Saturday, November 2, 2013

Richard Dawkins – Huyễn Tưởng Gót (11)

Huyễn Tưởng Gót
Richard Dawkins

(The God Delusion)







Chương 4
Tại sao hầu như chắc chắn là không có Gót  (tiếp theo)

Nguyên lý loài người: phiên bản vũ trụ


Chúng ta không chỉ sống trên một hành tinh thân thiện, nhưng cũng trong một vũ trụ thân thiện. Nó dẫn đến từ thực tại về hiện hữu của chúng ta rằng những định luật vật lý phải là đủ thân thiện để cho phép sự sống phát sinh. Khi chúng ta nhìn bầu trời đêm, thấy những sao sáng, đó không phải là ngẫu nhiên, vì những vì sao là một điều kiện tiên quyết cần thiết cho sự hiện hữu của hầu hết những nguyên tố hóa học, và nếu không có hóa học, đã không thể có sự sống. Những nhà vật lý đã tính toán rằng, nếu những qui luật và những hằng số vật lý đã khác biệt ngay cả dù chỉ một tí, vũ trụ đã phát triển trong một cách mà sự sống sẽ không thể nào có thể có được. Những nhà vật lý khác nhau đã trình bày những cách khác nhau, nhưng kết luận luôn luôn giống nhau. Martin Rees, trong Just Six Numbers [1], liệt kê sáu hằng số cơ bản, đó là những con số mà người ta tin rằng ở chỗ nào cũng vẫn có trị giá như nhau trong toàn vũ trụ. Mỗi trong sáu con số này thì được điều chỉnh khéo léo, theo ý nghĩa là, nếu nó đã chỉ hơi khác đi một chút, vũ trụ sẽ khác biệt toàn diện, và giả định rằng cũng sẽ không thân thiện với sự sống .[2]


Một thí dụ trong sáu hằng số của Rees là mức độ hệ trọng của điều được gọi là lực “mạnh” [3], lực kết buộc những thành tố của một nhân atom: một lực hạt nhân nào nếu “phân lìa” một atom sẽ phải mạnh hơn nó. Nó được đo như là E, tỷ lệ tương ứng của khối lượng của một nhân hydrogen đã chuyển thành năng lượng khi hydrogen bị trộn nhập để tạo helium. Trị giá của con số này trong vũ trụ chúng ta là 0,00 “7, và điều xem ra nó dường như đã phải rất gần với trị giá này, ngõ hầu bất kỳ một hóa học nào (một điều kiện tiên quyết cho cuộc sống) hiện hữu. Hóa học như chúng ta biết, gồm sự kết hợp và tái kết hợp trong thiên nhiên của 90, hay khoảng như vậy, của những nguyên tố của bảng tuần hoàn. Hydrogen là nguyên tố đơn giản nhất và phổ biến nhất. Tất cả những nguyên tố khác trong vũ trụ, tận cùng đều được thực hiện từ hydrogen qua phản ứng tổng hợp hạt nhân. Phản ứng tổng hợp hạt nhân là một tiến trình khó khăn, nó xảy ra trong những điều kiện (nhiệt độ) cực kỳ nóng bên trong những ngôi sao (và trong bom hydrogen). Những sao tương đối nhỏ, chẳng hạn như mặt trời của chúng ta, chỉ có thể tạo được những nguyên tố nhẹ, như helium, nguyên tố nhẹ thứ hai trong bảng tuần hoàn, sau hydrogen. Cần những sao lớn hơn và nóng hơn để phát triển những nhiệt độ cao, cần thiết để “luyện” những nguyên tố “nặng” hơn, trong một chuỗi dây chuyền liên tục như thác chảy của những tiến trình ghép nổ tổng hợp hạt nhân, chi tiết được Fred Hoyle và hai đồng nghiệp tìm ra (Một thành tích mà, một cách bí ẩn, Hoyle đã không được chia giải Nobel cùng với những người kia). Những sao lớn này có thể phát nổ như những supernovas, khi phân tán vật chất của chúng, gồm những thành tố trong bảng tuần hoàn, vào thành những đám mây bụi. Những đám mây bụi này sau cùng đông đặc lại để thành những định tinh (sao) và những hành tinh mới, gồm cả của chúng ta. Đây là lý do tại sao trái đất giàu về những nguyên tố cao hơn và ở trên hydrogen phổ biến: những nguyên tố nếu thiếu chúng, hóa học và sự sống đã không thể có được.

Điểm liên quan ở đây là trị giá của “lực mạnh” rất quan trọng ấn định hiện tượng chuỗi nổ hạt nhân dây chuyền kéo lên đến nguyên tố nào trong bảng tuần hoàn. Nếu “lực mạnh” đó đã là quá nhỏ, tạm nói 0,006 thay vì 0,007, vũ trụ sẽ không có gì ngoài hydrogen, và kết quả là không có hóa học thú vị đáng chú ý nào. Nếu nó là quá lớn, tạm nói 0,008, tất cả hydrogen sẽ kết hợp để tạo những nguyên tố nặng hơn. Một hóa học mà không có hydrogen không thể tạo ra sự sống như chúng ta biết nó. Vì một điều, là sẽ không có nước. Giá trị Goldilock – 0,007 – thì vừa đúng để đem lại sự phong phú của những nguyên tố mà chúng ta cần cho một hóa học thú vị đáng chú ý và hỗ trợ sự sống.

Tôi sẽ không đi hết những con số của Rees còn lại. Kết luận cuối cùng cho mỗi con số này là giống nhau. Con số thực thì nằm trong một băng tầng Goldilock gồm những trị giá, mà nếu nằm ngoài chúng, sự sống đã không thể có. Chúng ta nên đối ứng với điều này thế nào? Tuy nhiên, lại lần nữa, một bên chúng ta có trả lời theo lối tin-có-gót, và bên kia, trả lời theo nguyên lý loài người. Người tin-có-gót nói rằng, khi thiết lập vũ trụ, Gót đã điều chỉnh những hằng số cơ bản của vũ trụ để mỗi hằng số nằm đúng trong vùng Goldilock của nó, cho việc sáng tạo sự sống. Như thể Gót đã có sáu núm vặn, ông có thể xoay đi xoay lại mỗi núm, dò thử từng tí một, và ông đã cẩn thận điều chỉnh mỗi núm vặn vào đúng trị giá Goldilock của nó. Vẫn như bao giờ, trả lời theo lối tin-có-gót thì tối mò không thỏa đáng hết sức, vì nó vẫn chừa lại sự hiện hữu của Gót vốn không giải thích được. Một Gót có khả năng tính toán những trị giá của sáu con số Goldilock ít nhất sẽ phải có xác xuất không thể xảy ra cũng bằng như xác xuất của sự kết hợp vừa vặn của chỉnh những con số đó, quả thực là có xác xuất rất khó xảy ra – vốn nó thực sự là tiền đề của toàn bộ thảo luận chúng ta đang có. Nó dẫn đến theo sau đó là trả lời của người tin-có-gót đã hoàn toàn thất bại trong việc thực hiện được bất kỳ một tiến bộ nào theo hướng giải quyết vấn đề đang có trên tay. Tôi không thấy có thay thế nào khác, ngoài việc loại bỏ nó, trong khi đồng thời kinh ngạc đến thán phục trước con số những người không thể nhìn thấy vấn đề, và họ có vẻ thực sự hài lòng với Luận chứng “Gót là người vặn núm quay vòng”.

