Sapiens: A Brief History of Humankind
Yuval Noah Harari
Sapiens: một Lịch sử Ngắn gọn của loài Người
12
Luật của Tôn Giáo
Đương khi đó, xung quanh toà nhà vuông Ka’aba linh thiêng ở Mecca, sự thống nhất của loài người đã tiến hành bằng những phương tiện khác. Nếu bạn đã từng là một người hành hương đến Mecca, đi vòng quanh ngôi đền linh thiêng nhất của đạo Islam, trong năm 1300 bạn có thể tìm thấy chính mình đi cùng với một đoàn người từ vùng Mesopotamia, áo choàng của họ phần phật trong gió, mắt của họ long lanh xuất thần, và miệng họ lần lượt lập đi lập lại 99 tên của Gót. Chỉ ở đằng trước, bạn cũng có thể đã thấy một tộc trưởng người Turkey dãi dầu sương gió của những đồng cỏ Asia, đương khập khễnh chống gậy và trầm ngâm vuốt râu. Cạnh một bên, nữ trang vàng tỏa sáng trên da đen nhánh, có thể là một nhóm người Muslim từ vương quốc Mali Africa. Mùi thơm của hoa clove khô, nghệ, hạt cardamom và muối biển hẳn đã báo hiệu sự có mặt của những “anh em đồng đạo” đến từ India, hoặc có lẽ từ những hòn đảo gia vị đầy bí ẩn xa hơn nữa của phương Đông .
Trong khu chợ thời
Trung cổ ở Samarkand, một thành phố xây dựng ở một ốc đảo Trung Asia, những nhà
buôn Syria vuốt tay họ trên lụa Tàu mịn, những người bộ lạc hung tợn từ những đồng
cỏ trưng bày lớp nô lệ đầu tóc bù rối mới nhất từ vùng xa phương Tây, và những
chủ tiệm bỏ túi những đồng tiền kim loại sáng bóng có in những chữ kỳ lạ và những
khuôn mặt của những vị vua xa lạ. Ở đây, tại một trong những ngã tư giao thông lớn
của thời đại đó, giữa phương Đông và Tây, phương Bắc và Nam, sự thống nhất của
loài người đã là một thực tế hàng ngày. Quá trình này cũng có thể được quan sát
diễn ra khi quân đội của Kublai Khan được điều động để xâm lăng Japan trong năm
1281. Những kỵ binh Mongol mặc áo da và lông thú đã cọ vai với những lính bộ
binh Tàu đội nón tre, những lính phụ trợ Korea say rượu đã gây sự với những thủy
thủ xăm mình từ vùng Biển Nam nước Tàu, những kỹ sư công binh từ Trung Asia đã há
hốc mồm lắng nghe những câu chuyện không thể tin được của những kẻ phiêu lưu
làm lính đánh thuê dân Europe, và tất cả đều tuân theo sự chỉ huy của một vị
hoàng đế duy nhất.
Đương khi đó, xung quanh toà nhà vuông Ka’aba linh thiêng ở Mecca, sự thống nhất của loài người đã tiến hành bằng những phương tiện khác. Nếu bạn đã từng là một người hành hương đến Mecca, đi vòng quanh ngôi đền linh thiêng nhất của đạo Islam, trong năm 1300 bạn có thể tìm thấy chính mình đi cùng với một đoàn người từ vùng Mesopotamia, áo choàng của họ phần phật trong gió, mắt của họ long lanh xuất thần, và miệng họ lần lượt lập đi lập lại 99 tên của Gót. Chỉ ở đằng trước, bạn cũng có thể đã thấy một tộc trưởng người Turkey dãi dầu sương gió của những đồng cỏ Asia, đương khập khễnh chống gậy và trầm ngâm vuốt râu. Cạnh một bên, nữ trang vàng tỏa sáng trên da đen nhánh, có thể là một nhóm người Muslim từ vương quốc Mali Africa. Mùi thơm của hoa clove khô, nghệ, hạt cardamom và muối biển hẳn đã báo hiệu sự có mặt của những “anh em đồng đạo” đến từ India, hoặc có lẽ từ những hòn đảo gia vị đầy bí ẩn xa hơn nữa của phương Đông .
Ngày nay tôn giáo thường
được coi là một nguồn của sự kỳ thị phân biệt, bất đồng và phản thống nhất. Thế
nhưng, trong thực tế, tôn giáo đã từng là tác nhân thống nhất lớn thứ ba của
loài người, cùng với tiền và đế quốc. Vì tất cả những trật tự xã hội và hệ thống
đẳng cấp là đều tưởng tượng, chúng tất cả đều mong manh, và xã hội càng lớn bao
nhiêu, chúng càng mong manh bấy nhiêu. Vai trò lịch sử quan trọng của tôn giáo là
đã từng đem cho những những cấu trúc mong manh này tính chất siêu phàm, vượt
trên và vượt quá khả năng con người, có thể bào chữa hay biện minh với lôgích [1].
Những tôn giáo khẳng định rằng luật pháp của chúng ta không phải là kết quả của
sự thất thường của con người, nhưng đã được một uy quyền tuyệt đối và tối thượng
sắc phong. Điều này, ít nhất, đã đặt một số những luật lệ cơ bản vượt trên thách
thức, qua đó bảo đảm sự ổn định xã hội.
Tôn giáo do đó có thể
được định nghĩa là một hệ thống những khuôn
thức và giá trị con người được thành lập dựa trên một tin tưởng vào một trật tự
siêu phàm. Điều này liên quan đến hai tiêu chuẩn khác biệt:
1. Những tôn giáo chủ
trương rằng có một trật tự siêu phàm, vốn đó không phải là sản phẩm của những ý
tưởng bất chợt hoặc những thỏa thuận bốc đồng của con người. Bóng đá chuyên
nghiệp không phải là một tôn giáo, vì dẫu nhiều có luật lệ, nghi thức và nghi lễ
khác lạ, mọi người đều biết rằng chính con người đã phát minh môn thể thao bóng
đá, và tổ chức FIFA bất cứ lúc nào cũng có thể thay đổi kích thước của khung gôn,
hoặc ra phản lệnh về luật việt vị.
2. Căn cứ trên trật tự
siêu phàm này, tôn giáo thiết lập những khuôn thức và giá trị mà nó cho rằng có
tính ràng buộc. Nhiều người phương Tây ngày nay vẫn tin vào những ma quỷ, những
nàng tiên, và sự tái sinh, nhưng những tin tưởng này không là một nguồn gốc của
những tiêu chuẩn và ứng xử đạo đức. Như thế, chúng không tạo dựng một tôn giáo.
Dẫu khả năng của chúng
để hợp pháp hóa rộng rãi những trật tự xã hội và chính trị, không phải tất cả
những tôn giáo đã khởi động được tiềm năng này. Để thống nhất một lãnh thổ rộng
lớn sinh sống những nhóm người khác biệt dưới sự che chở nó, một tôn giáo phải
có thêm hai phẩm chất nữa. Thứ nhất, phải tán thành một trật tự siêu phàm phổ quát, luôn luôn là sự thật và ở khắp
mọi nơi. Thứ hai, nó phải nhấn mạnh vào sự truyền bá tin tưởng này đến với tất
cả mọi người. Nói cách khác, nó phải là phổ quát và truyền bá.
Những tôn giáo nổi tiếng
nhất trong lịch sử, như đạo Islam và đạo Phật, đều phổ quát và truyền bá. Dẫn đến
hệ quả là mọi người có khuynh hướng tin rằng tất cả những tôn giáo đều như chúng.
Trong thực tế, phần lớn những tôn giáo sơ khai là địa phương, và chỉ dành riêng.
Những tín đồ của chúng tin vào những gót và thần linh địa phương, và không quan
tâm vào việc rao giảng và đổi tôn giáo cho tất cả loài người. Như chúng ta được
biết, những tôn giáo phổ quát và truyền bá chỉ bắt đầu xuất hiện trong nghìn
năm đầu tiên TCN. Sự xuất hiện của chúng là một trong những cuộc cách mạng quan
trọng nhất trong lịch sử, và đã làm một đóng góp sinh động hết sức cần thiết
cho sự thống nhất của loài người, giống như sự xuất hiện của những đế quốc phổ
quát và tiền bạc phổ quát.
Cắt cổ Cừu dâng Gót [2]
Khi tín ngưỡng vật linh
[3] là
hệ thống tín ngưỡng có ảnh hưởng bao trùm, những khuôn thức và giá trị của con
người đã phải đưa vào trong cân nhắc suy nghĩ về cả cái nhìn ra bên ngoài và lợi
ích của một số những sinh vật khác, chẳng hạn như những động vật, thực vật,
tiên nữ, và ma quỷ. Lấy thí dụ, một bầy đoàn kiếm ăn ở vùng thung lũng sông Ganges
có thể đã thiết lập một quy luật cấm mọi người không được chặt một cây sung nào
đó đặc biệt thật lớn, vì sợ rằng thần tinh cây sung trở nên tức giận và sẽ trả
thù. Một bầy đoàn kiếm ăn sinh sống khác ở thung lũng sông Indus có thể cấm mọi
người không được săn giống cáo đuôi trắng, vì một con cáo đuôi trắng đã một lần
tiết lộ cho một lão bà khôn ngoan nơi nào bầy đoàn có thể tìm được đá quý từ
núi lửa.
Những tôn giáo như thế
là có khuynh hướng rất địa phương trong cái nhìn ra bên ngoài, và nhấn mạnh vào
những tính chất độc đáo của những địa điểm, khí hậu và hiện tượng cụ thể. Hầu hết
những người săn bắn hái lượm đã dành toàn thể đời sống của họ trong một khu vực
không rộng hơn một ngàn cây số vuông. Để sống còn, những cư dân của một thung
lũng nào đó đặc biệt cần phải hiểu được trật tự siêu nhiên vốn điều hành thung
lũng của họ, và để điều chỉnh hành vi của họ cho phù hợp. Sẽ là điều vô nghĩa nếu
cố gắng thuyết phục những cư dân của một vài thung lũng xa xôi khác để cùng
tuân theo những quy luật tương tự. Những người dân của vùng sông Indus đã không
hoài công gửi những đoàn truyền giáo đến thung lũng sông Ganges để thuyết phục những
dân địa phương, không được săn loài cáo có đuôi trắng.
Cách mạng Nông nghiệp
dường như đã đi kèm với một cuộc cách mạng tôn giáo. Những người săn bắn hái lượm
thực và động vật, vốn mọc hay sống trong hoang dã, và chúng có thể được xem là có
vị thế bình đẳng với những Homo Sapiens.
Sự kiện là con người săn được cừu đã không làm cho cừu thấp kém hơn con người, cũng
giống như sự kiện con hổ vồ con người đã không làm cho con người thấp kém hơn con
hổ. Những sinh vật đã “nói chuyện” trực tiếp với nhau, thông tin liên lạc và điều
đình những quy luật điều hành môi trường sống chung của chúng. Ngược lại, những
nhà trồng tỉa sở hữu và vận dụng những thảo mộc và thú vật; và hiếm khi đã phải
hạ mình để phải điều đình với những gì vốn đã là tài sản sở hữu của họ. Như thế,
tác động tôn giáo đầu tiên của cuộc Cách mạng Nông nghiệp là xoay thực vật và động
vật từ những thành viên bình đẳng quanh một bàn tròn tinh thần, vào thành bất động
sản của con người.
Điều này, tuy nhiên, tạo
ra một vấn đề lớn. Những nông dân có thể có mong muốn quyền kiểm soát tuyệt đối
con cừu non của họ, nhưng họ biết rất rõ rằng sự kiểm soát của họ có giới hạn.
Họ có thể nhốt cừu trong chuồng, thiến những cừu đực, và chọn những con cái cho
có cừu con, nhưng họ không thể bảo đảm rằng những con cừu cái thụ thai và sẽ
sinh những cừu non lành mạnh, cũng không phải họ có thể ngăn chặn những bệnh dịch
đột ngột giết hại đàn gia súc. Sau đó, làm sao để bảo vệ khả năng sinh sản của
đàn gia súc?
Một giả thuyết dẫn đầu về
nguồn gốc của những gót, lập luận rằng những gót trở nên quan trọng vì họ cung
cấp một giải pháp cho vấn đề này. Những gót như gót nữ về sinh sản, gót bầu trời
và những gót y tế chiếm trung tâm sân khấu khi thực vật và động vật bị mất khả
năng nói chuyện của chúng, và vai trò chính của những gót đã là làm trung gian thương
thảo giữa con người và những thực vật câm, và động vật không biết nói tiếng người.
Hầu hết thần thoại thời cổ, trong thực tế, là một hợp đồng pháp lý trong đó con
người hứa đời đời sùng kính những gót, để đổi lấy sự hoàn toàn làm chủ những thực
vật và động vật – những chương đầu tiên của sách Genesis, trong sách Thánh, là một
thí dụ điển hình. Trong hàng nghìn năm sau cuộc Cách mạng Nông nghiệp, nghi lễ phụng
vụ tôn giáo chủ yếu gồm sự việc con người hiến sinh, đem cúng sinh vật, những
con cừu, thêm rượu nho và bánh ngọt cho những quyền lực thần linh, những người trong
trao đổi đã hứa hẹn những vụ mùa thu hoạch thật lớn và những gia súc thật mắn đẻ.
Cách mạng Nông nghiệp khởi
đầu đã có một ảnh hưởng ít sâu rộng nhiều hơn về tình trạng của những thành
viên khác của hệ thống tín ngưỡng vật linh, chẳng hạn như đá, suối, tinh ma và
quỷ thần. Tuy nhiên, những vật linh bày, cũng thế, dần dần mất đi vị thế của
chúng, nhường chỗ cho những gót mới. Miễn là chừng nào con người sống toàn bộ đời
sống của họ giới hạn trong một lãnh thổ một vài trăm cây số vuông, hầu hết những
nhu cầu của họ có thể được những thần linh địa phương đáp ứng. Nhưng một khi những
vương quốc và mạng lưới thương mại mở rộng, con người cần liên hệ với những thực
thể có quyền lực và uy quyền bao trùm cả một vương quốc hoặc toàn thể một lưu vực
sinh hoạt thương mại.
Nỗ lực để trả lời những
nhu cầu này dẫn đến sự xuất hiện của những tôn giáo tin-nhiều-gót (từ tiếng Greece: poly
= nhiều, theos = gót). Những tôn giáo
này hiểu thế giới như được kiểm soát bởi một nhóm những gót mạnh mẽ, chẳng hạn
như gót nữ trông coi sinh sản, gót làm mưa và gót chiến tranh. Con người có thể
cầu xin những gót, và những gót có thể, nếu họ nhận được sự sùng kính và sự hy
sinh, đoái hoài đến họ và mang lại mưa, chiến thắng và sức khỏe.
Tín ngưỡng vật linh đã
không hoàn toàn biến mất với sự ra đời của tín ngưỡng tin-nhiều-gót. Những quỉ thần, tiên nữ, ma, đá thần, suối thánh, và
cây thiêng vẫn là một phần không thể thiếu của hầu hết tất cả những tôn giáo tin-nhiều-gót.
Những thần tinh, hồn linh này thì ít quan trọng hơn so với những gót vĩ đại,
nhưng đối với những nhu cầu tầm thường của nhiều người dân bình thường, họ đã cũng
đủ tốt. Trong khi nhà vua ở kinh đô hy sinh hàng chục con cừu béo, cúng cho thần
chiến tranh vĩ đại, cầu được chiến thắng trên những dân tộc “man rợ”, người
nông dân trong túp lều của mình, thắp một ngọn nến trước cây sung, giống cây
sung đã kể trong những truyện cổ, cầu cho ‘bà thần cây sung” giúp chữa bệnh con
trai mình đang ốm nặng.
Tuy nhiên, tác động lớn
nhất của sự nổi lên của những gót vĩ đại đã không phải với những con cừu hoặc
quỷ thần, nhưng với vị thế của Homo
Sapiens. Tư tưởng vật linh nghĩ rằng con người chỉ là một trong nhiều những
sinh vật sinh sống trên thế giới. Tư tưởng tin nhiều gót, mặt khác, ngày càng nhìn
thế giới như một sự phản ảnh của những quan hệ giữa những gót và con người. Những
cầu nguyện của chúng ta, giết vật tế thần, thờ phụng gót của chúng ta, “tội lỗi”
của chúng ta và những việc làm gây quả tốt của chúng ta, tất cả đã định đoạt số
phận của toàn bộ hệ sinh thái trên địa cầu. Một lũ lụt khủng khiếp có thể quét
sạch hàng tỉ con kiến, châu chấu, rùa, linh dương, hươu cao cổ và voi, chỉ vì một
vài Sapiens ngu ngốc nào đó đã làm những
gót nổi giận. Tín ngưỡng tin nhiều gót do đó không chỉ đưa địa vị của những gót
lên cao vời, mà cũng còn tôn lên địa vị của loài người. Những thành viên kém
may mắn của hệ thống vật linh cũ bị mất tầm vóc địa vị của chúng, và trở thành hoặc
là những dư thừa, hoặc những trang trí im lặng trong vở kịch vĩ đại về quan hệ
của con người với những gót.
Những Lợi ích của sự thờ cúng thần tượng
Hai nghìn năm nhồi sọ tẩy
não của những tôn giáo tin chỉ một gót đã khiến hầu hết người phương Tây đi đến
nhìn những tín ngưỡng tin nhiều gót như sự thờ cúng ngẫu tượng ngu xuẩn và ấu
trĩ. Đây là một cái nhìn cưỡng ép rập khuôn bất công. Để hiểu được lôgích bên
trong của thuyết tin nhiều gót, điều thiết yếu là phải nắm giữ được ý tưởng trọng
tâm đã xây đắp thành kiên cố sự tin tưởng vào nhiều thần linh, vào sự có nhiều những
gót.
Tín ngưỡng tin nhiều
gót không nhất thiết tranh luận về liệu không biết có hiện hữu một thế lực hoặc
luật duy nhất điều hành toàn bộ vũ trụ hay không. Trong thực tế, hầu hết những tín
đồ của những tôn giáo tin nhiều gót, và ngay cả của những tín ngưỡng vật linh,
đều nhìn nhận là có một quyền lực tối cao loại giống như vậy, sau cùng, đứng
trên tất cả những gót, những ma quỷ và những hòn đá thần. Trong tín ngưỡng tin
nhiều gót Greece thời cổ, những gót Zeus, Hera, Apollo và những đồng nghiệp của
họ đều là những đối tượng của một quyền năng vô hạn và bao gồm tất cả – Số Phận
(Moira, Ananke). Những gót Bắc Europe,
cũng thế, đều nằm dưới tay quyền lực của Số phận, khiến họ cũng phải chịu sự huỷ
diệt trong tai biến đổ trời xụp đất Ragnarök (Buổi chạng vạng của những gót) [4].
Trong tín ngưỡng tin nhiều gót của người Yoruba ở Tây Africa, tất cả những gót
đã được gót tối cao Olodumare sinh ra, và vẫn tuỳ thuộc vào ông ta. Trong tín
ngưỡng tin nhiều gót Hindu, một nguyên lý duy nhất, Atman, điều khiển mạng lưới phức tạp và chi li rắc rối gồm những gót,
những thần linh, loài người, thế giới sinh học và thế giới vật lý. Atman là bản chất vĩnh cửu hay hồn của
toàn thể vũ trụ, cũng như của mỗi cá nhân và mọi hiện tượng.
Sự thấu hiểu sâu xa, viễn
kiến cơ bản của tín ngưỡng tin nhiều gót, vốn phân biệt nó với tín ngưỡng tin
chỉ một gót, là rằng quyền lực tối cao cai quản thế giới thì hoàn toàn thiếu vắng
những ưa thích vị kỷ và những thành kiến, và do đó nó không quan tâm đến những
ham muốn trần tục, những bận tâm, và những lo lắng của con người. Như thế, sẽ
là điều vô nghĩa nếu cầu xin sức mạnh này để được toàn thắng trong chiến tranh,
được sức khỏe, hay được mưa xuống, vì từ một điểm nhìn thuận lợi bao quát tất cả
của nó, là không có điều gì khác biệt cả, cho dù một vương quốc đặc biệt nào thắng
hay thua, cho dù một thành phố cụ thể nào thịnh vượng hoặc tàn lụi, cho dù một
người đặc biệt nào hồi phục hoặc chết. Người Greece đã không lãng phí bất kỳ hiến
sinh nào với gót Số phận, và người Hindu không dựng đền thờ nào cho Atman.
Lý lẽ độc nhất để tiếp
cận quyền lực tối cao của vũ trụ sẽ là từ bỏ tất cả những ham muốn, và ôm lấy cái
xấu, dọc đường đời, cùng với cái tốt – để nhận lấy ngay cả thất bại, nghèo đói,
bệnh tật và cái chết. Như thế, một số người theo đạo Hindu, được biết đến như Sadhus hay Sannyasis [5], dâng
hiến trọn đời họ cho sự hợp nhất với Atman,
qua đó đạt được sự giác ngộ. Họ cố gắng để nhìn thế giới từ quan điểm của
nguyên lý cơ bản này, để nhận thức rằng từ viễn cảnh vĩnh cửu của nó, tất cả những
ham muốn trần tục và những sợ hãi đều là những hiện tượng vô nghĩa và phù du. [6]
Hầu hết người theo đạo Hindu,
tuy nhiên, không phải là những Sadhus. Họ chìm sâu trong bãi lầy của những quan
tâm thế tục, chốn Atman không giúp được nhiều. Để được trợ giúp trong những vấn
đề như vậy, những người Hindu tiếp cận những gót có quyền năng chỉ một phần, một
lĩnh vực của họ. Chính vì sức mạnh của những gót này là một phần chứ không bao
gồm tất cả, những gót như Ganesha, Lakshmi và Saraswati [7] đều
có những ưa thích vị kỷ và những thành kiến. Con người do đó có thể làm những trao
đổi thoả thuận với những quyền năng một phần này, và dựa vào sự giúp đỡ của họ
để giành thắng những cuộc chiến tranh, và hồi phục bệnh tật. Nhất thiết phải có
rất nhiều những quyền lực nhỏ hơn này, vì một khi bạn bắt đầu phân chia quyền lực
bao gồm tất cả của một nguyên lý tối cao, bạn không tránh khỏi sẽ kết thúc với
nhiều hơn một gót. Từ chỗ này, đi đến số nhiều của những gót.
Cái nhìn sâu sắc của lập
trường tin nhiều gót truyền dẫn sự khoan dung tôn giáo được xa và rộng. Vì những
người tin nhiều gót; một mặt, tin vào một quyền lực tối cao và hoàn toàn vô tư,
và mặt khác, vào những quyền lực chỉ có một phần, và có thành kiến, nên không
có khó khăn cho những tín đồ của tôn giáo tôn thờ một gót này đi đến chấp nhận sự
hiện hữu và quyền lực của những gót khác. Những tôn giáo tin nhiều gót thì bản chất
nội tại là cởi mở, và chúng hiếm khi đàn áp những người cùng tôn giáo nhưng
khác tin tưởng, trường hợp trong những tôn giáo tin chỉ một gót, thường gọi là những
kẻ “dị giáo” hay ‘rối đạo, và “ngoại đạo”.
Ngay cả khi những người
tin nhiều gót chinh phục những đế quốc rất rộng lớn, họ đã không cố gắng để ép
buộc thay đổi tín ngưỡng của những đối tượng cai trị của họ. Người Egypt, người
Rome và người Aztec đã không gửi những đoàn truyền giáo đến những vùng đất lạ để
truyền bá sự tôn thờ Osiris, Jupiter hoặc Huitzilopochtli (gót Aztec cao nhất),
và chắc chắn họ đã không gửi đến những đoàn quân lê dương viễn chinh cho mục
đích đó. Những dân tộc bị trị trên khắp đế quốc buộc phải tôn trọng những gót
và những nghi lễ của đế quốc, vì những gót và nghi lễ này đã phù trợ và đã hợp
pháp đế quốc. Tuy nhiên, họ đã không đòi hỏi phải từ bỏ những gót và những nghi
lễ của tín ngưỡng địa phương của họ. Trong Đế quốc Aztec, dân chúng có bổn phận
dựng những đền thờ cho Huitzilopochtli, nhưng những ngôi đền này được xây bên cạnh
những ngôi đền thờ những gót địa phương, chứ không thay chỗ của họ. Trong nhiều
trường hợp, bản thân giới thiếu số được chọn lọc ưu đãi của đế quốc đã chấp nhận
những gót và những nghi lễ của dân tộc bị trị. Người Rome vui vẻ thêm gót nữ Cybele
của Asia và gót nữ Isis của Egypt vào pantheon,
đền thờ tất cả những gót, của họ.
