Saturday, November 16, 2013

Richard Dawkins – Huyễn Tưởng Gót (13)



Huyễn Tưởng Gót
Richard Dawkins

(The God Delusion)




Chương 5
Những gốc rễ của tôn giáo

Với một nhà tâm lý học theo thuyết tiến hóa, trước những quá đáng rườm rà phổ quát của những nghi lễ tôn giáo, với tổn hại của chúng về thì giờ, nguồn lực, đau đớn và thiếu hụt, làm người ta nên nghĩ rằng tôn giáo, cũng sinh động sặc sỡ như cái trôn của con khỉ đỏ đít, có thể là do thích nghi mà có. (Marek Kohn).


Cấp thiết nghiêm trọng theo Darwin


Mọi người đều có lý thuyết yêu chuộng riêng của họ cho câu hỏi tôn giáo từ đâu đến, và tại sao tất cả những nền văn hóa loài người đều có tôn giáo. Nó đem lại sự an ủi và khuây khỏa dễ chịu. Nó hun đúc sự kết đoàn trong những nhóm. Nó đáp ứng khao khát của chúng ta muốn hiểu lý do tại sao chúng ta hiện hữu. Tôi sẽ đi đến với những giải thích thuộc loại này trong chốc lát, nhưng tôi muốn bắt đầu với một câu hỏi trước, một câu hỏi có ưu tiên vì những lý do chúng ta sẽ thấy: một câu hỏi về chọn lọc tự nhiên theo học thuyết Darwin.

Biết rằng chúng ta là những sản phẩm của tiến hóa theo Darwin, chúng ta nên hỏi áp lực, hoặc những áp lực nào, chọn lọc tự nhiên ban đầu tạo ra, đã nghiêng thuận lợi cho sự thúc đẩy đến tôn giáo. Câu hỏi dành được sự cấp thiết từ những suy xét theo tiêu chuẩn Darwin về sự quản lý tiện tặn những nguồn lực. Tôn giáo thì rất tốn kém, rất lãng phí xa xỉ, và lựa chọn theo Darwin thường quen nhắm vào sự lãng phí, lấy nó làm mục tiêu để loại trừ. Thiên nhiên là một nhà kế toán hà tiện, bất đắc dĩ nếu phải tiêu thì dè xẻn từng xu, nhìn đồng hồ, trừng phạt sự lãng phí cỏn con nhất. Không ngơi và không ngừng, như Darwin giải thích, “chọn lọc tự nhiên là rà soát hàng giờ và hàng ngày, trên toàn thế giới, mọi biến thái, thậm chí chỉ một li một tí; từ chối những gì là xấu, gìn giữ và cộng lại tất cả những gì là tốt, âm thầm và vô cảm, bất cứ khi nào và bất cứ nơi nào nếu đem cho cơ hội, làm việc vào sự cải tiến của từng tổ chức hữu cơ của hữu thể”. Nếu một con thú sống trong hoang dã thường xuyên thực hiện một vài hoạt động vô dụng, lựa chọn tự nhiên sẽ nghiêng thuận lợi sang những cá nhân đối thủ, thay vào đó, là kẻ dành thời giờ và năng lực, cho sự sống còn và tái tạo. Thiên nhiên không thể kham nổi trò phù phiếm lấy sự phô trương khôn ngoan làm vui. Chủ nghĩa ích nhiều lợi đông mới đáng khen [1], tàn nhẫn là quân bài thắng trọn ván, ngay cả khi nếu nó không luôn luôn có vẻ như vậy.

Ở mặt ngoài của nó, đuôi của một con công là một trò phô trương khôn ngoan vào hàng xuất sắc. Nó chắc chắn không nghiêng thuận lợi cho sự sống còn của kẻ sở hữu nó. Nhưng nó quả thực có lợi cho những gene phân biệt nó với những đối thủ kém đẹp mắt hơn của nó. Cái đuôi là một quảng cáo, mua chỗ của nó trong thị trường kinh tế của thiên nhiên bằng cách thu hút những con mái. Cùng như thế thì đúng với công sức và thì giờ khi một con chim bower trống dành trọn cho con bower mái của nó: một thứ như đuôi bên ngoài (của con công, nhưng) làm bằng cỏ tươi, những cành non, những hạt berries nhiều màu, bông hoa, và khi quanh vùng sẵn có, những hột, những vật lỉnh kỉnh để trang sức[2], và những nắp chai [3]. Hoặc, để chọn một thí dụ không liên quan đến quảng cáo, có hiện tượng “bôi kiến” [4]: thói quen lạ lẫm của những loài chim, chẳng hạn như chim jay, của hiện tượng “tắm” trong một tổ kiến, hay nếu không thế, bôi kiến vào lông. Không ai chắc chắn lợi ích của sự “bôi kiến” là gì – có lẽ là một vài kiểu như làm vệ sinh, làm sạch bằng chùi bỏ những ký sinh trùng khỏi lớp lông vũ, có nhiều những giả thuyết khác nhau, nhưng không một nào trong chúng có bằng chứng ủng hộ mạnh mẽ. Nhưng không chắc chắn về phần chi tiết đã không – cũng không nên – ngăn những người theo thuyết Darwin từ bỏ đưa ra giả định, với tự tin rất lớn, rằng hiện tượng chim “bôi kiến” vào mình, phải là để “cho” một-gì đó. Trong trường hợp này, phán đoán thông thường có thể sẽ cùng đồng ý, nhưng lôgích Darwin có một lý do đặc biệt để suy nghĩ về việc như thế, nếu những con chim đã không làm điều đó, thống kê về những tiềm năng thành công di truyền của chúng sẽ bị thiệt hại, ngay cả khi chúng ta vẫn chưa biết chính xác thiệt hại theo lối nào. Kết luận đến sau hai tiền đề sinh đôi – rằng chọn lọc tự nhiên trừng phạt sự phí thời giờ và năng lực, và – rằng đã quan sát thấy không đổi là có những loài chim đã dành thì giờ và năng lực để “bôi kiến”. Nếu có một tuyên ngôn thu gọn trong chỉ một câu của nguyên tắc “thích ứng” này, nó đã được – công nhận là bằng những từ ngữ có phần cực đoan và phóng đại – Richard Lewontin, nhà di truyền học lỗi lạc trường Harvard, diễn tả: “Đó là có một điểm mà tôi nghĩ rằng tất cả những người theo thuyết tiến hóa đều thoả thuận, rằng đó là điều hầu như không thể nào để làm một công việc tốt hơn một sinh vật đang làm trong môi trường riêng của nó”. Nếu “bôi kiến” đã không có ích lợi tích cực cho sự sống còn và sinh sản, chọn lọc tự nhiên trước đây từ lâu đã nghiêng cân lợi thế sang phía cá nhân nào đã kiềm chế nó. Một người theo thuyết Darwin có thể bị lôi cuốn để nói cùng một điều về tôn giáo, như thế là sự cần thiết của thảo luận này.

Đối với một nhà theo thuyết tiến hoá, những nghi lễ tôn giáo “nổi bật như những con công trong một trảng rừng có mặt trời chiếu sáng” (câu văn của Dan Dennett). Hành vi tôn giáo là một tương đương, được viết-lớn-hơn cho con người, của sự tắm kiến hay sự xây dựng của chim bower. Nó thì tốn thì giờ, tốn năng lực, thường cũng hoang phí quá đáng trong trang trí công phu như bộ lông của một con chim “chim-thiên-đường”.[5] Tôn giáo có thể gây nguy hiểm cho đời sống của cá nhân sùng đạo, cũng như đời sống của những người khác. Hàng ngàn người đã bị tra tấn vì lòng trung thành của họ với một tôn giáo, bị những cuồng tín đàn áp, ngược đãi vì những gì vốn trong nhiều trường hợp là một một lòng tin có thể chọn lựa thay thế nhưng chỉ hơi phân biệt được là khác nhau. Tôn giáo tiêu thụ ngấu nghiến tài nguyên, đôi khi trên một quy mô rộng lớn. Một nhà thờ trung cổ có thể tiêu thụ một trăm nhân công trong hàng thế kỷ xây dựng của nó, nhưng không bao giờ được dùng làm nhà ở, hoặc cho bất cứ một mục đích nào có thể nhận là có ích. Đó có phải đã là một thứ kiến trúc của đuôi con công? Nếu có thế, là nhằm mục đích quảng cáo với ai? Âm nhạc trong nhà thờ và tranh vẽ trưng bày lòng mộ đạo đã độc quyền xử dụng phần lớn những tài năng thời Trung cổ và Phục hưng. Những người sùng đạo đã chết cho những gót của họ, và cũng giết người khác vì những gót của họ; tự đánh roi vào lưng họ cho đổ máu, tự thệ nguyện sống một đời độc thân không giao hợp nam nữ, không kết hôn, hoặc với im lặng cô đơn, tất cả trong sự phục vụ cho tôn giáo. Tất cả những điều đó để làm gì? Lợi ích của tôn giáo là gì?

Khi dùng từ “lợi ích”, theo Darwin, bình thường có nghĩa là một vài nâng cao mức độ, phẩm lượng, giá trị, làm mạnh thêm hơn cho sự sống còn của những gene của mỗi cá nhân. Những gì bị thiếu ở chỗ này là điểm quan trọng rằng lợi ích theo Darwin thì không chỉ giới hạn với những gene của những cá nhân tổ chức sinh vật. Có ba mục tiêu có thể thay thế được về lợi ích. Một phát sinh từ lý thuyết của sự chọn lọc nhóm, và tôi sẽ đi đến đó. Thứ nhì tiếp đến từ lý thuyết mà tôi ủng hộ trong The Extended Phenotype: những cá nhân bạn đang theo dõi có thể làm việc dưới ảnh hưởng thao túng của những gene trong một cá nhân khác, có thể là một ký sinh trùng. Dan Dennett nhắc chúng ta rằng chứng cảm lạnh thông thường là phổ quát trong tất cả những dân tộc của loài người, trong cùng một cách rất tương tự như tôn giáo, thế nhưng chúng ta không muốn đưa lên ý kiến là chứng cảm lạnh lợi ích cho chúng ta. Có rất nhiều những thí dụ đã biết về những động vật đã thao túng vào trong sự ứng xử theo một cách như để làm lợi về phần dẫn truyền của một ký sinh trùng sang một “khổ chủ” kế tiếp của nó. Tôi đã gói gọn điểm này trong “định lý chủ yếu về những phenotype được kéo dài” [6] của tôi: “Hành vi của một động vật có khuynh hướng để tối đa hóa sự sống còn của những gene “cho” hành vi đó, cho dù xảy ra là những gene đó có hay không có hiện diện trong cơ thể của động vật cụ thể thực hiện điều đó”.

