Sapiens: A Brief History of Humankind
Yuval Noah Harari
Sapiens: một Lịch sử Ngắn gọn của loài Người
11
Những Tầm nhìn đế quốc
Cuối cùng, năm 134 TCN, sự kiên nhẫn của Rome đã gãy. Thượng viện Rome quyết định gửi Scipio Aemilianus, vị tướng lãnh lỗi lạc nhất của Rome, người đã san bằng Carthage, để đối phó với những dân thành Numantia. Ông được giao cho một đội quân khổng lồ, gồm hơn 30.000 binh sĩ. Scipio, người đã kính trọng tinh thần chiến đấu và bản lĩnh chiến trận của dân Numantia, đã chọn không để phí sinh mạng những người lính của mình trong cuộc đấu sức không cần thiết. Thay vào đó, ông bao vây Numantia với một đường ranh gồm những công sự, chặn liên lạc của thị trấn với thế giới bên ngoài. Đói đã làm công việc của nó cho ông. Sau hơn một năm, thực phẩm dự trữ đã hết. Khi những người Numantia nhận ra rằng tất cả hy vọng đã mất, họ đốt cháy thị trấn của họ; theo những ghi chép của Rome, hầu hết họ đã tự sát, để không thành những nô lệ của Rome.
Trong khu chợ thời Trung cổ ở Samarkand, một thành phố xây dựng ở một ốc
đảo Trung Asia, những nhà buôn Syria vuốt tay họ trên lụa Tàu mịn, những người bộ
lạc hung tợn từ những đồng cỏ trưng bày lớp nô lệ đầu tóc bù rối mới nhất từ vùng
xa phương Tây, và những chủ tiệm bỏ túi những đồng tiền kim loại sáng bóng có
in những chữ kỳ lạ và những khuôn mặt của những vị vua xa lạ.
Những người Rome thời cổ
đã quen với thua trận. Giống như những người cai trị của hầu hết những đế quốc lớn
trong lịch sử, họ có thể thua trận đánh này đến trận đánh kia, nhưng vẫn thắng cả
cuộc chiến tranh. Một đế quốc nếu không thể vẫn đứng vững sau khi hứng chịu một
cú đánh, thì không thực sự là một đế quốc. Thế nhưng, ngay cả những người Rome cũng
thấy khó nuốt trôi được những tin tức đến từ phía Bắc bán đảo Iberia, giữa thế
kỷ thứ hai TCN. Một thị trấn nhỏ miền núi, tầm thường không đáng kể, tên là
Numantia, nơi sinh sống của những người dân bản xứ của bán đảo này, những người
Celt, đã dám ném bỏ ách thống trị của Rome. Vào thời điểm đó, Rome là người chủ
không ai dám thách thức của toàn bộ lưu vực vùng biển Mediterranean, sau khi
đánh bại những đế quốc Macedonia và Seleucid, chinh phục những nhà nước-thành
phố tự hào của Greece, và biến Carthage thành một hoang địa đang còn cháy âm ỉ.
Những người thành Numantia không có gì về phía họ, ngoài tình yêu mãnh liệt của
họ với tự do và mảnh đất có địa hình khắc nghiệt của họ. Thế nhưng, họ buộc
đoàn lính viễn chinh này đến đoàn kia phải đầu hàng, hay rút lui trong nhục nhã.
Cuối cùng, năm 134 TCN, sự kiên nhẫn của Rome đã gãy. Thượng viện Rome quyết định gửi Scipio Aemilianus, vị tướng lãnh lỗi lạc nhất của Rome, người đã san bằng Carthage, để đối phó với những dân thành Numantia. Ông được giao cho một đội quân khổng lồ, gồm hơn 30.000 binh sĩ. Scipio, người đã kính trọng tinh thần chiến đấu và bản lĩnh chiến trận của dân Numantia, đã chọn không để phí sinh mạng những người lính của mình trong cuộc đấu sức không cần thiết. Thay vào đó, ông bao vây Numantia với một đường ranh gồm những công sự, chặn liên lạc của thị trấn với thế giới bên ngoài. Đói đã làm công việc của nó cho ông. Sau hơn một năm, thực phẩm dự trữ đã hết. Khi những người Numantia nhận ra rằng tất cả hy vọng đã mất, họ đốt cháy thị trấn của họ; theo những ghi chép của Rome, hầu hết họ đã tự sát, để không thành những nô lệ của Rome.
Numantia sau này trở
thành một biểu tượng của sự độc lập và dũng cảm của Spain. Miguel de Cervantes,
tác giả của Don Quixote, đã viết một bi kịch mang tên Trận Vây hãm Numantia, kết thúc với sự hủy diệt của thị trấn, nhưng
cũng với một viễn cảnh về sự vĩ đại trong tương lai của Spain. Những nhà thơ
sáng tác những bài tụng ca về những người chống trả quyết liệt, và những họa sĩ
đã thực hiện những mô tả hùng vĩ của cuộc vây hãm này lên khung vải. Năm 1882,
di tích của nó đã được công bố là một “lăng mộ tưởng niệm quốc gia” và trở
thành một địa điểm hành hương của những người yêu nước Spain. Trong những năm
1950 và 1960, những sách truyện vẽ, nổi tiếng nhất ở Spain, đã không nói về Superman và Spiderman – nhưng chúng kể về những phiêu lưu của El Jabato, một
anh hùng tưởng tượng người Iberia thời cổ, người đã chiến đấu chống lại những kẻ
áp bức đến từ Rome. Những người Numantia thời cổ, cho đến ngày nay là những mẫu
mực lý tưởng của chủ nghĩa anh hùng và chủ nghĩa yêu nước của Spain, đóng vai
trò như những khuôn mẫu cho những người trẻ của đất nước này.
Tuy nhiên, những người
yêu nước Spain ca tụng những người thành Numantia trong tiếng Spain – một ngôn ngữ thuộc nhóm romance [1], vốn
là một hậu duệ của tiếng Latin của Scipio. Những người Numantia nói một thứ ngôn
ngữ Celtic bây giờ đã chết và bị mất. Cervantes đã viết Trận Vây hãm Numantia, bằng chữ viết Latin, và vở kịch đi theo mô
hình nghệ thuật của Greek-Rome. Numantia đã không có kịch nghệ, không có nhà
hát. Những người Spain yêu nước, người ngưỡng mộ chủ nghĩa anh hùng Numantia
cũng có khuynh hướng là những tín đồ trung thành của hội Nhà thờ Catô Rome – dừng
bỏ lỡ từ thứ hai – một hội Nhà thờ mà lãnh tụ của nó vẫn ngồi ở Rome, và có Gót
của nó thích được nói đến, hay viết về, bằng tiếng Latin. Tương tự như vậy,
pháp luật Spain thời nay bắt nguồn từ pháp luật Rome; chính trị của Spain được
xây dựng trên những nền tảng của Rome; và ẩm thực và kiến trúc Spain nợ một
món nợ còn lớn hơn với những di sản của Rome, hơn với của những người Celt của
Iberia. Không có gì thực sự còn lại từ Numantia, ngoại trừ những di tích hoang
phế. Ngay cả câu chuyện của nó đã đến với chúng ta chỉ nhờ vào những tác phẩm của
những nhà viết sử của Rome. Nó đã được may mặc cho vừa với thị hiếu riêng của những
người nghe ở thành Rome, vốn thích thú thưởng thức những câu chuyện của những người
“man rợ” nhưng yêu tự do. Chiến thắng của Rome trên Numantia đã hoàn toàn đến nỗi
những người chiến thắng đã chấp nhận chính ký ức của những người bại trận.
Nó không phải loại câu
chuyện của chúng ta. Chúng ta muốn thấy những kẻ thua thiệt có địa vị thấp hèn chiến
thắng. Nhưng không có công lý trong lịch sử. Hầu hết những văn hóa trong quá khứ
đã sớm hay muộn đều rơi xuống thành con mồi cho những đội quân của một số những
đế quốc tàn nhẫn, vốn đã tự ủy thác cho họ quyền đẩy chúng vào tuyệt tích. Những
đế quốc cũng thế, cuối cùng xụp đổ, nhưng chúng có khuynh hướng để lại những di
sản phong phú và lâu dài. Hầu như tất cả mọi người trong thế kỷ XXI đều là sản
phẩm sinh thành của một đế quốc này, hay một đế quốc khác.
Một Đế quốc là gì?
Một đế quốc
là một trật tự chính trị với hai đặc tính quan trọng. Thứ nhất, để đủ điều kiện
cho tên gọi qui định đó, bạn phải cai trị một số lượng đáng kể gồm những dân tộc
khác biệt, mỗi dân tộc sở hữu một bản sắc văn hóa khác biệt, và có một lãnh thổ
riêng biệt. Phải gồm bao nhiêu dân tộc mới đúng? Hai hoặc ba là không đủ. Hai
mươi hay ba mươi thì quá nhiều. Ngưỡng cửa đế quốc nằm ngang đâu đó ở giữa những
con số đó.