Gót duy nhất mà người Rome lâu dài vẫn từ chối,
không khoan thứ là gót của thuyết tin-chỉ một gót, và rao giảng đòi đổi tôn
giáo cho mọi người, của những người Kitô. Đế quốc Rome đã không đòi hỏi những người
Kitô từ bỏ tín ngưỡng và nghi lễ tôn giáo của họ, nhưng nó đã mong đợi họ tỏ
lòng tôn kính những gót bảo hộ của đế quốc và sự thiêng liêng của hoàng đế. Điều
này được nhìn như một tuyên bố trung thành về chính trị. Khi những người Kitô kịch
liệt từ chối làm như vậy, và đã tiếp tục gạt bỏ tất cả những nỗ lực thỏa hiệp, những
người Rome đã phản ứng bằng sự ngược đãi những ai (trong giới Kitô) họ hiểu là thuộc
một phe có âm mưu lật đổ chính trị [8].
Và ngay cả điều này đã chỉ được thực hiện nửa vời. Trong 300 năm kể từ sự đóng
đinh của Christ đến sự đổi tôn giáo của Hoàng đế Constantine, những hoàng đế Rome
tin nhiều gót khởi xướng không quá bốn cuộc bách hại những người Kitô nói
chung. Những giới chức và những thống đốc địa phương quấy động một số bạo hành của
riêng họ, chống những người Kitô. Tuy nhiên, nếu chúng ta kết hợp tất cả những
nạn nhân của tất cả những cuộc bách hại, nó cho thấy rằng trong ba thế kỷ, những
người Rome tin nhiều gót giết không nhiều hơn một vài ngàn người Kitô. [9] Ngược
lại, trong suốt 1.500 năm tiếp theo, những người Kitô giết người hàng triệu những
người Kitô khác, để bảo vệ những giải thích hơi khác nhau của thứ tôn giáo yêu thương
và bác ái này.
Những cuộc chiến tranh tôn
giáo giữa người Kitô Catô và Kitô Thệ Phản [10]
đã lan tràn khắp Europe, trong thế kỷ XVI và XVII là nổi tiếng đặc biệt xấu xa.
Tất cả những người liên quan trong những chiến tranh này đều chấp nhận gót tính
[11] của Christ, và lời rao giảng về thương yêu và bác ái của ông. Tuy nhiên,
họ không đồng ý về bản chất của thương yêu này. Những người Thệ Phản tin rằng
tình yêu của Gót đã là thần thánh quá đỗi như vậy, đã khiến Gót nhập thể trong
xác phàm, và tự để cho Ngài bị tra tấn và đóng đinh, qua đó nhằm chuộc tội “tổ
tông” và mở những cánh cửa thiên đường cho tất cả những ai tuyên xưng có lòng tin
vào Ngài. Những người Catô đã chủ trương rằng trong khi có long tin như thế là
thiết yếu, nhưng chưa đủ. Để lên thiên đường, những tín đồ phải tham dự vào những
nghi lễ của nhà thờ và làm những việc thiện. Những người Thệ Phản không
chịu chấp nhận điều này, cho rằng việc đổi chác điều này lấy điều kia (quid
pro quo) này, làm nhỏ bé đi sự vĩ đại và thương yêu của Gót. Bất cứ ai nghĩ
rằng vào được thiên đường tuỳ thuộc vào những việc làm tốt của riêng mình là đã
phóng đại tầm quan trọng của riêng mình, và hàm ý rằng sự đau khổ của
Christ trên giá gỗ chữ thập, và yêu thương của Gót với loài người là đã không đủ.
[12]
Những tranh
chấp về gót-học này trở nên bạo động trong những thế kỷ XVI và XVII, những người
Catô và Thệ Phản giết nhau hàng trăm ngàn. Ngày 23 Tháng tám 1572, những người
Catô người France, nhấn mạnh vào sự quan trọng của làm những việc thiện, đã tấn
công những cộng đồng của những người Thệ Phản ở France, là những người, tuy thờ
cùng một Gót Kitô, nhưng muốn nhấn mạnh vào điểm sáng là tình yêu của Gót với
loài người. Trong cuộc tấn công này, gọi là Tàn sát trong ngày thánh chiên
Bartholomew [13], từ 5.000 đến 10.000 người Thệ Phản đã bị giết hại tàn khốc trong vòng
chưa đầy hai mươi bốn tiếng đồng hồ. Khi vua chiên Catô ở Rome, nghe tin từ France,
ông không kềm nổi quá đỗi vui mừng, nên đã tổ chức lễ hội cho những người cầu
nguyện ăn mừng cơ hội vui vẻ này, và trao tiền, uỷ nhiệm cho Giorgio Vasari vẽ
một bức bích họa về vụ thảm sát, để trang trí một phòng trong cung điện Vatican
(phòng này hiện không cho du khách vào xem) [14]. Những người Kitô đã giết những người Kitô chỉ trong hai mươi bốn giờ còn
nhiều hơn toàn bộ Đế quốc Rome tin nhiều gót đã giết họ trong suốt lịch
sử hiện hữu của nó.
Gót chỉ Một
Với thời gian, một số những
tín đồ của những gót trong những tôn giáo thờ nhiều gót đã trở nên quá yêu chuộng
một gót bảo trợ đặc biệt nào đó của họ, khiến họ trôi xa dần khỏi thị kiến sâu
xa cơ bản của lập trường thờ nhiều gót. Họ bắt đầu tin rằng gót của họ đã là gót
độc nhất, và rằng vị này trong thực tế là quyền năng cao nhất của vũ trụ. Nhưng
đồng thời họ vẫn tiếp tục để xem gót này như sở hữu những ưa thích thiên vị và những
thành kiến, và tin rằng họ có thể mặc cả những đổi chác với vị này. Như thế, đã
sinh ra những tôn giáo tin chỉ một gót, những tín đồ của nó khẩn cầu quyền năng
tối cao của vũ trụ để giúp họ lành bệnh khỏi tật, trúng xổ số độc đắc, và thắng
trận.
Tôn giáo tin chỉ một
gót đầu tiên được chúng ta biết đến xuất hiện ở Egypt, khoảng 350 TCN, khi
Pharaoh Akhenaten tuyên bố rằng một trong những gót nhỏ của tập hợp gồm tất cả
những gót Egypt, là gót Aten, trong thực tế, đã là quyền lực tối cao cai trị vũ
trụ. Akhenaten đã định chế hoá sự thờ phụng gót Aten như quốc giáo, và cố gắng
để kiểm soát việc thờ phụng những gót khác. Cuộc cách mạng tôn giáo của ông,
tuy nhiên, đã không thành công. Sau cái chết của ông, sự thờ phụng Aten đã bị bỏ
rơi, những gót trong tập hợp những gót cũ thế chỗ của nó.
Rải rác nhiều nơi, tin
tưởng vào sự có chỉ một gót tiếp tục
cho ra đời những tôn giáo tin chỉ một gót khác, nhưng chúng vẫn bên lề, ở vòng rìa
ngoài, nhất là vì chúng thất bại, không tiêu hóa được thông điệp phổ quát của chính
chúng. Đạo Juda [15], lấy thí dụ, biện luận rằng
quyền lực tối cao của vũ trụ cũng có những ưa thích thiên vị và những thành kiến,
thế nhưng ưa thích chính của vị này là chỉ trong quốc gia nhỏ bé của người Jew,
và trong mảnh đất ít người biết đến của Israel. Đạo Juda đã không có gì nhiều để
cống hiến cho những quốc gia khác, và trong suốt hầu hết sự có mặt của nó, nó
không phải là một tôn giáo có chủ trương truyền đạo. Giai đoạn này có thể được
gọi là giai đoạn của tôn giáo “tin chỉ một gót địa phương”.
Phát triển đột phá quan
trọng đã đến với đạo Kitô. Tín ngưỡng này bắt đầu như một giáo phái Jew bí truyền,
tìm cách thuyết phục những người Jew rằng Giêsu người thành Nazareth là vị cứu
thế messiah vốn những người Jew vẫn mong
đợi từ lâu. Tuy nhiên, một trong những lãnh tụ đầu tiên của giáo phái, Paul người
thành Tarsus, lý luận rằng nếu quyền lực tối cao của vũ trụ có những thiên vị
và những thành kiến, và nếu như vị này đã bõ công để hiện thân chính mình trong
xác thịt và chết trên giá gỗ chữ thập để cứu rỗi loài người, thì đây là một gì
đó tất cả mọi người nên nghe đến, không chỉ với người Jew. Như thế, điều là cần
thiết để lan truyền những lời tốt đẹp – tinh lành hay ‘phúc âm’ về cuộc đời và
giảng dạy – của Giêsu ra khắp thế giới.
Những biện luận của
Paul rơi xuống nền đất phì nhiêu, sinh sản mạnh. Những người Kitô bắt đầu tổ chức
những hoạt động truyền giáo rộng rãi nhằm đến tất cả mọi người. Trong một xoay
chuyển lạ lùng nhất của lịch sử, giáo phái Jew bí truyền này đã chiếm được kiểm
soát toàn cõi Đế quốc Rome vô cùng hùng mạnh.
Thành công của đạo Kitô
đã được dùng như một mô hình cho một tôn giáo tin chỉ một gót khác, xuất hiện ở
bán đảo Arab trong thế kỷ thứ bảy – đạo Islam [16].
Giống như đạo Kitô, đạo Islam, cũng đã bắt đầu như một giáo phái nhỏ ở một góc hẻo
lánh của thế giới, nhưng trong một bất ngờ lịch sử ngay cả còn lạ lùng và mau lẹ
hơn, nó đã thành công, thoát ra khỏi sa mạc Arabia, và chinh phục một đế quốc rộng
lớn trải dài từ biển Atlantic đến biển India. Từ đó về sau, ý tưởng tin chỉ một
gót đã đóng một vai trò trung tâm trong lịch sử thế giới.
Những người theo những
tôn giáo tin chỉ một gót có khuynh hướng cuồng tín nhiều hơn và đi truyền giáo nhiều
hơn là những người theo những tôn giáo tin nhiều gót. Một tôn giáo nhìn nhận những
tôn giáo khác cũng hợp pháp, nghĩa là có thể bảo vệ hay biện minh bằng lôgích [17], hàm
ý rằng gót của nó không phải là quyền lực tối cao của vũ trụ, hoặc là nó nhận
được từ Gót chỉ là một phần của chân lý phổ quát. Vì những người trong những
tôn giáo tin chỉ một gót đã thường tin rằng họ đang sở hữu toàn bộ thông điệp của
gót duy nhất, chỉ có một, họ đã bị ép buộc phải làm mất uy tín của tất cả những
tôn giáo khác. Trong hai nghìn năm qua, những tôn giáo tin chỉ một gót đã nhiều
lần cố gắng làm vững tay họ hơn, bằng mạnh thêm hơn, bằng bạo lực tiêu diệt tất
cả sự cạnh tranh.
Nó đã làm được việc.
Vào đầu thế kỷ thứ nhất, hiếm đã có được bất kỳ một tín ngưỡng tin chỉ một gót
nào trên thế giới. Khoảng năm 500, một trong những đế quốc lớn nhất thế giới –
Đế quốc Rome – là một tổ chức nhà nước theo đạo Kitô, và những đoàn truyền giáo
đạo Kitô đã bận rộn lan truyền nó sang những phần khác của Europe, Asia và
Africa. Vào cuối nghìn năm đầu tiên CN, hầu hết mọi người ở Europe, vùng Tây Asia
và Bắc Africa là những tín đồ của những tôn giáo tin chỉ một gót, và những đế
quốc từ biển Atlantic đến chân dãy Himalaya đều tuyên bố được một Gót vĩ đại
duy nhất tấn phong. Đến đầu thế kỷ XVI, những tôn giáo tin chỉ một gót chi phối
hầu hết hai Asia-Africa, với ngoại lệ của khu vực Đông Asia và những vùng phía
nam của Africa, và nó bắt đầu mở rộng những vòi dài về phía Nam Africa, America
và Oceania. Ngày nay hầu hết mọi người ngoài vùng Đông Asia đều bám chặt vào một
tôn giáo tin chỉ một gót này hay một tôn giáo tin chỉ một gót khác, và trật tự
chính trị toàn cầu được xây dựng trên những nền móng cơ sở của tin tưởng chỉ một
gót.
Tuy nhiên, cũng giống
như tin tưởng vật linh vẫn tiếp tục hiện hữu trong tin tưởng tin nhiều gót, nên
tin tưởng nhiều gót vẫn tiếp tục hiện hữu trong tin tưởng chỉ một gót. Về lý
thuyết, một khi một người tin rằng quyền năng tối cao của vũ trụ có những ưa
thích vị kỷ, đâu còn lý do nữa để thờ phụng những quyền nămg không tất cả nhưng
chỉ một phần? Ai sẽ còn muốn tiếp cận một công chức thấp kém, khi văn phòng của
ôn tổng thống mở cửa với bạn? Thật vậy, gót học của những người tin chỉ một gót
có khuynh hướng phủ nhận sự hiện hữu của tất cả những gót khác, ngoại trừ một Gót
tối cao, và đổ lửa nóng hoả ngục và diêm sinh cháy bỏng xuống đốt chết bất cứ
ai dám thờ những gót khác đó.
Tuy nhiên, luôn luôn có
một sự khác biệt sâu xa giữa những thuyết gót học và những thực tế lịch sử. Hầu
hết mọi người đã thấy để tiêu hóa đầy đủ những ý tưởng tin chỉ một gót là điều
khó khăn. Họ đã tiếp tục phân chia thế giới vào thành “chúng ta” và “chúng nó”,
và nhìn sức mạnh tối cao của vũ trụ như quá xa xôi và xa lạ đối với những nhu cầu
trần tục của họ. Những tôn giáo tin chỉ một gót trục xuất những gót khác ra khỏi
cửa trước với rất nhiều kèn trống phô trương ầm ĩ, chỉ để âm thầm đón họ trở lại
qua cửa sổ bên sườn. Đạo Kitô, lấy thí dụ, phát triển pantheon, đền thờ những thánh, riêng của nó, gồm những thánh chiên [18],
mà sự thờ cúng họ chỉ khác biệt chút ít với của những gót trong những tín ngưỡng
tin nhiều gót.
Cũng như gót Jupiter bảo
vệ Rome và gót Huitzilopochtli bảo vệ đế quốc Aztec, như vậy mỗi vương quốc đạo
Kitô có thánh chiên bảo trợ của mình, người đã giúp nó vượt qua những khó khăn
và giành thắng những chiến tranh. England đã có thánh chiên George bảo vệ,
Scotland có thánh chiên Andrew, Hungary có thánh chiên Stephen, và France có thánh
chiên Martin. Những thành phố và thị trấn, những ngành nghề, và ngay cả cả những
bệnh tật – mỗi một chúng đều có thánh chiên của chúng. Thành phố Milan có thánh
chiên Ambrose, trong khi thánh chiên Mark canh chừng cho thành phố Venice. Thánh
chiên Florian phù trợ những người thông ống khói lò sưởi, trong khi thánh chiên
Mathew đưa tay để giúp những người thu thuế bị gian nan. Nếu bạn bị khổ sở vì bệnh
nhức đầu, bạn phải cầu nguyện với thánh chiên Agathius, nhưng nếu đau răng, khi
đó là với thánh chiên Apollonia, một thính giả tốt hơn nhiều.
Các thánh chiên của đạo
Kitô không chỉ đơn thuần giống như những gót trong những tín ngưỡng tin nhiều
gót cũ. Thường thì họ cùng là một với chính những gót này nhưng trong ngụy
trang. Lấy thí dụ, gót nữ chính của những người Celt Ireland trước khi đạo Kitô
đến xứ này, là Brigid. Khi Ireland đã thành Kitô hoá, Brigid cũng được “rửa tội”.
Bà đã trở thành thánh chiên Brigit, người cho đến ngày nay là vị thánh được tôn
kính nhất trong nước Ireland Catô. [19]
Trận Chiến giữa Thiện và Ác
Tư tưởng tin nhiều gót
đã sinh ra không chỉ đơn thuần là những tôn giáo tin chỉ một gót, mà cũng còn
những tôn giáo nhị nguyên [20].
Tôn giáo nhị nguyên kết hôn sự hiện hữu của hai sức mạnh đối lập: Thiện và Ác.
Không giống như thuyết tin chỉ một gót, quan điểm nhị nguyên cho rằng Tà Ác là
một sức mạnh độc lập, không phải do Gót thiện lành tạo ra, và cũng chẳng tuỳ
thuộc vào Gót thiện lành. Quan điểm Nhị nguyên giải thích rằng toàn bộ vũ trụ
là một chiến trường giữa hai sức mạnh này, và rằng mọi thứ xảy ra trên thế giới
là một phần của cuộc đấu tranh này.
Lập trường
nhị nguyên là một thế giới quan hấp dẫn vì nó có một trả lời ngắn gọn và đơn giản
cho Câu hỏi về Tà Ác nổi tiếng [21], một trong những bận tâm cơ bản của tư tưởng con người. “Tại sao lại có
Ác trên thế giới? Tại sao có đau khổ? Tại sao những điều xấu xảy ra với những
người tốt?” Những tín đồ tin chỉ một gót phải luyện tập thể dục cho trí tuệ để cố
giải thích – tại sao một Gót biết hết tất cả, làm được tất cả và trước sau tất
cả hoàn toàn tốt lành, lại để cho có quá nhiều đau khổ trên thế giới? Một giải
thích nổi tiếng cho rằng đây là cách thức của Gót để cho phép con người có tự
do làm theo ý mình muốn – ý chí tự do [22]. Nếu như đã không có cái Ác, con người tất đã không thể lựa chọn giữa Thiện
và Ác, và do đó sẽ không có ý chí tự do. Điều này, tuy nhiên, là một trả lời
không đến từ trực giác, không hiển nhiên, nên ngay lập tức nảy sinh ra một loạt
những câu hỏi mới. Tự do của ý chí cho phép con người để lựa chọn cái ác. Nhiều
người thực sự chọn cái ác và, theo những giải thích tiêu chuẩn của
thuyết tin chỉ một gót, sự lựa chọn này phải mang lại sự trừng phạt của Gót
trong kết quả sau cùng của nó. Nếu Gót đã biết trước rằng một người nào đó sẽ
dùng ý chí tự do của mình để lựa chọn điều ác, và kết quả là nàng/cô/bà/ông sẽ
bị trừng phạt vì điều này bằng hình phạt nặng nề là chịu tra tấn đời đời trong
lửa của hoả ngục, tại sao Gót tạo ra nàng/cô/bà/ông ấy? Những nhà gót học đã viết
vô số sách để trả lời câu hỏi như vậy. Một số người thấy trả lời thuyết phục. Một
số không. Điều không thể phủ nhận là những tín đồ tin chỉ một gót có một kinh
ngiệm khó khăn vất vả khi bối rối lúng túng đối ứng với Câu hỏi về Tà Ác.
Với người theo tôn giáo
nhị nguyên, thật dễ dàng để giải thích cái Ác. Những điều xấu xảy ra ngay cả với
những người tốt vì thế giới không cai quản dưới tay của chỉ một Gót tốt lành.
Có một năng lực tà ác độc lập thả lỏng trên thế giới. Năng lực tà ác làm những sự
vật việc xấu ác.
Thuyết nhị nguyên có
nhược điểm riêng của nó. Trong khi giải quyết Câu hỏi về Tà Ác, nó nao núng, mất tự tin trước Câu hỏi về Trật tự. Nếu thế giới đã được một Gót duy nhất tạo ra, như thế là rõ
ràng tại sao nó là một nơi trật tự dường vậy, nơi tất cả mọi sự vật việc đều
tuân theo cùng những luật. Nhưng nếu Thiện và Ác đánh nhau dành quyền kiểm soát
thế giới, ai là người thực thi luật lệ, bắt chúng phải theo những qui luật quản
lý chiến tranh vũ trụ này? Hai quốc gia đối địch có thể đánh lẫn nhau vì cả hai
đều tuân theo những luật của Vật lý. Một hoả tiễn phóng từ Pakistan có thể bắn
trúng mục tiêu ở India, vì lực hấp dẫn hoạt động theo cùng một cách ở trong cả
hai nước. Khi Thiện và Ác chiến đấu, những luật chung nào làm hai bên cùng phải
vâng lời, và ai là người ban những luật này?
Như thế, tôn giáo tin
chỉ một gót giải thích được về trật tự, nhưng hoang mang bí ẩn trước cái Ác. Tôn
giáo nhị nguyên giải thích được về cái Ác, nhưng lúng túng bối rối trước Trật tự.
Có một cách hợp lôgích để giải quyết câu hỏi như câu đố bí hiểm này: là biện luận
rằng có một Gót toàn năng duy nhất, người đã sáng tạo toàn bộ vũ trụ – và Ông
thì xấu xa ác độc. Nhưng không ai trong lịch sử đã có được can đảm để nói ra một
tin tưởng như vậy.
Những tôn giáo nhị
nguyên phát triển mạnh mẽ trong hơn một nghìn năm. Trong những năm từ 1500 TCN
đến 1000 TCN, một vị tiên tri tên là Zoroaster (Zarathustra) đã hoạt động ở nơi
nào đó trong vùng Trung Asia. Tín ngưỡng của ông truyền từ thế hệ này sang thế
hệ sau, cho đến khi nó trở thành quan trọng nhất trong những tôn giáo nhị
nguyên – Zoroastrianism. Những tín đồ
của Zoroaster nhìn thế giới như là một trận chiến vũ trụ giữa gót thiện Ahura
Mazda và gót ác Angra Mainyu. Con người phải giúp gót thiện trong trận chiến
này. Zoroastrianism là một tôn giáo quan trọng trong triều đại Achaemenid, đế
quốc Persia (550-330 TCN) và sau này trở thành tôn giáo chính thức của đế quốc Persia,
triều đại Sassanid (AD 224-651). Nó đã gây một ảnh hưởng lớn trên hầu hết tất cả
những tôn giáo sau này ở Trung Đông và Trung Asia, và nó khởi hứng cho một số
tôn giáo nhị nguyên khác, như Gnosticism và Manichaeanism [23].
Trong những thế kỷ thứ
ba và thứ tư sau Công nguyên, tín điều Manichaean lan rộng từ Tàu đến Bắc
Africa, và trong một thời gian, đã như hiện ra rằng nó sẽ đánh bại tín ngưỡng
Kitô để được thống trị trong Đế quốc Rome. Tuy nhiên, những tín đồ Manichaean đã
bị những người Kitô chiếm mất ‘hồn’ của Rome, và đế quốc Sassanid của những tín
đồ Zoroastrian bị tràn ngập những người Muslim là những tín đồ của tôn giáo tin
chỉ một gót Islam, và tôn giáo với quan điểm nhị nguyên chìm xuống. Ngày nay,
chỉ có một số ít những cộng đồng của những người theo tôn giáo nhị nguyên còn hiện
hữu ở India và Trung Đông.
Tuy nhiên, thủy triều
đang lên của tôn giáo tin chỉ một gót đã không thực sự quét sạch quan điểm nhị
nguyên. Đạo Juda, đạo Kitô và đạo Islam tin chỉ một gót đã hấp thụ rất nhiều tin
tưởng và thực hành của tôn giáo nhị nguyên, và một số trong những ý tưởng cơ bản
nhất về những gì chúng ta gọi là ‘tin chỉ một gót’, trên thực tế, là nhị nguyên
trong nguồn gốc và tinh thần. Vô số những người Kitô, Muslim và Jew tin vào một
thế lực tà ác mạnh mẽ – giống một mà người Kitô gọi là Devil hay Satan – người
có thể hành động độc lập, chống lại Gót tốt lành, và gây tàn phá dù không có
phép của Gót.
Làm thế nào một người
theo tôn giáo tin chỉ một gót, có thể trung thành với một tin tưởng nhị nguyên
như vậy (vốn, nhân đây, là không chỗ nào tìm thấy được trong sách Thánh Cũ)? Theo
lôgích, điều đó là không thể được. Hoặc là bạn tin vào một Gót toàn năng duy nhất,
hoặc bạn tin vào hai quyền năng đối lập, không một nào trong hai là toàn năng.
Tuy nhiên, con người có một khả năng tuyệt vời để tin vào những mâu thuẫn. Vì vậy,
không là điều ngạc nhiên nếu hàng triệu người Kitô ngoan đạo, người Muslim và người
Jew đều xoay sở được để tin cùng một lúc, vừa có một Gót toàn năng lại cùng có một
Ác quỉ độc lập. Vô số những người Kitô, những người Muslim và những người Jew
đã đi quá xa theo hướng vậy đến tưởng tượng rằng ngay cả Gót tốt lành cũng còn cần
đến sự giúp đỡ của chúng ta trong cuộc đấu tranh của ông ta chống lại ác quỉ, vốn
đã khởi hứng, một trong những thứ khác, sự kêu gọi cho (những thánh chiến) jihad [24] và
những cuộc thập tự chinh.