Thứ ba, “định lý chủ yếu” có thể thay thế những “gen” với thuật ngữ tổng quát hơn, những “replicator”. Sự kiện rằng tôn giáo là ở khắp mọi nơi có thể có nghĩa là nó đã làm việc cho lợi ích của một vài điều gì đó, nhưng nó có thể không là cho chúng ta, hoặc cho những gene của chúng ta. Nó có thể là vì lợi ích của chỉ bản thân của chính những ý tưởng tôn giáo, tới mức mà chúng hành xử một phần nào trong một cách giống-như-gen, như những replicator. Tôi sẽ giải quyết điều này dưới đây, dưới nhan đề “Hãy bước nhẹ, vì bạn dẫm trên những meme của tôi [7]. Đồng thời, tôi nhấn mạnh thêm, với những cách giải thích truyền thống hơn của học thuyết Darwin, trong đó “lợi ích” được giả định để hiểu nghĩa là lợi ích cho sự sống còn và và tái sinh sản cá nhân.

Những dân tộc săn bắn hái lượm, như những bộ lạc thổ dân ở Australia, có lẽ sống trong một vài gì đó giống cách tổ tiên xa xưa của chúng ta đã sống. Triết gia khoa học Kim Sterelny của New Zealand / Australia tóm thu một tương phản nổi bật trong đời sống của họ. Một mặt, những thổ dân là những người sống sót tuyệt diệu dưới những điều kiện trong đó thử thách những kỹ năng thực tiễn của họ đến cùng cực. Tuy nhiên, Sterelny nói tiếp tục, thông minh như loài người của chúng ta có thể là, chúng ta thì thông minh một cách lệch lạc. Cũng chính những dân tộc là những người rất hiểu biết về thế giới tự nhiên, và biết làm thế nào để sống còn trong đó, đồng thời làm não thức của họ lộn xộn với những tin tưởng mà rõ ràng chúng sai lầm đến lấy tay sờ được, và với chúng, từ “vô dụng” là một cách nói nhẹ, quá độ lượng. Bản thân Sterelny quen thuộc với những dân bản xứ của Papua New Guinea. Họ sống sót dưới những điều kiện khắc nghiệt, gian khổ mới kiếm được miếng ăn, bằng “một sự hiểu biết chính xác đến mức huyền thoại về môi trường sinh học của họ” hằn sâu như vết roi khắc. “Tuy nhiên, họ kết hợp hiểu biết này với những ám ảnh sâu xa và tàn phá về sự ô nhiễm của kinh nguyệt phụ nữ, và về pháp thuật phù thủy. Nhiều những văn hóa địa phương bị giày vò khổ sở bởi khiếp hãi những phù thủy và phép thuật, và bạo lực đi kèm với những khiếp hãi đó”. Sterelny thách thức chúng ta giải thích “làm thế nào chúng ta đồng thời có thể vừa quá thông minh và quá đần độn” [8] .

Dù những chi tiết có khác biệt trên toàn thế giới, không văn hóa được biết nào lại không có một vài phiên bản của những nghi lễ tiêu phí thì giờ, tiêu phí tài sản, kích động sự thù địch, những hoang tưởng [9] phản-thực tại, sự phản-tác dụng sản-xuất của tôn giáo. Một vài cá nhân có học thức có thể từng từ bỏ tôn giáo, nhưng tất cả đều đã được nuôi dạy trưởng thành trong một nền văn hóa có tôn giáo, từ đó họ thường phải làm một quyết định có ý thức để bỏ đi. Câu nói đùa ở Bắc Ireland trước đây, “Vâng, nhưng bạn là một người không-tin-có-gót Thệ phản, hay một người không-tin-có-gót Catô?” sắc nhọn với sự thật cay đắng. [10] Hành vi tôn giáo có thể được gọi là một hành vi phổ quát của con người, trong cùng một lối như có thể gọi hành vi tình dục giữ những người khác giới tính. Cả hai sự khái quát hóa đều để xảy ra những trường hợp ngoại lệ cá nhân, nhưng tất cả những ngoại lệ đó chỉ hiểu tường tận, quá tường tận đến chua chát, được quy tắc mà từ đó chúng đã rời bỏ bước đi. Những thuộc tính nổi bật phổ quát của một chủng loại đòi hỏi một giải thích theo học thuyết Darwin.

Hiển nhiên, không có khó khăn trong việc giải thích lợi thế của hành vi tình dục, theo Darwin. Nó là về chuyện sinh con đẻ cái, việc làm ra trẻ nhỏ, ngay cả trong những dịp mà sự ngừa thai hoặc đồng tính luyến ái làm nó có vẻ thất bại. Nhưng thế còn những hành vi tôn giáo thì sao? Tại sao con người nhịn ăn nhịn uống, quỳ gối, phủ phục bái lạy, tự đánh bằng roi, gật đầu như ma dại vào một bức tường, kéo nhau đi thập tự chinh, hoặc nếu không thì đắm mình trong những thực hành tốn kém vốn có thể phí phạm hết đời sống, và trong những trường hợp cực đoan, chấm dứt đời sống?


Những Lợi thế Trực tiếp của Tôn giáo

Có một ít bằng chứng rằng tin tưởng tôn giáo bảo vệ con người khỏi những bệnh có liên hệ với sự căng thẳng tinh thần. Bằng chứng thì không mạnh, nhưng sẽ không ngạc nhiên nếu nó đã đúng, vì cùng một loại lý do như “chữa bệnh bằng lòng tin tôn giáo” có thể thành ra được việc trong một số trường hợp [11]. Tôi ước là đã không cần để nói thêm rằng những tác động có lợi thuộc loại như vậy, không có cách nào làm những tuyên xưng của tôn giáo tăng thêm giá trị về sự thực. Trong lời của George Bernard Shaw, “Sự kiện rằng một người tin vào Gót thì vui sướng hơn một người hoài nghi thì không thêm gì vào vấn đề hơn sự kiện rằng một người say rượu thì vui sướng hơn một người tỉnh táo.”

An ủi và làm vững dạ là thuộc vào phần những gì một y sĩ có thể đem cho một bệnh nhân. Điều này không nên vội bỏ ngay đi mà không suy nghĩ. Y sĩ của tôi không thực hành lối chữa bệnh dùng lòng tin, theo nghĩa đen của cách “đem cho những bàn tay” [12]. Nhưng nhiều lần, tôi đã từng được “chữa khỏi” một vài bệnh nhẹ ngay lập tức, bằng một giọng trấn an từ một khuôn mặt thông minh ngước lên từ một cặp ống nghe. Hiệu ứng chất thuốc vờ [13] đã có hồ sơ khảo cứu rõ ràng, và ngay cả không còn là rất bí ẩn. Những viên thuốc giả [14], hoàn toàn không gây tác động dược khoa, cho thấy có cải thiện sức khỏe. Đó là lý do tại sao những thử nghiệm thuốc mới theo phương pháp mù-đôi phải dùng những chất thuốc vờ như những kiểm soát. Đó là lý do tại sao những liều thuốc của homoeopathy [15] xem ra khỏi bệnh, mặc dù chúng đã được làm thật loãng đến mức chúng có cùng phân lượng thành phần tác động như sự kiểm soát chất thuốc vờ – zêrô những phân tử. Ngẫu nhiên, một phó sản do không may của sự lấn chiếm của những luật sư trên lãnh vực của những y sĩ, làm những y sĩ bây giờ sợ, không viết toa có chất thuốc vờ trong hành nghề bình thường. Hoặc qui định hành chính có thể buộc họ trong những ghi chú giấy mực, phải ghi là có chất thuốc vờ, mà bệnh nhân có thể tìm biết được, tất nhiên sẽ làm hỏng mục đích. Những người trị bệnh theo Homoeopathy có thể đạt được những thành công tương đối, không giống như những y sĩ truyền thống, vì họ vẫn được phép cho chất thuốc vờ – nhưng dưới tên gọi khác. Họ cũng có nhiều thì giờ dành vào việc nói chuyện hơn, và chỉ đơn giản là ân cần với người bệnh. Thêm nữa, trong buổi đầu của lịch sử lâu dài của nó, danh tiếng của Homoeopathy đã vô tình được tăng mạnh vì sự kiện là những biện pháp trị liệu của nó đã không làm gì tất cả – ngược lại với những thực hành y khoa chính thống y tế, chẳng hạn như làm chảy máu, vốn có tác động gây hại (về mặt khác).

Có phải tôn giáo là một chất thuốc vờ làm tuổi thọ kéo dài qua cách giảm bớt căng thẳng? Có thể, mặc dù thuyết này phải chịu được một tấn công dữ dội của những người hoài nghi, họ chỉ ra nhiều trường hợp trong đó tôn giáo là nguyên nhân gây nên, hơn là làm bớt căng thẳng. Thật khó để tin rằng, thí dụ, sức khỏe thì được cải thiện bằng trạng thái đau khổ, kéo dài như bán-vĩnh-viễn, về phạm tội, về sự tự cho mình “có tội” mà một người Catô Lamã có được, từ sự yếu đuối bình thường của con người, và từ sự thông minh thấp hơn bình thường. Có lẽ đó là không công bằng để chỉ nói về những người Catô. Nhà hài hước người Mỹ Cathy Ladman quan sát thấy rằng “Tất cả những tôn giáo đều giống nhau: tôn giáo về cơ bản là cảm xúc phạm tội, với những ngày lễ khác nhau” [16]. Dù trường hợp nào đi nữa, tôi thấy lý thuyết chất thuốc vờ không xứng đáng với hiện tượng tôn giáo phổ biến đông đảo trên toàn thế giới. Tôi không nghĩ rằng lý do chúng ta có tôn giáo là vì nó làm giảm mức độ căng thẳng tinh thần của tổ tiên chúng ta. Đó không phải là một lý thuyết đủ lớn cho sự việc, mặc dù nó có thể đã đóng một vai trò phụ thuộc. Tôn giáo là một hiện tượng lớn và nó cần một lý thuyết lớn để giải thích nó.