Thứ hai, những
đế quốc được đặc trưng bởi những biên giới co dãn và một tiềm năng thèm khát
không giới hạn. Chúng có thể “nuốt” chửng và “ăn sạch” liên tục ngày càng nhiều
những quốc gia và lãnh thổ hơn, mà không thay đổi cấu trúc hay bản sắc định
tính cơ bản của chúng. Vương quốc England (UK) ngày nay có biên giới khá rõ
ràng, không thể vượt quá mà không thay đổi cấu trúc hay bản sắc định tính cơ bản
của nhà nước của nó. Một thế kỷ trước, hầu như bất cứ nơi nào trên quả đất cũng
đã có thể đã trở thành phần của Đế quốc Great Britain.
Sự đa dạng
văn hóa và tính co dãn linh động về lãnh thổ của đế quốc không chỉ là đặc tính
duy nhất của chúng, nhưng còn đóng vai trò trung tâm của chúng trong lịch sử.
Đó là nhờ vào hai đặc tính này khiến những đế quốc đã cai quản và điều hành
thành công để thống nhất những dân tộc và những vùng sinh thái khác biệt dưới một
cái ô chính trị duy nhất, do đó pha trộn vào nhau, những mảng lớn và càng lớn
hơn của loài người và của hành tinh Đất.
Cần phải nhấn
mạnh rằng một đế quốc được xác định hoàn toàn bởi sự đa dạng văn hóa và co dãn
biên giới của nó, chứ không phải bởi nguồn gốc của nó, hình thức chính quyền của
nó, phạm vi lãnh thổ của nó, hoặc quy mô dân số của nó. Một đế quốc không nhất
tiết phải nổi lên từ chinh phục quân sự. Đế quốc Athens bắt đầu đời sống của nó
như một liên minh tự nguyện, và Đế quốc Habsburg đã được sinh ra trong những cưới
hỏi, vá víu với nhau bằng một chuỗi những liên minh qua hôn nhân khéo léo. Cũng
không phải rằng một đế quốc phải được cai trị bởi một vị hoàng đế độc đoán. Đế
quốc Great Britain, đế quốc lớn nhất trong lịch sử, được
cai trị bởi một chế độ dân chủ. Những đế quốc dân chủ khác (hoặc ít nhất là cộng
hòa) đã gồm Netherland, France, Belgium, và USA, cũng như những đế quốc trước thời
hiện nay của Novgorod, Rome, Carthage và Athens.
Kích thước, cũng
thế, không thực sự quan trọng. Những đế quốc có thể là nhỏ bé. Đế quốc Athens ở
đỉnh cao của nó đã là nhỏ hơn nhiều so với kích thước và dân số của Greece ngày
nay. Đế quốc Aztec thì nhỏ hơn so với Mexico hiện nay. Tuy nhiên, cả hai đều là
những đế quốc, trong khi Greece thời nay và Mexico thời nay đều không, vì những
đế quốc nhắc đến trước đã dần chinh phục hàng chục, ngay cả hàng trăm, gồm những
chính thể khác biệt, trong khi những quốc gia nhắc sau đều không. Athens cai quản
trên hơn một trăm thành phố nhà nước [2] trước đó chúng đều độc lập,
trong khi đế quốc Aztec, nếu chúng ta có thể tin tưởng những hồ sơ thuế của nó,
cai trị 371 bộ tộc và dân tộc khác biệt. [3]
Làm thế nào
mà nó có thể dồn ép một nồi lẫn lộn đủ loại hương hoa của con người như thế vào
trong đất đai của một quốc gia thời nay có lãnh thổ khiêm tốn? Điều đó là có thể
vì trong quá khứ trên thế giới đã có nhiều hơn những dân tộc khác biệt, mỗi dân
tộc có một dân số nhỏ hơn, và chiếm cứ đất đai ít hơn những dân tộc điển hình
ngày nay. Vùng đất giữa biển Mediterranean và sông Jordan [4], mà ngày nay phải đấu tranh để đáp ứng
nguyện vọng của chỉ hai dân tộc, trong thời sách Thánh đã dễ dàng cung ứng đủ đất
sống cho hàng chục quốc gia, bộ lạc, vương quốc nhỏ và những thành phố quốc gia.
Những đế quốc
là một trong những lý do chính cho sự suy giảm nhanh chóng về sự đa dạng của loài
người. Những xe ủi lô khổng lồ đế quốc dần dần xóa mờ những đặc điểm độc đáo của
nhiều dân tộc (như của những người Numantian), đúc ép từ chúng ra thành những
nhóm mới và lớn hơn nhiều.
Những Đế quốc Tàn ác Phi luân?
Trong thời
chúng ta, tên ‘đế quốc’ đứng thứ hai chỉ sau kẻ ‘phát xít’ trong từ vựng của
chưởi thề chính trị. những phê bình hiện nay về những đế quốc thường khoác hai
hình thức:
1. Những đế
quốc không thành công hữu hiệu. Về lâu dài, điều là không thể nào cai trị một
cách hiệu quả trên một số lượng lớn của những dân tộc bị chinh phục.
2. Ngay cả nếu
điều đó có thể làm được, nó không nên được thực hiện, vì những đế quốc là những
guồng máy độc ác của hủy diệt và bóc lột. Mỗi dân tộc đều có quyền tự quyết, và
không bao giờ nên là đối tượng cho một dân tộc khác cai trị.
Từ quan điểm
lịch sử, tuyên bố đầu tiên thì rõ ràng vô nghĩa, và tuyên bố thứ hai mở ra những
những câu hỏi ngờ vực sâu xa.
Sự thật là đế
quốc đã là hình thức phổ biến nhất của tổ chức chính trị trên thế giới trong suốt
2.500 năm qua. Hầu hết loài người trong những hai nghìn năm rưỡi này đã sống
trong những đế quốc. Đế quốc cũng là một hình thức chính quyền rất ổn định. Hầu
hết những đế quốc đã dễ dàng biết báo động để dập tắt những nổi loạn. Nói
chung, những đế quốc đã bị lật đổ chỉ bởi xâm lược từ bên ngoài, hoặc do một sự
chia rẽ tự trong giới lãnh đạo. Ngược lại, những dân tộc đã bị chinh phục không
có một thành tích rất tốt về việc tự giải phóng chính họ khỏi những chúa tể đế quốc
của họ. Hầu hết đã vẫn tùng phục hàng trăm năm. Điển hình, họ đã bị những đế quốc
chinh phục chậm chạp tiêu hóa dần, cho đến khi văn hóa riêng biệt của họ cuối
cùng bị tắt ngấm.
Lấy thí dụ,
khi đế quốc Rome phía Tây [5] cuối cùng thua những những bộ tộc xâm
lăng Germany trong năm 476. Những dân Numantia, Arverni, Helvetian, Samnite,
Lusitania, Umbria, Etruscan và hàng trăm dân tộc khác đã quên mất tên, họ đã bị
Rome chinh phục trong những thế kỷ trước, đều đã không nổi lên từ thân xác đế
quốc khi ấy xé toang, không như Jonah thoát ra từ bụng con cá lớn [6]. Không ai trong số họ đã còn lại. Những
con cháu có dòng giống sinh học, huyết thống của dân tộc, người đã tự nhận mình
là những dân chúng của những quốc gia đó, người đã nói ngôn ngữ của họ, thờ phụng
những gót của họ và kể những huyền thoại và truyền thuyết của họ, bây giờ tất cả
đều nghĩ, nói và thờ phụng như những người Rome.
Trong nhiều
trường hợp, sự hủy diệt của một đế quốc hiếm khi có nghĩa là độc lập cho những
dân tộc bị trị. Thay vào đó, một đế quốc mới bước vào khoảng trống tạo ra khi đế
quốc cũ bị xụp đổ hay rút lui. Không chỗ nào cho thấy điều này rõ ràng hơn ở
Trung Đông. Tập hợp những quần thể chính trị hiện nay ở khu vực đó – một sự cân
bằng quyền lực giữa nhiều thực thể chính trị độc lập, với ít nhiều những đường
ranh biên giới ổn định – là hầu như không có bất kỳ song song nào trong bất kỳ
thời nào suốt trong nhiều nghìn năm qua. Lần cuối cùng Trung Đông trải qua một
tình trạng như vậy là trong thế kỷ thứ tám TCN – gần 3.000 năm trước! Từ sự nổi
lên của Đế quốc Neo-Assyria, trong thế kỷ thứ tám TCN cho đến sự sụp đổ của những
đế quốc England và France trong khoảng giữa thế kỷ XX, vùng Trung Đông đã qua
tay từ một đế quốc này sang một đế quốc khác, giống như một cây gậy trong một
cuộc chạy đua tiếp sức. Và đến thời điểm England và France cuối cùng đã buông bỏ
cây gậy, những dân tộc Aramaean, Ammonite, Phoenicia, Philistine, Moabite và những
dân tộc khác bị người Assyria xâm chiếm, tất cả đều đã biến mất từ lâu.