Một khái niệm nhị
nguyên quan trọng khác, đặc biệt trong Gnosticism
và Manichaeanism, là sự phân biệt rõ
ràng giữa thân xác và hồn người, giữa vật chất và tinh thần. Những người Gnostics
và Manichaeans lập luận rằng gót tốt lành sáng tạo ra tinh thần và hồn người,
trong khi vật chất và thân xác là sự sáng tạo của gót độc ác. Con người, theo
quan điểm này, được dùng như một chiến trường giữa hồn người tốt lành và thân
xác xấu ác. Từ một quan điểm tin chỉ một gót, điều này là vô nghĩa – tại sao
phân biệt quá rạch ròi giữa thân xác và hồn người, hay vật chất và tinh thần?
Và tại sao lập luận rằng vật chất và thân xác là tà ác? Sau tất cả, tất cả mọi sự
vật việc đã được tạo ra bởi cùng một Gót tốt lành. Nhưng người theo tôn giáo
tin chỉ một gót không thể không bị quyến rũ bởi những đối nghịch nhị nguyên,
chính xác vì chúng đã giúp họ giải quyết Câu hỏi về Tà Ác. Như thế, những đối nghịch như vậy cuối cùng đã trở thành nền tảng của
tư tưởng đạo Kitô và đạo Islam. Tin tưởng vào thiên đàng (vương quốc của gót tốt)
và hoả ngục (vương quốc của gót ác) cũng có nguồn gốc nhị nguyên. Không có dấu
vết của tin tưởng này trong sách Thánh Cũ, mà nó cũng không bao giờ tuyên bố rằng
những hồn người của người ta sẽ tiếp tục sống mãi sau cái chết của thân xác.
Trong thực tế, tôn giáo
tin chỉ một gót, như nó đã diễn ra trong lịch sử, là một kính vạn hoa của những
di sản của tư tưởng tin chỉ một gót, của tư tưởng nhị nguyên, của tư tưởng tin nhiều
gót, và của tư tưởng vật linh, Hỗn độn trộn vào nhau dưới một cái dù che của một
Gót duy nhất. Người Kitô trung bình tin vào Gót của tôn giáo tin chỉ một gót,
nhưng cũng vào Ác quỉ của tôn giáo nhị nguyên, vào những thần thánh của tôn
giáo tin nhiều gót, và vào những bóng ma của tín ngưỡng vật linh. Những học giả
tôn giáo có một tên gọi cho sự công nhiên tin nhận thành thực và đồng thời này
của những ý tưởng khác biệt và ngay cả mâu thuẫn và sự kết hợp của những nghi lễ
và thực hành lấy từ nhiều nguồn khác biệt. Nó được gọi là chủ nghĩa hổ lốn [25]. Tôn giáo Hổ lốn có thể, trên thực tế, là
tôn giáo lớn duy nhất trên toàn thế giới.
Luật của Tự nhiên
Tất cả những tôn giáo,
chúng ta đã thảo luận cho đến nay, đều chia sẻ một đặc điểm quan trọng: tất cả
đều tập trung vào một tin tưởng vào những gót và những thực thể siêu nhiên
khác. Điều này có vẻ hiển nhiên đối với người phương Tây, chủ yếu là những người
đã quen thuộc với những tín ngưỡng tin chỉ một gót và tin nhiều gót. Trong thực
tế, tuy nhiên, lịch sử tôn giáo của thế giới, trong bản chất cô đọng, không chỉ
là lịch sử của những gót. Trong nghìn năm thứ nhất TCN, những tôn giáo thuộc một
loại hoàn toàn mới, đã bắt đầu lan rộng khắp Asia-Africa. Những mới đến, như đạo
Jain và đạo Phật ở India, đạo Laozi và đạo Confucius ở Tàu, và Stoicism, Cynicism và Epicureanism trong lưu vực Mediterranean, đã có đặc tính là sự làm ngơ, xem thường
hay không chú ý đến những gót.
Những tín ngưỡng này duy
trì rằng trật tự siêu nhiên chi phối thế giới là sản phẩm của những quy luật tự
nhiên chứ không phải là ý chí và những ý tưởng bất chợt của thần linh. Một số
những tôn giáo tin quy luật tự nhiên [26] này
tiếp tục tán thành sự hiện hữu của những gót, nhưng những gót của họ là đối tượng
của những quy luật tự nhiên không kém con người, động vật và thực vật. Những
gót có chỗ thích hợp của họ trong hệ sinh thái, giống như những con voi và những
nhím có chỗ của chúng, nhưng không thể thay đổi những quy luật tự nhiên hơn con
voi nếu như nó đã có thể. Một thí dụ điển hình là đạo Phật, quan trọng nhất trong
những tôn giáo tin quy luật tự nhiên sơ khai, vốn vẫn là một trong những tín
ngưỡng lớn.
Nhân vật trung tâm của đạo
Phật không phải là một gót mà là một con người, Siddhartha Gautama. Theo truyền
thống đạo Phật, Gautama là người thừa kế của một vương quốc nhỏ, vùng núi Himalaya,
vào khoảng năm 500 TCN. Vị hoàng tử trẻ này đã bị những đau khổ hiển nhiên con
người chịu đựng xung quanh ông tác động sâu xa. Ngài thấy rằng những người nam và
nữ, trẻ và già, tất cả đều đau khổ, không chỉ từ những thiên tai thường xuyên
như chiến tranh và dịch bệnh, nhưng cũng từ lo lắng, thất vọng và bất mãn, tất
cả trong số chúng dường như là phần không thể tách rời của thân phận con người.
Người ta theo đuổi giàu có và quyền lực, tiếp thu kiến thức và tài sản, sinh
con trai và gái, và dựng nhà và xây cung điện. Tuy nhiên, bất kể họ có đạt được
những gì đi và đến đâu đi nữa, họ không bao giờ được an vui sung sướng. Những
người sống trong đói nghèo mơ giàu có. Những người có một triệu muốn hai triệu.
Những người có hai triệu muốn 10 triệu. Ngay cả những người giàu có và nổi tiếng
cũng hiếm khi hài lòng. Họ cũng thế, quá bị ám ảnh bởi những bận tâm và lo lắng
không ngừng, cho đến khi bệnh tật, tuổi già và cái chết đưa đến một kết thúc
cay đắng cho họ. Tất cả mọi sự vật việc mà người ta đã tích lũy biến mất như
làn khói. Cuộc sống là một cuộc ganh đua vô nghĩa. Nhưng làm thế nào để thoát
khỏi nó?
Ở tuổi hai mươi chín,
Gautama trốn khỏi cung điện vào nửa đêm, bỏ lại đằng sau gia đình và tất cả những
gì đang có. Ngài du hành như một người không nhà, lang thang khắp miền bắc India,
tìm một lối thoát khỏi khổ đau. Ngài đã đến những ashram (đạo tràng Hindu) và ngồi dưới chân của của những guru (bậc thày tinh thần) nhưng không gì
trả lời hoàn toàn cho câu hỏi về con đường giải thoát – luôn luôn vẫn có một số
những không hài lòng tồn đọng. Không tuyệt vọng. Gautama quyết tâm tự mình tìm
hiểu về chính sự đau khổ, cho đến khi ngài tìm thấy một phương pháp dẫn đến giải
thoát hoàn toàn. Ngài đã trải qua sáu năm thiền định về bản chất, nguyên nhân
và phương pháp chữa trị cho sự thống khổ của kiếp người [27].
Cuối cùng, ngài đã đi đến nghiệm thức rằng đau khổ không phải là do bất hạnh,
không may, hay bởi bất công xã hội, hay bởi ý tưởng tuỳ tiện, ngẫu nhiên nào của
thần linh. Đúng hơn, đau khổ gây ra bởi những mô thức hành vi ứng xử của não thức
của chính mỗi người.
Thị kiến, hay cái nhìn
sâu sắc, của Gautama là rằng bất kể não thức kinh nghiệm những gì, nó thường phản
ứng với tham ái, tham ái và luôn luôn liên quan với bất mãn. Khi não thức trải
nghiệm một gì đó khó chịu, nó khao khát thoát khỏi được những ray rứt bực dọc.
Khi não thức trải nghiệm một gì đó dễ chịu, nó khao khát rằng niềm vui sẽ vẫn còn
mãi, và sẽ tăng thêm. Do đó, não thức luôn luôn không hài lòng và không ngừng
nghỉ. Điều này là rất rõ ràng khi chúng ta gặp những điều khó chịu như đau đớn.
Chừng nào vẫn tiếp tục đau, chúng ta không hài lòng và làm tất cả những gì có
thể để tránh nó. Tuy nhiên, ngay cả khi chúng ta trải nghiệm những điều thú vị,
chúng ta không bao giờ hài lòng. Hoặc chúng ta lo sợ rằng niềm vui có thể biến
mất, hoặc chúng ta hy vọng rằng nó sẽ tăng thêm. Người ta mơ ước trong hàng năm
để mong tìm thấy tình yêu, nhưng hiếm khi hài lòng khi tìm được nó. Một số trở
nên lo lắng rằng người yêu của họ sẽ bỏ đi; những người khác cảm thấy rằng họ
đã thoả thuận khá nhanh chóng dễ dãi, và đáng lẽ đã có thể tìm thấy một người
nào đó tốt hơn. Và tất cả chúng ta đều biết có những người xoay sở để làm cả
hai.
Những gót vĩ đại, những
thần linh lớn, có thể đem cho chúng ta mưa, những tổ chức xã hội có thể cung cấp
công lý và sự chăm sóc sức khỏe, và ngẫu nhiên may mắn có thể biến chúng ta
thành những triệu phú, nhưng không ai trong số họ có thể thay đổi những mô hình
não thức cơ bản của con người. Do đó, ngay cả những vị vua vĩ đại nhất cũng phải
chịu sống trong cảm giác thấp thỏm lo lắng, liên tục chạy trốn đau buồn và khổ
não, mãi mãi đuổi theo những lạc thú lớn hơn.
Gautama thấy rằng có một
cách để thoát khỏi vòng luẩn quẩn này. Nếu, khi não thức trải nghiệm một gì đó
dễ chịu hay khó chịu, nó chỉ đơn giản hiểu những sự vật việc như chúng hiện
đang là thế, thì khi đó không có đau khổ. Nếu bạn gặp buồn bã mà không bồn chồn
ao ước rằng buồn bã biến ngay đi mất, bạn tiếp tục cảm thấy buồn bã, nhưng bạn
không phải khứng chịu khổ sở như bị nó đè nặng. Có thể thực sự có sự phức tạp
đáng ngẫm nghĩ trong nỗi buồn. Nếu bạn có kinh nghiệm vui sướng mà không thèm
muốn rằng niềm vui kéo dài mãi và tăng thêm, bạn tiếp tục cảm thấy niềm vui mà
không mất đi sự bình an của não thức.
Nhưng làm thế nào để bạn
có được não thức đi đến chấp nhận những sự vật việc như chúng hiện đang là thế
mà không thèm muốn? Để chấp nhận nỗi buồn như nỗi buồn, niềm vui như niềm vui,
nỗi đau như nỗi đau? Gautama đã phát triển một tập hợp những kỹ thuật thiền định
để huấn luyện não thức trải nghiệm thực tại như nó là, với không tham ái. Những
thực hành này huấn luyện não thức suy tưởng tập trung tất cả sự chú ý của mình
vào câu hỏi, ‘Tôi đang trải nghiệm gì bây giờ?’ Hơn là ‘tôi đúng ra nên trải nghiệm gì bây giờ?”. Để đạt được
trạng thái này của não thức là điều khó khăn, nhưng không phải là không thể.
Gautama đặt vững những
kỹ thuật thiền định này vào trong một tập hợp gồm những quy tắc đạo đức đã có
nghĩa là làm mọi người có được dễ dàng hơn để tập trung vào kinh nghiệm chân thực
và để tránh rơi vào những thèm khát và những hoang tưởng. Ngài hướng dẫn cho những
người theo ngài hãy tránh sát sinh, quan hệ tình dục bừa bãi và trộm cắp, vì những
hành vi thế đó nhất thiết phải thổi bùng ngọn lửa tham ái (cho quyền lực, cho thú
vui nhục dục, hoặc cho sự giàu có). Khi những ngọn lửa đã hoàn toàn dập tắt,
thèm muốn được thay thế bởi một trạng thái thoả mãn toàn hảo và thanh thản tĩnh
lặng, được biết như nirvana (nghĩa
đen là ‘lửa tắt ngấm’). Những ai là người đã đạt được nirvana là hoàn toàn được
giải thoát khỏi tất cả đau khổ. Họ kinh nghiệm thực tại với rõ ràng đến cực điểm,
sạch hết những hoang tưởng và ảo tưởng. Trong khi họ rất có thể sẽ vẫn gặp phải
những khó chịu và đau đớn, những kinh nghiệm đó không gây cho họ đau khổ. Một
người không tham ái không thể khứng chịu đau khổ.
Theo truyền thống đạo
Phật, Gautama tự mình đạt được nirvana
và đã hoàn toàn giải thoát khỏi đau khổ. Từ đó về sau Người được gọi là ‘Phật’,
có nghĩa là ‘Người đã giác ngộ’. Đức Phật đã trải qua phần còn lại của cuộc đời
mình giải thích những khám phá của mình cho những người khác để mọi người có thể
được giải thoát khỏi đau khổ. Người thu gói giảng dạy của mình vào một luật duy
nhất: đau khổ phát sinh từ tham ái; cách duy nhất để được giải thoát hoàn toàn
khỏi đau khổ là hoàn toàn giải thoát khỏi tham ái; và cách duy nhất để được giải
thoát khỏi tham ái là huấn luyện não thức để kinh nghiệm thực tại như nó là. [28]
Luật này, được gọi là dharma hay dhamma [29], được
những người đạo Phật xem như một định luật phổ quát của thiên nhiên. Đó là “đau
khổ phát sinh từ tham ái” thì luôn luôn và ở khắp mọi nơi là đúng, cũng giống
như trong vật lý thời nay luôn luôn E = mc 2. Người theo đạo Phật là
những người tin vào luật này và làm cho nó trở thành điểm tựa của tất cả những
hoạt động của họ. Tin tưởng vào những gót, mặt khác, có tầm quan trọng thứ yếu
đối với họ. Nguyên lý đầu tiên của những tôn giáo tin chỉ một gót là ‘Gót hiện
hữu. Ngài muốn gì từ tôi?” Nguyên lý đầu tiên của đạo Phật là “đau khổ hiện hữu.
Tôi làm thế nào để thoát khỏi nó?”
Đạo Phật không phủ nhận
sự hiện hữu của những gót – họ được mô tả như những sinh linh đầy quyền năng, cũng
có thể mang lại những cơn mưa và những chiến thắng – nhưng họ không có ảnh hưởng
nào trên luật rằng sự đau khổ phát sinh từ
tham ái. Nếu não thức của một người được tự do, thoát khỏi tất cả tham ái,
không có gót nào có thể làm cho anh ta đau khổ. Ngược lại, một khi ham muốn nảy
sinh trong não thức của một người, tất cả những gót trong vũ trụ cũng không có
thể cứu anh ta khỏi đau khổ.
Tuy nhiên, giống như những
tôn giáo tin chỉ một gót, những tôn giáo tin vào luật tự nhiên, trước thời hiện
nay, giống như đạo Phật, bản thân chúng không bao giờ thực sự thoát khỏi sự thờ
phụng những gót. Đạo Phật nói với mọi người rằng họ nên nhắm vào mục tiêu cuối
cùng của sự giải thoát hoàn toàn khỏi đau khổ, hơn là ngừng dọc đường cho những
thịnh vượng kinh tế và quyền lực chính trị. Tuy nhiên, 99 phần trăm người đạo
Phật đã không đạt được nirvana, và ngay cả nếu họ có hy vọng làm được như vậy
trong một vài đời tương lai, họ đã dành phần lớn đời sống thời nay của họ để
theo đuổi sự thành tựu trần tục. Vì vậy, họ vẫn tiếp tục tôn thờ nhiều những gót
khác biệt, chẳng hạn như những gót Hindu ở India, những gót Bon ở Tibet, và những
gót Shinto ở Japan.
Thêm nữa, với thời gian
trôi qua, một số hệ phái đạo Phật phát triển những pantheons của chư Phật và Bồ Tát. Đây là những con người và những bậc
trên-con người, đã có khả năng đạt được giải thoát hoàn toàn khỏi đau khổ,
nhưng họ tạm hoãn sự giải thoát này vì lòng từ bi, ngõ hầu giúp lượng vô số những
chúng sinh vẫn còn bị vướng mắc trong đau khổ của vòng luân hồi. Thay vì thờ những
gót, nhiều người đạo Phật bắt đầu thờ những bậc giác ngộ này, cầu xin họ giúp đỡ
không chỉ trong việc đạt được nirvana,
mà còn trong việc đối ứng với những vấn đề trần tục. Như thế, chúng ta thấy nhiều
vị Phật và Bồ tát khắp khu vực Đông Asia, họ đã dành nhiều thời giờ của họ mang
mưa đến, ngừng bệnh dịch, và ngay cả chiến thắng những chiến tranh đẫm máu – để
đổi lấy những lời cầu nguyện, những hoa đầy màu sắc, trầm hương thơm và những
thực phẩm dâng cúng bằng gạo và bánh kẹo.
Sự Tôn thờ con Người
300 năm vừa qua thường
được mô tả như là một thời đại của chủ nghĩa thế tục ngày càng tăng, trong đó
những tôn giáo ngày càng mất đi tầm quan trọng của chúng. Nếu chúng ta nói về
những tôn giáo tin có gót, điều này có nhiều phần đúng. Nhưng nếu chúng ta đi
vào xem xét những tôn giáo tin luật tự nhiên, sau đó thời hiện nay quay sang thành
một thời đại của những nhiệt tình mãnh liệt tôn giáo, những nỗ lực truyền giáo chưa
từng có trong lịch sử, những cuộc chiến tranh tôn giáo đẫm máu nhất trong lịch
sử. Thời hiện nay đã chứng kiến sự nổi lên của một số tôn giáo mới tin luật tự
nhiên, chẳng hạn như chủ nghĩa Tự do, chủ nghĩa Cộng sản, chủ nghĩa Tư bản, chủ
nghĩa Dân tộc và chủ nghĩa Phát xít. Những tín điều này không thích được gọi là
những tôn giáo, và thường tự nói về chúng như những hệ ý thức, hay những chủ
nghĩa. Nhưng đây chỉ là một vấn đề ngữ nghĩa. Nếu một tôn giáo là một hệ thống những khuôn thức
và giá trị con người được thành lập dựa trên một tin tưởng vào một trật tự siêu
phàm, sau đó chủ nghĩa Cộng sản
Sôviết đã là một tôn giáo không kém đạo Islam.
Đạo Islam dĩ nhiên khác
biệt với chủ nghĩa Cộng sản, vì Islam nhìn những trật tự siêu phàm chi phối thế
giới như những lệnh truyền của một gót, hay một đấng sáng tạo toàn năng, trong
khi cộng sản Sôviet đã không tin vào những gót. Nhưng đạo Phật cũng thế, cũng rất
ít quan tâm, hay đến như không đoái hoài gì với những gót, tuy thế chúng ta vẫn
thường xếp loại nó như là một tôn giáo. Giống như người đạo Phật, những người Cộng
sản đã tin vào một trật tự siêu nhiên của quy luật tự nhiên và bất biến, vốn
cho rằng chúng nên hướng dẫn những hành động của con người. Trong khi những người
người đạo Phật tin rằng luật thiên nhiên đã được Siddhartha Gautama tìm ra, những
người Cộng sản tin luật của thiên nhiên đã được Karl Marx, Friedrich Engels và
Vladimir Ilyich Lenin tìm ra. Sự giống nhau không kết thúc ở đó. Giống như những
tôn giáo khác, chủ nghĩa Cộng sản cũng có những kinh thánh và những sách tiên
tri của nó, chẳng hạn như Das Kapital
của Marx, trong đó tiên đoán rằng lịch sử sẽ sớm kết thúc với chiến thắng tất yếu
của giai cấp vô sản. Cộng sản đã có những ngày nghỉ lễ và những hội hè của nó,
chẳng hạn như Ngày Quốc tế Lao động (ngày 1 tháng 5), và lễ kỷ niệm Cách mạng
tháng Mười. Nó có những nhà gót học tinh thông biện chứng Mác xít, và mỗi đơn vị
trong quân đội Soviết đã có một tuyên úy (như của đạo Kitô), gọi là ủy viên
chính trị, người giám sát đạo đức trung thành của những sĩ quan và binh lính.
Chủ nghĩa Cộng sản cũng có những thánh tử đạo, những thánh chiến, và những kẻ “làm
rối đạo”, chẳng hạn như nhóm Trốtkít . Cộng sản Sôviết, như thế, đã là một tôn
giáo cuồng tín và truyền giáo. Một người cộng sản thuần thành tất không thể là
một người Kitô, hay một Phật tử, và đã được kỳ vọng sẽ truyền bá “Phúc Âm” của
Marx và Lenin, dù với giá là mạng sống của chính mình.
Hình vẽ: Tôn giáo là một hệ thống những khuôn thức và giá trị con người được thành lập dựa
trên một tin tưởng vào một trật tự siêu phàm. Thuyết tương đối không phải là một tôn giáo, vì (ít nhất cho đến nay) không
có những khuôn thức và giá trị con người được thành lập
dựa trên nó. Bóng đá không phải là
một tôn giáo vì không ai lập luận rằng những luật của nó phản ảnh những sắc lệnh
siêu phàm. Đạo Islam, đạo Phật,... và chủ nghĩa Cộng sản tất cả là những tôn
giáo, vì tất cả đều là những hệ thống những khuôn thức
và giá trị con người được thành lập dựa trên tin tưởng vào một trật tự siêu
phàm. (Lưu ý sự khác biệt giữa ‘siêu
phàm và ‘siêu nhiên’. Luật trong đạo Phật về tự nhiên và những luật trong chủ
nghĩa Mác về của lịch sử là siêu phàm, không đến từ con người, vì chúng không là
những luật do con người làm ra và ban hành. Tuy nhiên, chúng không phải là siêu
nhiên, không vượt trên tự nhiên)
Một số người đọc có thể
cảm thấy rất khó chịu với dòng lý luận này. Nếu nó làm cho bạn cảm thấy dễ chịu
hơn, bạn có tự do tiếp tục gọi chủ nghĩa cộng
sản là một một hệ ý thức chứ không phải là một tôn giáo. Điều đó không làm thành
khác biệt nào. Chúng ta có thể phân chia những tín điều vào thành những tôn
giáo có trọng tâm là gót, và những hệ ý thức không tin gót vốn tự xưng đã dựa
trên những luật tự nhiên. Nhưng sau đó, để phù hợp, chúng ta sẽ cần phải thành
lập một danh sách phân loại, trong đó ít nhất là một số trường phái đạo Phật, đạo
Laozi, và trường phái khắc kỷ Stoic như những hệ tư tưởng hơn là những tôn
giáo. Ngược lại, chúng ta nên lưu ý rằng tin tưởng vào thần linh, vào gót, vẫn hiện
hữu trong nhiều những hệ tư tưởng thời nay, và một số trong số chúng, đáng chú
ý nhất Chủ nghĩa Tự do, sẽ không có ý
nghĩa nếu không có tin tưởng này.
*
Sẽ là điều không thể nào
làm được, nếu muốn khảo sát ở đây lịch sử của tất cả những tín điều mới thời
nay, đặc biệt vì giữa chúng không có ranh giới rõ ràng. Chúng cũng không kém hỗn
tạp hơn những tôn giáo tin chỉ một gót, và đạo Phật phổ thông. Cũng giống như một
người đạo Phật có thể thờ phụng những gót Hindu, và cũng giống như một người Kitô
tin chỉ một gót cũng có thể tin vào sự hiện hữu của Satan, vì vậy một người US
điển hình hiện nay, đồng thời là một người theo chủ nghĩa dân tộc (bà tin vào sự
hiện hữu của một USA và tin nó đóng một vai trò đặc biệt trong lịch sử), một người
theo chủ nghĩa tư bản thị trường tự do (bà tin rằng mở rộng thị trường cạnh
tranh, và theo đuổi những lợi ích riêng, hoặc của mình, hay của công ty, hay của
những người mua cổ phần,... là những cách tốt nhất để tạo ra một xã hội thịnh
vượng), và cũng là một người theo chủ nghĩa nhân bản tự do (bà tin rằng con người
đã được Tạo Hóa ban cho họ những quyền bất khả xâm phạm nhất định). Chủ nghĩa Dân
tộc sẽ được thảo luận trong Chương 18. Chủ nghĩa Tư bản – thành công nhất trong
những tôn giáo thời nay – được dành cả một chương, Chương 16, trong đó trình
bày chi tiết những “Đức tin” và nghi lễ chính của nó. Trong những trang còn lại
của chương này tôi sẽ bàn về những tôn giáo Nhân bản.