Những lý thuyết khác đều hoàn toàn hụt hẫng tất cả, không có những điểm quan trọng trong những giải thích theo Darwin. Tôi đang nói về những ý kiến nêu lên như “tôn giáo làm thỏa mãn sự tò mò của chúng ta về vũ trụ và chỗ đứng của chúng ta ở trong đó”, hay “tôn giáo thì an ủi”. Có thể có một vài sự thật về tâm lý ở đây, như chúng ta sẽ thấy trong Chương 10, nhưng không một nào trong hai, thì trong bản thân nó là một giải thích theo Darwin. Như Steven Pinker đã gắt gao trực tiếp về lý thuyết an ủi, trong How the Mind Work: “nó chỉ nêu lên câu hỏi rằng tại sao một não thức sẽ tiến hóa để tìm an ủi trong những tin tưởng mà nó rõ ràng có thể thấy là sai. Một người đương lạnh cóng không tìm thấy sự khây khỏa dễ chịu bằng cách tin tưởng rằng anh ta thì đương ấm áp; một người mặt đối mặt với một con sư tử thì không làm mình thành thoải mái tự nhiên bằng tin tưởng khăng khăng rằng đó là một con thỏ” [17]. Ở mức độ thấp nhất, lý thuyết an ủi cần phải được thông dịch vào những thuật ngữ của thuyết Darwin, và điều đó thì khó hơn là bạn có thể tưởng. Những giải thích tâm lý cho những tác dụng mà mọi người tìm thấy một vài tin tưởng dễ chịu hay khó chịu là những giải thích đến lưng chừng gần đúng, nhưng không rốt ráo sau cùng.

Những người theo thuyết Darwin làm rõ nhiều về sự khác biệt này giữa lưng chừng gần đúng và rốt ráo sau cùng. Giải thích lưng chừng gần đúng cho sự nổ bùng trong ống xi-lanh của một động cơ nổ liên quan đến bu-gi bật lửa điện. Giải thích rốt ráo sau cùng liên quan đến mục đích mà vụ nổ được thiết kế: để đẩy một piston trong xi lanh, do đó làm quay một crankshaft [18]. Nguyên nhân gần đúng của tôn giáo có thể là có nhiều hoạt động quá trong một vùng nhánh đặc biệt nào đó của bộ óc [19]. Tôi sẽ không theo đuổi ý tưởng của khoa thần kinh học về một “trung tâm gót” trong bộ óc, vì ở đây tôi không bận tâm với những câu hỏi tương đối, phoảng đoán gần đúng. Đó không phải là để làm giảm giá trị của chúng. Tôi khuyên bạn nên đọc Michael Shermer How We Believe: The Search for God in an Age of Science [20] để có một thảo luận rõ ràng và ngắn gọn, trong đó gồm cả ý kiến của Michael Persinger và những người khác nữa, nêu lên rằng thần thái nửa mê nửa tình, “thấy” những gì người quanh không thấy, như vẫn kể trong tôn giáo, chúng liên quan đến bệnh động kinh phần bộ óc ở bên trong khoàng vùng màng tang. [21]

Nhưng bận tâm của tôi trong chương này là những giải thích rốt ráo sau cùng theo Darwin. Nếu những nhà thần kinh học tìm thấy một “trung tâm gót” trong óc, những nhà khoa học theo Darwin như tôi vẫn sẽ muốn hiểu áp lực nào của chọn lọc tự nhiên nghiêng sang làm nó có lợi thếphát triển. Tại sao những người trong số tổ tiên chúng ta, những người đã có khuynh hướng di truyền để phát triển có một “trung tâm gót”, sống sót để có nhiều con cháu nối dòng hơn những đối thủ là những người đã không có chăng? Câu hỏi cuối cùng theo Darwin thì không phải là một câu hỏi hay hơn, không phải là một câu hỏi sâu xa hơn, không phải là một câu hỏi khoa học hơn so với câu hỏi ước đoán thần kinh. Nhưng nó là một câu hỏi mà tôi đang nói đến ở đây.

Những người theo thuyết Darwin cũng không hài lòng với những giải thích chính trị, chẳng hạn như “tôn giáo là một công cụ được giai cấp nắm quyền lực xử dụng để nô dịch những giai cấp bị trị thấp kém”. Điều đó chắc chắn là đúng với những nô lệ da đen ở nước Mỹ (trước đây), đã được những hứa hẹn về một đời khác đem cho họ sự an ủi, khiến sự bất mãn của họ với đời này đã khựng lại, và do đó những chủ nhân họ được hưởng lợi. Câu hỏi không biết có phải những tôn giáo đều do những thày chăn chiên duy kỷ bất chấp đạo lý, hoặc những nhà cai trị có ý đồ đã xây dựng, thiết kế nên hay không, là một câu hỏi thú vị nên theo dõi. Nhưng trong bản thân nó vẫn không phải là một câu hỏi theo thuyết Darwin. Những người theo thuyết Darwin còn vẫn muốn biết tại sao người ta thành mềm yếu, dễ dàng để mình bị thương tổn trước những mê hoặc quyến rũ của tôn giáo, và do đó mở ra tự đón những lợi dụng, bóc lột, và khai thác của những nhà chăn chiên, những nhà chính trị, và những vua chúa.

Một kẻ thao túng, duy kỷ bất chấp đạo lý đầy thủ đoạn, có thể dùng thèm muốn xác thịt như một dụng cụ của quyền lực chính trị, nhưng chúng ta vẫn cần giải thích theo Darwin lý do tại sao nó lại nên sự, thành công, được việc. [22] Trong trường hợp của thèm muốn xác thịt, ham muốn tình dục, câu trả lời thì dễ dàng: bộ óc của chúng ta đã được dựng lập để biết hưởng thú vui tình dục của quan hệ xác thịt, ở trạng thái tự nhiên của nó, trong khi “làm ra” những đứa con. Hoặc một tay thao túng chính trị cũng có thể dùng tra tấn để có được những mục đích của mình. Một lần nữa, theo Darwin lại phải cung cấp giải thích cho lý do tại sao tra tấn có hiệu lực; tại sao chúng ta sẽ làm hầu như bất cứ gì để tránh đau đớn mãnh liệt. Một lần nữa nó có vẻ rõ ràng đến mức nhàm chán, nhưng theo Darwin vẫn cần phải nói nó ra rõ ràng: chọn lọc tự nhiên đã thiết lập nhận thức về đau đớn như là một dấu hiệu của sự tổn thương cơ thể, đe dọa đến tính mạng, và đã “prôgram” chúng ta để tránh nó [23]. Những cá nhân hiếm hoi là những người không thể cảm thấy đau, hoặc không quan tâm về nó, thường dễ bị chết, hay chết non do những thương tích mà phần chúng ta còn lại đã có hành động thận trọng để ngừa tránh. Cho dù đó là sự quá ích kỷ chỉ biết mình không màng đến ai khác đã khai thác, hoặc cho dù nó chỉ thể hiện bản thân nó một cách đột ngột tự nhiên, những gì cuối cùng giải thích cho sự thèm muốn để có những gót?


Sự Chọn lọc Nhóm

Một vài những giải thích được gán cho là cuối cùng, quay ra là – hoặc được khẳng định công khai – những lý thuyết về “chọn lọc nhóm”. Chọn lọc nhóm là ý tưởng tranh luận rằng chọn lọc Darwin chọn giữa những chủng loại hay những nhóm khác của những cá nhân. Nhà khảo cổ học trường Cambridge, Colin Renfrew nêu ý kiến rằng đạo Kitô đã sống sót bằng một hình thức của sự chọn lọc nhóm, vì nó hun đúc ý tưởng về lòng trung thành trong-nhóm, và tình yêu thương anh em trong-nhóm, và điều này đã giúp những nhóm có tôn giáo sống sót, với tổn hại thiệt thòi cho những nhóm kém ý thức tôn giáo hơn. Người rao giảng tiên phong của lý thuyết chọn-nhóm ở Mỹ là D. S. Wilson, ông đã phát triển độc lập một đề nghị tương tự nhưng dài hơi hơn, trong Darwin’s Cathedral [24]

Dưới đây là một thí dụ được nghĩ ra, để cho thấy một thuyết chọn lọc nhóm về tôn giáo có thể giống như thế nào. Một bộ lạc với một “gót của những chiến trận” hiếu chiến sôi động, chiến thắng những bộ lạc đối thủ có những thần thúc dục hòa bình và hòa hợp, hoặc những bộ lạc không có gót nào cả. Những người ra trận, là người có lòng tin không lay chuyển rằng cái chết của một người tử đạo sẽ gửi họ thẳng lên thiên đường, họ sẽ chiến đấu dũng cảm, và nhiệt thành sẵn sàng từ bỏ đời sống của họ. Như thế, những bộ lạc với loại này của tôn giáo là có nhiều hứa hẹn sống sót trong chiến tranh giữa những bộ lạc, lấy gia súc của những bộ lạc bị chinh phục và chiếm những phụ nữ của họ như thê thiếp. Những bộ lạc thành công như vậy sinh sản con đàn cháu đống đông đảo thành những bộ lạc con, những bộ lạc con bùng lớn mở rộng và cũng sinh sôi nảy nở hơn nữa, thành nhiều những bộ lạc cháu, và tất cả đều thờ cùng một gót. Ý tưởng về một nhóm sinh sản, như tôm cá đẻ trứng hết chùm này đến chùm khác, hay giống một tổ ong dày nhung nhúc phải phân bầy, thì không là một lý lẽ không có vẻ hợp lý, nhân đây cũng nói thế. Nhà nhân chủng học Napoleon Chagnon đã vẽ bản đồ chỉ về sự tách đôi mở rộng như vậy của những làng (thổ dân), trong công trình nghiên cứu được ca ngợi của ông, về “Dân tộc Quyết liệt”, những người Yanomamo của rừng Nam châu Mỹ .[25]

Chagnon không là một người ủng hộ thuyết chọn lọc nhóm, và tôi cũng không. Có những phản đối kịch liệt với nó. Là một người đứng về một phái trong tranh cãi, tôi phải dè chừng và tỉnh táo để đừng cỡi con ngựa tinh thần yêu thích, đường Tiệm cận [26], của tôi đi lạc, lệch khỏi lối đi chính của quyển sách này. Một vài nhà sinh vật học, ngoài ý muốn của mình, tự cho thấy một sự lẫn lộn giữa chọn lọc nhóm đích thực, như trong thí dụ giả thuyết của tôi về thần chiến tranh, và một gì đó khác mà họ gọi là chọn lọc nhóm, nhưng khi xem xét kỹ lưỡng hơn, nó quay ra là sự chọn lọc những người thân, họ hàng cùng máu mủ, hay lòng thương người, lòng vị tha với ý mong được đáp trả (xem Chương 6). [27]

Những người trong phái chúng tôi, là những người giảm giá trị của thuyết chọn lọc nhóm, thừa nhận rằng nó có thể xảy ra trên nguyên tắc. Câu hỏi đặt ra là không biết liệu nó có tương đương với một sức mạnh đáng kể trong sự tiến hóa hay không. Khi nó được đọ sức với lựa chọn ở những cấp thấp hơn – Như khi chọn lọc nhóm được đưa ra như một giải thích cho sự tự hy sinh cá nhân – lựa chọn cấp thấp có nhiều cơ hội là mạnh mẽ hơn. Trong bộ lạc giả thuyết của chúng ta, hãy tưởng tượng có một chiến binh vị kỷ độc nhất trong một đạo quân bao trùm những người khao khát tử đạo, tha thiết chết cho bộ lạc và nhận một phần thưởng là thiên đàng. Người này sẽ chỉ hơi có ít cơ hội xảy ra hơn, là bị bên thắng tóm được, ở cuối trận chiến, vì hậu quả của sự bám giữ ở đằng sau (mọi người khác) để cứu lấy cái cổ của riêng mình. Sự tử đạo của những đồng đội sẽ lợi ích cho người này, nhiều hơn lợi ích cho mỗi người đã tử đạo, tính trên trung bình, vì họ bị chết hết. Người này có cơ hội hơn, là sẽ sinh sản được nhiều hơn những người kia, và gene của người vị kỷ này, vì từ chối sự chết vì đạo, đã có nhiều khả năng được sản xuất, tiếp tục sao chép vào những thế hệ tiếp theo. Do đó, trong những thế hệ tương lai, những khuynh hướng đưa đến sự tử đạo sẽ giảm bớt.

