và lớn hơn, so với bất cứ ai đã tưởng tượng
trước đây.
[11] Jules Verne, Le Tour du monde en quatre-vingts jours, J. Hetzel, Paris, 1873
[12] ignoramus: người không biết gì cả, người ngu dốt.
(Latin, nghĩa đen ‘chúng tôi không biết’ dùng trong toà án ‘chúng tôi không có
ghi nhận nào về điều đó’). Nghĩa dùng ngày nay gốc từ tên nhân vật trong vở hài
kịch Ignoramus (1615) của George
Ruggle, chế diễu sự dốt nát của những luật sư.
[13] Theo truyền thống, cuộc “Cách mạng Khoa học”
là thuật ngữ để chỉ về những thay đổi lịch sử trong tư tưởng và tin tưởng, đi đến
những thay đổi trong tổ chức và thể chế xã hội, diễn ra ở Europe giữa khoảng
1550-1700. Bắt đầu với Nicholas Copernicus (1473-1543), người đã khẳng định mô
hình một cosmos heliocentric (cosmos
- mặt trời làm trung tâm - Kosmos (κόσµος – vũ trụ hay thế
giới xếp đặt trật tự. Pythagoras hay những học trò của ông đã gọi như thế, từ
tính chất trật tự và xếp đặt toàn hảo – Cosmos,
như thế với những nhà tư tường Greek, là đối nghịch với Chaos, trạng thái đầu tiên của vũ trụ, là Hỗ độn), và đã kết thúc với Isaac Newton (1642-1727), người đề xuất
những luật phổ quát và một Vũ trụ cơ học chuyển động (Mechanical Universe).
Nhưng những mốc
năm tháng trong khoảng thời gian giữa Copernicus và Newton. đã có nhiều thay đổi
đáng kể trong 50 năm qua. Thừa nhận rộng rãi, thường cho là bắt đầu từ De Revolutionibus của Nicholas
Copernicus (1473-1543), đến Isaac Newton (1642-1727). Một số nhà sử học đã cắt
bớt, tuyên bố rằng nó đúng chỉ mở rộng đến sự xuất bản Principia (1687) hoặc đến Opticks
(1704) của Newton, hoặc đến khi Newton chết (1727). Có đề nghị triệt để hơn đã
cho rằng cuộc cách mạng khoa học có thể áp dụng cho cái gọi là thời Khai sáng
Newton (Enlightenment Newtonians), do đó mở rộng đến khoảng năm 1750. Thêm nữa,
một số nhà sử học cũng bỏ bớt thời kỳ mở đầu, loại bỏ Copernicus khỏi liệt kê
những mốc thứ tự thời gian của họ, tuyên bố rằng “Cách mạng Copernicus” là một
cách mạng riêng rẽ, hầu như bắt đầu và kết thúc vào năm 1610 với những công
trình của Galileo và Kepler.
Tuy nhiên, hầu hết
những sử gia (và những học giả về triết học kha học) đều đồng ý, sự giải thích,
phân định năm tháng truyền thống này (nó có lịch sử riêng của nó!) được dựa
trên tin tưởng vào một sự thay đổi cốt lõi, vốn bắt đầu trong vũ trụ học và
thiên văn học, và sau đó chuyển sang vật lý (một số sử gia cũng lập luận rằng
đã có sự phát triển song song từ giải phẫu học sang sinh lý học). Sâu xa hơn, một
số sử gia đã nhận định, những thay đổi này, trong “Triết học Tự nhiên” (natural philosophy = khoa học) này đã
mang đến sự biến đổi quan trọng trong những gì vẫn được nêu như là “thực” (ontology), và cách thức những người
Europe biện minh những tuyên xưng của họ về kiến thức (epistemology). Nhìn chung, quan điểm trí thức, về những sự vật việc,
trong tư tưởng thế kỷ XVI, là thế giới được tạo thành từ bốn Thành tố (Four
Qualities hay Four elementary qualities của Aristotle: Đất, Nước, Không khí, và
Lửa). Ngược lại, những trí thức thời Newton tin rằng thế giới đã được làm thành
từ những atoms hay corpuscles (vật chất với cơ thể rất nhỏ
bé). Đến thời Newton, hầu hết học Europe đều tin rằng quả đất di chuyển, rằng
không có những sự việc loại như con người bị ma quỷ chiếm giữ (demonic), rằng
tuyên bố về kiến thức nên dựa vào thẩm quyền của kinh nghiệm cá nhân của
chúng ta, đó là, trên lập luận lý trí và những bằng chứng cảm nhận qua thực
nghiệm. Phương châm của Hàn lâm Viện Hoàng gia London là: Nullius in Verba, vắn tắt, Không chấp nhận bất cứ gì trên cơ sở những
lời nói xuông (hoặc thẩm quyền của một ai nào khác).
Một tuyên bố truyền
thống mạnh mẽ là cuộc cách mạng khoa học đại diện cho một loạt những thay đổi vốn
bắt nguồn từ tuyên bố táo bạo của Copernicus về sư chuyển động của quả đất.