Những tôn giáo tin có
gót tập trung vào việc thờ phụng những gót. Những tôn giáo nhân bản thờ phụng
loài người, hay đúng hơn, thờ loài Homo
Sapiens. Chủ nghĩa nhân bản [30] là
một tin tưởng rằng Homo Sapiens có một
bản chất độc đáo và thiêng liêng, vốn cơ bản là khác biệt trong bản chất với tất
cả những loài động vật khác và với tất cả những hiện tượng khác. Những người
theo chủ nghĩa nhân bản tin rằng bản chất độc đáo của loài Homo Sapiens là điều quan trọng nhất trên thế giới, và nó xác định
ý nghĩa của tất cả mọi sự vật việc xảy ra trong vũ trụ. Tốt lành tối thượng là tốt
lành cho lợi ích của người Homo Sapiens.
Phần còn lại của thế giới và tất cả những loài sinh vật khác hiện hữu duy nhất chỉ
vì lợi ích của loài này.
Tất cả những người theo
chủ nghĩa nhân bản tôn thờ loài người, nhưng họ không đồng ý về định nghĩa của
nó. Chủ nghĩa nhân bản đã tách thành ba giáo phái đối nghịch, tranh chấp với
nhau về định nghĩa chính xác của từ “loài
người”, cũng giống như những giáo phái đối nghịch trong đạo Kitô tranh chấp
với nhau trên một định nghĩa chính xác của Gót.
Ngày nay, giáo phái nhân bản quan trọng nhất là chủ nghĩa nhân bản tự do, mà
tin rằng “tính loài người” là một phẩm tính của mỗi cá nhân con người, và rằng sự
tự do cá nhân là do đó là thiêng liêng, là bất khả xâm phạm [31].
Theo những người nhân bản tự do, bản chất thiêng liêng của loài người nằm bên
trong mỗi và mọi cá nhân Homo Sapiens.
Cốt lõi bên trong của con người cá nhân mang lại ý nghĩa cho thế giới, và là
nguồn gốc cho tất cả những thẩm quyền đạo đức và chính trị. Nếu chúng ta gặp phải
một tình trạng khó xử về đạo đức hay chính trị, chúng ta nên nhìn vào bên trong,
và lắng nghe tiếng nói bên trong của mỗi chúng ta – tiếng nói của con người. Những
lệnh truyền chính của chủ nghĩa nhân bản tự do có ý nghĩa là để bảo vệ sự tự do
của tiếng nói bên trong này, chống lại sự xâm nhập hoặc gây tổn hại. Những “lệnh
truyền” này được gọi là những quyền con người, ‘nhân quyền’.
Điều này, lấy thí dụ,
là tại sao người theo chủ nghĩa nhân bản tự do phản đối sự tra tấn và hình phạt
tử hình. Ở Europe, đầu thời hiện nay, những kẻ giết người đã bị nghĩ là vi phạm
và phá mất ổn định trật tự vũ trụ. Để mang vũ trụ trở lại cân bằng, tra tấn và
công khai xử tử người phạm tội là điều cần thiết, để mọi người có thể thấy trật
tự được tái lập. Tham dự những buổi hành quyết ghê tởm gớm ghiếc đã là một tiêu
khiển ưa chuộng để giết thì giờ rảnh rỗi của những người dân London và Paris
trong thời Shakespeare và Molière. Ở Europe ngày nay, giết người được xem như
là một sự vi phạm bản chất thiêng liêng của loài người. Để lập lại trật tự, người
Europe ngày nay không tra tấn và xử tử hình những tội phạm. Thay vào đó, họ trừng
phạt một kẻ giết người theo cách họ thấy là ‘nhân đạo’ nhất có thể được, do đó
bảo vệ và ngay cả xây dựng lại bản chất con người thiêng liêng của chính người
này. Qua cách vinh danh bản chất con người thiêng liêng của kẻ giết người, tất
cả mọi người được nhắc nhở về sự thiêng liêng của loài người, và trật tự được
khôi phục. Bằng cách bảo vệ những kẻ giết người, chúng ta làm cho đúng những gì
kẻ sát nhân đã làm sai.
Dẫu chủ nghĩa nhân bản
tự do [32] thần
thánh hóa con người, nó không phủ nhận sự hiện hữu của Gót, và trên thực tế, nó
được thành lập trên những tin tưởng tin chỉ một gót. Tin tưởng của những người
nhân bản tự do vào bản chất tự do và thiêng liêng của mỗi cá nhân, là một di sản
trực tiếp của tin tưởng truyền thống đạo Kitô vào sự tự do và vĩnh cửu của những
hồn người cá nhân. Nếu không cầu cứu ngược về hồn người vĩnh cửu và một Gót
sáng tạo, nó trở nên lung túng khó khăn cho những người nhân bản tự do để giải
thích có gì đặc biệt như thế về mỗi cá nhân Sapiens.
Một giáo phái quan trọng
khác là chủ nghĩa nhân bản xã hội. [33] Những
người tin theo chủ nghĩa nhân bản xã hội tin rằng tính ‘loài người’ là tập thể
chứ không phải chỉ cá nhân. Họ chủ trương mang tính chất thiêng liêng không phải
tiếng nói bên trong mỗi cá nhân, nhưng cả loài Homo Sapiens như một toàn thể. Trong khi chủ nghĩa nhân bản tự cố
tìm cho được càng nhiều tự do, nếu có thể được, càng tốt cho cá nhân con người,
chủ nghĩa nhân bản xã hội tìm kiếm sự bình đẳng giữa tất cả mọi người. Theo những
người nhân bản xã hội xã hội, sự bất bình đẳng là “báng bổ nghich đạo” tệ hại
nhất chống lại tính thiêng liêng của loài người, vì nó trao đặc quyền cho những
phẩm tính ngoại vi của con người thay vì cho yếu tính phổ quát của họ. Lấy thí
dụ, khi những người giàu có đặc quyền hơn người nghèo, nó có nghĩa là chúng ta
đánh giá tiền bạc cao hơn so với yếu tính phổ quát của tất cả loài người, vốn
là như nhau cho cả người giàu lẫn người nghèo.
Giống như chủ nghĩa
nhân bản tự do, chủ nghĩa nhân bản xã hội được xây dựng trên những nền tảng của
tư tưởng tin chỉ một gót. Ý tưởng rằng tất cả mọi người đều bình đẳng, là một phiên
bản cải tiến của xác quyết của những người tin chỉ một gót, rằng mọi hồn người
đều bình đẳng trước Gót. Giáo phái xã hội nhân bản duy nhất đã thực sự bỏ xa tin
tưởng tin chỉ một gót truyền thống là chủ nghĩa nhân bản tiến hóa, mà đại diện
nổi tiếng nhất của nó là chủ thuyết của đảng Nazi. Những gì phân biệt những người
Nazi với những giáo phái nhân bản khác là một định nghĩa khác biệt về “loài người”,
một định nghĩa chịu những ảnh hưởng thuyết Tiến hóa sâu xa. Ngược với những người
nhân bản khác, những người Nazi tin rằng loài người không phải là một gì đó phổ
quát và vĩnh cửu, mà là một loài có thể thay đổi, nghĩa là có thể tiến triển hoặc
thoái hóa. Con người có thể tiến hóa thành một giống cao-hơn-người (siêu nhân),
hoặc thoái hóa thành một giống thấp-hơn-người (thứ đẳng nhân). [34]
Tham vọng chính của lý
thuyết Nazi là bảo vệ loài người khỏi sự thoái hóa, và khuyến khích sự phát triển
thăng tiến của nó. Đây là lý do khiến Nazi cho rằng chủng tộc Aryan, hình thức tiến
bộ nhất của loài người, phải được bảo vệ và nuôi dưỡng, trong khi những loại
thoái hóa khác của loài Homo Sapiens
như người Jew, Roma, người đồng tính và bệnh tâm thần phải bị kiểm dịch, giữ
riêng không cho lẫn với những người khác, và ngay cả bị tiêu diệt. Nazi giải
thích rằng Homo Sapiens tự nó xuất hiện
khi một quần thể người ‘cao hơn’ của loài người thời cổ đã tiến hóa, trong khi một
quần thể người ‘thấp hơn’ như người Neanderthal đã trở thành tuyệt chủng. Những
quần thể khác biệt này lúc đầu không khác gì hơn như những chủng tộc khác biệt,
nhưng sau đó chúng đã phát triển một cách độc lập theo những con đường tiến hóa
riêng của chúng. Điều này cũng rất có thể xảy ra một lần nữa. Theo những người Nazi,
Homo Sapiens đã chia thành nhiều chủng
tộc khác biệt, mỗi chủng tộc có phẩm chất độc đáo riêng. Một trong những chủng
tộc, chủng tộc Aryan, có những phẩm chất tốt nhất – tinh thần duy lý, thể xác đẹp
đẽ, toàn vẹn chính trực, siêng năng cần mẫn. Do đó, chủng tộc Aryan có tiềm
năng để biến thành siêu nhân. Những chủng tộc khác, chẳng hạn như người Jew và
người da đen, là những người Neanderthal của thời nay, sở hữu những phẩm chất thấp
kém. Nếu để cho họ nhân giống thêm nhiều hơn,và đặc biệt để họ kết hôn lẫn lộn với
người Aryan, họ sẽ pha trộn, “thông dâm”, sẽ làm giảm giá trị của tất cả những
quần thể người, và bắt Homo Sapiens phải
chịu số phận tuyệt chủng.
Từ lâu, những nhà sinh
học đã vạch trần thuyết chủng tộc của Nazi. Đặc biệt, nghiên cứu di truyền thực
hiện sau năm 1945 đã chứng minh rằng sự khác biệt giữa những dòng giống khác nhau
của con người là nhỏ hơn rất nhiều so với những gì thuyết chủng tộc Nazi đã đưa
lên. Nhưng những kết luận này là tương đối mới. Với tình trạng của tri thức
khoa học vào năm 1933, những tin tưởng của Nazi đã hầu như không ngoài những gì
có thể được chấp nhận. Sự hiện hữu của những chủng tộc người khác nhau, ưu việt
của chủng tộc da trắng, và sự cần thiết phải bảo vệ và vun trồng chủng tộc siêu
đẳng này đã là những tin tưởng được chủ trương rộng rãi trong hầu hết giới chọn
lọc ưu tú của xã hội phương Tây. Những học giả ở những trường đại học có uy tín
nhất của phương Tây, dùng những phương pháp khoa học chính thống của thời đại,
công bố những nghiên cứu được cho là đã chứng minh rằng những thành viên của những
chủng tộc da trắng là thông minh hơn, đạo đức hơn và tài giỏi chuyên môn hơn
người Africa, hay India. Những chính trị gia ở Washington, London và Canberra nhận
như đã có sẵn rằng đó là công việc của họ để ngăn ngừa việc thông dâm, làm giảm
giá trị và thoái hóa của những chủng tộc da trắng, bằng cách, lấy thí dụ, giới
hạn di dân từ nước Tàu, hoặc ngay cả Italy đến những nước “Aryan” như USA và
Australia.
Những Tôn giáo Nhân bản – Những Tôn giáo thờ phụng Loài người
Chủ nghĩa Nhân bản Tự do
|
Chủ nghĩa Nhân bản Xã hội
|
Chủ nghĩa Nhân bản Tiến hoá
|
Homo Sapiens có một bản chất độc đáo và thiêng liêng, về
cơ bản là khác biệt với bản chất của tất cả những loài sinh vật và những hiện
tượng khác. Tốt lành tối thượng là tốt lành cho lợi ích của loài người.
|
||
‘tính
người’ thì thuộc cá nhân và ngụ bên trong mỗi cá nhân Homo Sapiens.
|
‘tính
người’ thì thuộc tập thể và ngụ bên trong loài Homo Sapiens như một
toàn thể.
|
‘tính
người’ là của loài sinh vật có thể biến đổi. Loài người có thể tiến hóa thành
loài trên-người hoặc thoái hóa thành loài dưới-người .
|
Điều
răn tối thượng là bảo vệ cốt lõi bên trong và tự do của mỗi cá nhân Homo
Sapiens.
|
Điều
răn tối thượng là bảo vệ tự do bên trong loài Homo Sapiens.
|
Điều
răn tối thượng là bảo vệ loài người không thoái hoá thành loài dưới-người và
khuyến khích sự tiến hoá của nó đến loài trên-người.
|
Những lập trường này đã
không thay đổi chỉ đơn giản vì nghiên cứu khoa học mới được công bố. Những phát
triển xã hội và chính trị đã là những động cơ mạnh hơn rất nhiều của sự thay đổi.
Trong ý hướng này, Hitler không chỉ đào mộ chôn mình, nhưng cũng còn cho cả thuyết
kỳ thị chủng tộc nói chung. Khi ông phát động chiến tranh Thế giới Thứ hai, ông
buộc những địch thủ của ông phải phân biệt rõ ràng giữa “chúng ta” và “họ”. Sau
đó, chính vì hệ ý thức Nazi đã rất kỳ thị chủng tộc, thuyết kỳ thị chủng tộc trở
nên mất uy tín ở phương Tây. Nhưng sự thay đổi cần có thời gian. Da trắng tối
thượng vẫn là một hệ tư tưởng chủ đạo trong chính trị USA ít nhất cho đến năm
1960. Chính sách của Australia da trắng giới hạn sự nhập cư của người da màu đến
Australia vẫn có hiệu lực cho đến năm 1973. Thổ dân Australia không được quyền
lợi chính trị bình đẳng cho đến những năm 1960, và hầu hết đã bị ngăn cản đi bỏ
phiếu trong những bầu cử vì họ bị xem là không xứng hợp để hành xử như những công
dân.
Hình 30. Một áp phích
tuyên truyền của Nazi cho thấy trên bên phải một “người thuần giống Aryan” và
bên trái là một người “lai giống”. Ngưỡng mộ của Nazi với cơ thể con người là
hiển nhiên, như sự lo sợ của họ rằng những chủng tộc thấp kém có thể ô nhiễm
loài người và gây nên sự thoái hóa của nó.
Nazi không thù
ghét loài người. Họ đã chiến đấu với chủ nghĩa nhân bản tự do, những quyền con
người, và chủ nghĩa cộng sản, chính là vì họ ngưỡng mộ loài người, và tin tưởng
vào tiềm năng to lớn của loài người. Nhưng theo lôgích, như họ hiểu, của thuyết
Tiến hóa của Darwin, họ biện luận rằng sự đãi lọc tự nhiên phải được phép loại
bỏ những cá nhân không thích hợp, và chỉ để những cá nhân thích hợp nhất tồn tại
và sinh sản. Qua sự trợ giúp nhũng kẻ yếu, chủ nghĩa nhân bản tự do và chủ
nghĩa cộng sản không chỉ cho phép những cá nhân không thích hợp hiện hữu, họ thực
sự đã cho những người này cơ hội để sinh sản thêm, do đó phá hoại sự chọn lọc tự
nhiên. Trong một thế giới như vậy, những con người thích hợp nhất sẽ không
tránh khỏi bị chết đuối trong một biển của những thoái hóa không thích hợp.
Loài người sẽ trở nên yếu kém hơn và ít thích ứng hơn với mỗi thế hệ đi qua – điều
có thể dẫn đến sự tuyệt chủng của chính nó.
Hình 31. Một
tranh vẽ của Nazi năm 1933. Hitler được trình bày như là một nhà điêu khắc, người
sáng tạo ra siêu nhân. Một người trí thức tự do đeo kính, kinh hoàng trước bạo
lực cần thiết để tạo ra những siêu nhân. (Lưu ý cũng tôn vinh tính khêu gợi của
thân thể con người.)
Một quyển
sách giáo khoa sinh học năm 1942 ở Germany, giải thích trong chương “Các định
luật của thiên nhiên và loài người” rằng luật tối cao của thiên nhiên là tất cả
những sinh vật bị khóa chặt trong một đấu tranh tàn nhẫn, không thương xót, cho
sự sống còn. Sau khi mô tả những thực vật đấu tranh cho đất sống như thế nào, sâu
bọ đấu tranh để tìm bạn tình như thế nào, và vv, sách giáo khoa kết luận rằng:
Cuộc chiến
cho sự sống còn thì khó khăn và không khoan nhượng, nhưng là cách duy nhất để
duy trì sự sống. Cuộc đấu tranh này giúp loại bỏ tất cả những gì là không thích
hợp với sự sống, và chọn tất cả những gì vốn có thể sống sót ... Những quy luật
tự nhiên này là không thể tranh luận; những sinh vật sống chứng minh chúng bằng
chính sự sống còn của chúng. Chúng không hề khoan nhượng. Những ai chống đối lại
chúng sẽ bị tiêu diệt. Sinh học không chỉ cho chúng ta biết về động vật và thực
vật, nhưng cũng cho chúng ta thấy luật chúng ta phải theo trong đời sống của
chúng ta, và gò thành thép cứng ý chí của chúng ta để sống và chiến đấu theo như
những luật này. Ý nghĩa của cuộc sống là đấu tranh. Khốn thay cho kẻ tội lỗi chống
lại những luật này.
Sau đó, một dẫn
chứng từ Mein Kampf: “Người nào cố gắng
chống lại lôgích sắt thép của tự nhiên, như thế là chống lại với những nguyên tắc
mà người ấy phải cảm ơn cho sự sống của mình như một con người. Để chiến đấu chống
lại bản chất tự nhiên là mang về sự huỷ hoại cho chính mình” [35]
Vào buổi
bình minh của nghìn năm thứ ba, tương lai của chủ nghĩa nhân bản tiến hóa thì
không rõ ràng. Suốt sáu mươi năm sau khi kết thúc chiến tranh chống lại Hitler,
nó là tabu để liên kết chủ nghĩa nhân bản với sự tiến hóa, và để biện hộ sự xử
dụng phương pháp sinh học để “nâng cấp” Homo
Sapiens. Nhưng ngày nay, những dự án như thế đang trở lại thịnh hành. Không
ai nói về tiêu diệt những chủng tộc thấp, hoặc những người thấp kém hơn, nhưng
nhiều chiêm nghiệm việc sử dụng kiến thức ngày càng tăng về sinh học con người
của chúng ta để tạo ra những “siêu nhân”.
Đồng thời, một
một hố sâu như vịnh biển lớn đang mở ra giữa những nguyên lý của chủ nghĩa nhân
bản tự do và những tìm kiếm được mới nhất của khoa học sự sống [36],
một hố sâu, chúng ta không thể bỏ qua lâu dài thêm hơn nữa. Những hệ thống
chính trị và tư pháp tự do của chúng ta được thành lập dựa trên tin tưởng rằng
mỗi cá nhân đều có một bản chất nội tại thiêng liêng, bất khả phân và bất biến,
vốn nó mang lại ý nghĩa cho thế giới, và nó là nguồn gốc của tất cả những thẩm quyền
đạo đức và chính trị. Đây là một hóa thân của tin tưởng truyền thống Kitô về một
hồn người tự do và vĩnh cửu, vốn cư ngụ bên trong mỗi cá nhân. Tuy nhiên, trong
hơn 200 năm qua, những khoa học sự sống đã hoàn toàn triệt phá tin tưởng này. Những
nhà khoa học nghiên cứu những hoạt động bên trong của cơ thể con người đã tìm
thấy không có hồn người ở đó. Họ ngày càng cho rằng hành vi của con người được
xác định bằng những hormones, những gene và những đầu nối hai tế bào thần kinh [37], chứ không phải bằng ý chí tự do – cùng
những năng lực xác định hành vi của loài chimpanzee, loài chó sói, và loài kiến.
Hệ thống tư pháp và chính trị của chúng ta phần lớn là cố gắng để vùi quét những
khám phá bất tiện như vậy, dấu dưới thảm lớn phủ nền nhà. Nhưng trong tất cả thẳng
thắn, chúng ta có thể duy trì bức tường phòng của khoa sinh học ngăn cách với của
khoa pháp luật và khoa chính trị trong bao lâu nữa?
13
Bí mật của sự thành công
Thương mại, những
đế quốc và những tôn giáo phổ quát, cuối cùng đã mang hầu như mỗi Sapiens trên mọi lục địa vào trong thế
giới toàn cầu chúng ta đang sống ngày nay. Quá trình mở rộng và thống nhất này
không phải là theo đường thẳng, hay không có những gián đoạn. Tuy nhiên, sau
khi nhìn vào bức tranh lớn hơn, quá trình chuyển đổi từ nhiều những văn hóa nhỏ
đến một vài những văn hóa lớn, và cuối cùng đến một xã hội toàn cầu duy nhất có
lẽ là một kết quả tất yếu của những động lực của lịch sử loài người.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Apr/2015 - đọc lại Oct/2018)
(còn tiếp ...)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Apr/2015 - đọc lại Oct/2018)
(còn tiếp ...)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] superhuman legitimate ở đây có nghĩa như trên, tác giả nhấn mạnh
superhuman: người siêu phàm, vượt trên và vượt quá khả năng
con người, nhưng không phải supernatural, vượt trên tự nhiên (siêu nhiên) – có
thể hiểu những tên như Gót, Yahweh, Giêsu, Allah, Baal, Zeus, Wotan, ... là tên
gọi những khả năng siêu phàm có sức
mạnh của siêu nhiên.
[2] the Lambs: Lamb of God (tên tự xưng của Giêsu = Agnus Dei); sách Thánh, John 1:29 – “Qua
ngày sau, John thấy Jêsus đi về phía mình, thì nói rằng: Kìa, là con chiên con
của Gót, người sẽ xoá tội cho thế gian”. Hiểu như Giêsu tự tử, hiến mạng mình
cho Gót, trên giá gỗ chữ thập, để xin Gót xoá tội cho loài người.
Gốc tích
của những tôn giáo tin-một-gót hay tin-nhiều-gót ở Trung Đông, điển hình là ba
tôn giá lớn: Juda, Kitô, Islam, xem dường bắt nguồn từ sự kiện – con người dâng
lễ hiến sinh (từ giết người đến thú vật sống theo cách thức nào đó) cho một
đấng tối cao, có tên gọi khác nhau, để đổi lấy những ân huệ, thực tiễn và cấp
bách như mưa hoà gió thuận, mùa màng tốt đẹp, hết dịch bệnh, dứt thiên tai.
Sự kiện
giết vật tế thần để cầu đảo đó đã thêu dệt thành những huyền thoại đẹp đẽ, tô
điểm thần bí thành lớp áo phủ ngoài, dấu đi nội dung trong lõi là những gì
thuộc về chết chóc, tàn ác, man rợ. Người ta chỉ thấy hình ảnh “thánh giá” cao
đẹp, nhưng quên rằng đó là dụng cụ đẫm máu người chỉ để giết người, người ta
thấy hình tượng một nhân vật có khuôn mặt đau khổ, hiểu như chịu đau khổ cho
con người, nhưng bỏ qua sự kiện, nếu con người đó là thật, những đau đớn trên
mặt, với thân xác trần trụi co rúm, là đau đớn của thịt nát, máu chảy, là đang
quằn quại dãy chết.
Như thế,
giết vật tế thần để cầu đảo đã thêu dệt thành huyền thoại, và huyền thoại đó mở
rộng đưa lên cao thành một tôn giáo tuyên xưng hứa hẹn cứu rỗi – tất cả đã
khiến người ta quên đi câu hỏi cơ bản có thể tự đặt, khi nhìn cảnh tượng chết
chóc đổ máu và đau thương đó – Câu hỏi là, một người bình thường lương thiện,
tử tế, tự trọng trong một văn hoá nhân đạo, có khứng chịu, chấp thận, hay nỡ để
một ai đó, phải chết thảm như thế trong tin tưởng là vì tội lỗi của mình, tạm
bỏ qua những câu hỏi về tội lỗi. Trừ những ai không tử tế, thiếu tự trọng và
bất lương, trong thâm sâu, ngõ ngách nào đó của cuộc đời, cũng tàn ác man rợ
như những kẻ đã giết con người tự nguyện hy sinh đó, hay con người tin là trên
cao kia, tuy toàn trí, toàn năng, toàn thiện, nhưng mong đợi một hy sinh chết
người, mong đợi một “con chiên con béo thịt”.
[3] Animism:
thuyết vật-linh hay vạn vật hữu
linh: là tin tưởng gần như tín ngưỡng rằng tât cả những sự vật trong thiên
nhiên đều có một linh hồn, hay thần tinh hay thần linh trong nó – tin tưởng
này không chỉ với sinh vật như cây cỏ, nhưng với cả những vật vô sinh, vô tri
giác như ngọn đồi, hòn đá bên đường, hay những hiện tượng thiên nhiên như giòng
sông con suối, ngọn gió, tia nắng, cơn mưa. Tin tưởng này mở rộng đi đến cho rằng
có một năng lực siêu nhiên vốn điều hành thế giới vật chất và đem sinh khí cho
nó.
