Sapiens: A Brief History of Humankind
Yuval Noah Harari
Sapiens: một Lịch sử Ngắn gọn của loài Người
13
Bí mật của thành công
Nhưng khi nói
rằng một xã hội toàn cầu là không thể tránh được, thì cũng không giống như nói
rằng kết quả cuối cùng đã phải là một loại đặc biệt của xã hội toàn cầu như chúng
ta đang có. Chúng ta chắc chắn có thể tưởng tượng được những kết cục khác. Tại
sao tiếng England thì quá phổ biến như thế ngày nay, và không là tiếng Denmark?
Tại sao lại có khoảng 2 tỉ người người Kitô nhiều loại, và 1,25 tỉ người Muslim,
nhưng chỉ có 150.000 những tín đồ của Zoroaster, và không còn tín đồ nào của đạo
Mani? Nếu chúng ta có thể đi ngược thời gian trở lại 10.000 năm trước, và lại thiết
lập tiến trình, với thời gian trôi đi, có phải chúng ta luôn luôn sẽ thấy sự nổi
dậy của tín ngưỡng tin chỉ một gót và sự suy sụp của tín ngưỡng nhị nguyên?
Hình 32. Alamogordo, 16 July 1945, 05:29:53. Tám
giây sau khi quả bom nguyên tử đầu tiên đã phát nổ. Nhà vật lý nguyên tử Robert
Oppenheimer, sau khi nhìn vụ nổ, đã trích dẫn từ Bhagavad Gita: ‘Bây giờ tôi trở thành Thần Chết, kẻ Huỷ diệt của những
Thế giới.”
Thương mại, những
đế quốc và những tôn giáo phổ quát, cuối cùng đã mang hầu như mỗi Sapiens trên mọi lục địa vào trong thế
giới toàn cầu chúng ta đang sống ngày nay. Quá trình mở rộng và thống nhất này
không phải là theo đường thẳng, hay không có những gián đoạn. Tuy nhiên, sau
khi nhìn vào bức tranh lớn hơn, quá trình chuyển đổi từ nhiều những văn hóa nhỏ
đến một vài những văn hóa lớn, và cuối cùng đến một xã hội toàn cầu duy nhất có
lẽ là một kết quả tất yếu của những động lực của lịch sử loài người.
Chúng ta
không thể làm một thí nghiệm như thế, vì vậy chúng ta không thực sự biết. Nhưng
một khảo sát hai đặc điểm quan trọng của lịch sử, có thể cung cấp cho chúng ta
một số manh mối.
1. Ý kiến sai lầm về sự nhận biết muộn
Mỗi điểm
trong lịch sử là một nơi có nhiều đường cắt nhau. Một con đường đi duy nhất từ
quá khứ dẫn đến thời nay, nhưng vô số những ngả đường rẽ vào tương lai. Một số
trong những con đường này rộng hơn, mượt phẳng hơn, và đánh dấu tốt hơn, và như
thế có lẽ có cơ hội được đi theo nhiều hơn, nhưng đôi khi lịch sử – hoặc những
người làm lịch sử – theo những ngã rẽ bất ngờ.