Đây là một thí dụ đùa vui đã được đơn giản, nhưng nó minh họa một vấn đề kéo dài lâu năm với lựa chọn nhóm. Những lý thuyết lựa chọn nhóm của tự hy sinh cá nhân là luôn luôn yếu đuối, dễ bị kéo đổ từ bên trong. Những cái chết và những tái sinh sản cá nhân diễn ra trên một mức độ thời gian nhanh hơn, và với tần số lớn hơn những sự tuyệt chủng nhóm, và những sự phân nhóm. Những mô hình toán học có thể được khéo uốn bẻ để sinh ra những điều kiện đặc biệt, vốn bên dưới chúng, sự lựa chọn nhóm có thể là có sức mạnh tiến hóa. Những điều kiện đặc biệt này thường không thực tế trong bản chất, nhưng nó có thể biện luận rằng những tôn giáo trong những nhóm người bộ lạc hun đúc chỉ đúng như vậy, bằng nếu không có những điều kiện đặc biệt không thực tế. Đây là một dòng lý thuyết thú vị đáng chú ý, nhưng tôi sẽ không theo đuổi nó ở đây, ngoại trừ thừa nhận rằng chính Darwin, mặc dù trong bình thường, ông đã là một người ủng hộ vững chắc sự lựa chọn ở mức độ cá nhân của những cơ cấu sinh vật, đã đến cũng gần như ông đã từng đến gần với sự lựa chọn nhóm, trong thảo luận của ông về những bộ tộc con người:

Khi hai bộ lạc của người nguyên thủy, sống trong cùng vùng đất, đi vào trong cạnh tranh, nếu một bộ lạc bao gồm (những trường hợp khác là giống bằng nhau) một số lượng lớn hơn những thành viên can đảm, đồng cảm, và trung thành, là những người luôn luôn sẵn sàng để báo trước cho nhau biết về nguy hiểm, để giúp đỡ và bảo vệ lẫn nhau; không phải nghi ngờ gì, bộ lạc này sẽ thành công nhất và chinh phục bộ lạc khác.. . Dân tộc ích kỷ và hay cãi vã sẽ không gắn bó, và không có sự gắn bó thì không có thể thực hiện được gì cả. Một bộ lạc nếu có những phẩm chất trên, trong một mức độ cao, sẽ lan rộng, và sẽ chiến thắng những bộ lạc khác, nhưng trong quá trình thời gian, phán xét từ tất cả quá khứ lịch sử, đến phiên nó se bị một vài bộ lạc khác vượt qua, những bộ lạc lại vẫn được ưu đãi còn nhiều hơn.[28]

Để thỏa mãn bất kỳ một nhà chuyên môn sinh học nào có thể đọc điều này, tôi nên nói thêm rằng ý tưởng của Darwin đã không là sự lựa chọn nhóm một cách chặt chẽ, trong ý hướng thực sự của những nhóm thành công sinh sản đông đảo những nhóm con, tần số của những nhóm con có thể được tính trong một quần thể dân số đông đảo gồm những nhóm. Đúng hơn, thay vào đó, Darwin đã hình dung những bộ lạc với những thành viên hợp tác một cách vị tha, chúng lan rộng và trở thành đông đảo hơn tính trên số lượng những cá nhân. Mô hình của Darwin thì giống hơn với sự lan rộng của sóc lông xám ở Anh với sự thiệt thòi của sóc lông đỏ: sự thay thế đến từ liên hệ với môi trường sống, không là lựa chọn nhóm đúng thực. [29]


Tôn giáo như một phó sản của một-gì-đó khác.

Dẫu trong trường hợp nào, bây giờ tôi muốn đặt chọn lọc nhóm qua một bên, và quay sang quan điểm của riêng tôi về giá trị sống còn của tôn giáo, theo Darwin. Tôi là một trong số ngày càng tăng những nhà sinh vật học xem tôn giáo như là một sản phẩm phụ của một gì đó khác. Tổng quát hơn, tôi tin rằng chúng ta, những người suy đoán về giá trị sống còn theo Darwin, cần “nghĩ sản-phẩm-phụ”. Khi chúng ta hỏi về giá trị sống còn của bất cứ một gì, chúng ta có thể là hỏi câu hỏi sai. Chúng ta cần viết lại câu hỏi theo một cách hữu ích hơn. Có lẽ thuộc tính nổi bật, trong đó chúng ta quan tâm (tôn giáo trong trường hợp này) không có một giá trị sống còn trực tiếp của riêng nó, nhưng là một sản phẩm phụ của một gì nào đó khác mà nó có. Tôi thấy hữu ích để giới thiệu ý tưởng sản phẩm phụ với một tương tự lấy từ lĩnh vực nghiên cứu riêng của tôi về hành vi động vật.

Những con bướm đêm [30] bay vào ngọn lửa nến đang cháy, và xem dường không giống một tai nạn. Chúng cố gắng vượt mọi cách của chúng để thực hiện một lễ thiêu thân cho chính chúng. Chúng ta có thể gắn nhãn cho nó là “hành vi tự thiêu”, và dưới cái tên xao động đó, tự hỏi cơ duyên nào mà lựa chọn tự nhiên lại có thể nghiêng sang ủng hộ nó. Điểm tôi muốn nói là chúng ta phải đặt lại câu hỏi trước khi chúng ta có thể ngay cả cố gắng đưa ra một trả lời thông minh. Đó không phải là tự tử. Mặt ngoài hiển nhiên xem như tự tử nổi lên như một hiệu ứng phụ không mong muốn, hoặc sản phẩm phụ của một gì đó khác. Một sản phẩm phụ của .. . sự-vật-việc-điều gì? Vâng, đây là một có-thể-có, vốn sẽ dùng để nêu lên điểm muốn nói.

Ánh sáng nhân tạo là một gì mới có gần đây trong cảnh đêm. Cho đến gần đây, những ánh sáng đêm duy nhất đã là mặt trăng và những vì sao. Chúng ở điểm vô cực quang học, do đó những tia sáng chúng phát ra là song song. Điều này phù hợp khít khao để chúng được dùng như la bàn. Côn trùng được biết là dùng những vật thể trên trời, như mặt trời và mặt trăng, để giữ chính xác một đường thẳng, và chúng có thể dùng cùng một la bàn, với dấu hiệu đảo ngược, để quay về tổ sau một chuyến bay quanh săn tìm. Hệ thống thần kinh của côn trùng là rất thành thạo trong việc thiết lập một quy tắc thực hành có ứng dụng rộng rãi của loại này: “Giữ vững một đường bay, so cho những tia sáng chạm vào mắt bạn, theo một góc 30 độ”. Vì những côn trùng có mắt kép (với những ống thẳng hoặc đường dẫn ánh sáng tỏa ra từ trung tâm của mắt, như những gai của một con nhím hedgehog), điều này tương đương trong thực tại với một gì đó cũng đơn giản như để giữ ánh sáng trong một ống cụ thể, hoặc một đơn vị của mắt nhìn nào đó [31].

Tuy nhiên, tia sáng dùng như la bàn tùy thuộc quan trọng vào sự kiện những vật thể trên trời nằm ở điểm vô cực quang học. Nếu không, những tia sáng không song song với nhau, nhưng đồng qui (về gốc) như những cây căm của một bánh xe (đạp). Một hệ thống thần kinh áp dụng một qui tắc thực hành 30-độ (hoặc bất kỳ một độ chính xác khác nào đó) với một ngọn nến gần đó, như thể đó là mặt trăng ở điểm vô cực quang học, sẽ lái những loài sâu bướm, qua quỹ đạo chao đảo hình xoắn ốc, bay thẳng vào ngọn lửa. Vẽ nó lên cho chính bạn, dùng một vài độ chính xác như 30 độ, và bạn sẽ tạo ra một đường logarith xoắn ốc thanh nhã đẹp đẽ, có tâm trong ngọn nến.

Mặc dù là việc sống chết trong trường hợp đặc biệt này, quy tắc thực hành có ứng dụng rộng rãi của loài bướm đêm, trên trung bình, vẫn còn là một quy tắc tốt, vì đối với một con bướm đêm, những lần nhìn thấy lửa nến là rất hiếm so với những lần nhìn thấy mặt trăng. Chúng ta không biết đến để chú ý tới hàng trăm bướm đêm đang âm thầm và vẫn giữ đúng đường bay theo ánh trăng, hay một ánh sao, hoặc ngay cả ánh sáng hắt lên không trung từ một thành phố ở rất xa. Chúng ta chỉ thấy những cón bướm đêm bay vào ngọn nến của chúng ta, và chúng ta hỏi câu hỏi sai: Tại sao tất cả những con bướm đêm lại tự tử? Thay vào đó, chúng ta nên hỏi tại sao chúng lại có hệ thống thần kinh dẫn đường giữ chặt một góc độ cố định với những tia sáng, một chiến thuật chỉ khi nó đi sai chúng ta mới nhận thấy. Khi câu hỏi được đặt lại, sự bí ẩn tan thành hơi bay mất. Không bao giờ đã là đúng để gọi đó là sự tự tử. Nó là một sản phẩm phụ, không thành công, của một la bàn bình thường vẫn hiệu quả, có ích.