(Theist, deist:
Chúng ta đã dịch marxist – là người mác-xít, vậy tôi dịch theist
là người thê-ít, và deist là người đê-ít và pantheist
là người pan-thê-ít. Gọn, giản dị, sát với gốc, và không phải vòng quanh
qua lối Tàu – còn nội dung của chúng, dĩ nhiên chúng ta phải trở về với lý thuyết
gốc của phương Tây:
Atheism: Thuyết
Không-tin-có-gót
Deism: Thuyết
Tin-gót-không-nhúng-tay;
Theism: Thuyết
Tin-có-gót hay rõ hơn Tin-gót-có-nhúng-tay.
Pantheism: Thuyết
Tin-gót-là-khắp-cả
Panentheism: Thuyết
Tin-gót-trong-khắp-cả
Animism: Thuyết
Vật-linh
Theism, Deism, Atheism: Những
thuyết tin-có-gót, như tên gọi cho rằng có một hữu thể siêu nhiên, một
gót “cá nhân”, gót có tính người, đứng ngoài thế giới này – và tác động vào thế
giới – hoặc chỉ là nguyên nhân đầu tiên: sáng tạo thế giới (Deism:
tin-gót-không-nhúng-tay), hay là cả nguyên nhân thứ hai: thống trị vận hành
thế giới (Theism: tin-gót-có-nhúng-tay). Phủ nhận Gót của cả hai – là
thuyết Không-tin-có-gót (Atheism).
Tin-gót-không-nhúng-tay
là một loại của Tin-gót-có-nhúng-tay.
Cà hai gọi chung là những thuyết Tin-có-gót. Như tên gọi, cả hai lý thuyết
đều có nội dung là tin có gót hay nhiều gót đã sáng tạo ra thế giới trong đó có
loài người. Thuyết Tin-gót-không-nhúng-tay tin rằng sau khi tạo thế
gian, gót khoanh tay đứng ngoài, không còn dính líu gì đến con người, thế gian.
Còn Tin-gót-có-nhúng-tay đi xa hơn – và là tin tưởng cũ hơn – tin rằng
tin sau khi sáng tạo thế giới, gót đã và vẫn là bàn tay đằng sau tất cả mọi
chuyện của vũ trụ và con người. Kitôity, Judaism, Islam là những tôn giáo tiêu
biểu cho tin tưởng Tin-gót-có-nhúng-tay này. Những người thành lập USA,
soạn thảo hiến pháp, đặc biệt là những tên tuổi nổi tiếng như Thomas Jefferson,
Benjamin Franklin, James Madison, Alexander Hamilton, Ethan Allen,Thomas Paine
đều là những người tin-có-gót nhưng Tin-gót-không-nhúng-tay.
Pantheism (Tin-gót-là-khắp-cả) phủ nhận
loại gót như hữu thể cá nhân, không đứng ngoài và tách biệt với thế giới – trái
lại tin rằng Vũ trụ và Tự nhiên là thiêng liêng, bí ẩn. Tính chất Siêu nhiên những
tôn giáo gán cho hữu thể gót là là khắp cả, là thế giới này, tất cả mỗi phần tử
của thế giới là biểu hiện của Siêu Nhiên; toàn thể vũ trụ, tất cả tự nhiên là
Siêu nhiên.
Hegel (1770–1831) và lý
thuyết về lịch sử như sự biểu hiện của Tinh thần Tuyệt đối, và Benedict de
Spinoza (1632–1677) và phát biểu nổi tiếng ‘Deus
sive Natura’ (‘God hay Tự nhiên’), tóm thu quan điểm của của ông đồng
nhất gót với tự nhiên.
Panentheism: Cũng tin Vũ trụ và Tự nhiên là
thiêng liêng, bí ẩn. Siêu nhiên là khắp cả, là thế giới này, nhưng cũng còn lớn
hơn thế giới này, bao trùm thế giới này.
Tôn giáo điển hình nhất
với tin tưởng này là Brahmanism – với atman trong mỗi cá nhân và Brahman
trong tổng thể vũ trụ (the belief or doctrine that God is greater than the
universe and includes and interpenetrates it.)
Polytheism: tin-nhiều-gót – và ngược lại
là – monotheism: tin-chỉ-một-gót, là những quan điểm về thừa nhận
gót, nhưng khác nhau về số lượng: tin có một, hay tin có nhiều.
Animism: thuyết vật-linh hay vạn vật
hữu linh ......như trên.
Chú
thích lấy lại từ Richard Dawkins – Huyễn Tưởng Gót bản dịch của tôi, LDB)
[4] Ragnarök thực không có nghĩa “Twilight of the
Gods: Buổi chạng vạng của những gót”;
câu đó là kết quả của một sự dchuyển dịch sai lầm nổi tiếng. “Ragnarökr” hay
“Ragnarøkr” có nghĩa là “sự huỷ diệt cuối cùng của những quyền năng” (doom of
the powers) hay “sự huỷ hoại những quyền lực” (“destruction of the powers”;
trong đó “powers” có nghĩa là những gót. Ragnarok
(“Doom of the Gods””), cũng còn gọi là Gotterdammerung, có nghĩa là sự chất dứt
củ vũ trụ trong huyền thoại Norse, sự huỷ diệt sau cùng, chết sạch cả gót lẫn
loài người.
[5] sadhus: Sadhu và swami, (sadhu cũng viết saddhu): in India, a religious ascetic or holy person. Tầng lớp
sadhus gồm những người từ bỏ tất cả, đi tu và xuất thế (renunciants) thuộc
nhiều loại tín ngưỡng. They are sometimes designated by the term swami
(Sanskrit svami, “master”), which
refers especially to an ascetic who has been initiated into a specific
religious order, such as the Ramakrishna Mission. In Shaivism the preferred
term is sannyasi, and in Vaishnavism it is vairagi. Sadhus may live together in
monasteries (mathas) that usually belong to a particular order. They may also
wander throughout the country alone or in small groups or isolate themselves in
small huts or caves. They generally take vows of poverty and celibacy and
depend on the charity of householders for their food. Their dress and ornaments
differ according to sectarian allegiances and personal tastes; they usually
wear ochre-coloured (more rarely, white) robes, and some are naked. They shave
their heads, or they allow their hair to lie matted on their shoulders or twist
it into a knot on top of their heads. They usually retain only the few
possessions they carry with them: a staff (danda), a water pot (kamandalu), an
alms bowl, prayer beads, and perhaps an extra cloth or a fire tong.
Sannyasi, (
Sanskrit: “abandoning” or “throwing down”) also spelled sannyasin, in Hinduism,
a religious ascetic who has renounced the world by performing his own funeral
and abandoning all claims to social or family standing. Sannyasis, like other
sadhus, or holy men, are not cremated but are generally buried in a seated
posture of meditation.
[6] Hinduism & Brahmanism: Brahmanism (vẫn dịch là đạo Bà la môn, hiển nhiên
là phiên âm theo Tàu) là tôn giáo cổ của India, nhưng gần đây đã xuất hiện dưới
tên gọi Hinduism (Ấn giáo): đạo Hindu. Đúng hơn, nó là tập hợp gồm những
tin tưởng và thực hành, tất cả đều rất phức tạp và khác biệt, nhưng sau cùng đều
có thể truy ngược về nguồn là một tập hợp tất cả bốn bộ gồm những thánh thư cổ
truyền thâm ảo là: Vedas, Brahmanas,
Upanishads và Sutras.
Từ ngữ Hinduism, ngày
nay được dùng để chỉ tôn giáo hay một họ những tôn giáo của những quốc
gia India, Nepal, và những người Tamils ở Sri Lanka. Khoảng thế kỷ XVIII, những
người phương Tây quan tâm với tôn giáo của India, đã ghép thành từ “Hindoo”,
đầu tiên chỉ những sắc dân sống trên tiểu lục địa India. Sau đó, “Hindu” được
chính những người India, dùng để chỉ một tập hợp gồm những tin tưởng và thực
hành tôn giáo, ít hay nhiều có liên hệ với nhau, thấy trong xứ sở của họ. Hiện
nay có hơn 1 tỉ những người theo một hình thức này hay một dạng khác của tôn
giáo đó, khiến đạo Hindu là tôn giáo lớn thứ ba trên thế giới, chỉ sau Kitô và
Islam. Nó cũng có những gốc rễ cổ xưa hơn hai tôn giáo này rất nhiều, và cũng
chắc chắn cổ xưa hơn đạo Juda.
Đạo Hindu, cũng giống
như những tôn giáo tin nhiều gót khác, có truyền thống khoan hoà. Đúng
hơn, với nhiều hình thức của nó, nó có thể được gọi là một tôn giáo tin một gót
chính, nhưng không phủ nhận những gót khác, thường cùng một gia đình,
hay cùng một gót nhưng khoác những dạng khác (henotheistic).
Hindu là một trong
những tôn giáo lâu đời nhất thế giới, có khoảng 900 triệu tín đồ, phần lớn sống
ở India, nhưng cũng có số đông ở những nước Nepal, Bangladesh, Indonesia, Sri
Lanka, và Malaysia.
Hinduism:
có thể được mô tả như đã
phát triển qua ba giai đoạn: (a) Trước-Vedas (từ khoảng 2500-1500 TCN): Một nền
văn minh phát triển mạnh trong thung lũng sông Indus, hầu hết dân chúng sống
trong những thành phố phức tạp. Đó là một xã hội mẫu quyền, tôn thờ một gót mẹ.
(b) Vedas (từ 1500 - 600 TCN): Giai đoạn này được đặt tên theo Vedas, bộ sách thánh đầu tiên của đạo
Hindu. những học giả cho rằng Vedas
được thu thập tại thời điểm này. Những nghi lễ trong giai đoạn này tập trung
vào sự cầu nguyện, những yếu tố của thiên nhiên, và sự hy sinh động vật. (c)
Upanishads (bắt đầu từ khoảng 600 TCN): Khoảng 600-200 TCN, nền văn hóa cổ xưa
của India đã thống nhất, đạo Hindu chấp nhận kinh Veda và thêm Upanishads, và
thờ phượng bắt đầu trong những đền thờ. Upanishads là những giải thích của kinh
Vedas. Upanishads chuyển trọng tâm của Hindu từ những thực hành hy sinh động vật
sang tư tưởng về bản ngã bên trong con người.
Nghi lễ (Puja): tín đồ thờ một hoặc nhiều vị gót, hình ảnh của một
vị gót được gọi là một Murti. Puja
thường diễn ra trong gia đình, nhưng cũng tiến hành trong những đền. Murti được rửa sạch và trang trí bằng
vòng hoa hoặc cánh hoa. Những tín đồ đi chân không, đánh chuông triệu hồi Murti, thắp đèn, đốt hương Một chút bột
màu đỏ được dán trên trán Murti và những tín đồ. họ dâng trái cây, đèn, hoa, hoặc
bánh kẹo cho Murti. Một chiếc đèn được
di chuyển xung quanh Murti để chỉ sự
hiện diện của Gót. Những tín đồ đặt cả hai tay trên ngọn đèn và chạm vào trán của
họ để nhận được phước lành của vị thần. Bất kỳ thực phẩm đã là phần của puja được tất cả mọi người có mặt chia
nhau hưởng.
Vòng vĩnh cửu của mọi đời sống: Trong đạo Hindu, tất cả đời sống chịu sự
chi phối của một quy luật về sinh, tử, và tái sinh, gọi là samsara (luân hồi). Nó áp dụng cho tất cả những sinh vật. Con người
có thể không được tái sinh làm người; nhưng có thể tái sinh thành những loài động
vật. Mục đích của cuộc đời theo người Hindu là để được giải thoát khỏi bánh xe
luân hồi này của đời sống. Giải thoát khỏi chu kỳ tái sinh được gọi là moksha. Theo niềm tin này, con người có
thể tái sinh trong một trạng thái của sự sống cao hơn, chuyển dần hướng lên
trên, từ kiếp này sang kiếp sau. Sự tái sinh của một người nào đó được ấn định
bởi luật nghiệp báo (law of karma), cách tốt nhất để bảo đảm có karma tốt là
làm những việc gieo nhân tốt, và tuân hành những phận sự của mình trong xã hội
(theo giai cấp của đạo Hindu), đó là tuân theo dharma (Pháp). Nếu làm ngơ dharma
sẽ gây karma xấu, và như thế tăng những cơ hội tái sinh xấu.
Brahman, Atman, và Maya là những thần linh chính trong đạo Hindu: Brahman là sức mạnh duy trì vũ trụ và là
thực tại sâu xa nhất của nó. Với Upanishads, tín ngưỡng Hindu chuyển sang tư tưởng
rằng: Ý thức đoàn kết tất cả; Tự ngã mà mọi người trải nghiệm trong tâm thức của
họ là một (thể tính) với Brahman, thực thể của vũ trụ. Brahman không thể được gọi
tên, và nhiều hình thức của những vị gót là cần thiết để biểu hiện những khía cạnh
khác nhau của Brahman. Bằng cách vượt lên trên thể xác, suy nghĩ và cảm xúc của
con người, mỗi người sẽ khám phá được tự thân đích thực, hay Atman của mình, mỗi atman là một mảnh của Brahman linh thiêng - tất cả mọi người là một
phần của thần linh. Người Hindu tin rằng khi đạt đến được nhận thức rằng tự
thân là Brahman (atman = Brahman) là đạt đến vĩnh cửu, đánh bại
cái chết trong đời sống. Nhưng những gì khiến con người không ý thức được chân
lý này? đó là những nhiễu loạn trong đời sống đưa đến những phân trí lạc hướng.
Con người thường nhìn và cảm được những cái một, hay cái Nhiều, không phải cái
Một duy nhất, vẫn thường cho rằng mỗi sự vật việc đều là khác biệt, xa lạ với
nhau, từ một (nhỏ) này sang một kia (và không là Một (lớn)), đây là một ảo giác
được gọi là Maya. Như thế, khi mọi
người nhìn thấy những sự vật việc như tách biệt với nhau, họ không nhận thức được
tính-chỉ-một linh thiêng (Brahman) của
tất cả mọi sự vật việc. Chỉ sau khi nhận ra rằng Brahman (hay atman) đều hiện
diện trong tất cả mọi người, và tất cả mọi sự vật việc, là có tự do, được giải
thoát.
Thần linh và những biểu hiện thần linh (Avatars): Người Hindu tin rằng chỉ có một Gót hay một
vị thần tối cao, hay một Hiện hữu Tối thượng. Hiện hữu Tối thượng này được biểu
hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, được gọi là những vị thần. Mỗi vị thần là
một trong rất nhiều biểu hiện khác nhau của tính thần thánh. và đại diện cho một
khía cạnh khác nhau của vị thần tối cao, hay linh hồn vĩnh cửu, Brahman. Nhiều người Hindu chủ yếu tôn
thờ chỉ một vị thần chính như Vishnu
hay Shiva, là những hình thức cao nhất
và hoàn hảo nhất của Brahman. Hầu như
tất cả những người theo đạo Hindu cũng thờ phượng và tôn vinh những vị thần
khác.
(a) Brahman là đấng
sáng tạo của vũ trụ, thường được hiển thị với bốn khuôn mặt nhìn bốn hướng. Ông
thường mặc y phục trắng và cưỡi trên một con thiên nga, hay con công, hoặc ngồi
trên tòa sen. Ông được coi là vượt trên sự thờ cúng lễ bái, do đó, có ít ngôi đền
cho ông.
(b) Vishnu:
Đấng Bảo vệ, thường mặc quần áo màu vàng với làn da màu xanh, thường được vẽ
chung với gót nữ Lakshmi, vợ
của ông, cưỡi trên lưng một con thú lớn nửa chim, nửa người. Đôi khi Vishnu xuống
thế gian trong hình dạng con người để duy trì trật tự và cứu thế giới khỏi nguy
hiểm, những hóa thân này được gọi là những biểu hiện (avatar), cho đến
nay, Vishnu đã xuất hiện trong chín avatar
khác nhau có hình dạng con người. Đặc biệt avatar thứ bảy và thứ tám của ông là
Rama và Krishna, có những cuộc phiêu lưu được kể trong sử thi nổi tiếng của
India. Avatar thứ chín của ông, theo những gười đạo Hindu, là Gautama (Phật,
người sáng lập đạo Phật). Người Hindu chờ cho avatar thứ mười, chiến binh Kalkin, người sẽ cứu thế giới thoát khỏi
áp bức.
(c) Shiva: là cả hai, vừa là đấng Huỷ diệt vừa
là đấng Cứu chuộc. Ông là vị thần của vũ
điệu của vũ trụ, là sự nguy hiểm và phá hoại, nhưng cũng là sự vui tươi và
sức mạnh sáng tạo. Ông đã phá hủy những tội lỗi của những tín đồ để dẫn họ đến
sự cứu chuộc. Shiva thường được xuất
hiện mặc một cái khố bằng da hổ, cổ quấn con rắn, và đôi khi đeo một chiếc vòng
cổ làm bằng những sọ người. Người ta nói rằng khi ông đặt chân xuống, vũ trụ sẽ
kết thúc. Tuy nhiên, với người theo đạo Hindu, kết thúc này có thể không phải
là số phận tồi tệ nhất, bởi vũ trụ phải được phá hủy để được tái tạo. Nhiều người
tin rằng chân lý cuối cùng được chứng nghiệm tốt nhất qua Shiva, vì người ta phải
nhìn vào cái Ác cũng như Thiện, cả đau và khổ cũng như cả cuộc sống và tăng trưởng.
Những gót quan trọng
khác gồm Krishna, Ganesha, Parvati,
Durga, Kali, Lakshmi, và Saraswati.
Mỗi vị này có hình tượng riêng của mình, cũng như mỗi vị liên kết với những biểu
tượng và đặc tính khác biệt.
Đạo đức: Con đường Giải thoát (ba Yoga)
Người Hindu quay
sang Bhagavad Gita để tìm hiểu làm thế
nào để đạt được mục tiêu cuối cùng của moksha,
hay sự giải thoát khỏi chu trình vĩnh cửu của sự tái sinh. Trong Bhagavad Gita, Krishna mô tả ba yoga (đường dẫn hoặc ngành) dẫn đến sự
giải thoát: kiến thức, sự tín mộ, và hành động.
(a) Con đường Tri
thức (trí tuệ): nhấn mạnh việc tìm kiếm những kiến thức tâm linh và sự thật.
Một mục tiêu là phải hiểu rằng atman và Brahman là một. Bởi vì ảo tưởng (maya)
của thế giới là mạnh mẽ, những người Hindu dùng thiền định để huấn luyện tâm
trí của họ để có thể nhìn thế giới như nó
thực là. Thiền định có nghĩa là an định và tập trung tâm trí để kiểm soát
suy nghĩ của một người. Qua đó, cho con người khả năng vượt ra ngoài, hay lên
trên hữu thức về tự ngã và tách khỏi thế giới ảo tưởng, để có thể nhìn thấy bản
chất thực sự của atman. Hai kỹ thuật thiền định thông thường là sử dụng một câu
thần chú - một từ (Ohm), cụm từ, hoặc âm thanh được lập đi lập lại, hay sử dụng
một mandala - một biểu đồ hình đĩa
tròn, đại diện cho vũ trụ hoặc tự ngã.
(b) Con đường Sùng
tín (Tình cảm): Trong con đường này, người Hindu chọn một vị thần đặc biệt và
dành trọn đời thờ phụng vị này. Họ thấy bản sắc tôn giáo của họ gắn với một vị
thần ưa thích, nhưng điều này không loại trừ tôn thờ thêm những vị thần khác.
(c) Con đường của
tạo nghiệp tốt (hành đông) Còn được gọi là karma yoga, gồm người Hindu thực hành
dharma của họ, hay nhiệm vụ, với khả năng tốt nhất của mình. Những nhiệm vụ
khác nhau cho tất cả mọi người tùy thuộc vào đẳng cấp, công việc, địa vị xã hội,
giai đoạn của cuộc sống, vv...
Những người theo
Hindu, không hành động với hy vọng được khen thưởng với karma tốt. nhưng cố gắng
hành động theo những gì dharma đòi hỏi. Con đường này nhấn mạnh kỷ luật, thực
hành nghi lễ, và những lựa chọn đạo đức.
Ngoài ta còn những
luật của Manu: là một thánh thư
Hindu, trình bày cách điều chỉnh hành động và đức hạnh. Nó chứa những hướng dẫn
để sống theo giai cấp và hành động theo nhiệm vụ. Một số chủ đề của nó là sự
quan trọng của kiên nhẫn, kỷ luật, trung thực, kiến thức, và sống theo bốn
giai đoạn của đời sống. Giai đoạn 1: học tập, (tuổi từ 7 đến 20). Tập trung vào
giáo dục tôn giáo và sẵn sàng để tìm kiếm sự thật. Giai đoạn 2: gia đình, (tuổi
từ 20 đến 50). Tập trung vào nhiệm vụ cho gia đình, nuôi dạy con cái, kiếm sống.
Giai đoạn 3: nghỉ hưu: sau khi gia đình đã đứng vững, rút lui khỏi cuộc sống trần
tục để tập trung vào vấn đề tâm linh. Giai đoạn 4: Lang thang khổ hạnh, khi sẵn
sàng. Đây là một cuộc sống thánh thiện, tách rời xã hội, không còn giữ của cải
hay trách nhiệm. những giai đoạn cuộc sống nói chung chỉ nam giới trong ba giai
cấp hàng đầu đi theo. Một người như thế, qua những giai đoạn của đời mình, và
đi đến để nhận ra rằng tất cả cuộc sống cuối cùng là ảo tưởng và mục tiêu cuối
cùng là sự giải thoát (moksha).
[7] Ganesh (Sanskrit Gaṇeśa ‘lord of the ganas’ Hầu cận của Shiva): một gót có đầu voi, con của Shiva và Parvati.
Worshiped as the remover of obstacles and patron of learning, he is usually
depicted colored red, with a potbelly and one broken tusk, riding a rat. Also
called Ganapati.
Lakshmi: gót nữ của thịnh
vượng, phú quí, tinh khiết đẹp đẽ: vợ của Vishnu. She assumes different forms
(e.g., Radha, Sita) in order to accompany her husband in his various
incarnations.
Saraswati
(Sanskrit: Sarasvatī) is the Hindu
goddess of knowledge, music, arts, wisdom and learning. Bà là một trong bộ ba:
Saraswati, Lakshmi and Parvati.
Parvati:
gót nữ hiền hậu, vợ Shiva, mẹ của Ganesh và Skanda, trái ngược với hai gót nữ
tàn ác khác, Durga và Kali, (đều là vợ Shiva)
[8] Rất tương tự như trường hợp đế quốc Đại
nam (nhà Nguyễn) và những tín đồ Kitô Việt nam, thần dân mới của vương quốc
Kitô (dân Chúa).
[9] [W. H. C. Frend, Martyrdom and Persecution in the Early
Church (Cambridge: James Clarke & Co., 2008), 536–7.]
[10] Protestanism: đạo Thệ phản (hay Phản thệ, hay đạo Tin lành);
Khi Martin Luther đóng 95 điều ông lên án hội nhà thờ Kitô, vào của nhà thờ
Wittenberg, ngày 31/Oct/1517; qua đó khởi động cuộc vận động cải cách tôn giáo
(Kitô), vẫn được gọi là ‘the Reformation’, cuối cùng đưa đến sự thành lập những
hội nhà thờ Cải cách và Thệ Phản (the Reformed and Protestant Churches),
gọi tắt là hội Nhà thờ Thệ Phản. Nguồn gốc của phong trào Cải cách quay trở lại
những tấn công, của những nhóm như Lollards (John Wycliffe,người England ) và
Hussites (John Huss, người Czech) từ thế kỷ 14, về sự giàu có và hệ thống phân
cấp của hội nhà thờ Kitô. Nhưng cuộc cải cách tôn giáo thường được coi như bắt
đầu năm 1517, khi Martin Luther đưa ra 95 luận chứng, chỉ trích lý thuyết và thực
hành của hội nhà thờ Kitô. Tại Denmark, Norway, Sweden, những xứ Saxony, Hesse,
và Brandenburg, những người ủng hộ Luther tách ra và thành lập hội nhà thờ Thệ
Phản (hội thánh Tin Lành), trong khi ở Switzerland, một phong trào riêng biệt
được Zwingli và sau đó Calvin dẫn dắt. Năm 1517, đúng hơn, nên được xem như năm
đầu tiên của 131 năm xung đột, tàn sát khốc liệt giữa những phe phái Kitô, sát
khí đằng đằng, dẫn đến sự cùng kiệt là cuộc chiến 30 năm, chấp dứt với hiệp ước
Westphalia, năm 1648.