Đúng thế, những
người Jew, Armenia và Georgia ngày nay tuyên bố với một vài lượng mức của hữu
lý, rằng họ là con cháu dòng dõi của những dân tộc Trung Đông thời cổ. Tuy
nhiên, đây chỉ là những trường hợp ngoại lệ để chứng minh quy luật chung, và
ngay cả những tuyên bố này có phần nào phóng đại. Điều hiển nhiên, dù không nói
ai cũng thấy rõ ràng, rằng những hoạt động chính trị, kinh tế và xã hội của người
Jew thời nay, lấy thí dụ, đã vay mượn nhiều hơn từ những đế quốc họ đã sống
trong hai nghìn năm qua nếu so với những truyền thống của những vương quốc sơ
khai của xứ Judaea. Nếu vua David có xuất hiện trong một nhà thờ synagogue đạo
Juda Chính thống cực đoan ngày nay ở Jerusalem, ông sẽ hoàn toàn ngạc nhiên đến
bối rối khi thấy những người mặc quần áo Đông Europe, nói một phương ngữ German
(Yiddish) và bàn luận bất tận về ý nghĩa của một bản văn Babylon (Talmud). Đã
không có những nhà thờ synagogue, cũng đã không có những bộ luật Talmud, ngay cả
cũng đã không có những cuộn Torah trong xứ Judaea thời cổ.
Xây dựng và
duy trì một đế quốc thường đòi hỏi sự tàn sát ác độc của số lượng lớn dân cư, và
sự đàn áp tàn bạo tất cả những người còn sống sót. Bộ dụng cụ tiêu chuẩn để
hành nghề đế quốc này gồm : chiến tranh, nô lệ, trục xuất và diệt chủng.
Khi người Rome xâm chiếm Scotland năm 83, họ đã gặp sự kháng cự mãnh liệt từ những
bộ lạc địa phương Caledonian, và phản ứng bằng huỷ diệt hoàn toàn đến san bằng xứ
sở của họ. Đáp lời mời gọi ngưng chiến hòa bình của Rome, thủ lĩnh Calgacus gọi
những người Rome là ‘những côn đồ cuồng bạo của thế giới, và nói rằng “đi cướp
bóc, sát hại, và ăn cướp mà họ cho mang tên gọi lừa dối là đế quốc; họ tạo một sa
mạc và gọi nó là hoà bình” [7].
Tuy nhiên,
điều này không có nghĩa rằng những đế quốc không để lại gì giá trị trong tàn cuộc
sau cùng của chúng. Tô đen tất cả những đế quốc và chối bỏ, không nhận tất cả
những di sản đế quốc là gạt bỏ hầu hết văn hóa loài người. Những thiểu số ưu tú
của đế quốc dùng lợi nhuận từ những chinh phục để tài trợ không chỉ cho những đội
quân và pháo đài mà còn triết học, nghệ thuật, công lý và từ thiện. Một phần
quan trọng của những thành tựu văn hóa của loài người mang nợ sự hiện hữu của chúng
với sự khai thác bóc lột những dân chúng bị chinh phục. Lợi nhuận và sự giàu có,
do chủ nghĩa đế quốc của Rome đem lại, đã cung cấp cho Cicero, Seneca, và cả thánh
chiên Augustine sự nhàn rỗi, tiền bạc và những phương tiện cần thiết để suy nghĩ
và viết sách; Taj Mahal đã không thể được xây dựng nếu không có của cải tích
lũy bởi những mogul của đế quốc Mughal [8]
bóc lột những thần dân India của mình; và lợi nhuận của đế quốc Habsburg đến từ
sự thống trị của nó với những tỉnh thành nói tiếng Slavic, Hungari và Rumani,
đã thành tiền lương của Haydn, và tiền đặt trước để Mozart soạn nhạc. Không có
nhà văn Caledonia nào gìn giữ câu nói của Calgacus cho hậu thế. Chúng ta biết được
nó nhờ nhà viết sử Tacitus của Rome. Trong thực tế, Tacitus có thể đã tạo ra nó.
Hầu hết những học giả ngày nay đồng ý rằng Tacitus không chỉ thêu dệt nên bài
phát biểu, nhưng cũng tạo ra nhân vật Calgacus, thủ lĩnh của những người
Caledonia, để dùng nhân vật này như một người phát ngôn cho những gì ông và tầng
lớp thượng lưu ưu tú khác của Rome nghĩ về đất nước của chính họ.
Ngay cả nếu
chúng ta nhìn vượt khỏi văn hóa của thiểu số ưu tú và mỹ thuật cao vời; và thay
vào đó, tập trung vào thế giới của những con người bình thường, chúng ta tìm thấy
những di sản đế quốc trong phần lớn những nền văn hóa thời nay. Ngày nay, hầu hết
chúng ta nói chuyện, suy nghĩ và ước mơ trong những ngôn ngữ của đế quốc vốn đã
đè xuống đầu tọng xuống cổ tổ tiên chúng ta bằng lưỡi gươm sắc. Hầu hết người
Đông Asia nói và mơ trong ngôn ngữ của đế quốc Hán. Bất kể nguồn gốc của họ là
gì, gần như tất cả những cư dân của Bắc và Nam America, từ bán đảo Barrow của Alaska
đến eo biển Magellan của Chile, đều giao thiệp thông tin bằng một trong bốn
ngôn ngữ đế quốc: Spain, Portugal, France hoặc England. Ngày nay người Egypt
nói tiếng Arab, nghĩ bản thân họ là người Arab, và đồng một lòng tự xác định
chính mình với đế quốc Arab, vốn đã chinh phục Egypt trong thế kỷ thứ bảy, và với
một bàn tay sắt đã nhiều lần nghiền nát những nổi dậy không ngừng tái diễn, nổ
ra chống lại sự cai trị của nó. Có khoảng 10 triệu người Zulus ở Nam Africa, vẫn
nhắc nhở, nhớ lại thời đại Zulu vinh quang trong thế kỷ XIX, dẫu hầu hết trong
số họ đều được sinh ra từ những bộ tộc vốn đã chiến đấu chống lại chính đế quốc Zulu, và chỉ đã được sát nhập vào nó sau những
chiến dịch quân sự đẫm máu.
Đó là cho sự tốt lành của riêng bạn
Đế quốc đầu
tiên mà chúng ta có tin tức xác thực về nó là Đế quốc Akkadian của Đại đế Sargon
(c.2250 TCN). Sargon bắt đầu sự nghiệp của mình như là vua của Kish, một nhà nước
thành phố nhỏ ở vùng Vùng Mesopotania. Trong vòng một vài chục năm, ông thành
công trong chinh phục không chỉ tất cả những nhà nước thành phố khác ở vùng Mesopotamian,
nhưng cũng những lãnh thổ lớn bên ngoài khu trung tâm vùng Mesopotania. Sargon
khoe rằng ông đã chinh phục toàn thể thế giới. Trong thực tế, vùng cai quản của
ông trải dài từ Vịnh Persia đến biển Mediterranean, và bao gồm hầu hết hai nước
Iraq và Syria ngày nay, cùng với một vài mảnh của Iran và Turkey.
Đế quốc
Akkadian đã không kéo dài sau cái chết của người sáng lập của nó, nhưng Sargon
để lại một cái áo khoác hoàng đế mà ít khi không có người nhận mặc. Trong khoảng
1.700 năm tiếp sau, Assyria, Babylon và những vua Hittite tiếp nhận Sargon như
một vai khuôn mẫu, khoe khoang rằng họ cũng đã chinh phục toàn thể thế giới.
Sau đó, khoảng năm 550 TCN, Đại đế Cyrus của Persia đi đến cùng với một khoe khoang
còn đáng trầm trồ thán phục hơn.
Những nhà
vua của Assyria luôn luôn vẫn là những nhà vua của Assyria. Ngay cả khi họ
tuyên bố đã cai trị toàn thể thế giới, rõ ràng là họ đã làm việc đó cho sự vinh
quang vĩ đại hơn của Assyria, và họ đã không phải ân hận gì về điều đó. Cyrus,
mặt khác, tuyên bố không đơn thuần là chỉ cai trị toàn thể thế giới, nhưng làm
như vậy, vì lợi ích của tất cả mọi người. “Chúng ta chinh phục các ngươi vì
phúc lợi riêng của các ngươi”, người Persia nói. Cyrus muốn những dân tộc ông
cai trị yêu mến ông, và tự cho chính họ đã được may mắn để làm những chư hầu của
Persia [9]. Thí dụ nổi tiếng nhất về những nỗ
lực sáng tạo của Cyrus để đạt được sự tán thành của một quốc gia sống dưới sự
cai trị và kiểm soát của đế quốc của ông là mệnh lệnh của ông ban cho những người
Jew khi ấy đang sống lưu vong ở thành Babylonia được phép quay trở lại quê
hương Judaea, và xây dựng lại đền thờ đạo Juda của họ. Ông ngay cả còn cung cấp
cho họ sự hỗ trợ tài chính của mình. Cyrus đã không nhìn mình như một vị vua Persia
cai trị những người Jew – ông xem mình cũng là vua của những người Jew, và do
đó có trách nhiệm với phúc lợi của họ.
Ý tưởng tự
cho là đúng rằng cai trị toàn thể thế giới là vì lợi ích của tất cả những cư
dân của nó đã là thật đáng kinh ngạc. Tiến hóa đã làm cho Homo Sapiens, giống như những động vật xã hội lớp có vú khác, thành
một sinh vật có óc bài ngoại, ghét hay sợ dân tộc khác, hay người nước ngoài, khác
mình [10]. Từ bản năng, Sapiens phân chia loài người thành hai phần, “chúng ta” và “họ”.