Vào đầu thế
kỷ thứ tư, Đế quốc Rome đã đối mặt với một chân trời mở rộng của những sự việc
có thể xảy ra về tôn giáo. Nó đã có thể bám chặt vào truyền thống và thuyết tin
nhiều gót nhiều màu sắc khác thường của nó. Nhưng hoàng đế của nó, Constantine,
nhìn trở lại một trăm năm phân rẽ của nội chiến, dường như đã có ý nghĩ rằng một
tôn giáo duy nhất với một học thuyết rõ ràng có thể giúp thống nhất vương quốc nhiều
sắc dân của ông. Ông đã có thể chọn bất kỳ một nào của một số giáo phái đương thời
là tín ngưỡng quốc gia của mình – đạo MaNi, đạo Mithras, những giáo phái thờ Isis
hay Cybele, đạo Zoroaster, đạo Juda và ngay cả đạo Phật, đã tất cả là những tùy
ý chọn lựa có sẵn. Tại sao ông đã chọn Giêsu? Có phải đã có một gì đó trong gót-học
Kitô đã thu hút cá nhân ông, hay có lẽ một phương diện nào đó của tín ngưỡng đã
khiến ông nghĩ nó sẽ là dễ dàng hơn để dùng cho những mục đích của ông? Có phải
ông đã có một kinh nghiệm tôn giáo, hay một vài cố vấn của ông nêu ý rằng những
người Kitô đã nhanh chóng có thêm những tín đồ, và rằng sẽ là điều tốt nhất để
nhảy lên toa xe phổ thông đang thành công đó? Những nhà sử học có thể suy đoán,
nhưng không đem lại bất kỳ một trả lời dứt khoát nào. Họ có thể mô tả đạo Kitô
đã nắm quyền kiểm soát Đế quốc Rome như
thế nào, nhưng họ không thể giải thích tại
sao khả năng đặc biệt này đã thành hiện thực.
Sự khác biệt
giữa mô tả “thế nào” và giải thích “tại sao” là gì? Để mô tả “thế nào” có nghĩa
là để tái tạo lại hàng loạt những sự kiện cụ thể vốn dẫn từ điểm này đến điểm
khác. Để giải thích “tại sao” có nghĩa là để tìm những kết nối nhân quả, chúng
giải thích cho sự xuất hiện của hàng loạt những sự kiện đặc biệt này loại trừ tất
cả những chuỗi sự kiện khác.
Một số học
giả quả thực cung cấp những giải thích xác định những biến cố, loại như sự nổi
lên của đạo Kitô. Họ thử cố gắng để thu giảm lịch sử loài người về những hoạt động
của những sức mạnh sinh học, môi trường sinh thái, hay kinh tế. Họ lập luận rằng
đã có một vài gì đó về địa lý, di truyền học, hay kinh tế của vùng
Mediterranean thuộc đế quốc Rome, khiến sự nổi lên của một tôn giáo tin chỉ một
gót thì không thể tránh khỏi. Thế nhưng, hầu hết những nhà sử học có khuynh hướng
hoài nghi về những lý thuyết xác định như vậy. Đây là một trong những dấu hiệu
phân biệt của lịch sử như là một ngành học thuật chuyên môn – bạn biết càng biết
nhiều hơn về một giai đoạn lịch sử đặc biệt nào đó, càng trở nên khó khăn hơn để giải thích tại sao những
sự việc đã xảy ra theo một đường này nhưng không nẻo kia. Những ai là người chỉ
có một kiến thức nông cạn về một giai đoạn nhất định nào đó, có khuynh hướng chú
tâm chỉ vào sự khả hữu vốn cuối cùng đã hiện thực. Họ cung cấp một câu chuyện chỉ-là-như-thế
để giải thích với hiểu biết muộn đến sau về lý do của kết cục không tránh khỏi
đó. Những ai là người có nhiều thông tin sâu xa hơn về giai đoạn đều có ý thức nhiều
hơn về những nẻo đường lịch sử đã không đặt bước.
Thực sự, những
người là người đã biết nhiều nhất về giai đoạn – những người đã sống trong thời
điểm đó – đã là những người không biết đầu manh mối nhợ nào nhiều nhất tất cả.