Martin Luther phản đối những
thực hành đồi bại và tham nhũng của hội nhà thờ Kitô đương thời (do hành động của
ông, đã trở thành một thực thể nhỏ hơn, gọi là hội Nhà thờ Catô Rome –
the Roman Catholic Church – vẫn được tín đồ người Việt gọi phóng đại là “giáo hội
Công giáo Lamã”). Hành động này cũng cho những người phản đối một tên gọi: những
người Thệ phản, ngoài nhóm của Luther, còn nhóm của Calvin và Zưingli, và nhiều
nhóm nhỏ khác nữa, lần lượt họ ly khai với Vatican vì những bất đồng về giáo lý
và thực hành. Nhưng sau đó họ cũng nhanh chóng bất đồng với nhau, và bắt đầu trừng
phạt, khủng bố lẫn nhau (Những tàn ác đối với những tín đồ Anabaptist,Calvin đốt
sống Michael Servetus ở Geneva vì tranh cãi Gót ba ngôi), tất cả cân bằng với
hướng chảy của những gì mang tính tôn giáo tin chỉ một gót. Chúng ta có thể
nói, bắt đầu như những người phản đối, họ vẫn tiếp tục phản đối, phần chính là
phản đối tất cả ai nếu không là họ, và quá nhiều họ phản đối tất cả những gì vốn
đem lại cho đời sống một chút tươi vui, như khiêu vũ, phim ảnh, kịch nghệ.
Một trong những khác biệt lớn
đầu tiên giữa Catô và Thệ phản là vai trò và sự quan trọng của sách Thánh. Thệ
phản tin rằng một mình quyển sách này là nguồn gốc của chân lý do sự vén lên
cho thấy đặc biệt của Gót đối với nhân loại, và sách Thánh dạy tất cả những gì
cần thiết cho sự cứu rỗi con người khỏi tội lỗi. Thệ phản xem sách Thánh như là
tiêu chuẩn cho tất cả hành vi của người Kitô. Tin tưởng này thường được gọi là
nguyên tắc “kinh thánh là đủ” (sola scriptura). Người Catô bác bỏ sola
scriptura. Họ tin rằng cả Kinh Thánh và những truyền thống giáo lý của Catô
Rome là đều cần thiết như nhau với người Kitô. Nhiều giáo lý truyền thống Catô,
như luyện ngục, cầu nguyện với những thánh chiên, thờ phụng hay tôn kính mẹ của
Giêsu là Maria, vv, có rất ít hoặc không có cơ sở trong sách Thánh, nhưng chỉ dựa
vào truyền thống Catô.
Một bất đồng quan
trọng thứ hai, giữa Catô và Thệ phản là về ngôi vị và thẩm quyền của vua chiên.
Theo Catô, vua chiên là “Đại diện của Kitô” (Vicar of Christ), một thay thế vào
chỗ của Giêsu, là người đứng đầu hữu hình của hội nhà thờ. Như vậy, vua chiên
có khả năng nói với thẩm quyền (ex cathedra) về những vấn đề của lòng tin và thực
hành, làm cho giảng dạy của vua chiên không thể sai lầm và buộc trên tất cả những
người Kitô. Mặt khác, người Thệ phản tin rằng không có con người nào là không
thể sai lầm và rằng một mình Christ là người đứng đầu của hội nhà thờ. Catô dựa
vào kế thừa tông đồ như một cách để cố gắng thiết lập quyền của vua chiên. Thệ
phản tin rằng thẩm quyền của hội nhà thờ không đến từ người kế vị những học trò
đầu tiên của Giêsu (tông đồ), nhưng từ Lời Gót. Sức mạnh tinh thần và thẩm quyền
không còn lại trong tay của một người đơn thuần nhưng trong Lời Gót Trong khi
Catô dạy rằng chỉ có hội nhà thờ Catô mới có thể giải thích sách Thánh đúng
cách, Thệ phản tin rằng sách Thánh dạy Gót đã sai Gót Ma (Holy Spirit) đến trú
trong tất cả những tín đồ, tạo điều kiện cho tất cả những tín đồ hiểu thông điệp
của sách Thánh.
Một khác biệt lớn
thứ ba giữa Catô và Thệ phản là cách người ta được cứu rỗi. Một trong năm
nguyên tắc của Thệ phản là “Đức tin là đủ”( (sola fide), khẳng định lý thuyết sách
Thánh về sự biện minh bằng chỉ ân sủng, qua chỉ lòng tin, bởi chỉ Christ mà
thôi. Tuy nhiên, người Catô dạy rằng người Kitô phải dựa vào lòng tin cộng với
những việc làm phước thiện để được cứu rỗi.
Một khác biệt lớn
thứ tư giữa Catô và Thệ phản đã làm với những gì xảy ra sau khi chết. Cả hai
tin rằng những người không tin, ngoại đạo, sẽ sống đời đời trong hoả ngục,
nhưng có sự khác biệt đáng kể về những gì sẽ xảy ra cho những tín đồ. Từ truyền
thống hội nhà thờ của họ và không dựa vào kinh điển, người Catô đã phát triển
lý thuyết về luyện ngục. Luyện Ngục, theo Bách khoa toàn thư Catô, là một “địa
điểm hoặc điều kiện của hình phạt tạm cho những người, rời cuộc sống này trong
ân sủng của Thiên Chúa, không phải là hoàn toàn không có những lỗi nhẹ (nhưng
có thể tha thứ), hoặc vẫn chưa nhận được đủ hài lòng vì những vi phạm lỗi lầm của
họ”. Mặt khác, Thệ phản tin rằng bởi vì tín đồ được biện minh bởi một mình lòng
tin trong Chúa Kitô và sự công bình của Kitô được quy gán cho những tín đồ, sau
khi chết, họ sẽ đi thẳng đến thiên đường có sự hiện diện của Gót. Những người
Thệ phản chỉ trích lý thuyết luyện ngục là tin rằng người ta có thể và phải trả
giá cho tội lỗi của mình. Điều này dẫn đến hạ thấp về sự đầy đủ và hiệu quả của
sự chuộc tội của Christ, đã chịu chết đau thương trên giá gỗ chữ thập; nó hàm ý
rằng sự chuộc tội này của Kitô là không đủ cho tội lỗi của những người tin vào
Ngài, và ngay cả một tín đồ cũng vẫn phải trả cho tội lỗi của mình, hoặc là qua
hành vi sám hối hoặc thời gian trong luyện ngục.
[11] divinity: cho rằng Giêsu xác phàm nhưng
có gót tính
[12] Catholicism: đạo Catô, hay đúng hơn đạo Kitô Catô, là một
nhánh (trong 3 nhánh chính) của đạo Kitô, gồm những người Ki tô tuân theo những
giảng dạy và thực hành đã được ấn định thống nhất và chặt chẽ của hội Nhà thờ
Catô Rome, đứng đầu là vị vua chiên (pope), trụ sở chính là cung điện
Vatican, trong một mảnh đất nhỏ cắt ra từ nước Italy, gọi là Vatican City, một
thành phố tự trị như một vương quốc, cũng nằm trong thủ đô Rome của Italy.
“Catholic” có
nghĩa là phổ quát (đã dịch phóng đại thành “công giáo”, dù ở những quốc gia, nó
không chiếm đa số, và không được công nhận như tôn giáo chính thức của nhà nước,
một địa vị đặc biệt trong lịch sử của đế quốc Rome với hoàng đế Constantine),
và từ ngữ “Roman Catholic” cũng có thể, do đó xem là cách nói, ghép chữ có nội
dung phản nghĩa quá nhấn mạnh nếu không ngô nghê thì là xuẩn ngốc; (nếu đã phổ
quát thì không thể chỉ ở trong một địa phương như đế quốc Rome!), Nhưng Catô
Rome, hay Catô Lamã, hay Catô Rôma; có ý tuyên xưng nó là hội nhà thờ (giáo hội)
chân chính và phổ quát của hội nhà thờ Kitô, là hội gìn giữ hình thức chân
chính của đạo Kitô; nhấn mạnh rằng, từ hình thức Kitô của nó, tất cả những hội
nhà thờ khác, như Thệ Phản, Chính thống, Anglican, Nestorian....đều là những
sai lạc, lêch đường.
Hội Nhà thờ Catô
Rôma là đông đảo nhất trong tất cả những hội nhà thờ Kitô; ngày nay số tín đồ
trong những nước Âu Mỹ đã giảm nhiều, nên đạo Islam trở nên tôn giáo đông đảo
nhất trên thế giới. Tuy nhiên, đạo Catô với nỗ lực truyền giáo mạnh mẽ ở những
nước chậm tiến (Nam America, Africa, Đông Nam Asia), và giữ chặt truyền thống tỉ
lệ sinh sản cao (cấm phá, ngừa thai, liên hệ với khéo léo lôi cuốn tín đồ qua
hôn nhân), đã vẫn giữ nó ở hạng thứ hai trên thế giới. Vào cuối thể kỷ XX,
Muslim chiếm 19%, và Catô Rôma chiếm 17% dân số toàn thế giới.
Christianity: đạo Kitô: tên của tôn giáo do Paul người
thành Tarsus sáng lập, và những tín đồ của nó tôn thờ Giêsu, vị giáo chủ này được
gọi là Giêsu người thành Nazareth, người Jew sống trong xứ Palestine thời cổ. Giêsu
này đã bị những nhà cầm quyền đế quốc Rome ở Palestine, treo cổ chết bằng hình
phạt trói vào một giá gỗ chữ thập, rồi đóng đinh cả 4 bàn tay, chân vào giá gỗ,
để cho chết vì khô máu, hay ngạt thở; tương truyền là vào năm 30-35 CN, khi Giêsu
chỉ mới 30 tuổi. Đây là hình phạt crucifixion, chỉ áp dụng với những người
không phải là dân Rome, phản loạn, khủng bố hay khởi nghĩa chính trị, cách mạng
bạo động chống lại chính quyền đế quốc. Nhìn theo quan điểm của một số sử gia,
điều này khiến đưa đến nghi ngờ, phải chăng Giêsu đã là một người đứng đầu của
một nhóm người Palestine khởi động chống lại sự chiếm đóng của Rome, mặc dù nếu
có một vài giảng dạy được gán cho ông trong sách Thánh mới (gồm 4 quyển, do những
hội đồng liên tiếp của hội nhà thờ chọn lựa, và vua chiên Innocent I, thế kỷ 5,
phê chuẩn. Bốn tập sách này, có nội dung tượng tự, nhưng cũng có nhiều mâu thuẫn
về thân thế nhân vật Giêsu, được chọn lựa , có nghĩa là còn có nhều những tập
sách khác cũng kể về Giêsu nhưng bị bỏ qua, nhằm mục đích mô tả cuộc đời và giảng
dạy của Giêsu) đã ghi chép đúng thực, ông xem dường có phần là một người giống
Gandhi, hơn là giống người nô lệ nổi loạn Spartacus. Ít nhất đó là ấn tượng những
cha đẻ của hội nhà thờ, rất lâu sau biến cố nay vẫn còn bàn luận thực hư, đã muốn
lưu lại trong đầu óc những người đọc bốn tập sách này. Mặc dù những hành động
và ngôn ngữ bạo động, hung hăng hiếu chiến của ông, như tấn công những kẻ đổi
tiền ở đền thờ Jerusalem, và tuyên bố của chính ông rằng giảng dạy của ông đem
đến gươm giáo, chia rẽ nhưng không hoà bình. Điều này, ít nhất, ông đã tiên tri
đúng.
Đạo Kitô đã bắt đầu
như một giáo phái rất nhỏ của những người Jew theo đạo Juda, sau đó trở thành một
phong trào tôn giáo mạnh mẽ trong vùng Giữa và Đông của biển Mediteranean, tổng
hợp pha trộn ra từ đạo Juda, một chút của Zoroastrianism, Orphism và những ý tưởng
Greek khác, cả triết lý lẫn huyền thoại, ngày càng thêm thắt vào nhiều hơn. Đầu
tiên, nó đã là một giáo phái nhỏ bí mật, sống xót nhờ lẩn trốn chính nó nhập
đoàn và trà trộn với những người nô lệ và phụ nữ, những kẻ bị bạc đãi và hèn
kém, sống bên lề xã hội của thế giới đế quốc Rome.
Huyền thoại một người
England hùng, hay một thần linh, một gót đã chết rối sống lại thì rất phổ thông
trong kho tàng tôn giáo, huyền thoại của vùng Cận Đông. Từ những huyền thoại cổ
Egypt về thảo mộc (chết mùa đông, sống lại mùa xuân) đến những truyền thuyết về
những anh hùng, những người đi xuống âm phủ, thế giới bên dưới rồi lại trở về mặt
đất (Gilgamesh, Osiris, Orpheus, Hercules, Odysseus, Theseus...), một vài trong
số họ (như Hercules) veè sau được nâng lên địa vị thần linh, gót (apotheosis). Một trong những nội dung có
chung của những câu chuyện như thế, là nhân vật anh hùng chính là kết quả của một
phụ nữ mang thai với một gót .
(Mô thức: {cha là
gót = con là gót} + {mẹ là người=con cũng là người/sống giữa loài người} = {gót xuống làm người, sống giữa loài người}).
Zeus, thí dụ, đã
có rất nhiều con loại giống như thế, kết quả đời sống tình dục hết sức tự do, đến
luông tuồng, của ông với rất nhiều phụ nữ, gót nữ lẫn người thường, trong đó có
vô số đã là vợ người khác (Một người phụ nữ có chồng, nhưng mang thai với gót;
nghe quen thuộc?). Câu chuyện Giêsu vay mượn từ những huyền thoại truyền thống
này. Những huyền thoại về đi xuống âm phủ, như Orpheus, là nguồn gốc của một
giáo phái thần bí (Orphism) gồm những nghi lễ dẫn nhập đưa vào đạo và dẫn đạo,
không phải là không giống như những thực hành sau này thấy trong đạo Kitô.
Sự lôi cuốn và hấp
lực của đạo Kitô với giới nô lệ và phụ nữ nằm trong sức mạnh của một hứa hẹn,
giống như của Hercules được thành gót, qua niềm tin, niềm tin này thành một gì
đó được đề cao hết sức thành “Đức tin”, chỉ lòng tin tưởng tuyệt đối này mà
thôi, không cần hiểu biết, tất cả là có thể giải phóng họ (dù chỉ sau khi chết)
khỏi xiềng xích nô lệ, và ban thưởng cho họ vì sự nhẫn nhục và chịu đựng. Rất
lâu sau này, Nietzsche đã chỉ ra rằng điều này, sự thiết lập và nâng cao giá trị
cho thân phận nô lệ hoàn toàn khác, đối nghịch với quan điểm đạo đức về hành động
và thành tựu của người Greek.
Hội nhà thờ Kitô
ban đầu, thỉnh thoảng bị đàn áp trong đế quốc Rome (nguồn gốc của những “thánh
tử đạo”), vì những tín đồ nhiệt tâm sùng mộ của nó từ chối không chịu tôn trọng
tôn giáo chung của nhà nước đế quốc, vốn là bổn phận của mọi công dân. Do đó,
những tín đồ Kitô bị xem là phản loạn có ý định lật đổ chính quyền, những người
có lòng trung thành với đế quốc, lòng ái quốc bị nghi ngờ, vì họ từ chối không
tham dự vào những dịp lễ công cộng tổ chức khắp đế quốc để gắn kết công dân; và
vì những người Kitô từ chối không tin tưởng vào những gót của Rome, họ đã bị
coi là những người vô thần.
Nhưng một vài thế
kỷ sau khi hoàng đế Constantine đưa Kitô lên đị vị tôn giáo chính thức của đế
quốc Rome trong năm 312 CN, những tín đồ sùng mộ Ki tô chuyển nhiệt tâm cảu họ
sang rèn đúc và ép buộc một giáo lý chính thức độc nhất, được gọi là chính thống
nhất thể, với tất cả những “rối đạo”, “nghịch thuyết” (heresies) – nghĩa là những
cách hiểu và giải thích khác với quan điểm của họ, về cùng những vấn đề trong nội
dung giáo lý Kitô. Bản chất tự nhiên là một phong trào tôn giáo luôn tranh cãi
trong nội bộ, và có tính của những sinh vật sinh sản bằng tách đôi
(fissiparous), hội nhà thờ Kitô sớm chịu sự phân ly lớn đầu tiên, giữa Đông và
Tây: sự phân ly giữa Kitô ở Byzantine (Chính thống) và Kitô Rome vào thế kỷ
VIII. Sự phân chia lớn thứ hai, xảy ra và thế kỷ XVI, khi Martin Luther đóng
lên của nhà thờ Wittenberg, năm 1517, 95 điều phản đối hội nhà thờ Kitô Rome,
khi ấy bán những gia hạn hay đặc ân cho những người có tội nhẹ, hay chưa ăn năn
hối cải đủ, nhưng không muốn vào hoả ngục, lấy tiền mua chỗ trong chốn luyện ngục,
tạm thời, để được nhà thờ ban đặc ân, miễn hay tha tội, sau cùng, tuy muộn hơn,
nhưng cũng lên thiên đường vẫn ao ước, như những người trong sạch khác. Phản đối
này đã đưa đến sự phân ly giữa những người phản đối, Kitô Thệ phản, và những
người Kitô Catô. Những người Thệ phản tự phân thành hai cộng đồng chính: Những
người theo Luther và những người theo Calvin. Và những cộng đồng này từ đó đã
sinh sôi nảy nở thành nhiều những giáo phái hơn nữa. Đến nay, chỉ trong USA mà
thôi, đã nói có hơn 20,000 giáo phái Thệ phản khác nhau.
Sự phân ly thành hội
nhà thờ Thệ phản ở Europe, đã là nguyên nhân của hơn một thế kỷ dòng dã chiến
tranh và tàn phá khùng khiếp. Chỉ trong cuộc chiến gọi là Chiến tranh 30 Năm,
giữa 1618 và 1648, mà thôi, đã giết hại với tỉ số – cứ ba người có một người chết
– trong số những dân tộc nói tiếng German, và thúc đẩy sự di cư hàng loạt những
nhóm Kitô sang châu America và những nơi khác, tìm tự do được theo hình thức
tôn giáo họ ưa thích.
[13] St. Bartholomew’s Day
Massacre
[14] [Robert Jean
Knecht, The Rise and Fall of Renaissance
France, 1483–1610 (London: Fontana Press, 1996), 424.]
[15] Judaism: đạo Juda (hay Judah), đạo
Dothái, là một trong những truyền thống tôn giáo cổ nhất còn tồn tại trên thế
giới (thành lập khoảng 3500 trước đây ở Trung Đông) Nó có thể cạnh tranh với
Hinduism về vấn đề truyền thống nào xưa hơn. Trong tất cả mọi giải thích, nó đều
được mô tả như “tôn giáo tin chỉ một gót cổ nhất thế giới”. Nhưng thực ra nó
không là tin chỉ một gót, cho đến tận giữa nghìn năm trước công nguyên, điều
này thường ít khi nhắc đến. Nhưng bằng chứng cho sự tin tưởng vào nhiều gót, những
gót của những bộ tộc khác (mà người Jew bị cấm không được tin theo) đẫy rẫy
trong quyển sách người Ki tô gọi là sách Thánh Cũ, hay sách Thánh Cũ. Những người
Jew tin rằng Gót đã chỉ định họ như một dân tộc được Gót chọn, nhằm lập một mẫu
mực về sự thánh thiện và hành vi đạo đức cho toàn thế giới.
Gót của bộ tộc của người Jew,
theo những gì còn kể lại, xem dường như đã bắt đầu như một gót núi lửa, hiện ra
như bụi cây đang cháy trên một đỉnh núi và một cột khói bốc cao thấy từ xa.
Truyền thống của người Jew nêu rằng như một dân tộc, họ đã xuất hiện trong vùng
nằm giữa những nền văn minh lớn, một bên là vùng sông Nile, và một bên là vùng
Mesopotamia của hai con sông Tigris và Euphrates, nhưng họ đã có thời gian lâu
dài sinh sống như một giai cấp hèn kém, nô lệ ở Egypt, chắc có lẽ đã bị lôi cuốn
vào trong những dịch vụ dưới thời của một trong những triều đại pharaon uy quyền.
Lịch sử của dân tộc Jew, ngoài
những truyền thuyết kể về những trưởng tộc ban đầu như Abraham, Isaac, và
Jacob, đã bắt đầu với sự đào thoát tập thể, exodus, khỏi Egypt, do Moses
cầm đầu. Chính Moses có lẽ là người Egypt nhưng cho là có tổ tiên Hebrew, (người
mẹ Hebrew của ông, trước lệnh giết trẻ Jew của vua Egypt khi ấy, đã phải dấu
ông trong thúng, thả trên giòng Nile, sau đó may mắn được người Egypt gặp, cứu,
nuôi lớn). Sau 40 năm lang thang trong miền hoang dã, dưới sự lãnh đạo của
Moses, nhưng người Jew này đã chiếm lĩnh vùng đất gọi là Caanan, bằng những
phương sách đẫm máu, đầy những chém giết, thảm sát, những cưỡng bức nô lệ tất cả
phụ nữ và trẻ con của những bộ lạc bại trận, hay dân bản xứ ở đó. Họ đã định cư
ở vùng đất Canaan này, với 12 bộ tộc. Canaan là vùng đất, người
Jew vẫn gọi là “đất hứa” (Gót của họ hứa cho họ, trong một giao ước – gọi
là cựu ước – đến nay xem dường vẫn chưa xong, họ vẫn đang đòi lại,
trong cuộc chiến dai dẳng, lần này với người Muslim Palestine, vẫn từng sống ở
đó nghìn năm nay, sau khi những người Jew đã bỏ xứ đi phân tán, bắt đầu từ thời
đế quốc Rome), gồm Israel ngày nay, bán đảo Sinai, Tây nam của Syria và Tây của
Jordan.
Sự phát triển của
tôn giáo của người Jew thì mật thiết gắn liền với lịch sử của dân tộc Jew, vốn
họ đã xem như cùng là một với câu chuyện về sự liên hệ giữa dân tộc này và thần
linh của họ. Tự xem chính họ như đã đặc biệt được một thần linh của họ chọ lựa.
Vị thần này cuối cùng trở thành một gót, và là Gót duy nhất Yahweh [יהוה
(YHWH)], còn tất cả những thần linh khác trước đó, đều bị hạ xuống thành những
quỉ thần, và sau cùng xoá sạch sổ sách, tất cả không hiện hữu nữa!
[16] Islam: Trong tiếng Arabic, ‘Islam’ có nghĩa là ‘(khuất phục, sợ hãi
mà) qui phục, phục tùng’, ‘(tán thưởng) chấp nhận’, hay ‘(dâng nộp,) đầu hàng’,
là tên gọi một tôn giáo, thành lập vào thế kỷ thứ VII, do một nhà lãnh tụ quân
sự, chính trị và tôn giáo, tên là Muhammad. Tôn giáo này bày tỏ sự phục tùng
với một vị gót, được họ gọi là “Allāh”,
gọi tắt của “al-’ilāh” (Gót) trong tiếng Arab, và do đó tất cả tín đồ Muslim
gọi theo như thế.
Muhammad
được những tín đồ xem như một vị tiên tri, prophet, đúng hơn vị tiên tri cuối
cùng trong hàng ngũ tiên tri, bắt đầu với Adam, và gồm Abraham, Moses, Noah và Giêsu.
Những tiên tri này, thay Gót nói gì với loài người, họ tất cả chỉ có một thông
điệp duy nhất, rằng – chỉ có một gót duy nhất, gót độc nhất xứng đáng được tuân
phục, phụng sự, và tôn thờ (tawhid),
– và nhắn nhủ con người – gót đòi hỏi loài người phải làm điều tốt và tránh
điều xấu. Muhammad như người cuối cùng mang thông điệp của gót với loài người,
ông là người hoàn thành sứ mạng đó. Ông được những tín đồ – những Muslim – tên
gọi được cho là do Abraham ban cho – xem như con người hoàn hảo nhất đã từng
sống trên mặt đất. Muhammad ra đời trong thành phố Mecca, khoảng năm 570 CN,
đến năm 40 tuổi, ông cho thấy mình bắt đầu nhận được những điều thần bí, hé mở
từ sự “vén lên cho thấy” (revelation) của Gỏt, do thiên thần Gabriel mang
xuống. Như thế, nói cho đúng thực hơn, những tín đồ của Muhammad, những Muslim,
không xem ông như một giáo chủ, không xem ông như người sáng lập tôn giáo của
họ, nhưng là người phục hồi lại những đặc tính chân chính của nó. Trong suốt 23
năm sau đó, Muhammad đọc những gì từ sự vén lên cho thấy nói trên, cho những ai
là người đi theo nhưng biết viết chữ (Muhammad không biết viết). Sau khi ông
chết, những bản chép này được thu tập, thu xếp thành kinh thánh của đạo Islam,
gọi là Qur’an, hay Koran.