Tuyên bố này rõ ràng đi ngược lại với truyền thống, với thẩm quyền của tu tưởng
kinh viện Trung cổ, và những quan điểm đã thiết lập vững chắc trong những trường
đại học, chủng viện và hầu hết những giới chức của hội Nhà thờ. Copernicus cho
rằng quả đất không đứng một chỗ và không đứng yên ở trung tâm của cosmos (geocentric và geostatic) nhưng
nó tự quay một vòng quanh trục của nó mỗi ngày, và chạy một vòng quanh mặt trời
mỗi năm. Từ tuyên bố táo bạo nhưng đơn giản này của Copernicus, và như diễn tiến
đã xảy ra, một loạt phức tạp gồm những phát triển mới đã là cần thiết để hỗ trợ
cho quan điểm của ông, và đồng thời, để thay thế những tin tưởng trước đố. Những
gì là cần thiết, ít nhất là nhìn lại, đã là những quan sát thiên văn mới, liên
kết với Tycho Brahe (1546-1601); sửa đổi lý thuyết mới về quỹ đạo hành tinh và
chuyển động của chúng, ngày nay gắn với Johannes Kepler (1571-1630); và không
kém phần quan trong, lý thuyết mới về chuyển động để giải thích một quả đất
chuyển động trong vũ trụ, những lý thuyết này, ngày nay gắn với Galileo Galilei
(1564-1642), René Descartes (1596-1650), Christiaan Huygens (1629-1695), và tất
nhiên, Isaac Newton (1642-1727). Newton, được ca ngợi, là người đã nối thiên đường
và quả đất bằng cách hợp nhất những vật thể trên mặt đất và những thiên thể
trên trời dưới một tập hợp gồm những quy luật về chuyển động. Newton đã phát
minh ra Universe (Vũ trụ, chú ý từ Universe,
với nghĩa universal, giống nhau ở khắp
nơi, phổ quát). Nó thế chỗ Cosmos truyền thống của Aristotle.
Như thế, hợp đề
này của Newton (Newtonian Synthesis)
thực sự là một cách mạng vĩ đại nhất, trong lịch sử loài người cho đến nay,
đánh dấu sự chuyển đổi từ một cosmos
có tính chất khép kín, hữu hạn, xếp đặt trật tự, đến một universe vô hạn, đồng nhất, định lượng phổ quát. Sự thay đổi này đã
báo hiệu rằng tất cả mọi sự vật việc đã là Một. Có một loại vật chất, một tập hợp
những qui luật, một loại không gian, một loại thời gian. Tất cả mọi sự vật việc
thì luôn luôn và ở khắp mọi nơi và là như nhau: Không gian, Thời gian, Vật chất,
Nguyên nhân. Do đó chúng ta có từ: Universe,
theo nghĩa như trên, nhưng chúng ta vẫn dịch theo người Tàu, và đã lẫn lộn với
từ Cosmos là Vũ trụ. (Tôi muốn dịch
chúng thành những từ khác nhau, nhưng cõ lẽ đã muộn, vậy đôi khi dùng Cosmos và Universe để nhấn mạnh vào nghĩa khác biệt, một trời một vực, của
chúng. Theo gốc chữ; Universe: Latin universum, < ‘universus’ : ‘được kết
hợp vào thành Một, Toàn thể’ < uni- ‘một, duy nhất’ + versus ‘đã thành’)
Sự thay đổi từ Cosmos đến Universe này, cũng đánh dấu một sự chuyển đổi từ một thế giới quan
hữu cơ (Organic Worldview) đến hình ảnh một thế giới động cơ (Mechanical
Worldview). Đó là, chúng ta nhìn thế giới ngày nay như một bộ máy, một động cơ
lớn, khổng lồ, bao trùm (Modern World Machine, gần với hình ảnh con Tạo xoay vần,
Hoá công). Tất cả những điều này, đến từ nội dung ý nghĩa của cuộc Cách mạng
Khoa học, theo định nghĩa truyền thống, đã cho thấy sự quan trọng ngay trong
chính nó, đó cũng là sự quan trọng của Khoa học trong nền văn minh loài người
khi sang đến thế kỷ 20.