Đối với những người Rome trung bình trong thời của Constantine, tương lai là một
màn sương mù. Đó là một quy luật sắt của lịch sử khiến những gì trông thấy như
đã không thể tránh khỏi, trong nhận biết đến về sau đã xa với sự hiển nhiên vào
thời gian đó. Ngày nay thì cũng không khác biệt. Có phải chúng ta ra khỏi cuộc
khủng hoảng kinh tế toàn cầu, hoặc sự tồi tệ nhất vẫn còn chưa tới? Có phải nước
Tàu sẽ tiếp tục phát triển cho đến khi nó trở thành một nước mạnh hàng đầu? USA
sẽ mất quyền bá chủ của nó? Có phải sự bùng phát của chủ thuyết tin chỉ một gót
là làn sóng của tương lai, hay một xoáy nước ở địa phương, ít có ý nghĩa về lâu
dài? Chúng ta đang đi về phía thảm họa về sinh thái hay thiên đường về kỹ thuật?
Có những lý lẽ tốt được thực hiện cho tất cả những hậu quả này, nhưng không có
cách nào biết chắc chắn. Trong một vài chục năm, người ta sẽ nhìn lại và nghĩ rằng
trả lời cho tất cả những câu hỏi này đã rất rõ ràng.
Điều là quan
trọng đặc biệt để nhấn mạnh rằng những khả năng đó, những có thể đó, nhưng dường
như rất khó để những người đương thời thường nhận ra được. Khi Constantine lên
ngôi năm 306, đạo Kitô đã chỉ không gì hơn một giáo phái bí truyền phương Đông.
Nếu bạn đã gợi ý khi đó rằng nó sắp trở thành quốc giáo của Rome, bạn sẽ bị cười
đến phải chạy ra khỏi phòng, cũng giống hệt như ngày hôm nay, nếu bạn đã gợi ý
rằng vào năm 2050, giáo phái Hare Krishna sẽ là quốc giáo của USA. Vào tháng 10
năm 1913, những người Bolshevik đã là một phe cực đoan nhỏ của Russia. Không một
ai với đầu óc bình thường nào có thể dự đoán rằng trong vòng chỉ bốn năm họ sẽ nắm
quyền kiểm soát toàn đất nước. Vào năm 600 CN, quan điểm cho rằng một đoàn Arab
sống ở sa mạc, sẽ sớm chinh phục một giải rộng, trải dài từ biển Atlantic sang lục
địa India, ngay cả còn phi lý hơn. Thật vậy, nếu như quân đội Byzantine đã có
thể đẩy lùi sự tấn công ban đầu, đạo Islam có lẽ sẽ vẫn là một giáo phái bí hiểm
mà chỉ có một số ít những người sành sởi đã biết rằng có. Những học giả sau đó
sẽ có một công việc rất dễ dàng khi giải thích tại sao một tín ngưỡng dựa trên
một sự vén-lên-cho thấy cho một
thương gia trung niên người Mecca đã không bao giờ có thể thành phổ biến được..
Không phải mọi
sự vật việc đều là có thể xảy ra. Những sức mạnh địa lý, sinh lý học và kinh tế
tạo ra những giới hạn. Tuy nhiên, những giới hạn này vẫn để lại khoảng trống dư
dật cho những phát triển không ngờ, vốn dường như không bị ràng buộc bởi bất kỳ
những định luật tất định nào.
Kết luận này
làm thất vọng nhiều người, những người thích lịch sử là tất định. Sự tất định thì
hấp dẫn vì nó ngụ ý rằng thế giới của chúng ta và tin tưởng của chúng ta là một
sản phẩm tự nhiên và tất yếu của lịch sử. Nó là tự nhiên và tất yếu rằng chúng
ta đang sống trong những quốc gia dân tộc, tổ chức kinh tế của chúng ta theo những
nguyên tắc tư bản, và tin tưởng nhiệt thành vào những quyền con người. Để nhìn
nhận rằng lịch sử thì không tất định, là để nhìn nhận rằng nó chỉ là một trùng
hợp ngẫu nhiên mà hầu hết mọi người ngày nay tin tưởng vào chủ nghĩa dân tộc,
chủ nghĩa tư bản và nhân quyền.