Có lẽ lý do về tâm lý cho sự mù lòa hết sức kinh ngạc này có một gì đó liên hệ với sự kiện là nhiều người, không như những nhà sinh vật học, đã không được chọn lọc tự nhiên nâng ý thức của họ lên và không có được sức mạnh của chọn lọc tự nhiên để thuần hóa sự xem dường không thể nào có thể được. J. Anderson Thomson, từ viễn kiến của ông,  một y sĩ chuyên về bệnh tâm thần theo thuyết tiến hóa, chỉ cho tôi thêm một lý do nữa, những thiên kiến tâm lý có trong tất cả chúng ta, đều hướng về sự nhân vật hóa những vật vô tri vô giác như là những tác nhân. Như Thomson cho biết, chúng ta có khuynh hướng lầm lẫn bóng đen với một tên trộm, hơn là lầm lẫn tên trộm với một bóng đen. Một lầm lẫn quá đáng – “đoán già” là phí thì giờ. Một lầm lẫn thiếu sót – “đoán non” có thể chết người. Trong một lá thư gửi cho tôi, ông đã nêu ý kiến, rằng trong quá khứ tổ tiên chúng ta, thách thức lớn nhất của chúng ta trong môi trường chúng ta đã đến từ mỗi người với nhau. ”Di sản của điều đó là sự giả định thế chỗ tự động, thường là sợ hãi, về ý định con người. Chúng ta có một khó khăn lớn lao để nhìn thấy cho được bất cứ gì khác hơn nhân quả (giữa) con người”. Chúng ta, theo tự nhiên, đã tổng quát hóa điều đó với ý định thần linh. Tôi sẽ trở lại sự cám dỗ của “những tác nhân” trong Chương 5.

Những nhà sinh học, với ý thức của họ đã được sức mạnh của chọn lọc tự nhiên nâng cao để giải thích sự nổi lên của những điều xem dường không thể xảy ra, là có khó có thể hài lòng với bất kỳ lý thuyết nào lẩn trốn vấn đề của xác xuất không thể xảy ra, trong toàn bộ. Và phản ứng theo quan điểm tin-có-gót với câu đố bí ẩn của không thể xảy ra là một sự lẩn trốn với tỷ lệ quá lớn đến kỳ dị. Nó thì nhiều hơn là một phát biểu lại của vấn đề, nó là một khuếch đại dị hợm của vấn đề. Chúng ta sau đó, hãy quay sang nguyên lý loài người như lựa chọn thay thế. Trả lời của nguyên lý loài người, trong dạng tổng quát nhất của nó, là chúng ta có thể chỉ thảo luận câu hỏi trong loại vũ trụ mà nó có khả năng sản xuất chúng ta. Sự hiện hữu của chúng ta, như thế xác định rằng những hằng số cơ bản của vật lý đã phải nằm trong vùng Goldilock tương ứng của chúng. Trước câu đố bí ẩn về sự hiện hữu của chúng ta, những nhà vật lý khác nhau gắn bó với những loại giải pháp khác nhau của nguyên lý loài người

Những nhà vật lý thực tiễn và cứng đầu, nói rằng sáu núm vặn đó vốn ngay khởi đầu đã không bao giờ có tự do để xoay chuyển di dịch cho khác đi. Khi chúng ta sau cùng nếu đạt đến được một Lý thuyết về Tất cả [4] , vẫn hy vọng từ lâu, chúng ta sẽ thấy rằng sáu con số chìa khóa này, chúng phụ thuộc vào lẫn nhau, hoặc vào môt-gì khác vẫn còn chưa được biết rõ, theo những cách thức mà chúng ta ngày nay không thể tưởng tượng được. Sáu con số có thể thành ra không được tự do để thay đổi hơn là tỷ số giữa chu vi của vòng tròn với đường kính của nó [5]. Nó sẽ đến lượt hiện ra rằng chỉ có một con đường cho một vũ trụ được thành hình. Chẳng những còn diệu vợi mới cần đến Gót để xoay vòng sáu núm vặn, vì không có nút vặn nào để quay vòng.

Những nhà vật lý khác (Chính Martin Rees sẽ là một thí dụ) thấy điều này không thỏa mãn, và tôi nghĩ rằng tôi đồng ý với họ. Quả thực là hoàn toàn thuận lý nếu cho rằng chỉ có một cách độc nhất cho một vũ trụ hình thành. Nhưng tại sao một-cách đó đã lại phải là một thiết-lập-sẵn thuộc loại giống như thế cho sự tiến hóa cuối cùng sẽ xảy ra của chúng ta? Tại sao nó lại đã phải là loại vũ trụ mà có vẻ như thể, trong lời của những nhà vật lý lý thuyết Freeman Dyson, là “nó phải đã biết rằng sắp có chúng ta” ? Triết gia John Leslie dùng sự tương đồng với một tội nhân bị một đội súng hành quyết đem xử bắn. Cũng đúng là có thể có trường hợp tất cả mười tay súng sẽ đều bắn hụt tội nhân của họ. Với nhận thức muộn màng, người sống sót đã tìm thấy mình trong một vị trí để suy ngẫm vể may mắn của mình, hắn có thể nói vui vẻ, “Vâng, rõ ràng là tất cả họ đều bắn sai, hoặc tôi sẽ không còn được ở đây để suy nghĩ về nó”. Nhưng ông có thể vẫn còn nghi ngờ, tha thứ được, tự hỏi tại sao tất cả họ đều bắn sai, và loay hoay với giả thuyết cho rằng họ đã bị ai đó hối lộ, hay đều say rượu.

Phản đối này có thể được trả lời bằng đề nghị, vốn chính Martin Rees hỗ trợ, rằng có nhiều vũ trụ, cùng hiện hữu giống như những bong bóng của đám bọt, trong một “multiverse” – (hay “megaverse”, như Leonard Susskind thích gọi nó) [6]. Những luật và những hằng số của bất kỳ một vũ trụ, giống như vũ trụ quan sát được của chúng ta, đều là luật-địa phương. Multiverse như một toàn thể có một lượng thừa thãi những tập hợp của những luật-địa phương để lựa chọn thay thế. Nguyên lý loài người nhảy vào để giải thích rằng chúng ta phải là ở trong một trong những vũ trụ đó (có lẽ là một thiểu số) mà luật-địa phương của nó xảy ra ngẫu nhiên là thuận lợi cho sự tiến hóa cuối cùng xảy ra của chúng ta, và như thế là sự suy ngẫm cho vấn đề.

Một phiên bản thích thú của thuyết multiverse phát sinh từ những cân nhắc về số phận cuối cùng của vũ trụ chúng ta. Tùy theo trị giá những con số giống như sáu hằng số Martin Rees, vũ trụ chúng ta có thể có định mệnh sẽ mở rộng vô hạn định, hoặc có thể sẽ ổn định ở một trạng thái cân bằng, hoặc sự mở rộng có thể sẽ tự đảo ngược chiều và nó đi vào một sự co rúm, cuối cùng đưa đến cái gọi là sự “Co Rúm Lớn” [7]. Một vài mô hình Co Rúm Lớn sau đó đã bật ngược trở lại về sự mở rộng, và cứ tiếp tục như thế vô thời hạn, hãy tạm nói rằng, trong một chu kỳ thời gian 20-tỷ năm. Mô hình thông thường vẫn chấp nhận của vũ trụ chúng ta nói rằng thời gian đã bắt đầu từ vụ Mở Bùng Lớn, cùng với không gian, khoảng 13 tỷ năm trước. Mô hình chuỗi những Co Rúm Lớn sẽ chữa thêm vào tuyên bố trên: thời gian và không gian của chúng ta thực sự đã bắt đầu từ vụ Mở Bùng Lớn của chúng ta, nhưng điều này chỉ là vụ nổ mới nhất trong một chuỗi dài những vụ Mở Bùng Lớn, mỗi một chúng là khởi đầu bởi một Co Rúm Lớn đã chấm dứt vũ trụ trước đó trong chuỗi dài. Không ai hiểu những gì diễn ra trong một điểm có sự khác thường và duy nhất [8], như vụ Mở Bùng Lớn, vì vậy có thể mường tượng được rằng những luật và hằng số được đặt định lại với những trị  giá mới, mỗi lần như thế. Nếu chu kỳ bùng-nổ-mở rộng-co-ép rúm-lại đã được diễn ra bất tận mãi mãi như một (cái đàn) accordion vũ trụ, chúng ta có một chuỗi nối tiếp, hơn là một song song với nhau, của phiên bản của multiverse này. Một lần nữa, nguyên lý loài người cũng làm nhiệm vụ giải thích của nó. Trong tất cả những vũ trụ trong những chuỗi nối tiếp, chỉ một thiểu số đã có những núm vặn của chúng “điều chỉnh” với những điều kiện hữu cơ cho sự sống.Và, dĩ nhiên, vũ trụ hiện tại đã là một trong những thiểu số đó, vì chúng ta đang ở trong nó. Vì thế thành ra, phiên bản chuỗi những multiverse này, bây giờ phải được đánh giá kém có khả năng xảy ra hơn không như một lần trước đây, vì bằng chứng gần đây thì đang bắt đầu để lái chúng ta xa khỏi hướng của mô hình Mở Bùng Lớn. Giờ đây, nhìn như thể hữu vũ trụ chúng ta có ý định không ngừng mở ra lớn rộng mãi mãi.