Bây giờ, áp dụng bài học của sản phẩm phụ vào hành vi tôn giáo trong con người. Chúng ta quan sát được những số đông rất nhiều người – trong nhiều lĩnh vực, nó tương đương đến 100 phần trăm – là người nắm giữ những tin tưởng mà chúng mâu thuẫn thẳng thừng với những sự kiện khoa học có thể chứng minh được, cũng như với của những tôn giáo đối thủ những người khác tin theo. Người ta không chỉ giữ những tin tưởng này với sự xác quyết đam mê, nhưng dành thời giờ và nguồn lực vào những hoạt động tốn kém tuôn ra từ sự bám giữ chúng. Họ chết cho chúng, hoặc giết người vì chúng. Chúng ta sửng sốt kinh ngạc trước điều này, cũng giống như chúng ta đã kinh ngạc trước “hành vi tự thiêu” của loài bướm đêm. Chưng hửng, chúng ta hỏi tại sao. Nhưng điểm mà tôi muốn nói là chúng ta có thể đang hỏi câu hỏi sai. Những hành vi tôn giáo có thể là một sản phẩm phụ, không thành công, một sản phẩm không may đã xảy ra của một khuynh hướng tâm lý ẩn chìm cơ bản mà trong những trường hợp khác, là hữu ích, hoặc đã một lần là hữu ích. Theo lối nhìn này, khuynh hướng thiên trọng mà đã được chọn lọc tự nhiên, trong những thế hệ tổ tiên của chúng ta, đã không là tôn giáo per se [32]: nó đã có một vài lợi ích nào đó khác, và nó chỉ ngẫu nhiên biểu hiện như hành vi tôn giáo. Chúng ta sẽ hiểu hành vi tôn giáo chỉ sau khi chúng ta đã đặt lại tên cho nó.

Nếu, sau đó, tôn giáo là một sản phẩm phụ của một gì đó khác, một gì khác đó là gì? những gì là đối ứng với thói quen điều chỉnh hướng bay của loài bướm đêm bằng la bàn theo tia sáng từ những nguồn sáng trên trời cao? Những gì là những nét đặc biệt có lợi thế nguyên thủy mà đôi khi bị thất bại, không đến được kết quả muốn đến, (như đạn) bị bắn lạc, để tạo ra tôn giáo? Tôi sẽ cung cấp một gợi ý bằng cách minh họa, nhưng tôi phải nhấn mạnh rằng nó chỉ là một thí dụ về loại của điều tôi muốn nói, và tôi sẽ đi đến những gợi ý song song đã được những người khác đề nghị. Tôi gắn bó với nguyên tắc tổng quát – là câu hỏi nên được nêu đúng cách, và nếu cần, phải viết lại, – hơn là tôi với bất kỳ trả lời đặc biệt nào.

Giả thuyết cụ thể của tôi là về trẻ em. Hơn bất kỳ chủng loại nào khác, chúng ta sống sót bằng những kinh nghiệm tích lũy của những thế hệ trước, và kinh nghiệm cần được truyền lại cho trẻ em cho sự bảo vệ và tốt lành của chúng. Về mặt lý thuyết, trẻ em có thể học hỏi từ kinh nghiệm cá nhân rằng không nên đi quá gần một bờ vách đá, đừng ăn những hột màu đỏ chưa ai ăn thử bao giờ, đừng bơi tắm trong vùng nước đã biết có nhiều cá sấu. Nhưng, để nói tối thiểu nhất, rằng sẽ có một lợi thế chọn lọc với đầu óc trẻ con nếu có được quy tắc thực hành với ứng dụng rộng rãi: phải tin, không hỏi han gì cả, vào bất cứ điều gì những người-lớn của nó bảo nó. Vâng lời những cha mẹ của mình, tuân theo những già lão của bộ lạc, đặc biệt khi họ dùng một giọng nghiêm trọng, dọa nạt. Tin vào những người lớn của mình, không đặt câu hỏi. Đây là một quy tắc chung có giá trị với một đứa trẻ. Tuy nhiên, như với loài bướm đêm, nó có thể đi sai.

Tôi không bao giờ quên một bài giảng kinh hoàng, nói ở nhà nguyện trường tôi học khi tôi còn nhỏ. Kinh hoàng khi nhìn lại, đó là: ở thời gian đó, bộ óc trẻ con của tôi chấp nhận nó theo tinh thần dự định của người thuyết giáo. Ông kể cho chúng tôi một câu chuyện về một tiểu đội lính, đang thao tập cạnh một đường xe hỏa. Tại một thời điểm quan trọng, người trung sĩ huấn luyện viên sao lãng, bị mất chú ý, và ông đã không kịp ra lệnh ngừng lại. Những binh sĩ đã được huấn luyện rất kỹ phải chấp hành mệnh lệnh không hỏi han, nên họ cứ tiếp tục đều bước đi tới, thẳng vào đường sắt có một đoàn tàu đang lao tới. Bây giờ, dĩ nhiên, tôi không tin vào câu chuyện, và tôi hy vọng nhà truyền giáo cũng chẳng tin. Nhưng tôi đã tin vào điều đó khi tôi lên chín, vì tôi nghe, một người lớn có uy quyền với tôi, kể nó. Và cho dù ông có tin hay không, nhà thuyết giáo đã muốn trẻ con chúng tôi phải ngưỡng phục và lấy đó làm khuôn mẫu, sự phục tùng nô lệ và không chất vấn, cho dù vô lý đến đâu, một mệnh lệnh từ một nhân vật uy quyền. Nói cho bản thân tôi, tôi nghĩ chúng tôi đã ngưỡng phục điều đó. Như một người trưởng thành, tôi thấy gần như không thể nào kể công trạng rằng tự ngã thơ ấu của tôi đã có tự hỏi liệu tôi đã có thể có can đảm để làm nhiệm vụ của mình bằng cách bước đều theo đoàn vào gầm con tàu. Nhưng điều đó, cho những gì nó có giá trị, là tôi nhớ lại những cảm xúc của mình thế nào. Bài giảng rõ ràng là đã gây ấn tượng sâu xa với tôi, vì tôi đã nhớ nó và kể lại nó cho bạn.

Để công bằng, tôi không nghĩ rằng nhà chăn chiên thuyết giáo nghĩ rằng ông đem cho một thông điệp tôn giáo. Nó đã có nhiều phần quân sự hơn là tôn giáo, theo tinh thần của bài “Tiến lên Lữ đoàn Kỵ binh” của Tennyson, mà ông cũng có thể đã trích dẫn:

“Tiến lên Lữ đoàn Kỵ binh”
Có phải đã có một người mất tinh thần?
Không đâu, dù những chiến binh biết
một ai đó đã luống cuống:
Phần họ là không phải trả lời,
Phần họ là không hỏi lý do tại sao,
Phần họ là chỉ làm và chết:
Vào trong thung lũng của Tử thần
sáu trăm người phóng trên lưng ngựa.

(Một trong những bản thu âm sớm nhất và thô tạp nhất của giọng nói con người từng được thực hiện là của Lord Tennyson, chính ông đọc bài thơ này, và ấn tượng của sự cất tiếng nói trũng xuống dọc một đường hầm tối, dài từ những sâu thẳm của quá khứ, nghe dường như phù hợp đến lạ lùng ghê sợ) Từ quan điểm chỉ huy trên cao, sẽ là điều điên rồ nếu cho phép mỗi cá nhân người lính tự do quyết định có hoặc không chấp hành mệnh lệnh. Những quốc gia có binh đội của họ hành động theo sáng kiến riêng của mình chứ không phải là tuân theo mệnh lệnh có khuynh hướng thua trận. Từ quan điểm của quốc gia, điều này vẫn còn là một quy tắc thực hành tốt, ngay cả khi nó đôi khi dẫn đến những thảm họa cho những cá nhân. Binh lính được luyện tập để trở thành càng giống nhiều như máy móc tự động, hoặc những cômputơ, càng tốt.

Những máy cômputơ làm những gì chúng được bảo làm. Chúng nô lệ tuân theo bất kỳ hướng dẫn chi tiết bảo làm nào ghi trong ngôn ngữ viết prôgram riêng của chúng. Đây là cách thế nào chúng đã làm được những việc hữu ích trong việc sao-chép-viết-in bản vănlập-bảng-kế-toán tự động. [33] Tuy nhiên, như một sản phẩm phụ, không thể tránh khỏi, chúng cũng máy móc ngang như robot trong việc tuân theo những hướng dẫn chi tiết (dù có khi) bảo làm sai. Chúng không có cách nào để bảo rằng liệu một hướng dẫn chi tiết sẽ có tác dụng tốt hay xấu. Chúng chỉ đơn giản tuân theo, như những người lính có bổn phận là phải thế. Đó là sự vâng lời mù quáng không hỏi han, khiến cho những cômputơ thành có ích, và cũng là chính xác cùng một điều này làm chúng dễ dàng, không thể tránh, sẽ bị nhiễm những virusworm. [34] Một cômputơ prôgram được viết với ác tâm gây hại, lẻn vào máy, với mệnh lệnh hướng dẫn, lấy thí dụ, bảo rằng, “Hãy cóppy tôi và gửi tôi đến mọi địa chỉ được tìm thấy trong hardisk này”, mệnh lệnh này sẽ đơn giản được nghe theo, và sau đó lại được những cômputơ khác trên đường nó được gửi đi, tuân theo nhiều lần thêm nữa, nhân (số máy bị phá hoại) lớn lên với cấp số nhân. Là điều khó khăn, có lẽ không thể nào làm được, để nghĩ ra và chế tạo (như hiện nay) một cômputơ hữu ích, chỉ biết vâng lời, và đồng thời có thể miễn dịch, không bị nhiễm trùng.