Lịch sử
không thể giải thích được một cách tất định, và nó không thể dự đoán được vì nó
thì chao đảo hỗn loạn. Vì nhiều sức mạnh đang làm việc và tác động qua lại của chúng
rất phức tạp đến nỗi những thay đổi rất nhỏ trong lực lượng của những sức mạnh,
và trong cách chúng tác động qua lại, cũng tạo ra khác biệt to lớn vô cùng
trong kết quả. Không chỉ vậy, nhưng lịch sử là những gì được gọi là một hệ thống
hỗn loạn “cấp hai”. Những hệ thống hỗn loạn có hai hình dạng. Những hỗn loạn cấp
một là những hỗn loạn mà không phản ứng với những dự đoán về nó. Thời tiết, lấy
thí dụ, là một hệ thống hỗn loạn cấp một. Dẫu nó bị ảnh hưởng bởi nhiều vô cùng
những yếu tố, chúng ta có thể xây dựng mô hình cômputơ vốn đưa nhiều những yếu
tố và nhiều hơn nữa của chúng vào xem xét, và sản xuất những tiên đoán thời tiết
ngày càng tốt và tốt hơn.
Hỗn loạn cấp
hai là hỗn loạn vốn phản ứng với những dự đoán về nó, và do đó, không bao giờ
có thể tiên đoán được chính xác. Thị trường, lấy thí dụ, là một hệ thống hỗn loạn
cấp hai. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta phát triển một chương trình cômputơ
tiên đoán giá dầu hoả ngày mai với độ chính xác 100 phần trăm? Giá dầu sẽ ngay
lập tức phản ứng với tiên đoán, vốn sau đó dẫn đến thất bại, nó sẽ không thành
sự thực. Nếu giá dầu hiện thời là $90 một thùng, và chương trình cômputơ không
thể sai lầm dự đoán rằng ngày mai nó sẽ là $100, những nhà đầu tư sẽ đổ xô đi
mua dầu để họ có thể được lợi từ dầu hoả đã tiên đoán tăng giá. Kết quả là, giá
sẽ tăng vọt lên $100 đôla một thùng ngay ngày hôm nay chứ không phải ngày mai.
Sau đó, những gì sẽ xảy ra vào ngày mai? Không ai biết.
Chính trị, cũng
vậy, là một hệ thống hỗn loạn cấp hai. Nhiều người chỉ trích những nhà nghiên cứu
chuyên môn về chính trị Sôviết đã không tiên đoán được cuộc cách mạng năm 1989,
và chê trách nặng nề những nhà nghiên cứu chuyên môn về Trung Đông vì đã không
lường trước những cuộc cách mạng Arab mùa xuân năm 2011. Điều này là không công
bằng. Những cuộc cách mạng, theo định nghĩa, là không thể đoán trước. Một cách
mạng nếu có thể đoán trước không bao giờ bùng nổ.
Tại sao
không? Hãy tưởng tượng rằng đó là năm 2010, và một vài nhà thiên tài khoa chính
trị học đã ngầm móc nối với một người kỳ tài viết một prôgram thần diệu cho cômputơ,
đã phát triển một algorithm không thể
sai lầm, khi đã đưa vào hệ thống với những giao ứng ra vào chấp nhận được, có
thể quảng cáo bán trên thị trường như một máy đoán trước cách mạng. Họ trình
bày dịch vụ sẵn sàng này của họ với Tổng thống Hosni Mubarak của Egypt, và đổi
lấy cho một khoản tiền đặt cọc rộng rãi, báo cho Mubarak rằng theo tiên đoán của
họ, một cuộc cách mạng chắc chắn sẽ bùng phát ở Egypt trong năm sau. Mubarak sẽ
phản ứng thế nào? Có lẽ nhất là ông sẽ ngay lập tức giảm thuế, đem hàng tỉ đôla
trong ngân khố quốc gia phát không cho những công dân – và cũng tăng cường lực
lượng an ninh chìm của ông, để phòng xa. Những biện pháp ra tay trước này thành
công. Năm đến và đi, và bất ngờ, không có cách mạng. Mubarak đòi rút lại tiền. “Algorithm bạn là vô giá trị!” Ông hét vào
tai những nhà khoa học. “Cuối cùng tôi đã có thể xây một cung điện, thay vì đem
tiêu tất cả số tiền đó!” “ Nhưng lý do cuộc cách mạng đã không xảy ra là vì
chúng tôi đã dự đoán nó,” những nhà khoa học bào chữa cho họ. “Nhũng tiên tri dự
đoán những điều không xảy ra?” Mubarak nói khi ông ra hiệu cho những người cận
vệ bắt họ. “Tôi có thể nhặt hàng tá những người như thế với giá gần như cho
không, ngoài chợ Cairo”.