Nhưng thành công của
nó, có thể lập luận thêm, không chỉ khái
niệm Thiên nhiên đã được khái niệm lại, được nhìn lại cho khác đi, nhưng
cũng như thế, đã là nhìn lại bản chất của
kiến thức con người. Điều này lại dấy lên câu hỏi truyền thống về những
gì vẫn xem là Chân lý Vĩnh cửu với Con người – con người hiểu về bản thân mình
trong mối quan hệ tay ba Gót-Thiên nhiên-Con người như thế nào. Từ những quan
tâm này dẫn đến những cuộc tranh luận của quan điểm Vũ trụ vận hành như một đồng
hồ chính xác và phổ quát (Clockwork Universe), trong lịch sử khoa học, về quan
hệ của Gót với Tự nhiên và nêu câu hỏi rằng khái niệm Gót như thế, trong quan hệ
tay ba đó, đã là một thuận lý có thể khách quan hay chỉ là một cố ý hoàn toàn
chủ quan. Một sử gia cho rằng Gót, nếu có, trong thực tế, đã bị cắt đứt hoàn
toàn với thế giới của loài người – không phải ra ngoài Không gian (như
Aristotle và Aquinas, và do thế tôi đã nhấn mạnh vào khái niệm ex nihilo – Gót đứng ngoài không và thời
gian – để không thể dịch khái niệm này là Thượng đế, dù một thượng đế hữu ngã,
nhưng phải giữ nguyên là “Gót” hay “gót”) nhưng đã bị bỏ lại ngay ở lúc khởi đầu
của Thời gian. Từ những tường thuật như vậy, theo diễn ngôn này, chúng ta sẽ thấy
được những phân định mới, trên đường đi từ những tôn giáo tin-có-nhiều-gót, đến
tin-chỉ-một-gót, những tín ngưỡng tin-gót-là-khắp-cả (Pantheism), đến
tin-gót-không-nhúng-tay (Deism), tin-gót-trong-khắp-cả (Panentheism), đến những
thuyết/quan điểm như quan điểm Không-thể-biết (Agnosticism) và cuối cùng đến lập
trường Không-tin-có-gót (Atheism) như phần đông chúng ta, trong thời đại khoa học,
ngày nay.
[14] the Seal of prophets: dấu Ấn của những tiên tri: Đây là một
thuật ngữ ẩn dụ trong Qu’ran với nghĩa là “nhà tiên tri cuối cùng”, “vị cuối
cùng của những nhà tiên tri”, hiểu như không có tiên tri nào khác sẽ đến sau
Muhammad nữa. Những người Muslim áp dụng ý nghĩa này với Muhammad để dứt khoát
nhấn mạnh vào tính chất cuối cùng, và uy quyền tối thượng của nhà tiên tri Muhammad trên tất cả những thiên sứ khác.
[15] Revelation (gốc Latin revelatio(n-) < “revelare”
= ‘bóc trần, phơi trần ra’ < Greek: apocalypsis):
sự “vén lên cho thấy”. Một khái niệm rất quan trọng trong những tôn giáo tin
chỉ một gót Abrahams (Juda, Kitô, Islam), theo đó con người không thể
tự mình tìm hiểu, “nghiên cứu” mà đi đến biết được chân lý, hay Gót
như ‘chân lý sau cùng của tất cả’, nhưng loài người chỉ có thể biết được những điều này qua những nhà “tiên tri” (prophets), họ là
những sứ giả của gót, từ trời
xuống (thiên sứ) – cho loài
người biết về sự hiện hữu của mình, bằng cách nói cho biết và hiểu – được hình dung – như có một ai vén tấm màn che mắt lên để hé ra lộ cho thấy một gì đó vẫn che dâu (gót, sự thật – như sách Khải huyền báo trước về
sự tận thế). Như vậy tri thức về Gót là một gì đó linh thiêng, huyền bí, cao
vời, không thể tìm để hiểu rồi có thể biết được,
chỉ có thể được bảo cho biết, nói
che nghe, hay ‘hé lộ’ linh thiêng huyền bí đó cho thấy, tiết lộ cho biết (khải thị, khải huyền), và đặc biệt chỉ qua những trung
gian đặc biệt nào đó, không phải ai cũng có thể tự xưng là thiên sứ được (như nhũng Moses, Muhammad, Giêsu)., xem dường nếu sự việc là thực, Gót chỉ bảo cho
vài lầnn với vài người dân Trung đông đó mà
thôi. Sự vén cho thấy đó, phơi trần “sự thật linh thiêng” đó, được gọi là revelation, những nhà gót học, vẫn dịch
là “mặc khải”. Về triết học, nó đơn giản có thể dịch là sự “vén lên cho thấy”.
Ai vén lên, ai thấy, thấy gì, thấy
thế có đúng hay có giá trị gì không... là những câu hỏi phức tạp khác, của gót học, tôn giáo, không phải của
triết học.
[16] Plate tectonics: đựa trên ý tưởng rằng lớp vỏ quả đất gồm
những mảng di chuyển được, và chúng thực sự vẫn đang di chuyển, dẫn tới ý tưởng
rằng thềm những đại dương vẫn đang mở rộng. Gốc của nó Alfred Wegener
(1880-1930), người đã đưa ra ý tưởng rằng tất cả những đại lục vốn khi xưa liền
là một khối, nhưng sau đó đã tách khỏi nhau, trôi trên thềm biến, đến những vị
trí hiện nay của chúng.
[17] Năm 1831, con tàu khảo sát hàng hải HMS
Beagle ra khơi bắt đầu chuyến thám hiểm 5 năm vòng quanh thế giới. Trên tàu,
nhà thực vật học của con tàu, là một sinh viên trẻ, tên là Charles Darwin. Những
quan sát ông ghi lại, và hàng trăm mẫu vật ông thu thập được, cuối cùng đã dẫn
ông đến xây dựng thuyết Tiến hóa bởi chọn lọc Tự nhiên của ông. Ông đã trải qua
hơn hai mươi năm đối chiếu những quan sát của ông và làm việc trên lý thuyết của
ông, trước khi cuối cùng đã xuất bản quyển sách nổi tiếng, đánh dấu kỷ nguyên của
ông: On The Origin of Species, năm
1859.