Nếu tôi đã khéo làm được công việc (sửa soạn) làm mềm (nền suy nghĩ) của tôi, bạn sẽ đã có trọn vẹn luận chứng của tôi về bộ óc của trẻ em và tôn giáo. Lựa chọn tự nhiên xây dựng bộ óc trẻ em với khuynh hướng tin tưởng vào bất cứ điều gì cha mẹ và những trưởng lão bộ lạc nói với chúng. Sự tuân phục tin cậy như vậy thì có giá trị để sống còn: tương tự như con bướm đêm giữ vững đường bay theo ánh trăng. Nhưng mặt trái của sự vâng lời tin tưởng là sự khuất phục cả tin đến mức nô lệ. Sản phẩm phụ không thể tránh khỏi là sự yếu đuối, dễ tự bị tổn thương, bị virus não thức gây nhiễm độc. Vì những lý do rất tuyệt vời, liên hệ với sự sống còn theo Darwin, đầu óc trẻ con cần phải tin cậy cha mẹ, và những người lớn tuổi mà cha mẹ bảo chúng phải tin tưởng. Một hệ quả tự động là kẻ tin tưởng đó không có cách nào phân biệt lời khuyên tốt với lời khuyên xấu. Đứa trẻ không thể biết rằng “Đừng có chèo thuyền trong sông Limpopo đầy cá sấu” là lời khuyên tốt, nhưng “con phải giết cúng một con dê mỗi khi thấy trăng tròn, nếu không, mưa sẽ không rơi nữa”, thì tốt nhất chỉ là một sự phí thì giờ và mất những con dê. Cả hai lời nhắc nhở đều nghe đáng tin cậy ngang nhau. Cả hai đều đến từ một nguồn tôn kính và được truyền đi với một thành khẩn nghiêm trọng đòi hỏi kính trọng và đòi hỏi vâng lời. Cũng xảy ra như vậy với những mệnh đề nói về thế giới, về vũ trụ, về đạo đức và về bản chất con người. Và, rất có thể, khi đứa trẻ lớn lên và chính nó có con cái, tự nhiên nó sẽ chuyển toàn bộ đó sang con cái của riêng nó – vô nghĩa cũng như có nghĩa – dùng cùng một cách thế trang trọng đã được truyền nhiễm.

Trên mô hình này chúng ta nên trông đợi rằng, trong những khu vực địa lý khác nhau, những tin tưởng tùy tiện khác nhau, không một nào trong số chúng có bất cứ cơ sở thực tại nào, sẽ được truyền lại, sẽ được tin tưởng với cùng một xác quyết như những mảnh hữu ích của sự khôn ngoan truyền thống, thuộc loại giống như tin tưởng rằng phân bón thì tốt cho cây trồng. Chúng ta cũng nên trông đợi rằng những mê tín dị đoan và những tin tưởng phản thực tại khác sẽ tiến hóa theo từng địa phương– thay đổi qua những thế hệ – hoặc bằng cách trôi dạt ngẫu nhiên [35] hoặc do một vài loại tương đồng với sự lựa chọn theo Darwin, sau cùng cho thấy một mô hình của sự phân kỳ có ý nghĩa đáng kể từ một tổ tiên chung. Những ngôn ngữ trôi dạt ra xa từ một một nguồn nguyên sinh chung [36] nếu được có đủ thời gian trong sự phân tách địa lý (Tôi sẽ trở về điểm này trong một khoảnh khắc). Cùng một điều xem dường có vẻ cũng đúng với những tin tưởng tùy tiện và vô căn cứ, và những huấn thị, truyền xuống qua những thế hệ – những tin tưởng mà đã có lẽ đã gặp gió thuận chiều của sự có thể prôgram được cho hữu dụng của bộ óc trẻ em.

Những người điều khiển dẫn dắt tôn giáo đều nhận thức rất rõ sự yếu đuối dễ gây tổn thương của bộ óc con trẻ, và sự quan trọng của tiến hành nhồi sọ những giáo điều thật sớm. Dòng chăn chiên Jesus khoe khoang, “Hãy cho tôi đứa trẻ với bảy năm đầu đời của nó, và tôi sẽ cho bạn con người”, thì không phải là kém chính xác (hoặc nham hiểm) dù luận điệu quá sáo mòn tầm thường [37]. Trong thời gian gần đây, James Dobson, người sáng lập của phong trào “Tập trung vào gia đình”, [38] nổi tiếng bỉ ổi, thì cũng quen thuộc với nguyên tắc giống thế: “Những ai là người kiểm soát những gì con trẻ được dạy, và những gì họ kinh nghiệm – những gì họ thấy, nghe, nghĩ, và tin– sẽ ấn định những đường hướng tương lai cho đất nước” [39].

Nhưng hãy nhớ rằng, đề nghị cụ thể của tôi về sự cả tin hữu ích của não thức trẻ con chỉ là một thí dụ về loại gồm những sự việc mà có thể là tương tự với sự điều chỉnh hướng bay của loài bướm đêm theo ánh trăng hay ánh sao. Nhà nghiên cứu hành vi động vật Robert Hinde, trong Why Gods Persist [40], và nhà nhân loại học Pascal Boyer, trong Religion Explained [41], và Scott Atran, trong In God We Trust [42], đã độc lập phát huy ý tưởng tổng quát của tôn giáo như là một sản phẩm phụ của nhiều khuynh hướng tâm lý bình thường – nhiều những sản phẩm phụ, tôi nên nói, vì với những nhà nhân loại học là đặc biệt quan tâm để nhấn mạnh trên tính đa dạng của những tôn giáo trên thế giới, và thêm nữa cũng trên những gì chúng đều có chung. Những khám phá của những nhà nhân loại học có vẻ lạ lẫm với chúng ta, chỉ vì chúng là không quen thuộc. Tất cả những tin tưởng tôn giáo có vẻ kỳ cục, dại dột, kỳ quái, không tin nổi … với những người không lớn lên trong chúng. Boyer đã nghiên cứu về dân tộc Fang ở Cameroon, những người này tin …
… rằng những phù thủy, ở bên trong người, lại có thêm một cơ phận thân thể giống như một con thú-vật, con này ban đêm bay ra, và đi tàn phá hoa màu của người khác, hoặc đánh thuốc độc vào máu của họ. Họ cũng nói rằng đôi khi những phù thủy này kết tập, mở tiệc chiêu đãi lớn, nơi họ cắn xé những nạn nhân của họ, và hoạch định những tấn công trong tương lai. Nhiều người sẽ cho bạn biết, rằng có một người bạn của một người bạn, thực sự thấy những phù thủy bay trên làng vào ban đêm, ngồi trên một chiếc lá chuối và ném những mũi tên huyền bí xuống nhiều nạn nhân không ngờ.

Boyer tiếp tục với một giai thoại cá nhân:

Tôi đã đề cập đến những điều này, và những lạ lùng đường xa xứ lạ lý thú khác, trong một bữa ăn tối ở Đại học Cambridge, khi một trong những người khách mời của chúng tôi, một nhà gót-học nổi tiếng tại Cambridge, quay sang tôi và nói: “Đó là những gì làm cho ngành nhân loại học quá hấp dẫn và cũng quá khó khăn. Ông phải giải thích làm sao người ta có thể tin tưởng những vô nghĩa như vậy “. Nó làm tôi thộn mặt ra sững sờ. Cuộc nói chuyện đã tiếp tục chuyển sang đề tài khác, trước khi tôi có thể tìm thấy một phản ứng thích hợp – để loay hoay với ấm trà và bình nước (trên bàn).

Giả định rằng nhà gót học trường Cambridge đã là một người Kitô như số đông bình thường, ông đã có thể có tin tưởng vào một vài kết hợp của những điều sau đây:

• Trong thời của những tổ tiên, một người đã được sinh ra từ một người mẹ còn trinh, và không có cha về phương diện (tinh trùng) sinh lý học.

• Chính người không cha này đã gọi lớn tiếng một người bạn tên là Lazarus, người đã chết từ lâu đến phát thối ra rồi, và Lazarus tức thì sống lại.

• Bản thân người không cha này đã sống lại sau khi chết và chôn đã ba ngày.

• Bốn mươi ngày sau, người không cha này lên một đỉnh đồi, và sau đó thân xác biến mất vào trong bầu trời.

• Nếu bạn thầm thì những suy nghĩ riêng tư trong đầu bạn, người không cha, và “cha” của ông ta (ông này thì cũng chính là người không cha) sẽ nghe những suy nghĩ của bạn, và có thể hành động theo chúng. Ông có khă năng đồng thời nghe những suy nghĩ của tất cả mọi người khác trên thế giới.

• Nếu bạn làm một điều gì xấu ác, hoặc một điều gì tốt lành, cũng chính người không cha này nhìn thấy hết tất cả, ngay cả nếu không ai khác nhìn thấy. Bạn có thể được khen thưởng, hoặc bị trừng phạt tương xứng, tất cả gộp chung sau cái chết của bạn.

• Người mẹ còn trinh, của người không cha, không chết bao giờ, nhưng thân thể “bay lên cao” vào trong thiên đàng.

• Bánh bằng bột mì và rượu bằng nước nho, nếu được một người đóng vai chăn chiên (là người phải có đủ hai hòn dái) [43] ban phước “trở thành” thể xác, và máu của người không cha. 

Một nhà nhân loại học khách quan, chân ướt chân ráo, (từ rất xa lạ) lần đầu đến gặp tập hợp những tin tưởng này khi đi nghiên cứu thực tế ở trường Cambridge, sẽ làm gì với chúng?


Đã chín mùi tâm lý sẵn cho tôn giáo

Ý tưởng về những sản-phẩm-phụ tâm lý lớn dậy một cách tự nhiên từ lĩnh vực quan trọng và đang phát triển của khoa tâm lý học tiến hóa.


Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất 
(Jul/2013)