Như thế, tại
sao học hỏi lịch sử? Không giống như vật lý hay kinh tế, lịch sử không phải là
một phương tiện để đưa ra những dự đoán chính xác. Chúng ta nghiên cứu lịch sử
không phải để biết tương lai, nhưng để mở rộng những chân trời của chúng ta, để
hiểu rằng tình trạng hiện nay của chúng ta là không do tự nhiên, cũng không phải
là đã không thể tránh, và rằng như thế, chúng ta có nhiều khả năng trước mặt
chúng ta, hơn chúng ta tưởng tượng. Lấy thí dụ, nghiên cứu người Europe đã thống
trị Africa như thế nào, cho phép chúng ta nhận ra rằng không có gì tự nhiên hoặc
tất yếu về hệ thống phân đẳng cấp chủng tộc, và rằng thế giới cũng đã có thể được
sắp xếp theo những cách khác biệt.
2. Lịch sử Mù loà [1]
Chúng ta
không thể giải thích những lựa chọn mà lịch sử đã làm, nhưng chúng ta có thể
nói một gì đó rất quan trọng về chúng: những lựa chọn của lịch sử đã không được
thực hiện vì lợi ích của con người. Hoàn toàn không có bằng chứng cho thấy sự
an lành, phúc lợi và hạnh phúc con người đã chắc chắn được cải thiện theo giòng
lịch sử cuộn mở. Không có bằng chứng cho thấy những văn hóa đem phúc lợi cho
con người đã không thể xiêu đổ, phải đã thành công và lan rộng, trong khi những
văn hóa kém phúc lợi hơn phải đã biến mất. Không có bằng chứng rằng đạo Kitô đã
là một lựa chọn tốt đẹp hơn đạo MaNi, hoặc đế quốc Arab là phúc lợi hơn so với đế
quốc Sassanid của Persia.
Không có bằng
chứng cho thấy lịch sử đang làm việc vì lợi ích của con người, vì chúng ta thiếu
một dụng cụ cân đo khách quan để đo lường lợi ích như vậy. Những văn hóa khác
biệt định nghĩa sự tốt lành khác biệt nhau, và chúng ta không có những tiêu chuẩn
so sánh khách quan để xét đoán chúng. Những người chiến thắng, dĩ nhiên, luôn
luôn tin rằng định nghĩa của họ là chính xác. Nhưng tại sao chúng ta nên tin theo
những kẻ chiến thắng? Những người Kitô tin rằng chiến thắng của đạo Kitô với đạo
MaNi, đã mang lại lợi ích cho loài người, nhưng nếu chúng ta không chấp nhận thế
giới quan của đạo Kitô thì không có lý do để đồng ý với họ. Những tín đồ Islam tin
rằng sự sụp đổ của đế quốc Sassanid vào tay những người Muslim đã mang lại lợi
ích cho loài người. Nhưng những lợi ích này là hiển nhiên chỉ khi chúng ta chấp
nhận thế giới quan của đạo Islam. Điều cũng rất có thể là chúng ta tất cả được
phúc lợi còn tốt lành hơn nhiều nếu như cả Kitô lẫn Islam đều đã được quên mất
đi, hoặc đã bị đánh bại.