Chúng ta là những người như bạn và tôi, những người cùng chia sẻ ngôn ngữ, tôn
giáo và phong tục của chúng ta. Chúng ta đều có trách nhiệm đối với nhau, nhưng
không có trách nhiệm với họ. Chúng ta luôn luôn khác biệt với họ, và chẳng nợ họ
điều gì cả. Chúng ta không muốn nhìn thấy bất kỳ một ai thuộc đám họ trong lãnh
thổ của chúng ta, và chúng ta không một mảy may quan tâm nào về những gì xảy ra
trong lãnh thổ của họ. Họ hầu như còn ngay cả không là con người. Trong ngôn ngữ
của dân tộc Dinka của Sudan, ‘Dinka’ chỉ đơn giản có nghĩa là ‘người’. Những
người không phải là dân Dinka không phải là người. Kẻ thù cay đắng của dân tộc Dinka
là dân tộc Nuer. Từ ‘Nuer’ có nghĩa gì trong ngôn ngữ Nuer? Nó có nghĩa là ‘người
gốc’. Hàng ngàn cây số cách xa sa mạc Sudan, trong băng lạnh của vùng đất
Alaska và phía đông bắc Siberia, sinh sống dân tộc Yupik. Từ ‘Yupik’ có nghĩa
là gì trong tiếng Yupik? Nó có nghĩa là “người thực”. [11]
Ngược lại với
sự độc quyền dân tộc này, tư tưởng đế quốc từ Cyrus trở đi đã có khuynh hướng chứa
đựng tất cả, và bao gồm toàn bộ xung quanh. Dẫu nó đã thường nhấn mạnh về những
khác biệt về chủng tộc và văn hóa giữa người cai trị và bị trị, nó vẫn nhìn nhận
sự thống nhất cơ bản của toàn thể thế giới, sự hiện hữu của một set gồm những nguyên tắc cai quản tất cả
mọi địa điểm và thời gian, và những trách nhiệm chung của tất cả con người.
Loài người được xem là một gia đình lớn: những ưu quyền của những “cha mẹ dân” đi
kèm với trách nhiệm cho sự phúc lợi của những “con dân”.
Tầm nhìn đế
quốc mới này đã truyền từ Cyrus và những người Persia đến Đại đế Alexander, và
từ ông đến những nhà vua của Greece thời cổ, đến những hoàng đế Rome, những caliph
đạo Islam, những dynast India, và cuối cùng, cả đến thủ tướng Sôviết, và những
tổng thống USA. Tầm nhìn đế quốc tốt bụng tử tế này đã biện minh cho sự hiện hữu
của những đế quốc, và không chỉ vô hiệu những nỗ lực của những dân tộc bị trị nổi
loạn, nhưng cũng của những cố gắng của những dân tộc độc lập phản kháng lại sự bành
trướng đế quốc.
Nhưng tầm nhìn đế quốc
tương tự đã phát triển độc lập với mô hình Persia, trong những phần khác của thế
giới, đặc biệt là ở Trung America, vùng núi Andes ở Nam America, và ở nước Tàu.
Theo lý thuyết chính trị truyền thống của Tàu, Trời (Tian) là nguồn gốc
của tất cả những uy quyền hợp pháp trên mặt đất. Trời chọn người hoặc gia đình
xứng đáng nhất và ban cho họ “mệnh trời”. Người hay gia đình này, sau đó cai trị
trên Tất cả những gì dưới vòm Trời (Tianxia, Thiên hạ) vì lợi ích
của tất cả những cư dân của nó. Như vậy, một quyền bính hợp pháp – theo định
nghĩa – là phổ quát. Nếu một người cai trị thiếu Thiên Mệnh, sau đó người ấy
thiếu tính cách hợp pháp để cai trị, ngay cả dẫu chỉ một thành phố duy nhất. Nếu
một người cai trị có nhận được mệnh trời, người ấy bắt buộc phải truyền bá công
lý và hòa thuận trên toàn thể thế giới. Thiên Mệnh không thể được trao cho nhiều
ứng viên cùng một lúc, và hệ quả là một thiên mệnh không thể hợp pháp hóa sự hiện
hữu của hơn một quốc gia độc lập.
Hoàng đế đầu
tiên của đế quốc Tàu thống nhất, Qín Shǐ Hoángdì [12], khoe rằng “suốt sáu hướng [vũ trụ]
tất cả mọi sự vật việc đều thuộc về hoàng đế ... bất cứ chỗ nào có dấu chân con
người, không một người nào không trở thành một thần dân [của hoàng đế] ... lòng
tử tế của ông ngay cả xuống đến tận những con bò và ngựa. Không một ai là người
không hưởng lợi. Mỗi người là an toàn dưới mái nhà của mình” [13]. Trong tư tưởng chính trị cũng như
ký ức lịch sử của nước Tàu, đã từ đó xem những thời kỳ đế quốc như thời
hoàng kim của trật tự và công lý. Mâu thuẫn với quan điểm của phương Tây thời
nay, một thế giới công bình gồm những quốc gia với những dân tộc riêng biệt; ở
nước Tàu, những thời kỳ phân ly chính trị đã bị xem là những thời đại đen tối của
hỗn loạn và bất công. Nhận thức này đã có tác động sâu rộng đối với lịch sử nước
Tàu. Mỗi lần một đế quốc sụp đổ, những lý thuyết chính trị chi phối thúc giục
những quyền lực hãy đừng chấp nhận giải quyết thành số ít của những tiểu quốc độc
lập, nhưng cố gắng thống nhất toàn thể đất nước. Sớm hay muộn, những cố gắng này
đã luôn luôn thành công.
Khi Họ trở thành Chúng ta
Những đế quốc
đã đóng một phần quyết định trong sự sát nhập nhiều những nền văn hóa nhỏ thành
vào thành số ít hơn những nền văn hóa lớn. Những ý tưởng, con người, hàng hóa
và kỹ nghệ lan rộng dễ dàng hơn trong biên giới của một đế quốc, so với trong một
khu vực bị chia cắt về mặt chính trị. Đủ những trường hợp để xem là thường thường,
là chính những đế quốc đã có chủ ý để lan rộng những ý tưởng, tổ chức, phong tục
và những khuôn thức. Một lý do là để làm cho sinh sống được dễ dàng hơn cho bản
thân chúng. Điều là khó khăn để cai trị một đế quốc trong đó mỗi vùng có một set riêng của nó về pháp luật, một set riêng của nó về dạng chữ viết, một set riêng của nó về ngôn ngữ, và một set riêng của nó về tiền bạc. Sự tiêu
chuẩn hoá là một thêm lợi cho những hoàng đế.
Lý do thứ
hai và cũng quan trọng không kém, tại sao đế quốc tích cực truyền bá một văn
hóa chung đã là để đạt được tính hợp pháp. Ít nhất kể từ những thời của Cyrus
và Qín Shǐ Hoángdì, những đế quốc đã biện minh cho hành động của họ – dù xây dựng
đường xá, hay xung đột đổ máu – là cần thiết để truyền bá một nền văn hóa cao hơn
vốn trong đó đó những người bị chinh phục được hưởng lợi ích lại còn nhiều hơn những
người chinh phục.
Lợi ích này
đôi khi nổi bật dễ thấy – thực thi pháp luật, quy hoạch đô thị, tiêu chuẩn hoá những
đơn vị cân và đo – và đôi khi nghi ngờ đáng đặt câu hỏi – thuế vụ, nghĩa vụ
quân sự, sự tôn sùng hoàng đế. Nhưng hầu hết những tầng lớp thiểu số chọn lọc
được ưu đãi cai quản đế quốc chân thực tin rằng họ đang làm việc cho lợi ích
chung của tất cả những cư dân của đế quốc. Tầng lớp cầm quyền của nước Tàu đối
xử với những dân tộc láng giềng, và những đối tượng dân chúng nước ngoài của họ,
như những người man rợ khốn khổ, vốn đế quốc Tàu phải mang đến cho họ những lợi
ích của văn hóa. Thiên Mệnh ban cho hoàng đế không phải để khai thác thế giới,
nhưng cũng để giáo dục con người. Những người Rome cũng vậy, đã biện minh cho sự
đô hộ của họ bằng biện luận rằng họ đã đem phú cho những người man rợ với hòa
bình, công lý và sự tinh tế. Những người German man dã, và những người Gauls vẽ
mình đã sống trong nghèo khổ bẩn thỉu và ngu muội, cho đến khi người Rome đến, thuần
hóa họ với pháp luật, tắm rửa họ trong những nhà tắm công cộng, và cải thiện họ
với triết học. Đế quốc Maurya, vào thế kỷ thứ ba TCN, đã nhận sứ mệnh của mình là
gieo rắc những giảng dạy của đức Phật vào một thế giới vô minh. Những Caliph đạo
Islam nhận một nhiệm vụ thiêng liêng là truyền bá sự thật do sự vén lên cho thấy [14] của đấng Tiên tri, một cách
hòa bình nếu có thể, nhưng bằng gươm nếu cần thiết. Những đế quốc Spain và Portugal
tuyên bố rằng họ tìm trong những quần đảo “India” và châu America, không phải của
cải giàu có, nhưng là sự chuyển đổi lòng tin (của dân bản xứ) sang của một tôn
giáo (của những thực dân, cho là chân thực) [15]. Mặt trời không bao giờ lặn trên
nhiệm vụ của đế quốc England là truyền bá hai ‘tin lành’ của chủ nghĩa tự do và
thương mại tự do. Những người Nga cảm thấy trách nhiệm bó buộc họ phải tạo điều
kiện cho bước đi không thể lay chuyển của lịch sử, từ chủ nghĩa tư bản hướng tới
chế độ độc tài không tưởng của giai cấp vô sản. Nhiều người US ngày nay vẫn cho
rằng chính phủ của họ có một bắt buộc đạo đức là mang lợi ích của dân chủ và
dân quyền đến những nước thế giới thứ ba, ngay cả khi những món hàng này được phân
phối bằng những hoả tiễn vô tuyến điều khiển, và những máy bay chiến đấu phản lực
siêu thanh F-16.