Một nhà vật lý lý thuyết, Lee Smolin, đã phát triển một biến thể theo Darwin, làm ao ước đến trêu ngươi, trên lý thuyết multiverse, gồm cả hai yếu tố chuỗi nối tiếp và song song. Ý tưởng của Smolin, đã khai triển trong The Life of the Cosmos, có bản lề dựa trên lý thuyết rằng những vũ trụ con-gái đã được những vũ trụ cha mẹ sinh ra, không phải từ trong một Co-Rúm-Lớn toàn vẹn còn đủ lông đủ cánh, nhưng có nhiều phần hơn là từ những Hố-đen. Smolin thêm vào một hình thức của tính di truyền: những hằng số cơ bản của một vũ trụ con-gái là những phiên bản hơi “đột biến” của những hằng số của cha mẹ nàng. Di truyền là thành tố thiết yếu của sự chọn lọc tự nhiên theo Darwin, và phần lý thuyết còn lại của Smolin đi theo Darwin một cách tự nhiên. Những vũ trụ nói đến đó, có những gì nó cần để “sống còn” và “tái tạo”, chúng trở nên ưu thắng trong multiverse. “Những gì nó cần” bao gồm sự lâu dài đủ để “tái sản xuất”. Vì những hành động sinh sản diễn ra trong những Hố đen [9], nên những vũ trụ thành công phải có những gì nó cần để làm những Hố đen. Khả năng này kéo theo nhiều thuộc tính khác. Thí dụ, khuynh hướng để vật chất ngưng tụ thành những đám mây (vũ trụ) và sau đó thành những ngôi sao là một điều kiện tiên quyết để làm những Hố đen. Những ngôi sao cũng vậy, như chúng ta đã thấy, là những gì phải có trước cho sự phát triển của hóa học lý thú, và như thế có sự sống. Thế nên, Smolin đưa lên ý kiến, đã có một sự chọn lọc tự nhiên theo lối Darwin của những vũ trụ trong multiverse, trực tiếp thiên về sự tiến hóa của Hố đen, và gián tiếp thiên về sự sinh thành của sự sống. Không phải tất cả những nhà vật lý đều nồng nhiệt với ý tưởng của Smolin, mặc dù Murray Gell-Mann, một nhà vật lý đoạt giải Nobel, được trích dẫn khi nói: “Smolin? Có phải là cái ông trẻ tuổi đó, với những ý tưởng điên rồ? Ông ta có thể không phải là sai đâu”. [10] Một nhà sinh học tinh nghịch có thể tự hỏi không biết có phải một vài nhà vật lý khác thì cần một sự nâng cao ý thức theo thuyết tiến hóa Darwin hay không. [11]

Là như bị quyến rũ để nghĩ (và nhiều người đã không chống lại nổi) rằng đưa lên giả định có một số lượng tràn đầy những vũ trụ là một xa xỉ hoang phí vốn không nên được cho phép. Nếu chúng ta sẽ cho phép sự ngông cuồng quá đáng của một multiverse, theo lối biện luận như thế, chúng ta cũng có thể thà bị treo cổ cướp lấy cả con cừu lớn thay vì chỉ một con chiên con, và cho phép là có một Gót. Không phải chúng cả hai đều là những giả thuyết đưa ra cho một mục đích đặc biệt và không kiêng khem dè xẻn hay sao, và cũng đều không thỏa đáng hài lòng? Những người nghĩ như thế là đã không có ý thức của họ được nâng lên bởi chọn lọc tự nhiên. Sự khác biệt chủ yếu giữa giả thuyết Gót thực sự quá đáng và giả thuyết multiverse xem ra có vẻ quá đáng là một khác biệt của xác xuất thống kê.  (Vũ trụ, không chỉ một nhưng muôn vàn vũ trụ chập chùng, đang sống động sinh diệt, ngoài kia), multiverse  – cho tất cả những gì mà nó là quá mức, thì đơn giản. Gót, hoặc một bất kỳ thông minh nào, chọn lựa quyết định, làm tác nhân tính toán,  sẽ phải là có xác xuất không thể xảy ra hết sức cao,  trong cùng ý hướng  xác xuất thống kê rất giống như những thực thể mà ông ta giả định là phải giải thích (sự hiện hữu của chúng). Multiverse có thể xem dường như ngông cuồng quá đáng, nhưng chỉ trong con số những vũ trụ. Nhưng nếu mỗi một trong những vũ trụ thì đơn giản trong những luật cơ bản của nó, chúng ta vẫn không nêu lên giả điịnh về bất cứ điều gì có xác xuất cao không thể xảy ra. Nhưng ngược lại phải nói là có xác xuất cao về phía đối nghịch, phía của bất kỳ một loại nào của thông minh.

Một vài nhà vật lý được biết là mộ đạo (Russell Stannard và nhà chăn chiên John Polkinghorne là hai thí dụ người Anh tôi đã có dịp nhắc). Có thể đoán trước, họ nắm ngay lấy xác xuất không thể xảy ra của những hằng số vật lý, tất cả đều được điều chỉnh vào trong những băng tầng chật hẹp nhiều ít của Goldilock, và cho rằng phải có một thông minh trong vũ trụ, là một ai đó chủ định đã thực hiện những điều chỉnh. Tôi đã bác bỏ tất cả những đề nghị loại như vậy, vì chúng nêu lên những vấn đề lại còn  lớn hơn là (vấn đề) chúng định giải quyết. Nhưng những người tin có Gót đã làm những gắng gỏi nào để trả lời? Làm thế nào để họ có thể đối ứng với lý luận rằng nếu một Gót, có khả năng của sự thiết kế một vũ trụ, điều chỉnh thật chu đáo, và nhìn xa trông rộng đoán trước đâu ra đấy để dẫn đến sự tiến hóa sinh học của chúng ta, phải là một thực thể vô cùng phức tạp và có xác xuất không thể xảy ra, là kẻ thậm chí cần một giải thích thậm chí còn lớn hơn là giải thích mà ông ta được giả định là cung cấp? [12]

Nhà gót học Richard Swinburne, như chúng ta đã biết để mong đợi, nghĩ rằng ông có một trả lời cho vấn đề này, và ông đã trình bày nó với chi tiết trong quyển sách của ông Is there a God?. Ông bắt đầu bằng cách cho thấy rằng tấm lòng của ông thì ở đúng chỗ khi chứng minh một cách thuyết phục rằng tại sao chúng ta nên luôn thích những giả thuyết đơn giản nhất phù hợp với những sự kiện. Khoa học giải thích những sự vật phức tạp nhưng nhìn trong những tác động qua lại của những sự vật giản dị hơn, sau cùng là những tác động qua lại của những hạt cơ bản. Tôi (và tôi dám nói cả bạn) nghĩ rằng đó là một ý tưởng giản dị tuyệt đẹp rằng tất cả mọi sự vật đều được những hạt cơ bản đó làm nên, mặc dù hết sức quá nhiều, nhưng chúng tất cả đều được rút ra từ một tập hợp nhỏ và hữu hạn của những loại của hạt cơ bản. Nếu chúng ta có hoài nghi, phải có lẽ là do chúng ta nghĩ rằng ý tưởng thì quá đơn giản. Nhưng đối với Swinburne nó không đơn giản chút nào, nhưng hoàn toàn ngược lại.