Ngày càng có
những học giả nhìn những văn hóa như một loại nhiễm trùng tinh thần hay trong
tâm lý, hoặc ký sinh trùng trong não thức, với con người là chủ nhà vô tình,
không mời, của nó. Những ký sinh trùng hữu cơ, chẳng hạn như những virus, sống bên trong cơ thể của chủ nhà
của chúng. Chúng nhân và lan truyền từ một chủ nhà này sang chủ nhà khác, ăn thức
ăn của chủ nhà của chúng, làm suy yếu họ, và đôi khi ngay cả giết chết họ. Miễn
là những chủ nhà sống đủ lâu để truyền đi những ký sinh trùng, nó chẳng quan
tâm mấy về tình trạng của chủ nhà. Đúng như trong phong cách này, những ý tưởng
văn hóa sống bên trong não thức của con người. Chúng nhân và lan truyền từ một chủ
nhà này sang những chủ nhà khác, đôi khi làm suy yếu những chủ nhà, và đôi khi
ngay cả giết chết họ. Một ý tưởng văn hóa – như tin tưởng vào thiên đàng Kitô
trên những đám mây, hoặc thiên đường Cộng sản ở đây trên mặt đất – có thể buộc
một con người tận hiến đời mình để truyền bá ý tưởng đó, ngay cả với giá của
cái chết. Những con người chết đi, nhưng ý tưởng sống và lan rộng. Theo như giải
thích với cách tiếp cận này, những văn hóa không phải là những âm mưu được một
số người pha chế để tạo cơ hội nhằm lợi dụng, bóc lột những người yếu kém khác
(như chủ nghĩa Marx đã có khuynh hướng nghĩ thế). Đúng hơn, những nền văn hóa
là những ký sinh trùng tinh thần vốn chúng xuất hiện ngẫu nhiên, và sau đó tận
dụng lợi thế trên tất cả những người bị chúng lây nhiễm.
Cách tiếp cận
này đôi khi được gọi là memetics (meme học) [2]. Nó giả định rằng, cũng giống như
quá trình tiến hóa hữu cơ dựa trên những bản sao của những đơn vị thông tin hữu
cơ được gọi là “gene”, do đó tiến hóa văn hóa dựa trên những bản sao của những
đơn vị thông tin văn hóa gọi là “memes”.
[3] Những văn hóa thành công là
những văn hoá đã nổi trội trong sự tái tạo memes
của chúng, không có trách nhiệm gì với tổn phí và lợi ích cho những chủ nhà của
chúng là những con người.
Hầu hết những
học giả trong những khoa học nhân văn xem nhẹ memetics, nhìn nó như một nỗ lực tài tử, không chuyên môn, đưa vào
giải thích những tiến trình văn hóa, suy diễn từ những tương đồng sinh học thô
cứng. Nhưng số đông của cũng chính những học giả này, lại ôm chặt lấy chị em
sinh đôi của memetics – lý thuyết hậu
hiện đại [4]. Những nhà tư tưởng hậu hiện đại
nói về “discourse” (diễn ngôn), hơn
là những “memes” như những khối xây dựng
của văn hóa. Tuy nhiên, họ cũng nhìn thấy những văn hóa như chính chúng tự truyền
bá, chúng ít quan tâm đến lợi ích của loài người. Lấy thí dụ, những nhà tư tưởng
hậu hiện đại mô tả chủ nghĩa dân tộc như một bệnh dịch chết người, lan truyền
khắp thế giới, trong thế kỷ XIX và XX, gây ra những chiến tranh, áp bức, thù hận
và diệt chủng. Ở thời điểm nào, dân chúng trong một nước đã bị nhiễm nó, dân
chúng ở những quốc gia lân cận cũng có nhiều xác xuất nhiễm cùng loài virus. Virus chủ nghĩa dân tộc đã tự trình
bày như nó là mang lại lợi ích cho loài người, thế nhưng, nó đã chỉ mang lại lợi
ích chủ yếu cho chính nó.