Qur’an dạy
rằng, ngoài việc phải tin theo chỉ một Gót, Allah; những tín đồ cũng phải tin
vào những gì chép trong Qur’an, và những thông điệp do những thiên thần của nó
chuyển đến. Nó cũng dạy rằng sẽ có một ngày phán xét cuối cùng, những người tốt
sẽ được nhận vào thiên đường hạnh phúc, còn những kẻ xấu sẽ bị tống xuống hoả
ngục, chịu thiêu đốt đời đời.
[17] legitimate: tác giả dùng với nghĩa tôi nhấn mạnh như
trên, không phải “hợp pháp”, nếu muốn nói chung, ngoài nội dung Europe, ngoài văn
hoá Graeco-Roman. Một trong những gốc Latin của nó là “legitimatus” = làm cho
hợp pháp (made legal), chỉ có nghĩa khi tôn giáo, trường hợp đạo Kitô trong đế
quốc Rome, được chính quyền thừa nhận là ‘quốc giáo’, ‘phổ quát (katholikos ‘universal’= công giáo)
[18] thánh chiên: thánh của những tín đồ (con chiên) trong
đạo Ki tô, thường viết tắt “St.” thí dụ: St. Anthony: thánh chiên Anthony (bảo
hộ của những người làm nghề đào mả nghĩa địa).
Như thế để
phân biệt với những thánh khác trong văn hoá không-Kitô, thí dụ thánh Tản Viên,
thánh Trần, Thánh Liễu hạnh, thánh Khổng, thánh Găngđi, ... Những danh vị này
dựa trên những tiêu chuẩn văn hoá, xã hội hoàn toàn khác biệt với tiêu chuẩn
đặc biệt tôn giáo của Kitô (hay Islam), nên nhân cách, tài đức, xuất xứ,... hoàn
toàn khác với những thánh chiên Kitô (trong số đó có không ít những cuồng tín, những phản bội xã hội lẫn phản quốc, quay lưng lại với đồng bào đất nước..).
[19] Hiển nhiên, tác giả mỉa mai sự kiện những
người Kitô, thực chất là tín đồ của một tín ngưỡng tin nhiều gót, đúng hơn là
quá nhiều gót trong thực hành; như hầu hết những tôn giáo khác, nhưng vẫn tự
tuyên xưng, tự cho mình theo tín ngưỡng chân chính tin chỉ một gót đích thực,
và từ lập trường đó, quay sang kỳ thị, ngược đãi, đàn áp, thực hành những thủ
đoạn khéo léo tinh vi, với nhiệt tâm chân thành, hướng đến “đổi đạo” tất cả mọi
người, bất kể họ đã là những tín đồ của những tôn giáo khác. Không những Kitô
có vô số những thánh chiên, nhưng chính Gót Kitô, với khái niệm ba đầu Gót
(Godhead/Trinity), gần đây có thêm khuynh hướng đưa vào thêm một chân dung đầy
nữ tính, đặc biệt là trinh bạch, tinh khiết, hiền từ, và đầy thương xót, hứa hẹn
yêu thương vô điều kiện của những người mẹ: Mẹ của Gót (Maria) – sự thờ phụng
những tin tưởng này, thực sự là thờ phượng nhiều Gót khác nhau, như trong những
tín ngưỡng tin-nhiều-gót khác.
[20] Dualistic
religion
[21] The Problem of
Evil
[22] free will
[23] Zoroastrianism: an Iranian religion, founded c600 b.c. by
Zoroaster, the principal beliefs of which are in the existence of a supreme
deity, Ahura Mazda, and in a cosmic struggle between a spirit of good, Spenta
Mainyu, and a spirit of evil, Angra Mainyu.
Gnosticism: a dualistic religion that offered salvation
through special knowledge (gnosis) of spiritual truth. The doctrines of various
religious sects flourishing especially in the 2nd and 3rd centuries ad in the
Near East, teaching that the material world is the imperfect creation of a
subordinate power or powers rather than of the perfect and unknowable Divine
Being, and that the soul can transcend material existence by means of esoteric
knowledge.
Manichaeanism: The
system of religious doctrines, founded in Persia in the 3rd century by Persian
prophet Mani ( c.216– c.276). It spread widely in the Roman Empire and in Asia,
and survived in eastern Turkestan (Xinjiang) until the 13th century. The system
of religious doctrines, It was based on a supposed primordial conflict between
light and darkness or goodness and evil, it also including elements of
Gnosticism, Zoroastrianism, Kitôity, Buddhism.
[24] jihad: từ Arabic jihād,
nghĩa đên ‘gắng sức, nỗ lực’) trong tư tưởng Muslim, diễn tả sự phấn đấu nhân
danh Gót và đạo Islam. Nhưng trong những biểu hiện của nó từ cuối thế kỷ vừa
qua, là những chiến tranh tôn giáo, có tính cuồng tín, quá khích, chống trả tất
cả những thế lực nào (văn hoá, chính trị, kinh tế) chống đối lại những lập
trường về văn hoá, chính trị, kinh tế của những nhà nước Islam, hay người
Muslim.
[25] Syncretism
[26] natural-law religions: tôn
giáo tin vào luật tự nhiên
[27] Vipassana Meditation: Vipassana có nghĩa là nhìn sự vật việc như chúng thực sự là, là một
trong những kỹ thuật suy tưởng của India. Đây là cơ bản của những gì đức Phật
dạy về thiền định, từ hơn 2500 trước, được xem như một chữa trị phổ quát cho
tất cả những gì phổ quát nhưng không lành mạnh.
Vẫn dịch là
quán (觀); S: vipaśyanā;
P: vipassanā. Nhưng gần đây dịch
(đúng hơn) là Thiền Minh sát, hay Tuệ
Minh sát. Theo chiều hướng những gì tác giả nói tóm lược ở trên, tôi thấy bài
giảng sau đây khai triển được cho rõ ràng hơn:
Mọi người
đều tìm an bình và hài hòa, bởi vì đây là những gì chúng ta thiếu trong đời
sống của chúng ta. Theo thời gian, tất cả chúng ta cảm thấy bứt rứt, khó chịu,
bất hòa. Và khi chúng ta khổ sở từ những khổ đau này, chúng ta không giữ chúng
cho riêng mình; chúng ta thường phân phát chúng cho những người khác. Sự thiếu
vắng hạnh phúc thấm vào không khí xung quanh một người đau khổ, và những người
tiếp xúc với một người như vậy cũng trở nên bị ảnh hưởng. Chắc chắn đây không
phải là một cách sống khéo léo, khôn ngoan.
Chúng ta phải sống
an bình với chính mình, và an bình với những người khác. Sau tất cả, con người
là sinh vật xã hội, phải sống trong xã hội và giao tiếp, làm việc, ứng xử với
nhau. Nhưng làm thế nào chúng ta có thể chung sống hòa bình? Làm thế nào chúng
ta có thể vẫn hài hòa bên trong, và duy trì an bình và hài hòa xung quanh chúng
ta, khiến những người khác cũng có thể sống an bình và hài hòa?
Để bớt được đau khổ
của chúng ta, chúng ta phải biết lý do cơ bản của nó, nguyên nhân của khổ đau.
Nếu chúng ta tìm hiểu vấn đề, nó trở nên rõ ràng rằng bất cứ khi nào chúng ta bắt
đầu tạo ra bất kỳ tiêu cực nào (những thất vọng, hay không đồng ý), hoặc không
tinh khiết (bất tịnh) nào trong não thức, chúng ta buộc phải trở nên không an
vui. Một tiêu cực trong não thức, một phiền não, hoặc không tinh khiết, không
thể cùng tồn tại với sự an bình và hài hòa.
Làm thế nào để
chúng ta bắt đầu tạo ra tiêu cực? Một lần nữa, bằng điều tra, nó trở nên rõ
ràng. Chúng ta trở nên không an vui khi chúng ta thấy một ai hành xử theo cách
mà chúng ta không thích, hoặc khi chúng ta gặp một sự vật việc xảy ra mà chúng
ta không thích. Những điều không mong muốn xảy ra và chúng ta tạo ra sự căng thẳng
nội tâm. Những điều mong muốn không xảy ra, một số trở ngại chen vào chắn lối,
và một lần nữa chúng ta tạo ra sự căng thẳng nội tâm; chúng ta bắt đầu thắt những
nút buộc bên trong chúng ta. Và trong suốt cuộc đời, những điều không mong muốn
tiếp tục xảy ra, những sự vật việc mong muốn có thể hoặc không thể xảy ra, và
quá trình phản ứng này, thắt những nút buộc – những thắt buộc không thể tháo gỡ
– làm cho toàn bộ cấu trúc tinh thần và thể chất hết sức căng thẳng, đầy phiền
não, khiến đời sống trở nên khốn khổ.
Bây giờ, một trong
những cách để giải quyết vấn đề này là sắp xếp sao cho không có gì ngoài ý muốn
xảy ra trong đời sống, rằng tất cả mọi sự vật việc vẫn tiếp tục xảy ra chính
xác như chúng ta mong muốn. Hoặc là chúng ta phải phát triển quyền năng, hoặc một
ai nào khác, người sẽ đến để trợ giúp chúng ta, phải có quyền năng này, để thấy
rằng những sự vật việc không mong muốn không xảy ra, và tất cả mọi sự vật việc
mà chúng ta muốn xảy ra. Nhưng điều này thì không thể có được. Không ai trên thế
giới có ham muốn mà luôn được mãn nguyện, không trong đời một ai lại có tất cả
mọi sự vật việc xảy ra theo như ý muốn của riêng mình, và cũng không có bất cứ
một sự vật việc nào xảy ra ngoài ý muốn. Những sự vật việc xảy ra thường thường
là trái với mong muốn và nguyện vọng của chúng ta. Vì vậy, câu hỏi đặt ra: làm
thế nào chúng ta có thể ngừng phản ứng mù quáng khi phải đối mặt với những sự vật
việc mà chúng ta không thích? Làm thế nào chúng ta có thể ngăn chặn việc tạo ra
sự căng thẳng và duy trì an bình và hài hòa?
Ở India, cũng như ở
những nước khác, những người khôn ngoan thánh thiện trong quá khứ đã nghiên cứu
vấn đề này – vấn đề đau khổ của con người và tìm thấy một giải pháp: nếu một gì
đó không mong muốn xảy ra, và bạn bắt đầu phản ứng bằng cách tạo ra tức giận, sợ
hãi hay bất kỳ phiền não nào, sau đó, càng sớm càng tốt, bạn nên chuyển hướng sự
chú ý của bạn đến một sự vật việc gì khác. Ví dụ, đứng dậy, lấy một ly nước, bắt
đầu uống – giận dữ của bạn sẽ không tăng lên; mặt khác, nó sẽ bắt đầu giảm dần.
Hoặc bắt đầu đếm: một, hai, ba, bốn. Hoặc bắt đầu lập lại một tiếng, hoặc một
câu, hoặc một vài lời thần chú, có lẽ là tên của một vị gót, hoặc một người
thánh thiện, người mà bạn có lòng sùng mộ; tâm trí được chuyển hướng, và trong
một mức độ nào đó, bạn sẽ tháo gỡ được vướng mắc của những phiền não, thoát khỏi
ràng buộc của giận dữ.
Giải pháp này thì
hữu ích; nó đã làm được việc. Nó vẫn làm được việc. Đối ứng như thế này, tâm
trí cảm thấy tự do, thoát khỏi kích động. Tuy nhiên, giải pháp thành công chỉ ở
mức độ hữu thức. Trong thực tế, bằng cách chuyển sự chú ý, bạn đẩy những phiền
não vào sâu trong vô thức, và ở đó bạn tiếp tục tạo ra và cùng một phiền não vẫn
được nhân lên. Trên bề mặt, có một lớp của sự an bình và hòa hợp, nhưng trong
sâu thẳm của não thức có một núi lửa của những phiền não bị ức chế đang ngủ, sớm
hay muộn nó có thể vỡ nổ ác liệt, phun bắn khủng khiếp.
Những nhà thám hiểm
khác về sự thật bên trong đã đi xa thêm hơn trong tìm kiếm của họ, và bằng sự
trải nghiệm những thực tại của tâm trí và vật chất bên trong chính mình, họ đã
nhìn nhận rằng qua chuyển hướng sự chú ý, chỉ là sự bỏ chạy khỏi vấn đề. Trốn
chạy không là giải pháp; bạn phải đối mặt với vấn đề. Bất cứ mỗi khi nào có
tiêu cực nảy sinh trong tâm trí, hãy chỉ quan sát nó, hãy đối mặt với nó. Ngay
khi bạn bắt đầu quan sát một tạp chất tinh thần, nó bắt đầu mất đi sức mạnh của
nó và từ từ khô héo đi.
Một giải pháp tốt;
nó tránh cả hai thái cực: đàn áp và biểu hiện. Chôn phiền não trong vô thức sẽ
không tiêu diệt nó, và cho phép nó hiển lộ như hành động vật lý hoặc ngôn ngữ
không trong sạch, thiếulành mạnh, sẽ chỉ tạo thêm nhiều vấn đề hơn nữa. Nhưng nếu
bạn chỉ quan sát, thì phiền não sẽ mất đi và bạn có được tự do, nó không nắm giữ
được bạn.
Điều này nghe tuyệt
vời, nhưng nó thực sự có thực hành được không? Thật không dễ dàng để đối mặt với
những tạp chất (bất tịnh), không trong lành của chính mình. Khi sân hận nổi
lên, nó rất nhanh chóng lấn át chúng ta khiến chúng ta thậm chí không kịp nhận
thấy. Sau đó, áp đảo bởi sự tức giận, chúng ta thực hiện những hành động về thể
chất hoặc ngôn ngữ làm hại chính mình và những người khác. Sau này, khi cơn giận
đã trôi qua, chúng ta bắt đầu khóc và hối hận, cầu xin tha thứ từ người này hay
người kia, hay từ gót này hay thần thánh nọ: “Trời ơi, tôi đã làm một sai lầm,
xin vui lòng tha thứ cho tôi!” Nhưng đến lần sau, chúng ta ở trong một tình cảnh
tương tự, chúng ta lần nữa lại phản ứng cùng một cách như cũ. Ăn năn dẫu liên tục
như thế không giúp được gì.
Sự khó khăn là
chúng ta không biết khi nào những tiêu cực bắt đầu. Nó bắt đầu sâu trong tiềm
thức, và đến khi nó đạt đến mức độ hữu thức, nó đã thêm được rất nhiều sức mạnh
khiến nó lấn áp, tràn ngập chúng ta, và chúng ta không thể quan sát nó.
Giả sử rằng tôi
thuê một người thư ký riêng, để bất cứ khi nào sân hận nổi lên, người ấy nói với
tôi, “Hãy nhìn kìa, tức giận đang bắt đầu!” Vì tự tôi không thể biết khi nào
cơn giận này sẽ bắt đầu, tôi sẽ cần phải thuê ba người thư ký riêng, làm việc
ba ca, trọn ngày 24 giờ! Hãy tạm nói rằng tôi có đủ khả năng làm việc đó, và giận
dữ bắt đầu nảy sinh. Ngay lập tức, thư ký của tôi nói với tôi, “Ồ, nhìn kìa, tức
giận đã bắt đầu!” Việc đầu tiên tôi sẽ có thể làm là quở trách họ: “Đồ ngu! Bạn
nghĩ rằng bạn được trả tiền để dạy cho tôi?” Tôi đã bị giận dữ quá áp đảo khiến
lời khuyên tốt sẽ không giúp đỡ gì.
Nhưng giả sử khôn
ngoan đã thắng thế, và tôi không trách người đó. Thay vào đó, tôi nói, “Cảm ơn
bạn rất nhiều. Bây giờ tôi phải ngồi xuống, và quan sát sự tức giận của tôi”.
Tuy nhiên, điều đó có thể có được không? Ngay sau khi tôi nhắm mắt lại và cố gắng
quan sát cơn giận, đối tượng của sự tức giận ngay lập tức đi vào tâm trí của
tôi – là người hoặc sự việc đã khởi nên giận dữ. Khi đó, tôi không quan sát bản
thân cơn giận; Tôi chỉ quan sát những kích thích bên ngoài của cảm xúc đó. Điều
này sẽ chỉ được dùng vào việc tăng giận dữ lên gấp bội, và vì thế không có giải
pháp. Điều là rất khó để quan sát tự thân bất kỳ phiền não trừu tượng nào, cảm
xúc trừu tượng nào, khó tách rời nó khỏi đối tượng bên ngoài vốn khởi đầu đã là
nguyên nhân khiến nó phát sinh.
Tuy nhiên, một người
đạt đến chân lý tối hậu đã tìm thấy một giải pháp thực sự. Ông đã khám phá rằng
bất cứ khi nào có bất kỳ một tạp chất nào phát sinh trong não thức, có hai sự vật
việc thể chất bắt đầu xảy ra cùng một lúc. Một là hơi thở mất đi nhịp điệu bình
thường của nó. Chúng ta bắt đầu thở mạnh hơn bất cứ khi nào tiêu cực đi vào não
thức. Sự việc này thì dễ dàng để quan sát. Ở một mức độ tinh vi hơn, một phản ứng
sinh hóa bắt đầu trong cơ thể, dẫn đến một số cảm giác. Mỗi tạp chất sẽ tạo ra
một số cảm giác này hay khác trong cơ thể.
Điều này trình bày
một giải pháp thiết thực. Một người bình thường không thể quan sát phiền não trừu
tượng của tâm trí – sợ hãi, tức giận hay đam mê trừu tượng. Nhưng với huấn luyện
và thực hành phù hợp; là điều rất dễ dàng để quan sát hô hấp và những cảm giác
của cơ thể, cả hai đều liên quan trực tiếp đến những ô nhiễm não thức.
Hô hấp và những cảm
giác sẽ giúp đỡ trong hai cách. Đầu tiên, chúng sẽ giống như những thư ký
riêng. Ngay sau khi một tiêu cực nảy sinh trong tâm trí, hơi thở sẽ mất nhịp
bình thường của nó; nó sẽ bắt đầu lớn tiếng, “Hãy nhìn xem, một gì đó đã đi
sai!” Và chúng ta không thể la mắng hơi thở; chúng ta phải chấp nhận cảnh cáo.
Tương tự như vậy, những cảm giác sẽ cho chúng ta biết rằng một gì đó đã sai lạc.
Khi đó, được cảnh cáo, chúng ta có thể bắt đầu quan sát hơi thở, bắt đầu quan
sát những cảm giác, và rất nhanh chóng, chúng ta thấy rằng những phiền não dần
mất dần đi.
Hiện tượng tinh thần-vật
chất này giống như một đồng xu có hai mặt. Một mặt là những suy nghĩ và những cảm
giác phát sinh trong não thức, mặt kia là hơi thở và những cảm giác trong cơ thể.
Bất kỳ suy nghĩ hay cảm giác, bất kỳ tạp chất tinh thần nào phát sinh, đều tự
biểu hiện chúng trong hơi thở và những cảm giác ở thời điểm đó. Như vậy, bằng
cách quan sát hơi thở hoặc những cảm giác, chúng ta trong thực tế đang quan sát
phiền não. Thay vì chạy trốn khỏi vấn đề, chúng ta đang đối mặt với thực tại
như nó là. Kết quả là, chúng ta khám phá rằng những tạp chất này bị mất sức mạnh
của chúng; chúng thôi không còn chế ngự chúng ta như chúng đã làm trong quá khứ.
Nếu chúng ta kiên trì, cuối cùng chúng biến mất hoàn toàn, và chúng ta bắt đầu
sống một đời sống an bình và hạnh phúc, một đời sống ngày càng tự do, thoát khỏi
những tiêu cực.
Bằng cách này, những
kỹ thuật tự quan sát cho chúng ta thấy thực tại ở hai phương diện của nó, bên
trong và bên ngoài. Trước đây chúng ta chỉ nhìn ra bên ngoài, thiếu sự thật bên
trong. Chúng ta luôn luôn nhìn ra bên ngoài tìm nguyên nhân của sự không an vui
của chúng ta; chúng ta luôn luôn đổ lỗi cho, và cố gắng để thay đổi thực tại
bên ngoài. Không biết được thực tại bên trong, chúng ta không bao giờ hiểu rằng
nguyên nhân của đau khổ nằm bên trong, trong những phản ứng mù quáng của chúng
ta với những cảm giác dễ chịu và khó chịu.
Bây giờ, với tập
luyện, chúng ta có thể nhìn thấy phía bên kia của đồng xu. Chúng ta có thể nhận
thức được hơi thở của chúng ta và cũng là của những gì đang xảy ra bên trong. Bất
cứ nó là gì, hơi thở hay cảm giác, chúng ta học để chỉ quan sát nó mà không làm
tinh thần chúng ta mất cân bằng. Chúng ta ngừng phản ứng và thôi không nhân lên
đau khổ của chúng ta. Thay vào đó, chúng ta cho phép những phiền não biểu lộ và
qua đi.
Một người thực
hành kỹ thuật này càng nhiều, những tiêu cực sẽ tan rã càng nhanh chóng hơn. Dần
dần não thức trở nên miễn nhiễm ô trọc, trở nên tinh khiết. Một tâm trí thanh tịnh
thì luôn luôn đầy yêu thương – tình yêu vị tha với tất cả những người khác, đầy
lòng từ bi với những thiếu sót và những đau khổ của người khác, tràn đầy niềm
vui trước sự thành công và hạnh phúc của họ, hoàn toàn bình thản khi đối mặt với
mọi tình cảnh.
Khi một người đạt
đến giai đoạn này, toàn bộ mô hình của đời sống người ấy sẽ thay đổi. Nó không
còn có thể làm bất cứ điều gì hoặc bằng lời nói hoặc thân xác vốn sẽ làm nhiễu
loạn sự bình an và hạnh phúc của người khác. Thay vào đó, một não thức quân
bình không chỉ trở nên an bình, nhưng bầu không khí xung quanh cũng trở nên
tràn ngập với an bình và hòa hợp, và điều này sẽ bắt đầu ảnh hưởng đến những
người khác, cũng giúp đỡ những người khác nữa.
Bằng cách học tập
để giữ cân bằng khi đối mặt với tất cả mọi sự vật việc được kinh nghiệm bên
trong, một người cũng phát triển được sự tách rời, cũng vô tư hướng về tất cả
những gì người ấy gặp phải trong những tình cảnh bên ngoài nữa. Tuy nhiên, sự
tách rời này không phải là chạy trốn, hay thờ ơ với những vấn đề của thế giới.
Những người thường xuyên luyện tập Vipassana trở nên nhạy cảm hơn với những đau
khổ của người khác, và làm hết sức mình để giảm bớt đau khổ trong bất cứ cách
nào họ có thể làm được – không phải với bất kỳ kích động nào, nhưng với một tâm
trí đầy yêu thương, từ bi và bình thản. Họ học được sự bàng quan trong sạch –
làm thế nào để hoàn toàn cam kết, hoàn toàn tham gia vào việc giúp đỡ những người
khác, trong khi đồng thời duy trì sự cân bằng của tâm trí. Bằng cách này, họ vẫn
an bình và hạnh phúc, trong khi làm việc cho an bình và hạnh phúc của người
khác.
Đây là những gì đức
Phật đã dạy: một nghệ thuật sống.
Ngài không bao giờ đã thành lập, hoặc đã dạy một tôn giáo nào, một chủ thuyết
(“ism”) bất kỳ nào. Ngài đã không bao giờ hướng dẫn những người đến với ngài để
thực hành bất kỳ một tập tục tín ngưỡng, hay trình tự nghi lễ, hay bất kỳ một
qui cách hình thức trống rỗng nào. Thay vào đó, Ngài đã dạy họ chỉ hãy quan sát
tự nhiên như nó là, bằng cách quan sát thực tại bên trong chính mình. Thoát ra
từ vô minh, chúng ta vẫn tiếp tục phản ứng theo những cách vốn làm hại chính
mình và những người khác. Nhưng khi trí tuệ phát sinh – trí tuệ khôn ngoan của
sự quan sát thực tại như nó là, – thói quen của phản ứng này giảm đi. Khi chúng
ta ngưng phản ứng mù quáng, khi đó chúng ta có khả năng hành động thực sự –
hành động từ một não thức quân bình, một tâm trí vốn nhìn thấy và hiểu được sự
thật. Hành động như vậy chỉ có thể là tích cực, sáng tạo, hữu ích cho mình và
cho người khác.