Thuyết Tiến hóa được
cho là một trong những ý tưởng sâu sắc nhất, và gây tranh luận nhất, từ khi ra
đời đến nay, đã từng đặt trước trí tuệ con người. Về Nguồn gốc những Loài đã bán sạch ngay trong ngày đầu (1250 bản
in) khi nó được xuất bản cách đây 150 năm, và nó vẫn là một trong những cuốn
sách quan trọng nhất trong lịch sử khoa học. Tuy vậy, mặc dù trong thực tế quan
điểm của Darwin về thế giới đã nhanh chóng được những nhà khoa học chấp nhận,
nhưng hiện nay, đặc biệt ở USA, khoảng một nửa dân số vẫn chưa hoàn toàn ngưng
chống đối, vẫn không chấp nhận nó, lý do của hiện tượng này không từ khoa học,
nhưng từ tôn giáo, cụ thể là đạo Kitô, với những tín đồ bình dân Kitô, thuyết
Tiến hoá đe doạ nhân sinh quan, và tín ngưỡng của họ, điển hình là những câu hỏi,
đối với họ là cơ bản, về sự sống con người: chúng ta là ai? chúng ta từ đâu đến?
và chúng ta đang ở đây để làm gì? (cứu cánh của con người/đời người).
Nhưng thuyết tiến
hóa hiện nay đang được Những nhà khoa học chấp nhận thì không hoàn toàn đến thẳng
từ Darwin, cũng như vật lý học hiện đại không còn đến thẳng từ Newton – thuyết
Tiến hoá của Darwin, và thực sự, toàn bộ lĩnh vực của sinh học tiến hóa vẫn
đang trải qua sửa đổi, và mở rộng những quan điểm của nó về lịch sử sự sống, và
sự liên kết giữa sự sống những loài. Phần đông công chúng đều không biết chi tiết,
rằng thuyết tiến hóa đã đi qua ba thay đổi lớn kể từ Darwin, và đang trong giai
đoạn giữa của giai đoạn thứ tư của sự tiến hóa của nó. Tuy nhiên, không thay đổi
nào có thể được xem làm nên một ‘chuyển đổi mô hình’ theo chiều hướng của nhà
triết học khoa học Thomas Kuhn. Thuyết Tiến hoá vẫn là thuyết tiến hoá của
Darwin. Trong thực tế, sự thay đổi lớn duy nhất về quan điểm định hướng cho
sinh học, thành sinh học tiến hóa, đã diễn ra ngay lúc đầu, trong công trình
khoa học của Charles Darwin.
Ý tưởng về sự tiến
hóa – đó là, sự thay đổi sinh lý học theo thời gian – đã không bắt nguồn với
Darwin. Nó đã vẫn sẵn có trong dạng này hay dạng khác kể từ những nhà triết học
trước-Socrates, và ở England, trong một số tác giả thời Victoria, gồm cả ông nội
của Darwin là Erasmus, rõ ràng đã từng loay hoay với ý tưởng này. Tuy nhiên, tiến
hóa đã trở thành một lý thuyết khoa học chỉ sau khi Darwin trình bày rành mạch
trong Nguồn gốc của những Loài, ông gọi
nó là “một luận chứng dài”. Ông đã nghiền ngẫm trong nhiều năm, đắn đo viết, và
chỉ cho vào xuất bản trước sự kiện là Alfred Russel Wallace, một nhà tự nhiên học
trẻ hơn nhiều, cũng đã độc lập đạt đến những kết luận tương tự, và Wallace đã sẵn
sàng để xuất bản lý thuyết này.
Thị kiến sâu sắc
cơ bản của Darwin đã được căn cứ trên hàng ngàn những quan sát, và hai nguyên tắc:
nguồn gốc chung và chọn lọc tự nhiên. Dựa trên những nghiên cứu chi tiết của
ông về đặc điểm và phân bố của những loài trên thế giới, Darwin xây dựng một
suy luận vững mạnh đi đến kết luận rằng tất cả những sinh vật sống đều có những
tổ tiên chung, và do đó có liên quan đến nhau bởi một quá trình “truyền giống với
sửa đổi “. Nhưng những gì đã gây sửa đổi?
Trả lời lỗi lạc của
vị thiên tài này là: sự Chọn lọc trong Tự nhiên. Như chúng ta thấy, điều khó
khăn nhất để giải thích trong sinh học đã là sự “phù hợp” rõ ràng giữa những
sinh vật và những môi trường của chúng: cánh rõ ràng để bay, mắt để thấy, lưới
nhện để bắt côn trùng, và vân vân như vậy. Khía cạnh “kỹ thuật” này của cấu
trúc sinh học, “tính để cho” hay “sự để làm” này như nó đôi khi được gọi (sự
bay nhảy, tính nhìn thấy, làm mạng để bắt mồi), là những gì ngày hôm nay, rất
nhiều người, và đúng là hầu hết mọi người trong thời của Darwin, vẫn còn gọi là
“thiết kế thông minh” – nếu đó là tinh xảo như một chiếc đồng hồ gặp giữa sa mạc,
phải đã có một thợ đồng hồ; nếu nó là một cánh chim, phải một người “làm/thiết
kế” nên những cánh chim! và trỏ về một đấng Tạo hoá, với những tín đồ Kitô, hiển
nhiên là Gót Kitô.