Cho rằng số lượng những hạt của bất kỳ một loại nào, hãy tạm mói những electrons, là lớn, Swinburne nghĩ rằng điều là có quá nhiều của một sự trùng hợp khiến cho số hết sức nhiều đến như thế lại đều cùng có những thuộc tính giống nhau. Một electron, ông có thể chấp nhận được. Nhưng những tỷ và những tỷ những electrons, tất cả đều có cùng những thuộc tính, đó là những gì thực sự kích thích sự nghi ngờ của ông. Đối với ông, điều đó sẽ là đơn giản hơn, tự nhiên hơn, ít đòi hỏi khắt khe hơn của giải thích, nếu tất cả những electrons đã là khác lẫn nhau. Tệ hơn nữa, không một electron nào lại tự nhiên giữ thuộc tính của nó lâu hơn một khoảnh khắc,  mỗi một chúng  nên thay đổi thất thường, tuỳ tiện và nhanh chóng từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác.. Đó là quan điểm của Swinburne về trạng thái tự nhiên của những công việc đơn giản. Bất cứ điều gì đi nữa mà đồng nhất hơn (những gì bạn hay tôi sẽ gọi là đơn giản hơn) đòi hỏi một giải thích đặc biệt. ”Đó là chỉ vì những electrons và những chút-xíu chất đồng,  và tất cả những đối tượng vật chất khác, đều có cùng năng lực trong thế kỷ hai mươi tương tự như chúng đã có trong thế kỷ mười chín, khiến những sự vật  là như chúng đang là giờ đây”.

Gót đi vào. Gót đến để giải cứu bằng cách duy trì, liên tục và với chủ ý kỹ càng, tất cả những thuộc tính của tất cả những tỷ và tỷ của những electron và những mảnh đồng, để làm trung hoà khuynh hướng khắc sâu tự nhiên của chúng, nếu như không thế, chúng chao đảo điên dại, biến động vô chừng và thất thường. Đó là lý do tại sao khi bạn đã từng nhìn thấy một electron, nghĩa là bạn đã nhìn thấy tất cả những electron khác, đó là lý do tại sao tất cả những mảnh-nhỏ-xíu của đồng phản ứng như tất cả những mảnh  đồng nhỏ-xíu khác, và đó là lý do tại sao mỗi electron và mỗi  mảnh đồng nhỏ-xíu vẫn giống hệt như nhau từ sát na này qua sát na khác và từ thế kỷ này sang  thế kỷ kia. Đó là vì Gót không ngừng rời mắt, buông tay dẫu chỉ một ngón trên từng và mỗi hạt, kiềm chế sự liều lĩnh thái quá của nó, và đánh nó,  lùa nó vào trong hàng ngũ với những đồng bạn của nó,  để giữ cho chúng tất cả cùng giống như nhau!.

Nhưng làm thế nào Swinburne có thể chủ trương được rằng giả thuyết này, với Gót không ngừng liên tục, cùng một lúc kềm giữ hằng hà sa số ngón tay trên những electron bướng bỉnh, lại là một giả thuyết đơn giản? Nó là, dĩ nhiên, điều ngược lại với đơn giản mới đúng. Swinburne lôi trò lừa ra đến thành công, tự mình lấy làm thỏa mãn, bằng một cú ngoạn mục của trí thức mặt dày mày dạn không biết xấu hổ là gì. Ông khẳng định, không có biện minh, rằng Gót là một thực chất duy nhất độc nhất. Thật là một hà tiện cực kỳ xuất sắc dành cho những nguyên nhân dùng để giải thích, so với tất cả những tỷ lần hàng tỷ những hà sa số những electron độc lập, tất cả chỉ xảy ra là giống nhau như cùng một khuôn!

Thuyết tin-có-gót tuyên bố rằng tất cả những đối tượng khác,  vốn hiện hữu là đã có nguyên nhân  hiện hữu và được giữ trong hiện hữu, bởi chỉ một thực thể,  Gót. Và nó tuyên bố rằng tất cả mọi thuộc chất vốn mỗi thực thể có, là do Gót đã tạo nên hay cho phép nó hiện diện. Nó là một dấu ấn nổi bật của một giải thích đơn giản để nêu lên định đề dùng một vài nguyên nhân. Có thể về phương diện này không có giải thích đơn giản hơn một giải thích đã đưa giả định chỉ một nguyên nhân. Thuyết tin-chỉ-một-gót thì đơn giản hơn thuyết tin-nhiều-gót. Và thuyết tin-chỉ-một-gót đặt định đề cho một nguyên nhân của nó, một người [với] quyền năng vô hạn (Gót có thể làm bất cứ điều gì nếu điều ấy có thể thuận lôgích), kiến thức vô hạn (Gót biết tất cả mọi điều mà có thể biết được một cách lôgích), và tự do vô hạn.

Swinburne nhún nhường rộng rãi rằng Gót không thể hoàn thành những kỳ công nào nếu về lôgích là không thể làm được, và người ta cảm thấy cảm ơn sự nhẫn nại nhún nhường này. Nhưng sau khi nói thế xong, quyền lực vô hạn của Gót đã được đặt xuống mà không có giới hạn nào trong những mục tiêu để giải thích. Có phải là khoa học có một chút khó khăn khi giải thích X? Không thành khó khăn đâu. Chẳng cần phải ghé mắt nhìn X thêm một lần, dù vội vàng đi nữa. Quyền lực vô hạn của Gót dễ dàng được tải thoắt đến ngay không tốn công sức nào,  để giải thích X (Cùng với tất cả mọi sự-vật-việc, đủ các-thứ-này-nọ khác), và nó thì luôn luôn là một giải thích đơn giản tột bực, vì sau cùng tất cả, chỉ có độc nhất một Gót. Còn gì có thể đơn giản hơn thế?

Vâng, trên thực tế, hầu như tất cả mọi thứ, (mọi sự-vật-việc, hết thảy các-thứ-này-nọ). Một Gót có khả năng liên tục giám sát và kiểm soát tình trạng riêng lẻ của mỗi hạt cấu-phần-atom [13]  trong vũ trụ không thể là đơn giản. Sự hiện hữu của ông sẽ cần một giải thích to lớn vượt quá mọi kích thước, tựa loài voi mammoth khổng lồ nay đã tuyệt tích, với quyền của nó riêng đòi phải có. Tệ hơn nữa (từ điểm nhìn theo hướng của sự đơn giản), những “bốn góc tám hướng mười phương” kia của hữu thức không lồ của Gót là đều đồng thời bận rộn với những việc làm và những cảm xúc và những cầu nguyện của tất cả từng con người một – và bất cứ gì là những người ngoài hành tinh có thông minh cũng có thể có trên những hành tinh khác trong galaxy này và 100 tỷ galaxy khác. Ông thậm chí, theo như Swinburne, đã phải liên tục đi đến những quyết định là không can thiệp kỳ diệu (như vẫn tin là) bằng  những phép lạ,  để mặc chúng ta, không cứu chúng ta khi chúng ta bị  bệnh ung thư. Điều đó sẽ không bao giờ làm được việc gì, vì “Nếu Gót nhất nhất đáp ứng mỗi cầu nguyện cho người thân để phục hồi, để khỏi bệnh ung thư, sau đó  bệnh ung thư sẽ không còn là một vấn đề cho con người để phải giải quyết”.  Và rồi như thế sau đó, chúng ta sẽ tìm kiếm phải làm gì đây với thời giờ của chúng ta? [14]

Không phải tất cả những nhà gót học đều đi xa đến thế như Swinburne. Tuy nhiên, đáng ghi nhận là ý kiến cho rằng giả thuyết Gót là đơn giản có thể tìm thấy được trong những tác phẩm gót học hiện đại. Keith Ward, lúc đó là giữ ghế giáo sư “Hoàng gia” của ngành gót học tại Oxford, đã rất rõ ràng về vấn đề này, trong quyển sách năm 1996 của ông, God, Chance and Necessity :

Như một vấn đề của thực tế, người tin-có-gót sẽ cho rằng Gót là giải thích rất thanh lịch, tiết kiệm  ngắn gọn và hiệu quả cho sự hiện hữu của vũ trụ. Nó là tiết kiệm  ngắn gọn vì nó kết buộc tất cả sự hiện hữu và bản chất của tuyệt đối tất cả mọi sự vật việc trong vũ trụ về chỉ một hữu thể, một cứu cánh cuối cùng vốn gán một lý do cho sự hiện hữu của tất cả mọi sự vật việc, bao gồm cả chính nó. Nó là thanh lịch vì từ ý tưởng chính yếu -  ý tưởng về một hữ thể toàn hảo nhất có thể có được – toàn bộ bản chất của Gót và sự hiện hữu của vũ trụ có thể được giải thích  dễ hiểu.