Lập luận
tương tự được phổ biến trong những ngành khoa học xã hội, dưới vòm chống đỡ của
lý thuyết toán học về trò chơi [5]. Lý thuyết trò chơi giải thích,
trong những hệ thống nhiều người chơi, những quan điểm và mô thức ứng xử gây tổn
hại cho tất cả những người chơi, tuy
thế vẫn xoay sở để bén rễ và lan rộng, đã thành công như thế nào. Chạy đua vũ
khí là một thí dụ nổi tiếng. Nhiều những cuộc đua vũ khí đã phá sản tất cả những
ai là người tham gia chúng, mà kết cục không thực sự thay đổi cán cân thăng bằng
của quyền lực quân sự. Khi Pakistan mua máy bay tối tân, India đáp ứng bằng cùng
loại. Khi India phát triển bom nguyên tử, Pakistan liền đi theo. Khi Pakistan mở
lớn lực lượng hải quân, India cũng làm theo. Vào cuối tiến trình, cán cân quyền
lực có thể vẫn còn giống nhiều như nó đã từng là, nhưng trong khi đó, hàng tỉ đôla
đã có thể được đầu tư vào giáo dục hay y tế, nhưng đã tiêu hao vào vũ khí. Tuy
nhiên, động lực chạy đua vũ khí thì khó cưỡng lại. “Chạy đua vũ khí” là một mô thức
của hành vi ứng xử (giữa những quốc gia), vốn chính nó tự lan rộng như một loại
virus, từ nước này sang nước khác, làm tổn hại đến tất cả mọi người, nhưng đem
về lợi ích riêng chỉ cho nó, nhìn theo hướng tiêu chuẩn của thuyết tiến hóa là sự
sống còn và sinh sản. (Hãy nhớ rằng một cuộc chạy đua vũ khí, như một gene,
không có nhận thức – nó không có ý thức về sự tìm cách sống sót và sinh sản. Sự
lan rộng của nó là kết quả không chủ định của một động lực mạnh mẽ.)
Bất kể bạn gọi
nó là gì – lý thuyết về trò chơi, lý thuyết hậu hiện đại, hay thuyết memetics – những động lực của lịch sử
không hướng đến việc nâng cao đời sống con người. Không có cơ sở để nghĩ rằng
những nền văn hóa thành công nhất trong lịch sử nhất thiết phải là những văn
hoá tốt nhất cho Homo Sapiens. Giống
như sự tiến hóa, lịch sử không quan tâm đến hạnh phúc của những cá thể cấu trúc
sinh vật. Và con người cá nhân, về phần họ, họ thường là quá ngu dốt và yếu đuối
để ảnh hưởng đến tiến trình lịch sử cho lợi thế của riêng họ.
Lịch sử tiến
đi từ một giao lộ này đến một giao lộ kế tiếp, sau khi chọn lựa với một số lý
do bí ẩn nào đó, để đầu tiên đã theo lối này, sau đó đến lối khác. Khoảng năm
1500, lịch sử đã làm sự lựa chọn về tương lại hết sức quan trọng của nó, thay đổi
không chỉ về số phận của loài người, nhưng có thể biện luận là số phận của tất
cả sự sống trên mặt đất. Chúng ta gọi đó là cuộc Cách mạng Khoa học. Nó bắt đầu
ở Tây Europe, một bán đảo lớn về đầu phía tây của lục địa Asia-Africa, vốn cho
đến khi đó, không đóng một vai trò quan trọng đặc biệt nào trong lịch sử. Tại sao
Cách mạng Khoa học bắt đầu ở đó nhưng không ở tất cả những nơi khác, và không ở
Tàu, hay ở India? Tại sao nó lại bắt đầu ở thời điểm nằm giữa nghìn năm thứ
hai, hơn là hai trăm năm trước đó, hoặc ba trăm năm sau đó? Chúng ta không biết.