Nhưng Darwin đã
thành công đưa ra trả lời – sau những thu thập chứng cứ khoa học đáng thán phục
– là một tiến trình mới, vốn sẽ giải phóng khoa học sinh học khỏi móng vuốt của
gót học tự nhiên, và mang nó hoàn toàn trở về lĩnh vực của khoa học. Trớ trêu,
ý tưởng về sự chọn lọc trong tự nhiên cũng có thể diễn dịch trực tiếp từ một hiện
tượng tương tự song song, đó là sự chọn giống, gây giống của con người trong việc
chăn nuôi gia súc – Darwin cho rằng, nếu có sự khác biệt di truyền giữa những
sinh vật sống vì những đặc điểm vốn ảnh hưởng đến thể lực của chúng đối với môi
trường của chúng (tức là khả năng của chúng để tồn tại và sinh sản), khi đó những
sinh vật nào có những đặc điểm phù hợp thích ứng nhất sẽ có nhiều khả năng để
truyền những đặc điểm này cho con cháu của chúng. Điều này sẽ dẫn đến một tiến
trình liên tục của sinh sản, sống còn, truyền giống với sửa đổi, trong đó những
sửa đổi không phải là ngẫu nhiên (như những người theo thuyết sáng tạo/thiết kế
thường làm lẫn), nhưng theo chiều hướng của một khả năng cải thiện của những
sinh vật trong môi trường của chúng. Lý thuyết tiến hoá có thể được đặt trong dạng
thức – “nếu ... thì ...” – một kết luận diễn dịch đó sẽ đúng, nếu những tiền đề
là đúng thực. Như đã xảy ra, những nhà sinh học đã xác nhận trước sau, nhiều lần
như nhau, rằng những tiền đề của Darwin quả thực sự đều đúng thực.
Chúng ta có thể nhận
thấy rằng một trong những tiền đề như vậy là sự thừa kế: những đặc điểm phù hợp
thích ứng phải được di truyền, nếu không sự chọn lọc tự nhiên sẽ không thể gây
được bất kỳ thay đổi nào lâu dài trong dân số. Darwin đã nhận thức được rằng
ông cần một lý thuyết về di truyền, riêng biệt với ý tưởng nguồn gốc chung và
chọn lọc tự nhiên. Yếu tố di truyền là một thực tế, như chúng ta đã biết từ sự
giống nhau giữa cha mẹ và con cái trong tất cả những loài, nhưng những gì sẽ giải
thích sự kiện đó?
Một thời, Darwin
đã chào đón lý thuyết của Jean-Baptiste de Lamarck ở Pháp như trả lời cho câu hỏi
trên. Sau đó, Darwin đưa ra lý thuyết của riêng ông về sự di truyền, dựa trên một
ý tưởng được gọi là sự “thừa kế pha trộn” (blending inheritance) – nhưng chính
ông cũng thấy không ổn, vẫn không phù hợp với một số những sự kiện ông đã thừa
nhận.Trả lời cho câu hỏi về di truyền phải chờ Mendel. Những khám phá của
Mendel đã không được biết đến rộng rãi, trong thời Darwin, cho đến sang thế kỷ
20, chủ yếu vì Mendel trình bày lý thuyết di truyền của ông trong một tạp chí
ít ai biết.
Như thế, bước sang
thế kỷ 20, lý thuyết tiến hóa đã có khủng hoảng của nó. Rất ít người nghi ngờ ý
tưởng về nguồn gốc chung của những loài, nhưng sự chọn lọc tự nhiên vẫn chưa được
chấp nhận như một động lực đầy đủ, hoặc thậm chí quan trọng, cho sự thay đổi
theo thời gian, sự tiến hóa; và sau đó là câu hỏi dai dẳng vì thiếu một lý thuyết
thích ứng về di truyền. Một nhóm Những nhà sinh học lỗi lạc, giữa những năm
1918 và 1930, gồm Ronald Fisher, JBS Haldane, và Sewall Wright đã làm công việc
này, họ đã “ghép” Mendel vào Darwin thành công. Cuối những năm 1940 và đầu những
năm 50, một nhóm những nhà sinh học mới, gồm Theodosius Dobzhansky, Julian
Huxley, Ernst Mayr, George Gaylord Simpson và George Ledyard Stebbins, đã tiếp
tục mở rộng quan điểm của chúng ta về tiến hóa trong nhiều hướng. Công trình tập
thể của họ cho thấy sự đột biến và chọn lọc tự nhiên có thể giải thích những
thay đổi lâu dài trong những hóa thạch; sự thành lập hay nguồn gốc của loài mới
(speciation), xảy ra tự nhiên như thế nào trong những quần thể (mặc dù nhan đề
của quyển sách của ông, Darwin đã không thực sự giải quyết câu hỏi về nguồn gốc
của những loài); và làm thế nào sự lựa chọn có thể được chứng minh (tức là quan
sát) sẽ diễn ra trong những quần thể tự nhiên, trong thời hiện đại, của thực vật
và động vật. Như thế “tổng hợp hiện đại”’ của thuyết Tiến hoá (Modern
Synthesis) ra đời, và vẫn còn là mô hình tiêu chuẩn trong sinh học giảng dạy phổ
thông. Nó được thành lập trên những nguyên tắc ban đầu của Darwin, với sự bổ
sung của một lý thuyết toán học-thống kê, một lý thuyết về di truyền, và một cơ
sở thực nghiệm phong phú hơn nhiều so với của Darwin và những người cùng thời
ông đã có thể tập hợp được.