Những ý tưởng
văn hóa được những đế quốc truyền bá thì hiếm khi là độc quyền tạo ra của giai
cấp thống trị. Từ tầm nhìn của đế quốc có khuynh hướng phổ quát và bao gồm toàn
diện, nó là tương đối dễ dàng cho giới thiểu số chọn lọc của đế quốc để chấp nhận
những ý tưởng, mẫu mực và truyền thống từ bất cứ chỗ nào họ tìm thấy chúng, hơn
là để cuồng tín dính chặt vào một truyền thống duy nhất không muốn thay đổi.
Trong khi có một số hoàng đế đã tìm cách thanh lọc những văn hóa của họ, và trở
về với những gì họ xem là nguồn gốc của họ, với hầu hết những đế quốc đã sản
sinh những văn minh lai giống, hấp thụ nhiều từ dân chúng bị trị của họ. Văn
hóa vương triều của Rome đã là của Greece gần như cũng nhiều như của Rome. Văn
hóa vương triều Abbasid đã một phần Persia, một phần Greece, một phần Arab. Văn
hóa đế quốc Mongol là một sao chép của Tàu. Trong “vương triều” USA, một tổng
thống USA có dòng máu Kenya, có thể ăn bánh pizza Italy trong khi xem bộ phim
yêu thích của mình, Lawrence of Arabia,
một thiên anh hùng ca của England về những cuộc nổi dậy Ả-rập chống người Turkey.
Không phải
là nồi nấu pha trộn văn hóa này đã thực hiện tiến trình đồng hóa văn hóa có được
bất kỳ dễ dàng nào hơn đối với những dân tộc bại trận. Văn minh đế quốc cũng có
thể hấp thụ nhiều đóng góp từ những dân tộc khác biệt đã bị chinh phục, nhưng kết
quả lai giống đó vẫn là xa lạ với đa số rộng lớn. Tiến trình đồng hóa thường
đau đớn và chấn thương tâm lý. Không phải là dễ dàng để từ bỏ một truyền thống
địa phương quen thuộc và được yêu chuộng, nó cũng khó khăn và căng thẳng như thế
để hiểu và chấp nhận một văn hóa mới. Tệ hơn nữa, ngay cả khi những người bị trị
đã thành công trong việc tiếp nhận văn hóa đế quốc, điều đó có thể mất nhiều chục
năm, nếu không phải hàng trăm năm, cho đến tầng lớp thiểu số chọn lọc ưu tú đế
quốc chấp nhận họ như một phần của “chúng ta”. Những thế hệ giữa chinh phục và
chấp nhận bị bỏ rơi trong giá lạnh. Họ đã đánh mất văn hóa địa phương yêu quý của
họ, nhưng họ không được phép nhận một phần ngang bằng trong thế giới của đế quốc.
Ngược lại, văn hóa họ đã tiếp nhận vẫn tiếp tục xem họ như những man rợ.
Hãy tưởng tượng
một người Iberia thuộc gia đình giòng dõi, sống một thế kỷ sau thời Numantia sụp
đổ. Ông nói phương ngữ Celtic quê hương với cha mẹ của mình, nhưng đã tiếp nhận
tiếng Latin hoàn hảo, với một giọng chỉ hơi khác, vì ông cần nó để buôn bán và
giao thiệp với chính quyền. Ông chiều theo khuynh hướng của người, mua cho bà nhà
trang sức chạm trổ cầu kỳ, nhưng một chút bối rối xấu hổ vì bà, giống như những
phụ nữ địa phương khác, vẫn giữ ưa thích sống sót Celtic này – ông thà muốn bà nhà
chấp nhận sự đơn giản trong sáng của những trang sức vốn vợ của thống đốc người
Rome thường đeo. Bản thân ông mặc áo tunic kiểu Rome, và nhờ vào sự thành công
của ông như một người buôn bán gia súc, do một phần không nhỏ vào chuyên môn của
mình trong những phức tạp của pháp luật thương mại Rome, ông đã có thể xây dựng
một biệt thự kiểu Rome. Tuy nhiên, dẫu ông có thể đọc thuộc lòng quyển III Georgics của Virgil, những người Rome vẫn
đối xử với ông như thể ông là một nửa còn man rợ.. Ông nhận ra với thất vọng rằng
ông sẽ không bao giờ có được một chức vụ trong chính phủ, hoặc một trong những
ghế ngồi thật tốt trong nhà hát lớn.
Trong những
năm cuối thế kỷ XIX, nhiều người India có học, đã được dạy cùng một bài học từ
những chủ nhân người England của họ. Một giai thoại nổi tiếng kể về một người India
tham vọng, người làm chủ được những phức tạp của tiếng England, đã học khiêu vũ
kiểu phương Tây, và ngay cả đã trở nên quen với việc ăn bằng dao và nĩa. Được
trang bị với phong cách cư xử mới của mình, ông đã đến England, học luật tại trường
Đại học College London, và thành một luật sư đầy đủ tư cách và khả năng. Tuy
nhiên, con người trẻ tuổi của luật pháp này, mặc com lê và cà vạt, đã bị ném khỏi
một chuyến tàu ở thuộc địa England ở Nam Africa, vì khăng khăng đòi ngồi trong
toa tàu hạng nhất, thay vì hạng ba, nơi mà những người ‘da màu’ như ông đã được
ấn định sẽ vui vẻ ngồi. Ông tên là Mohandas Karamchand Gandhi.
Trong một vài
trường hợp những tiến trình của tiếp biến văn hóa [16] và đồng hóa cuối cùng phá vỡ
những rào cản giữa người mới nhập và tầng lớp chọn lọc ưu tú cũ. Những người bị
chinh phục thôi không còn nhìn đế quốc như một hệ thống xa lạ của sự chiếm
đóng, và những người chiến thắng đi đến xem những người bị trị của họ như ngang
bằng với chính họ. Những người cai trị và bị cai trị giống nhau, đều cùng xem ‘họ’
như ‘chúng ta’. Cuối cùng, tất cả những đối tượng bị Rome chinh phục, sau nhiều
thế kỷ dưới đế quyền, đều đã được cấp quyền công dân Rome. Những người không phải
dân thành Rome đã tăng lên chiếm vị trí hàng đầu trong những sĩ quan quân đội Rome,
và được bổ nhiệm vào Thượng viện. Trong năm 48 hoàng đế Claudius nhận vào Thượng
viện một vài quí tộc Gallic, những người, ông lưu ý trong một bài phát biểu, qua
‘phong tục, văn hóa, và những quan hệ hôn nhân đã pha trộn với chúng ta”. Những
thượng nghị sĩ hợm hĩnh tự cao đã phản đối sự giới thiệu những kẻ thù cũ vào trung
tâm của hệ thống chính trị của Rome. Claudius nhắc nhở họ về một sự thật bất tiện.
Hầu hết chính những gia đình thượng nghị sĩ của Rome là hậu duệ của những bộ tộc
người Italy vốn đã từng chống lại Rome, và về sau mới đã được trao quyền công
dân Rome. Thật vậy, hoàng đế nhắc nhở họ, ngay gia đình của chính ông là dòng
dõi dân Sabine, từ bắc Italy. [17]
Trong thế kỷ
thứ hai, Rome đã do một dòng của những hoàng đế sinh ở bán đảo Iberia cai trị,
trong mạch máu của họ có thể chảy ít nhất một vài giọt của máu Iberian địa
phương. Những triều đại của Trajan, Hadrian, Antoninius Pius và Marcus Aurelius
thường được cho là tạo thành thời kỳ hoàng kim của đế quốc. Sau đó, tất cả những
đập ngăn sắc tộc đã được hạ xuống. Hoàng đế Septimius Severus (193-211) là con
dòng cháu giống của một gia đình gốc Phoenicia từ Carthage, Libya. Elagabalus
(218-22) đã là một người Syria. Hoàng đế Philip (244-9) đã được biết đến một
cách thông tục là “Philip Arab”. Những công dân mới của đế quốc đã tiếp nhận
văn hóa của đế quốc Rome với say mê đến nỗi, trong nhiều thế kỷ và ngay cả hàng
nghìn năm sau khi chính đế quốc sụp đổ, họ vẫn tiếp tục nói ngôn ngữ của đế quốc,
tin vào Gót của đạo Kitô mà đế quốc đã nhận từ một trong những tỉnh vùng Cận
đông của nó, và sống theo pháp luật của đế quốc.