Giống như Swinburne, Ward lầm lẫn sự giải thích một điều gì đó có nghĩa là gì, và ông cũng có vẻ như không hiểu khi nói về một gì mà nó là đơn giản có nghĩa là gì. Tôi không rõ liệu Ward có thực sự nghĩ Gót là đơn giản hay không, hay liệu đoạn văn trên đã đại diện cho một thực tập có tính giai đoạn nhất thời “vì mục đích của luận bàn”. John Polkinghorne, trong Science and Christian Belief, trích dẫn phê bình trước đây của Ward về tư tưởng của Thomas Aquinas: “Sai lầm cơ bản của nó là trong giả định rằng Gót thì đơn giản một cách lôgích – đơn giản không chỉ trong ý nghĩa rằng hữu thể của ông thì không thể phân chia, nhưng trong ý nghĩa mạnh mẽ hơn là những gì là đúng sự thật của bất kỳ một phần của Gót là đúng thật của toàn bộ. Nó là hoàn toàn mạch lạc, tuy nhiên, để giả sử rằng Gót, trong khi không thể phân chia, là phức tạp trong nội tại”. Ở chỗ này, Ward nói đúng. Thật vậy, nhà sinh vật học Julian Huxley, năm 1912, đã định nghĩa sự phức tạp trong điều khoản của “không đồng nhất trong nội dung, tính chất” [15], qua đó ông có ý nói về một loại đặc biệt của chức năng không thể phân chia được.[16]

Ở những nơi khác, Ward cho bằng chứng về sự khó khăn có trong não thức gót học, khi cố nắm lấy để hiểu xem từ đâu đã đi đến sự phức tạp của sự sống. Ông trích dẫn một nhà gót học kiêm khoa học, nhà hóa sinh học Arthur Peacocke (người thứ ba trong bộ ba của tôi gồm những nhà khoa học người Anh sùng đạo), khi nêu lên định đề sự hiện hữu của vật chất sống của một “khuynh hướng cho sự phức tạp gia tăng”. Ward đặc trưng điều này như là “một vài đặt nặng của sự thay đổi tiến hóa trong đó ưu tiên cho sự phức tạp”. Ông tiếp tục bằng nêu lên ý kiến rằng một cái nhìn thiên lệch như thế “có thể là một vài đặt nặng trên quá trình đột biến, để đảm bảo đã xảy ra những đột biến phức tạp hơn”. Ward thì nghi ngờ điều này, và ông nên hoài nghi như thế. Động lực tiến hóa hướng đến sự phức tạp, trong những dòng dõi đó mà có đi đến xảy ra tất cả chăng nữa, không đến từ bất kỳ khuynh hướng thừa hưởng nào cho tăng lên phức tạp, và không phải từ sự đột biến thiên lệch. Nó đến từ chọn lọc tự nhiên: quá trình đó, như đến mức chúng ta biết, là quá trình duy nhất, cuối cùng có khả năng tạo ra sự phức tạp từ sự đơn giản. Lý thuyết chọn lọc tự nhiên là đơn giản đích thực. Cũng thế, là nguồn gốc mà từ đó nó bắt đầu. Điều đó khiến nó giải thích, về mặt khác, là phức tạp gần như vượt ra ngoài sự có thể nói được: phức tạp hơn bất cứ gì chúng ta có thể tưởng tượng, tránh được, tiết kiệm được (không phải cần đến) một Gót (cho là) có khả năng thiết kế nó.



Một tạm nghỉ xen giữa tại trường Cambridge


Trong một hội thảo gần đây về khoa học và tôn giáo ở Cambridge, nơi tôi đưa ra lập luận tôi đang gọi ở đây là luận chứng 747 Sau cùng, tôi đã gặp, để nói ít nhất, những gì là một thất bại thân hữu trong việc đạt đến một gặp gỡ của những não thức về câu hỏi sự đơn giản của Gót. Kinh nghiệm đã là một “hé mở sáng mắt”, và tôi mong chia xẻ nó với bạn đọc.

Trước tiên, tôi phải thú nhận (đó có lẽ là từ đúng) là hội thảo được Quỹ Templeton tài trợ. Thính giả đã được chọn lựa cẩn thận từng người từ một nhóm nhỏ gồm những nhà báo khoa học Anh và Mỹ. Tôi là tiêu biểu cho người không-tin-có-gót trong số mười tám diễn giả được mời. Một trong những nhà báo, John Horgan, kể lại rằng mỗi người trong số họ đã được trả món tiền kếch sù 15.000 $ để tham dự hội thảo, chưa kể tất cả những chi phí khác. Điều này làm tôi ngạc nhiên. Kinh nghiệm lâu dài của tôi về hội thảo của giới học giả đã không gồm trường hợp nào có những người dự thính (như ngược với những người diễn thuyết) lại được trả tiền để đến ngồi nghe. Nếu như tôi đã biết, lập tức đã nổi lên những nghi ngờ của tôi. Có phải Templeton đã dùng tiền của mình để mua chuộc những nhà báo khoa học và xoay chuyển tính trung thực khoa học của họ? 

Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất 
(Jul/2013)