[18] Philosophiæ Naturalis
Principia Mathematica:
Nghiên cứu của Newton được trình bày trong bộ sách gồm ba tập, bộ Philosophiae Naturalis Principia
Mathematica (“Nguyên lý Toán học của Triết học tự nhiên”), được biết như Principia. Nó phát biểu ba định luật của
Newton về chuyển động, và tiếp tục đưa ra lý thuyết về lực hấp dẫn, chống đỡ bằng
những chứng minh toán học nghiêm ngặt.
Newton đóng một
vai trò rất quan trọng trong cuộc cách mạng tư tưởng: Cách mạng Khoa học. Những
bộ óc vĩ đại của thế kỷ XVI và đầu XVII mở ra những chân trời mới, phá vỡ và
thoát khỏi những quan điểm truyền thống Trung cổ về con người và vũ trụ, và làm
được những khám phá đặc biệt xuất sắc. Nicholas Copernicus, Tycho Brahe,
Johannes Kepler, và Galileo Galilei đã thay đổi bộ mặt của thiên văn học và vật
lý, trong khi William Harvey và Andreas Vesalius đã bắt đầu lập bản đồ của cơ
thể con người. Trong thời Newton, những đối thủngười England của ông, như
Robert Hooke, nhà thiên văn Edmund Halley, và nhà hóa học vĩ đại Robert Boyle
đã đóng góp thêm nhiều nữa vào sự mở rộng kiến thức khoa học. Trên lục địa
Europe, Gottfried von Leibniz đã cách mạng hóa toán học, trong khi nhà thiên
văn Denmark Christian Huygens khám phá những tầng trời, và một người Pháp, René
Descartes, cũng đưa ra một hệ thống vật lý trong đó vũ trụ được lấp đầy với những
hạt vũ trụ (celestial-particles), chuyển động và phản ứng hỗ tương của chúng
làm chuyển vận mặt trăng và những hành tinh. Nhưng Descartes − thực vậy, và tất
cả những nhà khoa học đương thời của Newton − cuối cùng sẽ phải đứng sau
Newton, tác giả Principia đã khai mở
những định luật cơ bản của vũ trụ, Principia
có thể được coi là thành tựu lớn nhất trong thời đại của những chiến thắng khoa
học.
[19] Jakob Bernoulli (1654–1705), giáo sư toán
học người Switzerland; Ông có nhiều khám phá trong calculus và có những đóng
góp lớn về hình học và lý thuyết cho toán xác xuất
law of large numbers: Luật về những số lớn: trong toán xác xuất, là một
trong những định luật cơ bản nhất của lý thuyết xác suất và thốngkê. Ở dạng đơn
giản nhất, nó có thể được phát biểu một cách nôm na như sau: khi một phép thử
được lặp đi lập lại rất nhiều lần, thì số lần cho ra một kết quả nào đó trong
tổng số những lần thử, sẽ phản ánh khá chính xác xác suất để xảy ra kết quả đó
trong một lần thử (the theorem that, as the number of identically distributed,
randomly generated variables increases, their sample mean (average) approaches
their theoretical mean.)
[20] 2 pounds 12 shillings 2 pennies
[21] Habakkuk, Jeremiah là những nhà tiên tri trong kinh thánh Hebrew. St. John the Baptist:
nhà thuyết giảng và tiên tri người Jew; giảng đạo và làm lễ rửa tội trên bờ
sông Jordan, huyền thoại cũng kể ông sống cùng thời với Giêsu, và thêm rằng chính
Giêsu đã được ông rửa tội.
[22] [Ferguson, Ascent of Money, 185–98.]
[23] actuarial science
[24] Robert
Wallace (1697–1771) và Alexander Webster (1707–1784): thày chăn chiên hội Nhà
thờ Scotland. Colin Maclaurin (1698–1746); nhà toán học người Scot. Thomas
Robert Malthus (1766–1834): giáo sĩ và học giảngười England , có ảnh hưởng lớn
trong những khoa học kinh tế chính trị và nhân khẩu học (demography). Malthus nổi
tiếng với lý thuyết cho rằng sự tăng trưởng dân số sẽ luôn luôn có khuynh hướng
tăng nhanh hơn sự cung cấp lương thực, và sự cải thiện đời sống loài người là
không thể làm được, nếu không có giới hạn nghiêm khắc về sự sinh sản. Tư tưởng
này thường được gọi là thuyết Malthus (Malthusianism).