Những gì cần thiết,
khi đó, là để “biết chính mình” – lời khuyên mà mọi người khôn ngoan đều đã đưa
ra. Chúng ta phải biết chính mình, không chỉ về mặt trí tuệ trong lĩnh vực tư
tưởng và lý thuyết, và không chỉ theo cảm xúc hay sùng mộ tín điều tôn giáo, vốn
chỉ giản dị là chấp nhận mù quáng những gì chúng ta đã nghe hoặc đọc. Kiến thức
như thế là chưa đủ. Đúng hơn, chúng ta phải hiểu biết thực tại qua kinh nghiệm.
Chúng ta phải trải nghiệm trực tiếp thực tại của hiện tượng tinh thần-vật chất
(sự sống) này. Chỉ riêng điều này thôi, là những gì sẽ giúp chúng ta thoát khỏi
đau khổ của chúng ta.
Kinh nghiệm trực
tiếp này về thực tại bên trong của riêng chúng ta, kỹ thuật tự quan sát này, là
những gì được gọi là sự suy nghĩ sâu xa và tập trung (hay suy niệm, hay thiền định) Vipassana. Trong ngôn ngữ India, thời đức
Phật, passana có nghĩa là nhìn thấy
trong cách thức thông thường, với mắt mở của một người mở mắt; nhưng vipassana là quan sát những sự vật việc
như chúng thực sự là, không chỉ như chúng xem dường hiện ra là. Rõ ràng là khi
tìm kiếm sự thật phải đi vào trong sâu xa hơn, cho đến khi chúng ta đạt đến sự
thật cuối cùng của toàn bộ cấu trúc tâm sinh lý-vật lý này. Khi chúng ta kinh
nghiệm được sự thật này, khi đó chúng ta học được cách ngừng phản ứng mù quáng,
để ngăn chặn tạo ra những tiêu cực – và tự nhiên những cái cũ dần bị hủy diệt.
Chúng ta trở nên giải thoát khỏi đau khổ và kinh nghiệm được hạnh phúc chân thực.
Có ba bước trong
luyện tập được đưa ra trong một khóa thiền định. Trước tiên, người ta phải
tránh những hành động, thể chất hay lời nói, vốn quấy trộn an bình và hòa hợp của
những người khác. Người ta không thể làm việc để giải phóng bản thân khỏi những
tạp chất của tâm trí, trong khi đồng thời tiếp tục thực hiện những tác động của
cơ thể và lời nói vốn chỉ nhân chúng tăng lên. Do đó, một giới luật đạo đức là
bước thiết yếu đầu tiên của sự thực tập. Một người cam kết không giết hại,
không trộm cắp, không tà dâm, không nói dối, và không dùng những chất kích
thích độc hại. Bằng cách kiêng cữ những hành động như vậy, một người để cho tâm
trí đủ im lặng để tiến xa hơn.
Bước tiếp theo là
phát triển một vài hiểu biết thành thạo trên não thức hoang dại này, bằng cách
huấn luyện nó để vẫn giữ cố định trên một đối tượng duy nhất, là hơi thở. Một
người cố gắng giữ sự chú tâm của mình vào hơi thở càng lâu càng tốt. Đây không
phải là một bài tập về thở; một người không điều chỉnh hơi thở. Thay vào đó,
người ta quan sát hơi thở tự nhiên như nó là, như nó đi vào, như nó đi ra. Bằng
cách này, người ta càng làm dịu não thức thêm nhiều hơn; để nó không còn bị áp
đảo bởi những tiêu cực dữ dội. Đồng thời, người ta đang tập trung tâm trí, làm
cho nó sắc bén và đi sâu, có khả năng làm việc cho cái nhìn sâu sắc.
Hai bước đầu tiên,
sống một đời sống đạo đức, và kiểm soát tâm trí, là rất cần thiết và có lợi
trong bản thân chúng, nhưng chúng sẽ dẫn đến sự ức chế những tiêu cực, trừ khi
một người tiến hành bước thứ ba: tẩy sạch tâm thức của những phiền não bằng
cách phát triển cái nhìn sâu sắc vào bản chất của chính mình. Đây là Vipassana: trải nghiệm thực tại của
chính mình bằng cách quan sát có hệ thống và vô tư bên trong chính mình về hiện
tượng tâm thức-vật chất luôn thay đổi, biểu hiện chính nó như những cảm giác.
Đây là một đỉnh cao trong giảng dạy của đức Phật: tự thanh lọc bằng tự quan sát.
Nó có thể được thực
hành bởi mỗi người và tất cả mọi người. Mọi người đều phải đối mặt với vấn đề
khổ đau. Nó là một căn bệnh phổ quát vốn đòi hỏi một phương thuốc phổ quát....
Căn bệnh là phổ quát. biện pháp khắc phục cũng phải là phổ quát.
Vipassana là một
phương thuốc như thế. Không ai phản đối một bộ luật về đời sống trong đó tôn trọng
an bình và hòa hợp của những người khác. Không ai phản đối việc phát triển sự
kiểm soát tâm trí. Không ai phản đối việc phát triển cái nhìn sâu sắc vào bản
chất của chính mình, qua đó có thể giải thoát cho não thức khỏi những tiêu cực.
Vipassana là một con đường phổ quát.
Quan sát thực tại
như nó là bằng cách quan sát sự thật bên trong – đây là tự biết mình trực tiếp
và bằng kinh nghiệm. Khi một người thực hành, người ấy tự giải phóng mình khỏi
những đau khổ của phiền não. Từ sự thật thô thiển, lộ liễu phóng lớn bên ngoài,
một người thâm nhập vào chân lý tối hậu của tâm trí và vật chất. Khi đó, một
người siêu vượt điều đó, và kinh nghiệm một sự thật vốn vượt quá não thức và vật
chất, vượt quá thời gian và không gian, vượt ngoài những lĩnh vực tương đối vẫn
chịu những điều kiện: chân lý của sự giải thoát hoàn toàn khỏi mọi phiền não,
khỏi tất cả những tạp chất, bất tịnh, khỏi tất cả khổ đau. Dù tên gọi nào người
ta gán cho chân lý tối hậu này thì không quan trọng; nó là mục tiêu cuối cùng của
tất cả mọi người.
Tất cả có thể trải
nghiệm chân lý tối hậu này. Tất cả có thể được tự do, thoát khỏi ràng buộc của
khổ đau. Tất cả có thể được hưởng an bình thực sự, hài hòa thực sự, hạnh phúc
thực sự.
(Bài giảng của ông
S.N. Goenka, người đang dạy Vipassana ở phương Tây, ở Berne, Switzerland)
[28] tham ái: (Sankit: tṛṣṇā; Pali: taṇhā);
nghĩa là “ham muốn”, “sự thèm khát” (craving) thường được phiên dịch là “ái”,
hay “ái dục”, – kinh Pháp cú, phẩm Tham ái, câu 335/336: “Ai sống trong đời
này, Bị tham ái ràng buộc, Sầu khổ sẽ tăng trưởng, Như cỏ Bi gặp mưa. Ai sống
trong đời này, Tham ái được hàng phục, Sầu rơi khỏi người ấy, Như nước trên lá
sen.”.
[29] Dharma (Sanskrit dharma, Pali dhamma): có
nhiều nghĩa, ở đây tác giả dùng với nghĩa những giảng dạy của đức Phật như một
sự khai triển của Luật Tự nhiên, ứng dụng vào câu hỏi về khổ đau của con người.
Dhamma là một khái niệm cơ bản, có nhiều nghĩa khác nhau trong tư tưởng India, đặc
biệt trong những đạo Hindu, đạo Phật, và đạo Jain. Trong đạo Hindu, dharma là luật tôn giáo và đạo đức, dẫn
đạo hành xử cho mỗi cá nhân, và là một rong bốn đích đi đến sau cùng của đời sống
(Dharma, Artha, Kama, Moksha).
Trong đạo Phật, dharma là học thuyết, là chân lý phổ
quát chung cho tất cả mọi người, mọi thời, đã được đức Phật xiển dương. Do dó,
đức Phật, dharma, và Sangha (Phật, Pháp, và tăng đoàn) làm thành Triratna (Tam
bảo) cho những tín đồ qui hướng và tin theo.Trong siêu hình học của triết học đạo
Phật, dharmas (số nhiều) là vạn pháp:
tạm hiểu từ dùng chỉ tất cả những gì hữu hình, và vô hình (ý tưởng), chúng như
những thành tố dựa vào nhau, tạo thành thế giới thực nghiệm, hiện thực gồm những
hiện tượng này (như trong “vạn pháp giai không”). Trong triết học đạo Jain, dharma còn có nghĩa – đặc biệt chỉ với
tư tưởng đạo Jain – là một thực thể thường tại, vĩnh cửu (dravya) – như một “môi trường”, trong đó những hữu thể có thể di
chuyển.
Buddhism: Trong nghĩa nguyên thuỷ, những gì được gọi dưới tên Buddhism là một hệ thống
triết học, do một nhân vật lịch sử, sống vào khoảng giữa thế kỷ thứ 6 TCN, có
tên là Siddharta Gautama, Siddartha
Gautama là con của vị Rajah (tiểu vương)
thuộc bộ tộc Sakya của thành Kapilavastu, một nước nhỏ ở bắc India, nay là
Nepal. Nhiều học giả có nhận xét rằng, trong cốt lõi của nó, Buddhism là một
triết học, hơn là một tôn giáo, trong ý hướng quan trọng và nổi bật, vượt trên
tất cả, ở tận cùng, nó hoàn toàn không vướng bận với thần linh, gót, hay những
gì siêu nhiên, nhất là những quyền năng siêu nhiên.Trong nhiều thế kỷ tiếp sau,
nó đã dần chuyển biến vào trong nhiều những dạng thức khác nhau, và hầu hết những
dạng thức này, từ triết học thuần tuý, sang triết học thực hành, sang tín ngưỡng,
thành tôn giáo; hầu hết chúng đều được làm đầy thêm với những yếu tố triết học
đến từ bên ngoài, hay tôn giáo địa phương; trong đó có thêm những yếu tố siêu
phàm của những tôn giáo địa phương (điển hình như Mật tông, của đạo Phật
Tibet).
Triết học
(phylosophy), như chúng ta đều biết, xuất phát từ “philo” (tình yêu) và “sophia”(trí
tuệ). Vì vậy, một trong những định nghĩa nguyên thuỷ, trở về với gốc Greek của
nó, triết học có nghĩa là “yêu sự khôn ngoan” hay cũng có thể mở rộng là “tình
yêu và sự khôn ngoan”, như thế cả hai nghĩa mô tả Buddhism một cách hoàn hảo. Đạo
Phật dạy rằng chúng ta nên cố gắng phát triển khả năng trí tuệ của chúng ta đầy
đủ để chúng ta có thể thấu hiểu nhữ sự vật việc quanh ta cho thật rõ ràng. Nó
cũng dạy chúng ta phát triển tình thương, hay lòng từ bi để chúng ta có thể là
một người bạn thật sự của tất cả mọi loài chúng sinh. Như vậy Phật giáo là một
triết học, theo như ý nghĩa của từ “philosophy”.
Từ ngữ “Buddhism”
có lẽ đến từ “budhi” nghĩa là “tỉnh thức’, và hiểu như thế Buddhism là triết học
về, hay của, sự tỉnh thức (the philosophy of awakening). Triết học này có gốc từ
kinh nghiệm sống thực của một triết gia thực, Gotama, nay được gọi là Phật, hay
Bụt, hay Buddha. Từ Buddha cũng vậy, có nghĩa là “ người tỉnh thức”, hiểu như
“đã tỉnh thức với thực tại”.
Từ ngữ “Buddhism”,
ngày nay dịch là đạo Phật, hay Phật giáo, thực ra một từ mới của phương Tây
(các học giảngười England và những nhà truyền giáo Kitô) đặt ra và dùng để chỉ
những gì ở phương Đông vẫn xem như Buddha-dharma
(Phật pháp) hoặc Dharma Vinaya (Pháp,
Luật, và Tạng). Như vậy, Buddhism có thể hiểu như cả hai: (a) hệ thống triết học
phân tích, hay những giảng dạy của đức Phật (ghi lại trong Sutta Pitaka – kinh tạng Pali) về những nguyên nhân của đau khổ
(Pali: pariyatti) và (b) tiến trình
hành động cần thiết cần được thực hiện để tháo gỡ những nguyên nhân này (Pali: patipatti). Tiến trình hành động nầy gồm
việc cư xử, ăn ở, sống một đời ngay thẳng đạo đức, tránh những hành vi gây quả
xấu (ác) và thực hiện những những hành vi gây quả tốt (thiện). Một lối sống như
vậy vừa giữ một người tránh khỏi những lối sống mê lầm, nguy hại, và theo thời
gian cũng thanh lọc dần bất kỳ nhơ bẩn nào đem lại bởi những hành vi vụng về
(gây quả xấu) trong quá khứ. Như thế, trong đạo Phật, thường gọi là “con đường
thanh tẩy” (Pali: Visuddhimagga – Thanh Tịnh Đạo). Nhìn theo nội dung triết học
ứng dụng phương Tây, có thể được xem như một hệ thống (tâm lý/đạo đức học) ứng
dụng về sức khỏe tâm thần tự nhiên và hạnh phúc. Giống như những tôn giáo khác
của Ấn Độ, điểm cuối của con đường này, sự hoàn thành cuối cùng trong việc tháo
gỡ tất cả những nguyên nhân nội tại của đau khổ, là sự giải thoát cuối cùng (Moksha). Trong đạo Pật, Điều này đi kèm,
trước hết, với một sự bình an sâu xa của não thức, gọi là nirvana.
Đó là nội dung,
như tác giả trình bày trong chương này.
[30] Humanism: chủ nghĩa nhân
bản (人本) hiểu như lấy con người, loài người làm gốc hay
điểm khởi đầu (người Tàu dịch là nhân đạo chủ nghĩa – 人道主义).
Chủ nghĩa, hay tư tưởng nhân bản là một gia đình, một tập
hợp những quan điểm đặt cơ bản trên một đoan quyết, cam kết với ý tưởng rằng đạo
đức, luân lý và chính sách, chủ nghĩa trong xã hội phải dựa trên sự hiểu biết tốt
nhất về bản chất con người, và điều kiện sống (thân phận) con người. Nó là một
quan tâm để đưa ra những gì tốt đẹp nhất, và làm những gì tốt đẹp nhất, từ đời
sống con người, và cho đời sống con người, trong khuôn khổ hiện thực, trong
khung thực tại – chiều không và thời gian – của đời sống của một người, một cá
nhân. Và tất cả trong thuận hợp, đồng tình với những sự kiện thực tế của loài
người hiện có trên mặt đất này. Hệ luận hiển nhiên của quan tâm này là nó gạt bỏ
tất cả những quan điểm siêu việt, tuyên xưng dựa vào quyền năng siêu nhiên, từ
trước đến nay vẫn có, về nguồn gốc của những giá trị nhân văn và đạo đức, đặc
biệt là của những tôn giáo tin có gót, hay tin chỉ một gót.
Giải thích như thế, để thấy humanism là một quan điểm/lập trường nhân bản, lấy gốc là con người,
nhưng đó cũng là một điểm khởi hành, không phải là một khối ý tưởng tạo thành một
chủ nghĩa, (hay một “tôn giáo”, hay tín điều mới, như Hariri gọi), đã hoàn tất.
Và thực sự, cho đến nay vần còn rất nhiều bàn cãi với câu hỏi, thí dụ – tốt đẹp
của/của con người là gì? và làm sao để đạt được, thực hiện được tốt đẹp đó?
Nhìn như thế, chủ nghĩa nhân bản là một hành trình, tìm
kiếm để hoàn thiện; nếu gọi nó là một tôn giáo, hay tín điều, nó là tôn giáo,
hay tín điều, nhưng không có những giáo điều khô cứng, gốc ngoài con người nhưng
áp đặt vào con người.
[31] sacrosant: (Latin sacrosanctus, = sacro ‘by a sacred rite’ (sacrum) + sanctus ‘holy.’)
[32] liberal humanism
[33] socialist humanism
[34] Sinh học là khoa học, không phải ý thức hệ. nhưng với thuyết tiến hóa, thật
dễ dàng để, vô tình hay cố ý, bị lẫn lộn. Với thuyết tiến hóa của ông bởi sự chọn
lọc tự nhiên, Charles Darwin đem một số quan sát đơn giản và biến chúng, uốn nắn
một cách rộng rãi, thành một tường thuật về lịch sử thế giới, Khi làm như vậy,
ông đã đặt lý thuyết của ông chen giữa những chuyện kể vĩ đại khác – trong đó
có những câu chuyện sáng tạo của sách Thánh Hebrew, biện chứng lịch sử của chủ
nghĩa Marx, và những huyền thoại, ảo tưởng lớn về những quốc gia độc tài toàn
trị. Trong những năm qua, những người ủng hộ và những người gièm pha Darwin đã
thường kết buộc lý thuyết của ông với những chuyện kể bao trùm xa rộng này.
Ngay cả trong những ngày đầu của On the
Origin of Species, thuyết tiến hóa đã bị những đầu óc kinh thánh tấn công.
Dù chống chủ nghĩa Mác xít hay theo chủ nghĩa Marx cũng như nhau, gồm cả bản
thân Karl Marx – đã cố gắng nối nhà khoa học England với chủ nghĩa Cộng sản.
Và, đặc biệt là trong những năm gần đây, một số những ngòi bút theo thuyết sáng
tạo đã cố gắng vẽ một đường thẳng từ Darwin tới tại tập trung Dachau. Một câu
chuyện của những cạnh tranh giữa những loài, đó là sự cạnh tranh tàn bạo và khốc
liệt, giành chiếm nguồn lực, tài nguyên giữa những cá nhân của những loài sinh
vật khác nhau, lịch sử cảu sự hãy-để-kẻ-thắng-được-tất-cả: Như thế, chủ nghĩa
Nazi xem dường có trong nó, ít nhiều lý thuyết của Darwin, phải không? Những
tác giả theo thuyết thiết kế thông minh, một thuyết sáng tạo trá hình mới, đã cố
gắng để biến giống nhau đó vào trong một quan hệ nhân quả. Những tác giả này lập
luận rằng thuyết tiến hóa đã thúc đẩy hành động của Hitler, cung cấp cho ông sự
biện minh ông cần để phát triển một thứ đạo đức xoắn. mục tiêu của những người
theo thuyết tin chỉ một gót, trước sự công phá của thuyết tiến hoá, đã cố gắng
“ đánh bại chủ nghĩa duy vật khoa học, và những di sản đạo đức, văn hóa, chính
trị có tính “phá hoại” của nó, Và kết nối giữa Darwin và Hitler là một phần của
chiến dịch tuyên truyền lớn hơn nhiều: đó là học thuyết Darwin hỗ trợ chủ nghĩa
duy vật, và rằng chủ nghĩa duy vật làm xói mòn truyền thống đạo Kitô, và hỗ trợ
tất cả những tệ nạn xã hội, với Hitler như trường hợp điển hình. Trong khi đó,
đối với những người tìm kiếm để xây dựng một nền đạo đức mà không có một vị
gót, hoặc để duy trì một thế giới quan duy vật – với họ, gót, thần linh, hay
quyền năng siêu việt đều không cần thiết (và phi lý, không thực) – như thế,
Darwin hiển nhiên là một đồng minh của họ. Giữa những trận chiến ý thức hệ,
tranh cãi con tư tưởng, ngay cả những người tán thành, điều dễ dàng xảy là quên
rằng thuyết tiến hóa của Darwin là một ý tưởng cụ thể, phát triển trong một thời
gian cụ thể, của một con người cụ thể.
Sinh học tiến hóa
ngày nay đã vượt quá xa Darwin của On the
Origin of Species (1859) và The
Descent of Man (1871), và tin tưởng của Darwin về Tự nhiên, dẫu gì đi nữa
(khi còn trẻ, cha ông đã muốn ông trở thành một thày chăn chiên Anglican, nhưng
lúc chết, ông là một người hoài nghi, theo thuyết không thể biết), không thay đổi
được thực tại tiến hoá, không thay đổi được Tự nhiên thực sự hoạt động như thế
nào.
Hitler, hay những
“tín đồ” của đảng Nazi, có theo thuyết tiến hoá của Darwin không? Hitler không
phải là một người thích đọc Darwin. Sự kết nối chủ yếu là hạn hẹp, chỉ lớp
ngoài. Hitler nhắc đến thuyết tiến hóa của Darwin, chỉ hai lần. Một lần là ngẫu
nhiên, lần kia là để phủ nhận bất kỳ một khái niệm nào cho rằng con người có
nguồn gốc từ những động vật hạ đẳng. Trong Mein
Kampf, Hitler không hề đề cập đến Darwin, cũng không nhắc đến Ernst
Haeckel, người đã phổ biến học thuyết tiến hóa ở Germany. Những nhà sử học cố gắng
liên kết Darwin và Hitler đã đôi khi dịch từ “Entwicklung”, thường xuất hiện trong Mein Kampf, là “tiến hóa”. Đó là một cách dịch sai lạc, từ đó, có
nghĩa thường là “phát triển”, và trong nửa sau thế kỷ XIX, nó ít khi dùng để chỉ
thuyết Darwin. Đúng, Darwin đã có một số khái niệm về một hệ thống phân cấp chủng
tộc, và về cạnh tranh giữa những loài, và sự thay đổi của những loài theo thời
gian. Nhưng hệ thống phân biệt chủng tộc là phổ biến trong số những nhà tư tưởng
thế kỷ XIX, và ý tưởng về động vật và con người thay đổi theo thời gian đã có
trước Darwin (đó là sự tiến hóa bởi chọn lọc tự nhiên mà Darwin đã tiên phong,
không phải ý tưởng rằng những loài có thể thay đổi). Cũng không phải là rõ ràng
tại sao thuyết ưu sinh (eugenics) – vốn
Darwin đã không phát triển, chủ yếu là thực hành sự lai giống áp dụng cho con
người, không thấy đâu trong Darwin. Ảnh hưởng khoa học (đúng hơn, giả-khoa học,
pseudoscientific) về lý thuyết chính
trị chủng tộc của Hitler là Houston Stewart Chamberlain, và Chamberlain là một
người chống Darwin công khai. Cuối cùng, chúng ta vẫn không thể thấy gì rõ
ràng, về Hitler có được những ảo tưởng của ông, một lập trường mờ ảo, phủ lớp
sương mù huyền bí, về “tính Germany” (Deutschtum) và “chủng tộc” Germany của
ông như thế nào, vốn không thể nào có thể hiểu như một quan điểm duy vật, nhưng
có nhiều phần gần gũi với tư tưởng Kitô (những huy hiệu của Nazi dùng rất nhiều
dấu hiệu Kitô). Hitler là một người có tham vọng thống trị thế giới, thuyết tiến
hóa bởi chọn lọc tự nhiên có thể chứa vài nội dung hấp dẫn nhìn theo chiều hướng
đó, thống trị thế giới; kẻ thích ứng nhất với môi trướng sống, kẻ mạnh nhất
trong môi trường nhân văn chính trị, sẽ thắng trong lịch sử. Lý thuyết Nazi nói
nhiều về chuyện tái tạo, phục hồi những gì thiêng liêng đã mất. Một chủng tộc,
một giòng giống cổ xưa đã bị đè nén, bị một vài chủng tộc hèn kém khác làm ô
nhiễm, thế nên, nó cần phải được làm cho vinh quang trở lại. Hitler là một câu
chuyện của phục hồi sự tinh khiết – không phải là câu chuyện về sự chuyển đổi
(tiến hoá) một gì đó thấp lên cao, nhưng một gì đó cũ có tốt đẹp bị che dấu,
thành một gì đó mới có tốt đẹp đó đươc khôi phục. Những người Nazi đã nhiều
quan tâm hơn trong việc tìm kiếm nơi phát nguyên đã mất tích, của giống Aryan,
đâu đó trên cao nguyên Tibet (và trong thực tế đã gửi một đoàn thám hiểm để làm
như vậy) hơn là việc truy tìm nguồn gốc của họ từ loài động vật khác. Những ý
tưởng cốt lõi của học thuyết Darwin, nói cách khác, không đi đôi với những ý tưởng
trung tâm của lý thuyết Nazi.
[35] [Marie Harm and
Hermann Wiehle, Lebenskunde fuer
Mittelschulen – Fuenfter Teil. Klasse 5 fuer Jungen (Halle: Hermann
Schroedel Verlag, 1942), 152–7.]
[36] Life sciences:
Học về ‘sự sống’ không phải ‘đời sống’. Khoa
học Sự sống chủ yếu nghiên cứu tất cả mọi loại của những gì có sự sống (all types of living things) -
[học về không có sự sống là Physical science, và học về những sinh hoạt của đời
sống (=sự sống như tiến trình trong
thời gian) và những ứng xử trong đời sống là Social Science (history,
economics, etc., dealing with an aspect of society or forms of social
activity.)]
[37] hormones, genes, synapses