Một quá
trình tương tự đã xảy ra trong đế quốc Arab. Khi nó được thành lập vào khoảng
giữa thế kỷ thứ bảy, nó được dựa trên một chia cắt sắc bén giữa những tầng lớp
cầm quyền Arab-Muslim và những dân bị thống trị ở Egypt, Syria, Iran và những
người Berber, những người đã không phải Arab cũng không phải Muslim. Nhiều người
trong số dân chúng đối tượng của đế quốc dần chấp nhận lòng tin đạo Islam, ngôn
ngữ tiếng Arab, và một văn hóa lai tạp của đế quốc. Những tầng lớp được ưu đãi Arab
cũ coi những dân mới nhập này với ác cảm sâu sắc, vì sợ mất địa vị và bản sắc định
tính độc đáo của họ. Những người mới hội nhập nản lòng lớn tiếng đòi một phần chia
ngang bằng trong đế quốc, và trong thế giới đạo Islam. Cuối cùng họ cũng có được
điều họ muốn. Những người Egypt, Syria và vùng Mesopotamia ngày càng được coi
là ‘người Arab’. Những người Arab này – dù người Arab ‘đích thực’ từ bán đảo
Arabia, hoặc Arab mới được “đúc” từ Egypt và Syria – đến lượt của họ, trở nên
ngày càng bị những người Muslim không-Arab áp đảo, đặc biệt là những người
Iran, Turkey và Berber. Sự thành công lớn của công trình thực hiện đế quốc Arab
là văn hóa đế quốc nó tạo ra đã được nhiều người không-Arab hết lòng chấp nhận
nó, những người tiếp tục duy trì nó, phát triển nó và mở rộng nó – ngay cả sau
khi đế quốc nguyên thuỷ xụp đổ, và những người Arab như một nhóm dân tộc bị mất
quyền thống trị của họ.
Ở Tàu, sự
thành công của công trình thực hiện đế quốc ngay cả còn triệt để hơn. Trong hơn
2.000 năm, một mớ hỗn độn của những dân tộc và nhóm văn hóa, đầu tiên bị gọi là
“man rợ” đã tích hợp thành công vào thành văn hóa của đế quốc Tàu, và trở thành
người Tàu Hán (tên gọi như thế theo đế quốc Hán cai trị nước Tàu từ 206 TCN đến
220 CN). Thành tích tối hậu của Đế quốc Tàu là nó vẫn còn sống mạnh, thế nhưng khó
để nhìn thấy nó như là một đế quốc, ngoại trừ ở những vùng biên như Tibet và Xịnjiang.
Hơn 90 phần trăm dân số nước Tàu đã xem bản thân họ, và bởi những người khác,
như người Hán.
Chúng ta có
thể hiểu được tiến trình giải phóng thuộc địa của vài chục năm qua theo cùng một
cách tương tự. Trong thời kỳ thời nay, Europe chinh phục nhiều nơi trên thế giới
dưới vỏ bọc là truyền bá văn hóa siêu việt của phương Tây. Họ đã rất thành công
khiến hàng tỉ người dần dần chấp nhận những bộ phận quan trọng của văn hóa đó. Những
người India, Africa, Arab, Tàu và người Maori đã học tiếng England, tiếng Spain,
và tiếng France. Họ bắt đầu tin vào nhân quyền, và những nguyên tắc về quyền tự
quyết, và họ đã tiếp nhận những hệ tư tưởng phương Tây như chủ nghĩa tự do, chủ
nghĩa Tư bản, chủ nghĩa Cộng sản, chủ nghĩa Nam nữ bình quyền và chủ nghĩa dân
tộc [18].
Vòng Tuần hoàn Đế quốc
Giai đoạn
|
Rome
|
Islam
|
Những đế quốc Europe
|
Một nhóm nhỏ thiết lập một đế quốc lớn
|
Những người Rome thiết lập đế quốc Rome
|
Những người Arab thiết lập caliphate Arab
|
Những người Europe thiết lập những đế quốc thuộc Europe
|
Một văn hoá đế quốc được rèn đúc
|
Văn hoá Graeco-Roman
|
Văn hoá Arab-Muslim
|
Văn hoá phương Tây
|
Văn hoá đế quốc được những dân tộc bị trị chấp nhận
|
Những dân tộc bị trị chấp nhận tiếng Latin, Luật Rome, tư tưởng chính
trị Rome,. vv.
|
Những dân tộc bị trị chấp nhận tiếng Arabic, đạo Islam
|
Những dân tộc bị trị chấp nhận tiếng England, France,..chủ nghĩa dân tộc,
xã hội, cộng sản, tư bản, nhân quyền, ..vv.
|
Những dân tộc bị trị
đòi tư cách bình đẳng nhân danh chính những giá trị đế quốc phổ thông
|
Những người Illyrian,
Gaul và Punic đòi tư cách bình đẳng nhân danh chính những giá trị phổ thông của
Rome
|
Những người Eygpy,
Iran, và Berber đòi tư cách bình đẳng nhân danh chính những giá trị Muslim phổ
thông
|
Những người India,
Tàu, và Africa đòi tư cách bình đẳng nhân danh chính những giá trị phổ thông
của phương Tây như chủ nghĩa dân tộc, xã hội, cộng sản, tư bản, nhân quyền
|
Những sáng lập của đế
quốc mất quyền kiếm soát của họ
|
Rome thôi không còn hiện
hữu như một tập thể sắc tộc độc nhất riêng biệt. Kiếm soát đế quốc sang tay nhóm
chọn lọc ưu tú mới, gồm những tinh hoa của nhiều dân tộc
|
Những người Arab mất
quyền kiếm soát thế giới Muslim, quyền này sang tay những thiểu số ưu tú, từ
nhiều dân tộc Muslim
|
Những người Europe mất
quyền kiểm soát thế giới toàn cầu, nghiêng sang một thiểu số ưu tú, gồm nhiều
dân tộc khác nhau, họ thực hành những giá trị, và cách thức suy nghĩ theo
phương Tây
|
Văn hoá đế quốc tiếp
tục hưng thịnh và phát triền
|
Những người Illyrian,
Gaul và Punic tiếp tục phát triển văn hoá Rome mà họ đã chấp nhận
|
Những người Eygpy,
Iran, và Berber tiếp tục phát triển văn hoá Arab-Muslim mà họ đã chấp nhận
|
Những người India,
Tàu, và Africa tiếp tục phát triển văn hoá phương Tây mà họ đã chấp nhận
|
Trong thế kỷ XX, những
nhóm địa phương sau khi tiếp nhận những giá trị phương Tây đã tuyên đòi bình đẳng
với những kẻ chinh phục Europe, nhân danh những giá trị này. Nhiều cuộc đấu tranh
chống thực dân được tiến hành dưới những biểu ngữ của quyền tự quyết, chủ nghĩa
xã hội và những quyền căn bản của con người, tất cả đều là những di sản của phương
Tây. Cũng như những người Egypt, Iran và Turkey đã tiếp nhận và thích ứng với
văn hóa đế quốc mà họ thừa hưởng từ những người Arab chinh phục ban đầu, những
người India, Africa và Tàu ngày nay cũng thế, đều đã chấp nhận nhiều từ văn hóa
đế quốc của những ông chủ đế quốc phương Tây cũ của mình, trong khi tìm cách uốn
nắn nó theo những nhu cầu và truyền thống của họ.
Những Người Tốt và những Kẻ Xấu trong Lịch sử
Là điều cám dỗ để chia
lịch sử gọn gàng vào thành những người tốt và kẻ xấu, với tất cả những đế quốc
trong số những kẻ xấu. Bởi đa số rất lớn những đế quốc đã thành lập bằng máu,
và duy trì quyền lực của chúng qua áp bức và chiến tranh. Thế nhưng hầu hết những
nền văn hóa ngày nay đều dựa trên những di sản của những đế quốc. Nếu đế quốc
theo định nghĩa là xấu, điều đó nói gì về chúng ta?
Có những trường phái tư
tưởng và những phong trào chính trị mà vốn chúng tìm cách triệt hạ văn hóa con
người của chủ nghĩa đế quốc, để lại đằng sau những gì họ tuyên bố là một nền
văn minh đích thực, tinh khiết, không nhuốm bẩn bởi tội lỗi. Những tư tưởng này,
nếu đặt lên cao nhất là ngây thơ; đặt xuống tệ nhất là chúng phục vụ như những
giả dối, kiểu trang trí ngoài cửa sổ, để làm đẹp cho chủ nghĩa dân tộc thô thiển
và cố chấp. Có lẽ bạn có thể biện luận rằng một vài trong số những nền văn hóa
không đếm nổi vốn đã nổi lên ở buổi bình minh của lịch sử ghi chép đã là tinh
khiết, không chạm đến tội lỗi, và không ngoại tình với những xã hội khác. Nhưng
không văn hóa nào từ buổi bình minh đó có thể hợp lý làm quả quyết đó, chắc chắn
không văn hóa nào giờ đây hiện hữu trên quả đất. Tất cả những nền văn hóa của
con người thì ít nhất là một phần di sản của những đế quốc và những văn minh đế
quốc, và không có giải phẫu chính trị hay học thuật nào có thể cắt bỏ những di
sản đế quốc mà không giết chết bệnh nhân.
Hãy suy nghĩ, lấy thí dụ,
về những quan hệ yêu-ghét giữa nước Cộng hòa India độc lập ngày nay và British-Raj
[19].