Sau khi hội Nhà Thờ
Scotland cải cách vào năm 1560, xác định những người đã có gia đình vẫn có thể
là những nhà chăn chiên, điều đã trở thành cần thiết là lo liệu đời sống tiếp tục cho
vợ con họ, sau khi họ chết. Năm 1672, quốc hội Scotland thông qua một đạo
luật qui định, trong trường hợp đó, quả phụ được hưởng một số tiền trợ cấp, bằng
một nửa năm lương chồng trong họ đạo, và nếu có con, một nửa món tiền đó cũng
chia cho chúng. Vào những năm 1730, món tiền cấp một lần này đã được xem là
không đủ, và hội Nhà Thờ Scotland đi đến nghĩ nên lập một “quỹ chung”, từ đó có
thể trích ra tiền hưu cho những quả phụ này, và vào năm 1742, một chương trình
như thế đã được Robert Wallace và Alexander Webster, hai thày chăn
chiên ở thành phố Edinburgh, đề nghị.
Hai thày chăn chiên,
giáo phái Presbyterian của Thệ phản Calvin, ở Scotland xứng đáng được ghi công
là những người đã phát minh quỹ bảo hiểm đầu tiên, năm 1744, và khai sinh một
ngành thương mại quản lý tài chính hàng tỷ đôla . Robert Wallace và bạn của ông
Alexander Webster, đã là những người rất nghiện rượu, nhưng cũng là những thần
đồng toán học thời còn là sinh viên. Wallace và Webster cũng là những nhà toán
học giỏi, Wallace đã trong một nhóm thành lập Hội Triết học vào năm 1735, mà
sau đó đã trở thành Viện hàn lâm Hoàng gia Edinburgh (Royal Society of
Edinburgh) năm 1783. Nhóm này được nhà toán học Colin Maclaurin dẫn dắt, người
được coi là nhà toán học hàng đầu của Vương Quốc England, sau khi Newton qua đời
năm 1727.
Họ không hài lòng với sự
đối xử dành cho phụ nữ và trẻ em của những giáo sĩ đồng nghiệp của họ, sau khi
người đàn ông chủ gia đình qua đời. Số phận của những vợ goá và con côi này
hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự thương xót của những nhà chăn chiên đồng nghiệp, họ
thường lâm cảnh không nhà, trắng tay. Hội nhà thờ có trách nhiệm trả một món tiền,
trích từ số tiền góp chung, cho những góa phụ và trẻ mồ côi. Qua đó, Wallace và
Webster đã nêu một kế hoạch khéo léo để hạn chế vấn đề không may này, những gì
họ thiết lập, ngày nay được công nhận như quỹ bảo hiểm thực sự đầu tiên trong lịch
sử.
Bảo hiểm nhân thọ hiện hữu
nhờ vào khám phá toán học về những thông số, qua đó sự rủi ro xảy ra, và bảo hiểm
cho sự rủi ro đó được hiểu đúng với những khái niệm mới: xác suất, tuổi thọ, sự
chắc chắn (luật những số lớn), sự phân phối bình thường và biến động, tiện ích
(giá trị của một hàng hóa không phải là giá phải trả nhưng tiện ích, dịch vụ bắt
nguồn từ nó) và suy luận diễn dịch (những gì tính toán là xác suất của một biến
cố nhân với tác động của nó). Những thành tố này đã được sử dụng ở Edinburgh để
xây dựng một quỹ bảo hiểm nhân thọ cho những nhà chăn chiên của Hội Nhà Thờ
Scotland. Robert Wallace và Alexander Webster đã quyên đủ tiền, từ nhóm ban đầu
gồm 930 thày chăn chiên, để đầu tư gây lợi nhuận, và trả tiền trợ cấp cho những
quả phụ của những thày chăn chiên, từ lợi nhuận này của những khoản đầu tư. Từ
đó, nó rất nhanh chóng phát triển thành một tổ chức tài chính lớn, tăng khả
năng dự đoán những khoản tiền chi thu lớn.
Đến năm
1815, nguyên tắc bảo hiểm đã tìm thấy đáp ứng được nhu cầu rộng rãi. Quỹ những
Thày chăn chiên Scot đã lớn mạnh thành Quỹ bảo hiểm quả phụ Scotland (Scottish
Widows) nổi tiếng thế giới. Quỹ “Vợ goá “của những thày chăn chiên Scotland là
quỹ tài chính đầu tiên bao gồm trách nhiệm bảo hiểm, hoặc là bảo hiểm tổng
quát, hay bảo hiểm nhân thọ, đã được quản lý trên cơ sở toán học. Năm 1761, Quỹ
những Thày chăn chiên giáo phái Presbyterian ở Philadelphia, USA, đã mô phỏng
theo quĩ bảo hiểm của những đồng nghiệp ở Scotland, và năm sau, Công ty Vô tư England
(English Equitable Company) được thành lập, là công ty bảo hiểm nhân thọ mở ra
cho công chúng đầu tiên, và lâu đời nhất England.