[1] Đúng sáu con số  – Martin Rees. Just Six Numbers: The Deep Forces that Shape the Universe. Basic Books, 2000.
[2] [* Tôi nói “có lẽ”, một phần vì chúng ta không biết những hình thức của sự sống ngoài hành tinh này có thể khác biệt thế nào, và một phần vì điều có thể có được là chúng ta làm một sai lầm nếu chúng ta xem xét chỉ những hậu quả của sự thay đổi mỗi lần một hằng.Có thể có những kết hợp khác của những trị giá của sáu con số đó mà nó sẽ thành ra thân thiện với sự sống, theo những cách mà chúng ta không khám phá ra nếu chúng ta xem xét chúng chỉ dựa trên một con số mỗi lần? Dù sao đi nũa,, tôi sẽ tiếp tục, cho đơn giản, như thể chúng ta thực sự có một vấn đề lớn để giải thích về sự điều chỉnh xem ra tốt đẹp của những hằng số cơ bản.]
[3] Strong force  – Tổng quát, chúng ta biết có bốn “lực” tác động trong vũ trụ: lực hấp dẫn, lực điện từ, lực hạt nhân mạnh, và lực hạt nhân yếu ( gravity, electromagnetism, and strong and weak nuclear forces)
[4]A theory of everything (ToE) Hay lý thuyết cuối cùng là tên gọi chung cho bất kỳ một lý thuyết nào trong vật lý lý thuyết (theoretical physics) nếu sẽ có thể giải thích trọn vẹn và kết hợp vào cùng nhau tất cả những hiện tượng vật lý đã được biết cho đến nay, và cũng phải tiên đoán được những gì sẽ xảy ra khi thực hiện bất kỳ một thí nghiệm nào ứng dụng lý thuyết đó.
Khi Albert Einstein công bố thuyết tương đối đặc biệt của ông vào năm 1905, mặc dù bên ngoài có vẻ như vật lý Isaac Newton đã bị đẩy qua một bên, nhưng trong thực tế, Einstein đã sử dụng vật lý Newton như một cơ sở trên đó ông có thể dựng lý thuyết mới của mình. Vũ trụ thì quá phức tạp để chỉ một lý thuyết có thể giải thích nó tất cả, vì vậy các nhà vật lý phải dựa trên tổng hợp nhưng thành quả của các đồng nghiệp đi trước của họ để tìm hiểu chỉ những gì khiến vũ trụ đang hoạt động. Cơ học Newton, Điện học Faraday, Điều này bao gồm mô hình của vật lý hạt nhân, lý thuyết quantum của Max Planck bắt đầu năm 1900, và được cho là một trong những lý thuyết có ảnh hưởng nhất đến nay. Cơ học Newton mô tả tại sao một quả bóng lăn cuối cùng dừng lại. Thuyết tương đối Einstein giải thích lý do tại sao chúng ta không bi bắn văng vào không gian khỏi Trái đất đang quay. Cơ học quantum Max Planck giải thích lý do tại sao cùng một lực giữ chúng ta đứng vững trên trái đất  nhưng đồng thời không xé cơ thể chúng ta ra từng mảnh. Vấn đề duy nhất là, không một lý thuyết nào trong số những lý thuyết vật lý nói trên hoàn toàn, giải thích trọn vẹn tất cả mọi khía cạnh của vũ trụ. Hơn nữa, trong khi chúng ta biết rằng vũ trụ đang bị ảnh hưởng bởi bốn lực  – lực hấp dẫn, điện từ và lực hạt nhân mạnh và yếu  – chúng ta không biết rõ lực hấp dẫn (trong những cực lớn và cực nhỏ) làm việc cùng với ba lực kia((trong những cực nhỏ) như thế nào.  Giả định rằng phải có một mối chỉ phổ quát liên kết tất cả chúng với nhau: một Lý thuyết về Tất cả.
[5] Số Pi π
[6] Tôi thích giữ nguyên những danh từ khoa học, khi có thể; còn nếu muốn dịch tạm sẽ là: “đa vũ trụ”, và “vũ trụ lớn”.
[*Susskind (2006) đưa ra một quảng diễn rực rỡ tuyệt vời của nguyên lý loài người trong megaverse. Ông nói rằng hầu hết những nhà vật lý ghét ý tưởng này. Tôi không thể hiểu tại sao. Tôi nghĩ rằng nó thì đẹp – có lẽ vì ý thức của tôi đã được Darwin nâng lên.]
[7] Big Bang và Big Crunch: Mở Bùng LớnCo Rúm Lớn của Vũ Trụ:
1.
The Big Bang model: Mô hình Mở Bùng Lớn: Với quần chúng phổ thông, mô hình này có nghĩa là vũ trụ đã bắt đầu từ một điểm duy nhất, đã trải qua một sự bùng nổ, và kể từ đó vật chất vẫn tiếp tục bay tứ tán, theo mọi hướng tách ra xa khỏi nhau. Tuy nhiên, Big Bang thực sự KHÔNG phải là một vụ nổ gì hết tất cả. Đây là một cái tên gây nhầm lẫn đáng tiếc và những nhà vũ trụ học hiện nay muốn chữa lại cho đúng. Nhưng tên gọi này đã thành phổ thông, quá quen thuộc với số đông, gây hiểu lầm cho những ai không có kiến thức khoa học.
Theo như lý thuyết Big Bang, vũ trụ bắt đầu rất nóng và rất đậm đặc hơn ngày nay, đã mở rộng và theo thời gian đã nguội dần. Lý thuyết không nói đến sự “bùng nổ”, vì nếu thế đã phải có một gì bị nổ, bị bắn tung, từ một điểm trung tâm nào đó vào không gian chờ sẵn. Nhưng thuyết Big Bang nói rằng chính không gian đã mở rộng. Tất cả mọi sự vật (toàn vũ trụ) thì chạy ra xa lẫn nhau. Thuyết Big Bang thì thực sự là nói về một sự mở lớn của vũ trụ (an expansion of the universe). Không gian ở khắp nơi, mở rộng ra như nhau tất cả mọi hướng, nhanh bằng nhau. Một phương diện khó hiểu của thuyết Big Bang là ý tưởng rằng ở chính khoảnh khắc xảy ra Big Bang, vũ trụ đã hiện hữu trong một “điểm”, hay đúng hơn một duy nhất có nhiệt độ và mật độ đậm đặc vô cùng (a singularity of infinite temperature and density). Đây là chỗ đến nay vẫn chưa ngã ngũ và nhiều lý thuyết ra đời để giải thích về những “vô cùng” này, Có thể xem những “vô cùng” này là những thất bại, đã không thực sự mô tả được vũ trụ. Và đây là chỗ vẫn có những lý thuyết mới đưa ra để giải thích những khoảnh khắc khởi đầu này của hiện tượng chúng ta gọi là Big Bang - Mở Bùng Lớn – một từ do Sir Fred Hoyle, nhà thiên văn học lỗi lạc người Anh thế kỷ 20, người chủ trương Mô hình trạng thái ổn định của vũ trụ, đã có ý mỉa mai, gọi thuyết này là “Big Bang!”. Ông không tin theo lối giải thích – hiểu như – đánh đùng một cái (Bang) thật lớn (Big) rồi vũ trụ ra đời ! Vũ trụ theo ông lúc nào cũng có đó, sẽ mãi có đó, không có khởi đầu như kiểu Big Bang!

2.
Big Bang” là sự mở rộng hoặc kéo dài của không gian. Nên tôi tạm dịch là Mở Bùng Lớn. (Do những lý do trên, tôi không dùng từ “Vụ Nổ Lớn” vẫn có) Nó KHÔNG phải như vẫn thông thường hiểu là đã có những sự vật (hay những dạng sơ khai nào đó của vật chất, những hạt atom hay sub-atom chẳng hạn) đã bắt đầu, hay đang bay ra từ một điểm. Nhưng theo thuyết của mô hình Mở Bùng Lớn này, tất cả mọi sự vật đều đang di chuyển ra xa nhau. (hiện tượng vũ trụ mở rộng, trước đây, người ta tưởng chỉ có trong những giai đoạn đầu, nhưng nay cho thấy có những bằng chứng vũ trụ vẫn đang mở rộng, tuy không biết đến đâu và đến bao giờ!). Nó giống như có một tấm màn cao su vô hạn (hay cái võng lưới lớn bao la) với rất nhiều người ngồi trên đó. Kéo căng tấm cao su ra mọi hướng, và tất cả mọi người trên đó đều di chuyển ra xa nhau. Mỗi sự vật là đều đang ở trung tâm của một vụ mở lớn. Nó là một ảo ảnh quang học - tất cả mọi người di chuyển ra khỏi tất cả mọi người khác (những người trên tấm cao su, hay cái lưới võng lớn) và không có trung tâm. Tôi lập lại, không có chỗ nào, hay ở đâu là trung tâm cả! (tất cả vũ trụ, như chúng biết, ngay từ “điểm đó” ở Mở Bùng Lớn khởi đầu, và nó vẫn không là trung tâm, nhưng nó là toàn thể vũ trụ, và thực ra đến nay, sau khi đã mở rộng, chúng ta cũng không thể định được chỗ nào là trung tâm, Không có trung tâm của vũ trụ! Vũ trụ chúng ta bắt đầu với một Mở Bùng Lớn khoảng 14 triệu năm trước, và đã vẫn tiếp tục mở rộng từ đó. Thế nhưng không có một trung tâm của sự mở rộng, nó là như nhau ở khắp mọi nơi. Mở Bùng Lớn không nên được hình dung như một vụ nổ bình thường. Vũ trụ không mở rộng ra từ một trung tâm nào vào không gian cả, đúng hơn, toàn thể vũ trụ đang mở rộng và nó làm như vậy bằng nhau ở tất cả mọi nơi, như hiểu biết hiện nay theo các nhà bác học cho phép chúng ta có thể nói thế) – Chúng ta hãy  tưởng tượng diễn tiến này ngược lại, như kể một câu chuyện từ kết cục về mở đầu, hay chiếu phim một phim xinê ngược chiều, giật lùi thời gian, và như thế tấm màn cao su đàn hồi, bớt căng dãn dần dần, co lại hẹp hơn và mọi người lại thấy gần nhau hơn. Khi tất cả mọi người hết sức gần như vậy, đó là hiện tượng nén chặt – khi nén chặt, mọi người chồng chất trên đầu nhau, hay tất cả các atom hay sub-atom của toàn vũ trụ nén đặc lại cực nhỏ, vũ trụ là khối nén đó - đó là là sự khởi đầu của hình ảnh của vụ mở bùng lớn - điểm có vũ trụ nén chặt là điểm vũ trụ dị thường và độc nhất (the cosmic singularity): Tại điểm đó, vũ trụ có mật độ và nhiệt độ gần như vô hạn.