Cuộc chinh phục và chiếm đóng India của England đã tổn hại mạng sống của hàng
triệu người dân India, và trách nhiệm cho sự khổ nhục liên tục và bóc lột khai
thác hàng trăm triệu người khác. Thế nhưng, nhiều người India đã chấp nhận, với
say mê của những người “đổi đạo”, những lý tưởng của phương Tây như sự tự quyết
và những quyền căn bản con người, và đã rất thất vọng đến rụng rời khi người
England từ chối thực hiện những trị giá chính họ đã tuyên bố bằng cách cấp cho những
người bản xứ India hoặc những quyền bình đẳng như những thần dân vương quốc England
hoặc sự độc lập.
Tuy nhiên, nhà nước thời
nay của India là một đứa con của Đế quốc England. Người England đã giết hại, đã
gây thương tích, và đã ngược đãi những cư dân của tiểu lục địa này, nhưng họ
cũng đã thống nhất một tấm thảm muôn màu hỗn độn gồm những vương quốc, lãnh địa,
và những bộ tộc hiếu chiến, đã tạo ra một ý thức dân tộc chung, và một đất nước
đã hoạt động, nhiều hơn hay ít hơn, như một đơn vị chính trị duy nhất. Họ đã đặt
những nền móng của hệ thống tư pháp India, đã tạo ra cơ cấu hành chính của nó,
và đã xây dựng mạng lưới đường sắt vốn đã là quan trọng cho sự hợp nhất kinh tế.
Nước India độc lập đã tiếp nhận chính thể dân chủ phương Tây, sự hiện thân của England
trong nó, như hình thức của chính quyền của nó. Tiếng England vẫn là ngôn ngữ
chung của tiểu lục địa, một ngôn ngữ trung lập mà những người bản ngữ nói tiếng
Hin-ddi, Tamil và Malayalam có thể dùng để thông tin giao tiếp. Những người India
là những người đam mê chơi cricket và
uống trà “chai”, và cả hai trò chơi
và đồ uống là những di sản England. Canh tác trà thương mại đã không hiện hữu ở
India cho đến giữa thế kỷ XIX, khi nó được Công ty Đông India của England đưa
vào India. Đó là những sahib người
England kênh kiệu đã lan truyền tập quán uống trà khắp tiểu lục địa India. [20]
Hình 28. Nhà ga xe lửa Chhatrapati
Shivaji ở thành phố Mumbai. Nó ra đời như nhà ga Victoria, thành phố Bombay. Người
England xây nó theo kiến trúc Neo-Gothic đã phổ biến ở England vào cuối thế kỷ
XIX. Một chính phủ Hindu theo chủ nghĩa dân tộc đã đổi tên cả hai: thành phố và
nhà ga, nhưng đã cho thấy không có ý định phá bỏ một tòa nhà tráng lệ như vậy, dẫu
nó đã do những kẻ áp bức nước ngoài xây dựng.
Có bao nhiêu người India
ngày nay muốn mở một cuộc đầu phiếu để gạt bỏ bản thân của nền dân chủ, tiếng
England, mạng lưới đường sắt, hệ thống pháp luật, trò chơi criket và trà chai với lý
do chúng là di sản của đế quốc? Và nếu họ đã làm thế, sẽ không phải chính hành
động mở một cuộc đầu phiếu để quyết định vấn đề đã chứng minh món nợ của họ với
những ông chủ thực dân cũ của mình?
Hình 29. The Taj Mahal.
Một thí dụ của văn hóa India ‘đích thực’, hay sự tạo lập ngoại lai của chủ
nghĩa đế quốc Muslim?
Ngay cả nếu chúng ta
hoàn toàn không nhận di sản của một đế quốc tàn bạo với hy vọng xây dựng lại và
che chở những nền văn hóa ‘đích thực’ trước đó, trong tất cả xác suất có thể xảy
ra, những gì chúng ta bảo vệ được sẽ là không gì khác hơn di sản của một đế quốc
cũ hơn và không kém tàn bạo hơn. Những người bất mãn với sự cắt xén của văn hóa
India bởi British-Raj, vô tình thần thánh hóa những di sản của đế quốc Mughal,
và sự chinh phục India của những Sultan ở Delhi. Và bất cứ ai cố gắng để cứu ‘văn
hóa đích thực của India’ khỏi những ảnh hưởng nước ngoài của những đế quốc Muslim
này thần thánh hóa những di sản của đế quốc Gupta, đế quốc Kushan và đế quốc
Maurya. Nếu một người Hindu theo chủ nhĩa dân tộc cực đoan đã phá hủy tất cả những
tòa nhà còn lại của kẻ chinh phục England, chẳng hạn như nhà ga xe lửa trung
ương của Mumbai, thế còn những cấu trúc sót lại từ sự chiếm đóng India của những
người thống trị theo đạo Islam, chẳng hạn như Taj Mahal thì sao?
Không ai thực sự biết
làm thế nào để giải quyết câu hỏi hóc búa này về di sản văn hóa. Dù con đường nào
chúng ta đi, bước đầu tiên là để thừa nhận sự phức tạp của tình thế khó xử, và
chấp nhận rằng cách đơn giản chia quá khứ vào thành người tốt và kẻ xấu không
đưa đến đâu. Dĩ nhiên, trừ khi chúng ta sẵn sàng thừa nhận rằng chúng ta thường
đi theo sự dẫn đường của những kẻ xấu.
Đế quốc Toàn cầu Mới
Từ khoảng năm 200 TCN,
hầu hết loài người đã sống trong những đế quốc. Cũng thế, xem dường như trong
tương lai, có thể hầu hết loài người sẽ sống trong một đế quốc. Nhưng lần này,
đế quốc sẽ là thực sự toàn cầu. Viễn ảnh đế quốc về sự thống trị trên toàn thế
giới có thể sắp xảy ra.
Khi thế kỷ XXI mở ra,
chủ nghĩa dân tộc nhanh chóng bị mất chỗ đứng. Ngày càng có nhiều người tin rằng
tất cả loài người là nguồn gốc hợp pháp của quyền lực chính trị, chứ không phải
là những thành viên của một quốc gia đặc biệt cụ thể nào, và rằng việc bảo vệ
nhân quyền và bảo vệ lợi ích của toàn bộ loài người nên là ánh sáng hướng dẫn của
chính trị. Nếu vậy, có gần 200 quốc gia độc lập là một trở ngại hơn là một sự
trợ giúp. Vì những người Sweden, Indonesia và Nigeria xứng đáng thừa hưởng những
quyền con người như nhau, không phải sẽ là đơn giản hơn để cho một chính phủ
toàn cầu duy nhất bảo vệ, che chở chúng?
Sự xuất hiện của những
vấn đề cơ bản toàn cầu, chẳng hạn như những băng tan ở những đỉnh núi và hai cực
Bắc, Nam của quả đất, cắn gặm lấy bớt đi những gì vẫn còn lại là hợp pháp dành
quyền cho những quốc gia độc lập dân tộc. Không có nhà nước tự chủ nào sẽ có thể
khắc phục được hiện tượng quả đất ấm lên chỉ bằng riêng mình. “Thiên mệnh” kiểu
Tàu đã được Trời đưa ra để giải quyết những vấn đề của loài người. “Thiên mệnh”
thời nay sẽ được loài người đưa ra để giải quyết những vấn đề của Trời, chẳng hạn
như những lỗ thủng ở tầng khí quyển ozone [21] và
sự tích tụ của những chất gas gây tác dụng nhà kính trồng cây xanh [22].
Màu của đế quốc toàn cầu cũng có thể là màu xanh lá cây.
Tính đến năm 2014, thế
giới vẫn còn bị phân mảnh về chính trị, nhưng những quốc gia đang nhanh chóng mất
đi sự độc lập của chúng. Không một nào trong số chúng thực sự có thể thực hiện
những chính sách kinh tế độc lập, tuyên chiến và gây chiến như ý muốn, hoặc
ngay cả để tự thực hiện những việc nội bộ của chính nó như nó thấy thuận hợp với
chỉ riêng nó. Những nhà nước đang ngày càng mở cửa cho những guồng máy của những
thị trường toàn cầu, với sự can thiệp của những công ty toàn cầu, và những tổ
chức phi chính phủ [23],
và với sự giám sát của dư luận toàn cầu, và với hệ thống luật pháp quốc tế. Những
nhà nước bị buộc phải tuân thủ những tiêu chuẩn toàn cầu trong hành vi tài
chính, chính sách môi trường và công bằng. Những giòng thác cuộn vô cùng mạnh mẽ
của vốn tư bản, nguồn lực lao động và dữ liệu tri thức thông tin xoay chuyển và
định hình thế giới, với sự bác bỏ ngày càng tăng về những biên giới và những tin
tưởng ước lượng của những quốc gia.