Những học giả đã đưa ra hàng tá lý thuyết, nhưng không một nào trong số chúng
là đặc biệt thuyết phục.
Lịch sử có một
chân trời rất rộng của những khả năng có thể xảy ra, và nhiều những có thể xảy
ra đã không bao giờ từng được hiện thực. Có thể mường tượng để hình dung lịch sử
diễn ra trong những thế hệ này tiếp đến những thế hệ khác, trong khi bỏ qua cuộc
Cách mạng Khoa học, cũng giống như điều có thể tưởng tượng để hình dung lịch sử,
trong đó không có đạo Kitô, không có đế quốc Rome, và không có những đồng tiền
vàng.
Phần Bốn
Cuộc Cách mạng Khoa học
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Apr/2015 -đọc lại Oct/2018)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
(Apr/2015 -đọc lại Oct/2018)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Blind Clio: Clio là gót nữ về lịch sử trong số những
gót nữ Muses (Thần thoại Greek)
Những gót
nữ Muses, 9 người, con gái của Zeus và Mnemosyne (ký ức), thường đươc kể:
Calliope (epic poetry), Clio (history), Euterpe (flute playing and lyric
poetry), Terpsichore (choral dancing and song), Erato (lyre playing and lyric
poetry), Melpomene (tragedy), Thalia (comedy and light verse), Polyhymnia
(hymns, and later mime), and Urania (astronomy).
[2] memetics: meme học: Xem thêm chú thích trong Đọc
lại Tấm Cám của tôi:
Richard Dawkins, The
Selfish Gene. Oxford University Press. (1976) đầu tiên tạo từ này,
và định nghĩa meme là một đơn vị cơ bản
của sự lưu truyền văn hóa (cultural transmission) từ người này qua người kia,
xem meme như một đơn vị của sự bắt
chước:
“The new soup is the
soup of human culture. We need a name for the new replicator, a noun that
conveys the idea of a unit of cultural transmission, or a unit of imitation.
`Mimeme’ comes from a suitable Greek root, but I want a monosyllable that
sounds a bit like `gene’. I hope my classicist friends will forgive me if I
abbreviate mimeme tomeme. If it is any consolation, it could alternatively be
thought of as being related to `memory’, or to the French word même. It should
be pronounced to rhyme with `cream’.”
Tôi nghĩ
không nên dịch bằng cách lại mượn một chữ Tàu nào đó - cứ để nguyên theo gốc từ
England là meme - đọc là “mim” như trong “mỉm cười”.
Dawkins
cho thí dụ:
“Examples
of memes are tunes, ideas, catch-phrases, clothes fashions, ways of making pots
or of building arches. Just as genes propagate themselves in the gene pool by
leaping from body to body via sperms or eggs, so memes propagate themselves in
the meme pool by leaping from brain to brain via a process which, in the broad
sense, can be called imitation.”
Đi xa hơn,
dùng memetics, cùng với triết gia Daniel Dennett, ông cho “chúa Trời” và “Đức
tin” tôn giáo là những virus nằm phục trong tâm trí con người (tín đồ những tôn
giáo Abraham). (“God” and “Faith” are viruses of the mind) tương tự như virus
trong computer, hay trong con người bệnh. Hiểu theo ông “chúa Trời” và “Đức
tin” chỉ là những memes, “di truyền” trong môi trường văn hóa, trú ngụ và tồn tại
ở những trí tuệ tối ám, có nghĩa một khi ánh sáng của lý trí, khoa học chiếu
sáng, những tôn giáo với “Đức tin” vào một “chúa Trời” ảo sẽ mất “giống”, tàn lụi.
Sẽ trình bày những lý thuyết và quan điểm của nhóm này ở một dịp khác.
[3] [Susan Blackmore, The Meme
Machine (Oxford: Oxford University Press, 1999).]
[4] postmodernism
[5] game theory