3.
Kể từ khi những nhà khoa học đầu tiên đề xuất lý thuyết Mở Bùng Lớn, nhiều người đã đặt câu hỏi và chỉ trích mô hình này. Thí dụ:
- Mở Bùng Lớn cho thấy vũ trụ bắt đầu từ con số không, như thế đã vi phạm Luật thứ nhất của nhiệt động lực học (the first law of thermodynamics), theo đó nói rằng vật chất hay năng lượng không thể tạo ra hoặc phá hủy được.
- Sự hình thành của những ngôi sao và những sông sao, Mở Bùng Lớn vi phạm Luật thứ nhì của nhiệt động lực học (the law of entropy). Luật này nêu rằng trong những hệ thống khép kín, theo thời gian có sự thay đổi là sẽ trở nên ít được tổ chức hơn; hay nói vắn tắt , sự “vô trật tự, hay lệch lạc” sẽ tăng dần theo thời gian.( the entropy of an isolated system will increase)
- Trong giai đoạn khởi phát – dù cực ngắn ngủi - Mở Bùng Lớn dường như vi phạm nguyên tắc là không gì có thể di chuyển nhanh hơn tốc độ ánh sáng. Tốc độ ánh sáng là một hằng số trong vũ trụ.
Những người ủng hộ lý thuyết Mở Bùng Lớn nói chung đều giải thích rằng những chỉ trích như vậy là không có cơ sở, vì hai lý do. Thứ nhất,  lý thuyết Mở Bùng Lớn không giải thích việc tạo lập vũ trụ (vũ trụ đã được tao lập bằng những gì, từ đâu?), nhưng đúng hơn là nói về sự hình thành, tiến hóa của nó (vũ trụ đã hình thành, thay đổi và khởi đầu của nó là ra sao, thế nào?). Thứ hai, những định luật khoa học bị phá vỡ khi chúng ta đi về gần điểm vũ trụ dị thường và độc nhất. Ở điểm ấy, tất cả những luật vật lý chúng ta biết có lẽ không còn được áp dụng.

4.
Có nhiều mô hình khác đưa ra, cố gắng để giải thích sự phát triển của vũ trụ, mặc dù không mô hình nào trong số chúng có được một sự phổ biến rộng rãi như mô hình Mở Bùng Lớn :
- Mô hình trạng thái ổn định của vũ trụ (The steady-state model): Vũ trụ từ bao giờ vẫn thế, vũ trụ luôn luôn có đó và sẽ luôn luôn vẫn có mật độ tương tự. Lý thuyết này hòa giải với bằng chứng mới đây rằng vũ trụ đang mở rộng, bằng cách đưa ra thuyết vũ trụ vẫn tạo thêm vật chất, và tỷ lệ tạo ra này bằng tỷ lệ mở rộng của nó. Tuy nhiên lại có những suy diễn mới, cho rằng vũ trụ không mở rộng nữa, nhưng chỉ dày nặng thêm. (Trong gần một thế kỷ, sự đồng thuận giữa các nhà thiên văn đã là vũ trụ bắt đầu với Mở Bùng Lớn và đã vẫn mở rộng từ đó. Giả thuyết vũ trụ mở rộng này được hình thành bởi vì các nhà nghiên cứu đã tìm thấy trong khi phân tích quang phổ ánh sáng phát ra từ các ngôi sao, có một độ lệch đỏ (redshift) xảy ra, - chỗ có sự thay đổi tần số của nó khi một đối tượng phát ánh sáng đang di chuyển ra xa chúng ta. Tuy nhiên lại có những suy diễn mới, cho rằng vũ trụ không mở rộng nữa, hiện tượng redshift, có thể là triệu chứng của một-gì khác, có thể là một sự gia tăng trong tổng khối lượng (mass) trong vũ trụ.)
- Mô hình Ekpyrotic (The Ekpyrotic model): cho thấy vũ trụ của chúng ta là kết quả của một vụ va chạm của hai thế giới (brane) ba-chiều, trong một không gian có thêm, không gian ẩn (là chiều thứ tư).
- Thuyết Bật Ngược lớn (The big bounce theory)cho thấy vũ trụ của chúng ta là một trong hàng loạt những vũ trụ, bắt đầu với mở rộng, sau đó co lại. Lập đi lập lại chu kỳ mở rông-co-lại này sau vài tỷ năm. Thuyết Bật Ngược lớn cho thấy vũ trụ của chúng ta vướng trong một chu trình vĩnh cửu của những Mở Bùng LớnCo Rúm Lớn.
[8] Singularity: Theo Vật lý vũ trụ (Astrophysics), là chính khoảnh khắc xảy ra Big Bang, vũ trụ đã hiện hữu trong một “điểm”, hay đúng hơn một duy nhất có nhiệt độ và mật độ đậm đặc vô cùng (a singularity of infinite temperature and density). Khái niệm là vật chất cô đọng, có tỷ trọng cực lớn và thể tích cực nhỏ, nhiệt độ cao vô cùng.
[9] Khái niệm Hố đen (black hole):
1.
Một hố-đen vũ trụ là một chỗ trong không gian vũ trụ, ở đó lực hấp dẫn rất mạnh, mạnh đến nỗi ánh sáng bị “hút” không thể phát sáng. Lực hấp dẫn mạnh như thế vì vật chất đã bị cô đọng , dồn nén cứng vào một không gian cực nhỏ. Hiện tượng này có thế xảy ra khi một ngôi sao bị “chết”. Không có ánh sáng phát ra từ một hố đen vũ tru, chúng ta không “thấy”, nên chỉ đoán, bằng cách quan sát những ngôi sao quanh nó, những ngôi sao này có những khác thường, (như quĩ đạo lệch, hay phát một thứ ánh sáng có năng lượng cao đặc biệt)
Những hố đen vũ trụ có thể rất nhỏ hay rất lớn. Nhỏ nhất chỉ bằng một atom (dù khối lượng – mass - của nó rất lớn). Một loại hố đen khác gọi là “stellar” – khối lượng có thể khoảng 20 lần của mặt trời chúng ta. Có thể có rất nhiều stellar như thế trong giòng sao Milky Way của chúng ta. Loại hố đen vũ trụ lớn hơn nữa là “supermassive”. Khoảng 1 triệu lần lớn hơn mặt trời. Trong Milky Way, supermassive của nó được các nhà bác học đặt tên là Sagittarius A, nó có một khối lượng của khoảng 4 triệu mặt trời, thu gọn trong một quả bóng rất lớn, có thể chứa vài triệu quả đất!
Những nhà khoa học nghĩ rằng những hố đen nhỏ nhất được thành lập khi vũ trụ bắt đầu. Những hố đen lớn hơn, Stellar xảy ra khi một vì sao bùng vỡ, hiện tượng gọi là supernova, phần của nó bắn ra thành mây bụi không gian, nhưng có những phần của nó đổ vào trong giữa, thành hố đen stellar
Còn những hố đen không lồ supermassive được thành lập khi  galaxy thành lập, mỗi galaxy lớn đều có một hố đen supermassive ở trung tâm của nó.
Có thể hiểu hố đen là những ngôi sao chết, không sáng nữa, nhỏ hơn lúc sống, nhưng những gì quanh nó không bị “hút” vào. Mặt trời của chúng ta một ngày nào đó sẽ tắt, chết; nhưng nó không đủ lớn để thành một hố đen, và trái đất chúng ta chết theo, không có cảnh bị hút vào hố đen mặt trời!