[1] utilitarianism
[2] [Trích dẫn trong Dawkins (1982: 30)] – Dawkins, R. (1982). The Extended Phenotype. Oxford: W. H. Freeman.
[3] bower
[4] anting
[5] Bird-of-paradise: tên một loài hoa, và cũng là tên một loài chim, vì màu sắc sực sỡ của chúng
[6] Phenotype: Tổng số những đặc tính được biểu hiện của một tổ chức sinh vật dưới ảnh hưởng của một tập hợp đặc thù gồm những yếu tố môi trường, không phụ thuộc vào genotype thực sự của tổ chức sinh vật. Là những kết quả từ phản ứng qua lại giữa genotype và môi trường. Có thể hiểu vắt tắt là sự biểu hiện vật lý bên ngoài của một sinh vật như phân biệt với cấu thành di truyền của nó (genotype) bên trong.
Genotype: Toàn bộ tập hợp gồm những gene trong một tổ chức sinh vật. Hoặc một tập hợp những alleles, chúng xác định sự biểu hiện của một đặc tính hay đặc điểm (phenotype)
Replicator: Đơn vị tự sao chép hoặc tạo ra một bản sao chính xác của một sợi polynucleotide, như DNA.
[7] Meme : xem chú thích của tôi trong Phụ lục về Tấm Cám, và Đọc Lại Tấm Cám
[8] [K. Sterelny, 'The perverse primate', in Grafen and Ridley (2006: 213-23).]
[9] Fantasy: hoang tưởng khác với tưởng tượng (imagination) – Tưởng tượng và hoang tượng, cả hai đều đề cập đến những hình ảnh được giữ hoàn toàn thuần túy trong não thức. Trí tưởng tượng là tên gọi cho khả năng vô tận mà con người mơ ước dựng lên bằng cách trộn các khái niệm trừu tượng mà họ đã đặt vào não thức của họ. Những khái niệm trừu tượng này được tạo ra khi chúng ta còn là con trẻ qua kinh nghiệm của chúng ta với các đối tượng thực tại trong thế giới. Hoang tượng là những hình ảnh không được kết nối với thế giới cụ thể.
[10] Xung đột kéo dài hàng thế kỷ (từ thế kỷ 17) cho đến nay ở Northern Ireland – giữa những những người Kitô, Thệ phản (Anh và Scot) và Catô (Irish), một trong những động cơ mãnh liệt nhất là dị biệt tôn giáo.
[11] Faith Healing: Chữa bệnh bằng tin tưởng tôn giáo được thành lập trên niềm tin rằng những người hoặc những nơi nào đó nhất định có khả năng chữa và làm lành– bệnh – rằng một ai đó hoặc một gì đó có thể làm khỏi bệnh hoặc chữa lành những vết thương chỉ qua một kết nối chặt chẽ với một quyền lực cao hơn. Chữa bệnh dùng tin tưởng có thể gồm sự cầu nguyện, hay hành hương, như đi viếng một thánh tích tôn giáo, hoặc chỉ đơn giản là một lòng tin mạnh mẽ vào một đấng tối cao. Chữa bệnh dùng tin tưởng được cho là bắt đầu ngay cả trước khi có lịch sử ghi chép của con người.
Ngày nay, thuật ngữ này trong phổ thông hiểu là trong đạo Kitô. Một số người diễn giải kinh Thánh, đặc biệt là Tân Ước, như giảng dạy vào niềm tin và thực hành, của chữa bệnh dùng đức tin. Trong kinh Thánh, cả Gót và những người thánh linh được cho là có sức mạnh để chữa bệnh. Qua năm tháng đến nay, bao gồm cả thế kỷ XX, đã có nhiều thuật kể về những vị thánh chiên thực hiện chữa bệnh bằng phép lạ. Ngày nay, đặc biệt ở Mỹ, một số giáo phái vẫn thực hành một số hình thức của chữa bệnh chỉ dùng tin tưởng tôn giáo.
[12] Tác giả chơi chữ – nguyên văn “laying on of hands” – “đem cho những bàn tay” – là một thành ngữ rất quen thuộc và là một ý tưởng nền tảng – một gì đó xung quanh ý niệm trao truyền sức mạnh tinh thần, ban phước lành, trong những sinh hoạt Kitô.
[13] placebo: chất thuốc vờ, chất thuốc không có dược liệu, dược liệu không hoạt động; nhắm tới tác động tâm sinh lý, thay vì sinh hóa, vật lý. Chất thuốc vờ này cũng được xử dụng để kiểm soát (so sánh) trong thí nghiệm chất thuốc mới, hay thử nghiệm thuốc mới để quan sát hiệu quả.
[14] dummy pills: viên thuốc-giả: những viên thuốc có hìn dạng và nhãn hiệu như thuốc thực, nhưng chỉ bằng bột, đường, hay nước,… hay chỉ có những chất thuốc vờ.
[15] Homoeopathy: (Homöopathie Đức – homéopathie Pháp) – nếu muốn theo Tàu thì gọi là “vi lượng đồng căn liệu pháp” dĩ nhiên “dịch” như thế, chỉ dùng một tên gọi ngoại lai, thay một tên gọi ngoại lai khác không giúp người đọc hiểu Homoeopathy là gì.
Homoeopathy là một hệ thống y học hoàn chỉnh có mục đích là hỗ trợ xu hướng tự nhiên của cơ thể con người để tự chữa bệnh . Nó thừa nhận rằng tất cả các triệu chứng của bệnh tật chỉ đơn thuần là một biểu hiện của bất hòa, mất cân bằng trong toàn thể con người, và chính bệnh nhân là đối tượng điều trị chứ không phải bệnh tật. Thuốc lấy từ các nguồn thực vật , động vật và khoáng sản. Một quá trình được gọi là potentization, trong đó các chất thuốc phải trải qua một loạt những pha loãng và lắc mạnh, làm giảm tác dụng không mong muốn của thuốc và một cách nghịch lý làm tăng sức mạnh của sản phẩm kết quả.
Một liều thuốc homoeopathic kích thích khả năng tự chữa bệnh của cơ thể, bằng cách huy động các hệ thống phòng thủ và làm việc trong những khía cạnh tinh thần, tình cảm và thể chất của con người. Các loại được sử dụng trong điều trị homoeopathic, mặc dù bề ngoài tương tự như các loại thuốc của y sĩ thông thường, nhưng có khác biệt đáng kể về nguồn gốc, cách chuẩn bị, và liều lượng. Nhìn theo một cách, đó là một chút giống như cố gắng để tìm đúng chìa khóa để mở một ổ khóa. Trong trường hợp này đó là việc lựa chọn đúng được các liều thuốc để chữa trị, hy vọng chúng sẽ tác động như kích thích thích hợp với cơ thể, để chính cơ thể người bệnh sẽ mở khóa của tiến trình tự hồi phục.
[16] Những lễ tôn giáo lớn như: Christmas (Kitô), Hanukkah (Juda), Kwanzaa (Pan-Africanism), Diwali (Hinduism) và Yule (bắc Âu) đều xảy ra trong tháng 12, trước sau Winter Solstice. Thực ra, chúng đều có gốc từ những lễ hội có trước những tôn giáo đó. Đánh dấu những mốc thời gian quan trọng trong đời sống con người định cư, họ quan tâm đến thời tiết vì là một thành tố hết sức quan trọng, sống còn và tái tạo hiểu như Darwin, của sinh hoạt nông nghiệp.
[17] Pinker, S. How the Mind Works (Norton, 1997) – Não thức làm việc thế nào
[18] chuyển động thẳng của piston trong xi lanh, nhờ chuyển động của trục quay crankshaft thành chuyển động quay vòng – khi điện bật lửa bugi đốt cháy hỗn hợp xăng trộn không khí từ ngoài đưa vào buồng nổ kín, không khí ở đây nở lớn, đẩy piston trong ống xi lanh.
[19] Hyperactivity in a particular node of the brain.
[20] Xem chú thích trước – Michael Shermer. How We Believe: The Search for God in an Age of Science. New York: W. H. Freeman and Co., 2000 Chúng ta tin tưởng như thế nào: Sự truy tìm Gót trong một thời đại khoa học.
Michael Persinger, một nhà thần kinh học tại đại học Laurentian, Canada, người đã thực hiện một thí nghiệm đặc biệt – bằng cách tạo kích thích, gây một “động kinh cực nhỏ” (micro-seizures) ở thùy thái dương trong não (temporal lobe), như thế đã tạo ra được một số những hiện tượng, có thể là những gì trước đây vẫn được thuật lại, mô tả là kinh nghiệm “tâm linh”, hay “siêu nhiên” – đó là cảm giác có một hiện diện khác lạ trong phòng; một kinh nghiệm ngoài-thân xác, ngay cả một thứ vẫn nghe nói là “cảm thấy có một gì đó”, thường nhắc bàn trong tôn giáo. Persinger gọi những kinh nghiệm này là những trạng thái “thoáng qua, hay nhất thời, của thùy não thái dương” (temporal lobe transients), hay là sự tăng giảm, hay bất cân bằng trong những mô thức chuyền bắn đi những nơrôn thần kinh, xảy ra trong thùy thái dương (vùng não bên trong, quanh màng tang, tai).
“Cảm thức về tự thân, chủ thể” (sense of self) hiểu như có một-gì-là-mình khác biệt với tất cả, Persinger nói, được lớp ngoài cùng của bán cầu trái, hay lớp chất xám vỏ não trái (left hemisphere temporal cortex) nắm giữ. Khi não bộ làm việc bình thường, điều này cũng giống như cảm thức của lớp vỏ não phải tương ứng. Khi hai hệ thống (cảm thức) này ở mỗi bán cầu vỏ não không còn phối hợp hoạt động bình thường, như khi có một động kinh nhỏ, hay một biến cố chốc lát, thoáng qua, – ông thiết lập được như kể trong thí nghiệm trên – giải thích được như là nguyên nhân khiến chủ thể có kinh nghiệm về một sự “hiện diện” trong phòng (trong thực tế đang quan sát, không có ai khác); và “hiện diện” đó có thể được cho là một thiên thần, một con quỉ, một người hành tinh, hay một bóng ma. Người đó cũng có thể có kinh nghiêm như rời bỏ cơ thể mình (như những kinh nghiệm gần-như-chết), hay ngay cả kinh nghiệm vẫn nói tới là “trông thấy” Gót.
Khi amygdala (khối chất xám, nhỏ bằng và có dạng như một hạt hạnh nhân, nằm cuối thùy thái dương) cũng can dự vào những biến cố chốc lát, thoáng qua (transient event) nói trên, những yếu tố xúc cảm tăng cường khiến kinh nghiệm rõ rệt hơn, và khi kinh nghiệm này kết nối với những chủ đề tinh thần, thần linh, nó có thể là một sức mạnh đưa đến những cảm giác mãnh liệt, “như thật” về tôn giáo. (theo Michael Shermer).
[21] temporal lobe epilepsy: temporal lobe: một trong bốn phần chính của bộ óc, nằm ở vị trí có bên ngoài là màng tang, quanh tai, đây vùng của ngôn ngữ, hình ảnh, thông tin, xếp đặt thông tin, ký ức, học hỏi.
[22] Rất phổ thông – xưa nay – mỹ nhân kế.