[25] Công cụ mới.
[26] Sung (960–1279), nhà Tống (宋): nước Tàu dưới triều này, bắt đầu biết dùng tiền giấy, và có những tiến bộ
trong nghề in, làm vũ khí, đóng tàu, làm đồng hồ, và y học.
[27] Golden age (Huyền thoại Greek): Thời đại nguyên thuỷ
của thế giới, trong đó con người sống trong hạnh phúc lý tưởng. Sau đó là những
thời Bạc, Đồng, Anh hùng, và Săt (hiện tại) là thời suy đồi. Đây là thời đại lý
tưởng, trong tưởng tượng của thi ca cổ điển Greek và Rome; nay thành biểu tượng
cho một kỷ nguyên của hòa bình hài hòa, ổn định và thịnh vượng nguyên thủy. Đặc
biệt trong đó, con người không phải làm việc để nuôi thân, vì thiên nhiên ban
cho thực phẩm dồi dào. Khái niệm thời Nghiêu Thuấn trong thi văn cổ Việt nam
((tưởng tượng, bắt chước theo Tàu), cũng là một khái niệm tương tự, tuy hạn hẹn
vào ý nghĩa xã hội có thể chế chính trị lý tưởng, hơn là trạng thái trong đó
con người hồn nhiên bình dị an thuận với thế giới nhiên.
[28] messiah
[29] Golem: (huyền thoại Jew) hình nhân bằng đất sét
thành người sống nhờ ảo thuật (tự như một automaton hay robot). Tháp Babel (trong sách Thánh): loài
người xây tháp lên cổng nhà Gót (Babel < Hebrew Bāḇel < ‘Babylon,’ < Akkadian “bāb ili” = ‘cổng nhà gót’), Gót bực mình, làm phép cho mọi người
nói những ngôn ngữ khác nhau, do không hiểu nhau nữa, phân tán khắp nơi, tháp
xây không xong (Genesis 11:1–9). Icarus (thần
thoại Greek): con trai của Daedalus, trốn thoát khỏi nhà ngục trên đảo Crete
dùng cánh do Daedalus làm, nhưng đã chết khi bay cao, quá gần mặt trời, sáp gắn
đôi cánh bị nóng chảy.
[30] (Mark14: 7) “Vì những ngươi hằng có kẻ
khó khăn ở cùng mình, khi nào muốn làm phước cho họ cũng được; nhưng những
ngươi chẳng có ta ở luôn với đâu.”
[31] [Maddison, The
World Economy, vol. 1, 31; Wrigley, English Population History, 295; Christian,
Maps of Time, 450, 452; ‘World Health Statistic Report 2009’, 35–45, World
Health Organization, accessed 10 December 2010
http://www.who.int/whosis/whostat/EN_WHS09_Full.pdf.]
[32] [Wrigley, English Population History, 296.]
[33] [England, Interim
Life Tables, 1980–82 to 2007–09’, Office for National Statistics, accessed 22
March 2012
http://www.ons.gov.uk/ons/publications/re-reference-tables.html?edition=tcm%3A77–61850.]
[34] [Michael Prestwich, Edward I
(Berkeley: University of “California Press, 1988), 125–6.]
[35] [Jennie B. Dorman et al., ‘The age-1 and daf-2 Genes Function in a
Common Pathway to Control the Lifespan of Caenorhabditis elegans’, Genetics
141:4 (1995), 1,399–406; Koen Houthoofd et al., ‘Life Extension via Dietary
Restriction is Independent of the Ins/IGF-1 Signalling Pathway in Caenorhabditis elegans’, Experimental Gerontology 38:9 (2003),
947–54]
[36] [Shawn M. Douglas, Ido Bachelet and George M. Church, ‘A
Logic-Gated Nanorobot for Targeted Transport of Molecular Payloads’, Science 335:6070 (2012): 831–4; Dan Peer
et al., ‘Nanocarriers As An Emerging Platform for Cancer Therapy’, Nature Nanotechnology 2 (2007): 751–60;
Dan Peer et al., ‘Systemic Leukocyte-Directed siRNA Delivery Revealing Cyclin
Di as an Anti-Inflammatory Target’, Science
319:5863 (2008): 627–30.]
[37] a-mortal: có lẽ là từ ghép của tác giả,
tương tự như từ khá phổ thông trên báo chí là “amortal” (Amortality: living agelessly), tôi tạm dịch là
không-già-chết, vẫn chết, nhưng không do già hay bệnh.
[38] animal rights: bảo vệ quyền sống của loài vật
[39] Nay là tiểu bang New
Mexico, United States State; có những dấu hiệu loài người đã có mặt ở đây
khoảng 11000 năm trước, có lẽ di cư xuống từ Alaska