2.
Khái niệm Black hole – bắt đầu với John Michell, năm 1783, trong một báo cáo khoa học của ông với Royal Society (Hàn lâm viện Hoàng gia Anh). Sau đó, đến 1916, Albert Einstein tiên đoán black holes với thuyết tương đối tổng quát của ông (general theory of relativity). Từ “black hole” là một từ khoa học phổ thông do nhà vũ trụ học người Mỹ John Wheeler, năm1967 đã ghép thành.
Ngày nay, khái niệm này đang thay đổi, nếu ai còn nghĩ “hố đen là nơi không gì có thể thoát ra ngoài, kể cả ánh sáng” – có lẽ phải sửa soạn để tìm học thêm. Một trong những định nghĩa ngày nay, thời hậu- Einstein, những hố đen vũ trụ, không là ‘hố’ và cũng không ‘đen’ – nhưng là “những đối tượng được tạo thành hoàn toàn và chỉ thuần từ chiều không-thời uốn cong” (objects made wholly and solely from curved spacetime”).
[10] [John Brockman trích dẫn Murray Gell-Mann, trên trang web 'Edge':
http://www.edge.org/3rd_culture/bios/smolin.html.]
[11] Lee Smolin. The Life of The Costnos (Đời sống của Vũ trụ). New York: Oxford University Press, 1997. Smolin là nhà vật lý lý thuyết nổi tiếng với lý thuyết chọn lọc tự nhiên trong vũ trụ (cosmological natural selection), áp dụng phương pháp luận Darwin để trả lời câu hỏi các luật vật lý trong vũ trụ đã được chọn lựa như thế nào. Ông nêu ý tưởng rằng mỗi vũ trụ trong multiverse, chúng cũng theo chu trình “thành trụ hoại không”, từ Big Hole này đến Big Hole khác. Mỗi vũ trụ trong multiverse ra đời , sinh sản, tiến hóa, di truyền, nghĩa là có đời sống  của chúng.
Mỗi đêm nhìn trời sao, như trong một bức tranh nổi tiếng của Van Gogh, trước mắt chúng ta, là vũ trụ đang sống.
[12] Một thực thể thông minh (a), sáng tạo, thiết kế ra vũ trụ (b). Nếu đồng ý (b) là một sự kiện hết sức phức tạp, có xác xuất hết sức cao, khó lòng có thể xảy ra, đến không thể xảy ra; xác xuất đó là p(b); thì xác xuất để có một thực thể thông minh, sáng tạo ra vũ trụ phức tạp, lại càng cao hơn, xác xuất để a có thể có là p(a). Xác xuất p(a) phải là lũy thừa bậc n của xác xuất p(b)!
[13] Subatomic: tầng của những hạt cấu-phần-atom, những hạt nhỏ hơn atom tạo thành atom,  chúng ở trong atom, không “phụ” cũng không “hạ”  (vì không có gì là “chính”,  hay ở  “trên”)  – nhưng đơn giản là những thành phần cấu tạo của mỗi atom – hay những hạt cực nhỏ là những cấu-phần của nó – thí dụ những electron chạy ở những quĩ đạo vòng ngoài,  và những proton, neutron (trong có những quark)  làm thành phần có vị trí ở giữa, thường gọi là nhân (nucleus), của mỗi atom.. “Lực mạnh” giữ những hạt cấu phần atom  vào nhau,  “lực yếu” làm chúng phân  rã chậm (decay).
[14] Lý luận vừa ác độc, vừa ngu xuẩn, vừa điên dại như Swinburne, và của những nhà gót học khác, đều theo đến tự nhiên từ cùng một thất bại là họ đã không trả lời được vấn nạn tà ác (tại sao có đau khổ, xấu ác trên thế gian, nếu thế gian do một Gót vẫn được ca ngợi là đầy lòng thương yêu tạo ra, nhưng tại sao đã “sáng tạo” con người lại cũng “sáng tạo” những thiên tai như sóng thần, động đất, … những bệnh nan y cho ấu nhi mới lọt lòng, tật dị chứng … cho trẻ thơ?)
Lý luận đã dẫn trên, có cùng một nền tảng mê muội như của nữ tu Teresa thành Calcuta, hay bà sơ người Albani, tên tục là Anjezë Gonxhe Bojaxhiu. Bà đã nhặt nhạnh những nạn nhân bênh tật và nghèo khổ bị xã hội bỏ rơi của thành phố xứ Ấn này, đem về nuôi với kết quả trực tiếp là thu được tiền, lấy được tiếng thơm cho hội nhà thờ trên khắp thế giới. Nhưng một mặt khác, như những chứng nhân đã thuật lại – trong Nhà cho những người bệnh chờ chết (Homes for the Dying) đó, người ta có thể “nghe tiếng thét gào của những nạn nhân có dòi bọ chui ra từ những vết thương lở lói, hở miệng trên người của họ, vì không cho họ thuốc giảm đau. Trên nguyên tắc quản lý của bà Teresa đưa ra, những thuốc giảm đau đớn đều không được phân phát cho các bệnh nhân đang chờ chết đó uống, ngay cả trong những trường hợp nặng nề đau đớn kịch liệt nhất. Theo như bà Teresa, đang được Vatican sửa soạn dư luận để phong chức “thánh chiên”, sự đau đớn thân xác là “quà tặng đẹp nhất cho một cá nhân khiến người ấy có thể dự phần vào sự thống khổ của chúa Kitô”!
Dawkins, đặc biệt không xử dụng Luận chứng Tà ác trong việc bác bỏ Giả thuyết Gót Hiện hữu – vì theo ông: vấn nạn đó đã đặt trên ít nhất ba định đề: (a) có một gót, (b) gót đó toàn năng, toàn trí, toàn thiện, sau đó, cho thấy sự mâu thuẫn giữa (a) và (b) – đó là (c) tại sao gót đó để xảy ra những thảm cảnh thấy trong trần gian và đời người?
Dawkins cũng như chúng ta đều không chấp nhận (a) và dĩ nhiên đưa ra thêm (b) là đòi hỏi nhiều quá, thế nên nói chi đến mâu thuẫn (c) – vì như thế cũng như đi hỏi, hay buộc tội một gì đó vốn trước tiên đã không có thật lại còn cho thêm cho rằng một gì đó là tốt (nhỡ là tên chuyên nghề ăn cướp, lừa đảo thì sao), đã thế nếu còn hỏi thêm tại sao điều xấu lại cứ xảy ra – cả ba điều đều không đứng vững!
Thực ra – Luận chứng Tà ác là một luận chứng rất vững mạnh – giả định có (a) và yếu tính hiện hữu của (a) là (b) để cho thấy nếu nhận (a, b) sẽ phải đi đến một mâu thuẫn phi lý là (c) – mâu thuẫn này sẽ phủ nhận (a), (a, b) như thế không thể có thực, vì c là thực.
Nhưng ở đây, Dawkins không cần đến luận chứng cổ điển này – ông dùng nền tảng thuần khoa học – thuyết tiến hóa, xác xuất thống kê – để chứng minh Gót là một huyễn tưởng. Đó là độc đáo của ông.

[15] heterogeneity
[16] [Ward (1996: 99); Polkinghorne (1994: 55).]