[23] tôi vẫn thấy từ “lập trình” là ngớ ngẩn – nên giữ là program là prôgram, hiểu đơn giản như trong phổ thông ngày nay là – một chuỗi những mệnh lệnh cho máy cômputơ thực hiện một công việc nào đó đã sửa soạn và ấn định trước; cũng vậy, hãy dịch computer là cômputơ. Nếu không liên hệ với cômputơ, dùng từ với nghĩa có trước là “chương trình”.
Dịch programlập trình cũng như đầu thế kỷ XX, chúng ta đã thử “dịch” automobile là “tự động xa” vậy, ngờ nghệch và buồn cười.
[24] David Sloan Wilson. Darwin’s Cathedral: Evolution, Religion, and the Nature of Society (University Of Chicago Press, 2003). Nhà thờ chính tòa của Darwin: Tiến hóa, Tôn giáo, và Bản chất của Tổ chức Xã hội.
[25] [N. A. Chagnon, 'Terminological kinship, genealogical relatedness and village fissioning among the Yanomamo Indians', in Alexander and Tinkle (1981: ch. 28).]
Người Yanomami (cũng còn gọi là Yanamamo, Yanomam, hay Sanuma) là một nhóm khoảng 20 đến 30 nghìn thổ dân Nam Mỹ, sống trong vùng hẻo lánh, khoảng trên 100 làng, rải rác hai bên biên giới giữa hai nước Venezuela và Brazil.
[26] Tangent
[27] reciprocal altruism
[28] [C. Darwin, The Descent of Man (New York: Appleton, 1871), vol. 1, 156.]
[29] ecological replacement.
[30] Moth
[31] ommatidium
[32] per se : nguyên văn – trong nội tại, trong tự thân của nó
[33] tạm dịch – ở đây – những thuật ngữ: word processing và spreadsheet calculations.
[34] virus: một prôgram hay một đoạn ngắn những mệnh lệnh hướng dẫn, được chuyển nhập lén lút hay bí mật mà chủ nhân không biết vào máy cômputơ, để hoạt động phá hoại. Worm: một prôgram hay một algorithm, tự sao chép, trong một network cômputơ để hoạt động phá hoại.
[35] random drift
[36] progenitor
[37] Câu châm ngôn vẫn cho là của những thày chăn chiên Jesuit của dòng Jesus, hội nhà thờ Roma Catô, một dòng tu lớn của Vatican, có truyền thống hoạt động trong lĩnh vực nghiên cứu, văn hóa, giáo dục: ''Give me a child for the first seven years, and you may do what you like with him afterwards.” Thường được hiểu là nhấn mạnh về sự quan trọng, có tác động lâu dài suốt một đời người của những hướng dẫn đạo đức và tôn giáo được bắt đầu sớm khi đầu óc đứa trẻ còn như “tờ giấy trắng”. Các câu khác:
“Give me the child, and I will mould the man”; hay “Give me the child for seven years, and I will give you the man”.
Luận điệu sáo mòn vì “kiến thức” đó không có gì cao xa, chúng ta cũng có câu tương tự: “Dạy con từ thuở còn thơ, dạy vợ từ thuở bơ vơ mới về”; khác biệt ở chỗ những cán bộ tôn giáo sử dụng nó với mục tiêu thâm hiểm, sớm biến đầu óc trẻ thơ thành mê tín và ngu muội, sớm bôi bẩn gần hết “tờ giấy trắng”, không còn chỗ cho những cao đẹp, tốt lành nếu có dịp đến muộn về sau nữa.
Hai hoạt động chủ yếu của những hội nhà thờ để phát triển, mang lại cơ hội bành trướng đắc lực trong bất cứ địa bàn hoạt động nào trên thế giới là: (a) giáo dục và (b) y tế, xã hội – các trường học là cơ sở hữu hiệu nhất – vừa thu hoạch lợi tức, uy tín tinh thần, tạo công ăn việc làm cho cán bộ của hội nhà thờ (nuôi người) – vừa thực hiện kế hoạch “trồng người”, sớm bắt tay vào chương trình nhồi sọ, đem những giáo điều, tin tưởng – trá hình cao thượng, đẹp đẽ – nhồi nhét vào những đầu óc yếu đuối; khi chúng ở tuổi sẵn sàng đón nhận, vì chưa đủ phát triển được năng lực tinh thần để biết lựa chọn, phê phán, so sánh. Và dưới những hình thức của những cơ sở cứu tế xã hội – đều có diện mạo tử tế, đầy đức đầy hình ảnh cao đẹp tinh khiết “vì người” – vị tha (nhà thương, nhà dưỡng lão, cô nhi viện, hội từ thiện, ...) – là những nơi đón nhận, thu nhặt những con người cũng yếu đuối, đã bị thời gian, bệnh tật tàn phá, hay nghịch cảnh tai biến cuộc sống hủy hoại làm suy xụp, trong những tình trạng là những con mồi lý tưởng – cả thân xác lẫn tinh thần đều suy nhược – nên rất dễ dàng bị bị tôn giáo nhiễm độc, chưa kể họ còn tự nguyện. Nên những nạn nhân này đều sẵn sàng đón nhận những hứa hẹn như đời sau, hy vọng như cứu rỗi, mà những điều này, lúc còn trẻ, khi còn lành mạnh, có sức khỏe hay đời sống bình thường, họ đều, nếu không biết, thì cũng ngần ngừ, khi nghe ai nói đến những huyễn tưởng, ảo vọng, hão huyền đó!
Không làm lạ, hội nhà thờ có những dòng tu chuyên hành nghề dạy học hay làm công tác y tế xã hội, và chúng ta có thể thấy bất cứ ở quốc gia nào, hội nhà thờ cũng có mục tiêu chết sống để sinh tồn, nói theo Darwin, là đòi cho được hoạt động trong hai lĩnh vực quan trọng đó: giáo dục và y tế – vừa nuôi người (cán bộ tôn giáo) vừa cấy, trồng người (tín đồ). Một chính quyền sáng suốt, đều phải đi đến tách bạch tôn giáo và chính trị (đem tăng lữ ra ngoài – Cách mạng Pháp với ảnh hưởng của Rousseau, Voltaire, Montesquieu) đều thường bắt đầu bằng chặt đứt, hay chặt bớt hai cánh tay ghê gớm của con bạch tuộc xảo quyệt, thao túng chính trị, nhưng gián tiếp và trá hình qua sự lũng đoạn não thức yếu đuối, bắt đầu với con trẻ, rồi thành những dân chúng mê tín, cuồng tín, phần đông sẽ thiển cận, vị kỷ, với tâm lý trong-nhóm, ngoài-nhóm. Nếu hai cánh tay này vươn ra lớn rộng, sẽ ít nhất là trì hoãn, hay làm cản trở tất cả những tiến bộ đạo đức, phát triển khoa học kỹ thuật, và hủy hoại những giá trị văn hóa nhân bản, hay dân tộc; nhưng phản-tôn giáo đó, trong toàn quốc gia, xã hội.
Chương 9 của tập sách, Dawkins sẽ trình bày lập trường của ông về vấn đề này, từ những kinh nghiệm đang có tại các quốc gia Âu Mỹ – cho thấy sự nguy hại của giáo dục – đặc biệt là giáo dục khoa học (ông kinh hoàng thấy ở Mỹ, tôn giáo thao túng khiến có địa phương toan tính đòi dạy thuyết thiết kế thông minh, không như một giả thuyết tôn giáo, nhưng như một giả thuyết “khoa học”, mong nó thế chỗ học thuyết Darwin). Theo tôi, tôn giáo, như Kitô/Islam, tự thân là một sự nô lệ hóa tư tưởng con người, nếu đặt giáo dục (phổ thông, và thế tục, dĩ nhiên) trong tay tôn giáo, chỉ làm sự nô lệ hóa tư tưởng đó thêm trầm trọng, khốc liệt và tất yếu đưa đến nguy hại, tàn phá con người đến mức không thể chữa chạy – thời Trung cổ Đen tối của châu Âu, với giáo dục kinh viện, trường học lẫn lộn với nhà thờ, hay là những nhà thờ trá hình, nên đúng hơn phải gọi là Trung cổ Kitô Đen tối, vẫn còn đủ chiếu sáng đến ngày mai cho chúng ta một thí dụ giản dị, cụ thể và hiển nhiên, tối thiểu không ai có thể làm ngơ, như không biết tác dụng kinh hoàng của thời Đen tối đó!
[38] [*Tôi lấy làm buồn cười khi tôi thấy “Tập trung vào cái gia đình khốn khổ của riêng bạn” dán trên cái cản sau của một chiếc xe ở Colorado, nhưng bây giờ dường như với tôi bớt đi buồn cười. Có lẽ một số trẻ em cần được bảo vệ khỏi sự nhồi sọ từ chính cha mẹ chúng (xem Chương 9).]
Focus on the Family: phong trào tôn giáo Kitô trụ sở chính ở My, có những lập trường lạc hậu như: chống ngừa thai, phá thai, chống hôn nhân hay tình yêu đồng tính, chủ trương đánh đòn học trò, và cầu nguyện trong lớp học,…tung những tin tức giả khoa học để tuyên truyền cho lập trường của mình về gia đình (loại như “có nghiên cứu khoa học” cho thấy hai phụ nữ không thể nuôi dạy con tốt được, trẻ con phải có cha mẹ khác phái mới tốt được, người có khuynh hướng đồng tính luyến ái có thể trị liệu được,. ..– tất cả đều không có, và không đúng.…)
[39] [Quoted in Blaker (2003: 7).] – Blaker, K., ed. (2003). The Fundamentals of Extremism: The Christian Right in America. Plymouth, MI: New Boston.
[40] Tại sao những Gót vẫn sống dai dẳngRobert A. Hinde, Why Gods Persist: A Scientific Approach to Religion (Abingdon, Oxford, UK: Routledge, 1999).
[41] Tôn giáo được giải thích – Boyer, Pascal. Religion Explained: The Evolutionary Origins of Religious Thought (New York: Basic Books, 2001)
[42] Scott Atran. Chúng ta tin Vào GótIn Gods We Trust: The Evolutionary Landscape of Religion (Oxford University Press, 2002)
[43] testicles – dịch theo Tàu là dịch hoàn, cũng chỉ vào cùng một bộ phận cơ thể, ở đây dĩ nhiên tác giả muốn mỉa mai – một truyền thống vẫn giữ chặt trong hội nhà thờ, đặc biệt Vatican; cho đến nay, chỉ nam phái mới giữ chức chăn chiên, đóng những vai cán bộ lãnh đạo; có thể nói hội nhà thờ là hội của nam phái, có đông đảo phụ nữ, nhung họ chỉ đóng vai phụ thuộc, tùng phục, đứng sau, bên trong. Không nên nghĩ phải dùng từ Tàu mới “tao nhã” hơn. Tao nhã chính yếu nằm ở cách nói, không trong những từ nói, và nếu vẫn nghĩ thế chúng ta sẽ vẫn theo vết xe đổ của những nhà Nho sính Tàu ngày xưa, cho rằng “nôm na là cha mách qué”. Họ muốn khoe kho chữ Tàu học nhờ của họ, nhưng cũng có ẩn ý rẻ rúng tiếng mẹ đẻ, không thể phủ nhận. Tại sao lại tự cho tiếng “nôm na” của mình “thấp” hơn, hay trong thí dụ ở đây là không tao nhã, kém thanh lịch không bằng tiếng Tàu? khi cả hai từ Việt, Tàu – như thí dụ này – “dịch hoàn” và “hòn dái” đều cùng chỉ một sự vật cụ thể? Về ngữ nghĩa (semantic) không có giá trị hơn, nhưng ít nhất phải đồng ý, chắc chắn là ngang nhau?