Đế quốc toàn cầu đang
được đúc rèn trước mắt chúng ta, không bị chi phối bởi bất kỳ nhà nước hay dân
tộc đặc biệt nào. Cũng giống như đế quốc Rome vừa qua, nó được một nhóm ưu tú
chọn lọc từ nhiều sắc tộc cai trị, và được một nền văn hóa chung và những lợi
ích chung ràng buộc với nhau. Trên khắp thế giới, ngày càng có nhiều doanh
nhân, kỹ sư, nhà chuyên môn, học giả, luật sư và những nhà quản lý được kêu gọi
để gia nhập đế quốc. Họ phải đắn đo suy nghĩ xem có nên đáp ứng lời kêu gọi của
đế quốc, hay vẫn trung thành với nhà nước và dân tộc của họ. Ngày càng có thêm nhiều
người chọn đế quốc.
12
Luật của Tôn Giáo
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Apr/2015 - đọc lại Oct/2018)
[1] Romance languages: nhóm những ngôn ngữ Indo-European có gốc
Latin, chủ yếu là tiếng nói của những nước Pháp, Spain, Portugal, Italy, tiếng
Catalan (vùng Catalonia.Spain), Occitan (vùng Languedoc, Pháp), và nước
Romania.
[2] polis
[3] [Nahum Megged, The Aztecs (Tel Aviv: Dvir, 1999
[Hebrew]), 103.]
[4] Palestine
[5] Western Roman Empire và Eastern Roman
Empire (hay Byzantine Empire)
[6] Truyện kể trong sách Thánh, nhân vật
Jonah sau khi bị cá nuốt, nằm trong bụng cá 3 ngày 3 đêm nhưng không chết. (Tác
giả mỉa mai những chuyện tưởng tượng không thật, nhưng đông đảo tin theo, ngầm
chỉ chính câu chuyện Giêsu, sống lại sau khi chết chôn đã 3 ngày)
[7] [Tacitus, Agricola, ch. 30 (Cambridge, Mass.:
Harvard University Press, 1958), 220–1.]
Nguyên văn
“Auferre, trucidare, rapere, falsis nominibus imperium; atque, ubi solitudinem
faciunt, pacem appellant.” – có nhiều bản dịch tiếng England, bản phổ thông
(Loeb Classical Library, Harward) là: “They plunder, they slaughter, and they
steal: this they falsely name Empire, and where they make a wasteland, they
call it peace”.
Tương tự,
trong lịch sử hiện đại, giữa đế quốc Mỹ và Vietnam, Robert Kennedy tuyên bố như
sau, một trong những diễn văn khi đang tranh cử tổng thống Mỹ, trước khi ông bị
ám sát:
“The commander of the American forces at Ben Tre said we had to
destroy that city in order to save it. So 38,000 people were wiped out or made
refugees. We here in the United States – not just the United States government,
not just the commanders of and forces in South Vietnam, the United States
government and every human being that’s in this room – we are part of that
decision and I don’t think that we need do that any longer and I think we
should change our policy.
I don’t want to be part of a government, I
don’t want to be part of the United States, I don’t want to be part of the
American people, and have them write of USA as they wrote of Rome: ‘They made a desert and they called it
peace.’ (Robert F. Kennedy, University of Kansas, March 18, 1968)”.
[8] Đế quốc Mughal cũng
gọi là đế quốc Mogul, Timurid, hay Hindustan cai trị tiểu lục địa India hơn 300
năm. (1526–1857)
[9] Dòng suy
nghĩ tương tự của nhữngngười Francetrước đây, tự cho mình có sứ mệnh “khai hoá
văn minh”, qua đó, một trong những vẫn khoe khoang là đã thiết lập được “Hòn
ngọc Viễn đông” (sau khi san bằng thành Gia Định, đồn Kỳ hoà, dinh ông Thượng,
chùa Khải Tường, chợ Điều Khiển, để lập đại lộ Charner, Bonard, chợ Bến Thành,
nhà thờ Đức bà, dinh Thống đốc,...). Cũng thế, còn gần gũi hơn nữa, là những
nhà truyền giáo Kitô, vốn mở đường và đồng hành với họ, cũng như với tất cả
những đế quốc thực dân khác. Những nhà truyền giáo Kitô, đem “phúc âm” và “tin
lành” (cùng gốc tư tưởng Trung đông) tuyên truyền khắp nơi; tự xem như sứ mệnh
thiêng liêng đi mở “nước Chúa”, làm tăng thêm “dân Chúa” – cho đến hôm qua, vẫn
không ngưng nghỉ lặn lội vào những vùng hẻo lánh nhất còn xót lại trên mặt đất,
nơi những Homo sapiens còn lạc hậu, hay những ốc đảo nghèo khổ giữa
những thành thị hiện đại, nhưng Homo Sapiens ở đó ít học, bị thua thiệt,
đứng bên lề, là những nô lệ lao động cho những xã hội vật chất giàu có. Sau đó,
họ khéo léo khai thác những con mồi này, lường gạt tinh vị hay trắng trợn để
những người này đi đến khước bỏ tôn giáo, tín ngưỡng, văn hoá cổ truyền, thay
vào đó, nhận lấy một thứ mê tín mới, một hình thức nô lệ tinh thần mới (phải
tin, phải yêu, phải sợ, phải cầu nguyện....). Như thế, những nhà truyền giáo
Kitô tuyên xưng rằng đã đem “tin mừng”, và sự “cứu rỗi” đến cho họ. Họ cũng có
thể nói “Chúng ta chinh phục những ngươi vì phúc lợi riêng của những ngươi”, và
như thế “vương quốc Chúa” rõ ràng là một đế quốc vĩ đại. Sản phẩm sinh thành
của đế quốc này là những “con chiên” Kitô, và những ai không tin vào nó, bị đe
doạ phải chịu số phận thiêu đốt đời đời trong hoả ngục. Đây mới đích thực là
một thứ đế quốc phi nhân tàn ác.
[10] xenophobic
[11] [A.
Fienup-Riordan, The Nelson Island Eskimo:
Social Structure and Ritual Distribution (Anchorage: Alaska Pacific
University Press, 1983), 10.]
[12] Tần thỉ hoàng đế – tôi giữ những tên
người tên đất Tàu theo phiên âm của bản tiếng England.
[13] [Yuri Pines,
‘Nation States, Globalization and a United Empire – the Chinese Experience
(third to fifth centuries BC)’, Historia 15
(1995), 54 [Hebrew].]
[14] revelation: vén tấm màn che lên, hé mở cho thấy sự
thật bí mật, chưa từng biết.
[15] thuật ngữ của những người Kitô, để biện
minh cho hành động tuyên truyền lừa dối, là “cải đạo” (đổi tôn giáo, nhưng có ý
là sang một tôn giáo đúng, thực) và “Đức tin” (tin tưởng như một đức hạnh)
[16] acculturation
[17] [Alexander
Yakobson, ‘Us and Them: Empire, Memory and Identity in Claudius’ Speech on
Bringing Gauls into the Roman Senate’, in On
Memory: An Interdisciplinary Approach, ed. Doron Mendels (Oxford: Peter
Land, 2007), 23–4.]
[18] liberalism, capitalism, Communism, feminism and nationalism
[19] thời kỳ England cai trị India (1858-1947)
[20] chai: trà đen uống nóng với sữa, chất ngọt
(đườnghay mật ong), và gia vị như quế, đinh hương;
sahib : “ông thày” (dùng ở India, gốc tiếng Urdu, < Arabic çāhib: bạn): một hình thức, thưa gửi,
tôn xưng, dành cho những người ngoại quốc (người England) để tỏ ý kính trọng.
[21] Ozone hole hay hole in ozone layer: The Earth is
wrapped in a blanket of air called the ‘atmosphere’, which is made up of
several layers. About 19-30 kilometres above the Earth is a layer of gas called
ozone, which is a form of oxygen. Ozone is produced naturally in the
atmosphere. The ozone layer is very important because it stops too many of the
sun’s ‘ultra-violet rays’ (UV rays) getting through to the Earth – these are
the rays that cause our skin to tan. Too much UV can cause skin cancer and will
also harm all plants and animals. Life on Earth could not exist without the
protective shield of the ozone layer. Scientists have discovered that the ozone
hole over Antarctica started in 1979, and that the ozone layer generally
started to get thin in the early 1980s.
The loss of the ozone layer occurs
when more ozone is being destroyed than nature is creating. One group of gases
is particularly likely to damage the ozone layer. These gases are called CFCs,
Chloro-Fluoro-Carbons. CFCs are used in some spray cans to force the contents
out of the can. They are also used in refrigerators, air conditioning systems
and some fire extinguishers. They are used because they are not poisonous and
do not catch fire. Most countries have now stopped using new CFCs that can be
released into the atmosphere, but many scientists believe we must stop using
old ones as well.
[22] greenhouse gas effect: A greenhouse is made of glass. It traps the Sun’s
energy inside and keeps the plants warm, even in winter. Greenhouse effect of
Earth’s atmosphere keeps some of the Sun’s energy from escaping back into space
at night: Earth’s atmosphere does the same thing as the greenhouse. Gases in
the atmosphere such as carbon dioxide do what the roof of a greenhouse does.
During the day, the Sun shines through the atmosphere. Earth’s surface warms up
in the sunlight. At night, Earth’s surface cools, releasing the heat back into
the air. But some of the heat is trapped by the greenhouse gases in the
atmosphere. If the atmosphere causes too much greenhouse effect, Earth just
gets warmer and warmer. Every place has its own climate, whether Arctic cold,
tropical warm, or something in between. Averaging them all together makes
global climate.
[23] NGO: nongovernmental organization