Huyễn Tưởng
Gót
Richard
Dawkins
(The
God Delusion)
Chương 2 (tiếp theo)
Trường phái Neville Chamberlain của những nhà theo thuyết tiến hóa
Một động cơ tối hậu có thể có được của những nhà khoa học
nhấn mạnh vào NOMA – tính chất không thể tấn công vào khoa học của Giả thuyết
Gót – là một chương trình bàn luận chính trị đặc thù của nước Mỹ, gây nên bởi
sự đe dọa của thuyết sáng tạo bình dân. Trong những phần của Nước Mỹ, khoa học
bị sự chống đối rất có tổ chức, cũng như kết nối chính trị, và trên tất cả, có
tài trợ dồi dào, và sự giảng dạy thuyết tiến hóa là trong chiến hào tiền tuyến.
Những nhà khoa học có thể được tha thứ, vì đã có cảm giác bị đe dọa, vì hầu hết
tiền nghiên cứu đều cuối cùng đến từ chính phủ, và những đại diện dân cử phải
trả lời với những cử tri trong những đơn vị bầu cử của của họ, gồm cả những người
thiếu hiểu biết và đầy thành kiến, cũng như những người đầy đủ hiểu biết.
Một người nổi bật khác có ảnh hưởng lớn của những gì chúng ta
có thể gọi là trường phái Neville
Chamberlain của những nhà theo thuyết tiến hóa [1]
là triết gia Michael Ruse. Ruse đã từng là một người chiến đấu hữu hiệu chống
lại thuyết sáng tạo [2],
cả trên giấy và tại tòa án. Ông tuyên bố là một người không-tin-có-gót, nhưng
bài viết của ông trên Playboy có quan
điểm rằng
chúng ta những người yêu khoa học
phải nhận ra rằng kẻ thù của những kẻ thù chúng ta là bạn của chúng ta. Quá
nhiều lần, những nhà theo thuyết tiến hóa dành thời giờ gây xúc phạm với những
người có thể sẽ là những đồng minh. Điều này đặc biệt đúng với những nhà theo
thuyết tiến hóa thế tục. Những người không-tin-có-gót dành nhiều thời giờ dội
nước lạnh xuống đầu những người Kitô có thiện cảm với họ, hơn là chống lại
những người theo thuyết sáng tạo. Khi John Paul II đã viết một lá thư ủng hộ
thuyết Darwin, phản ứng của Richard Dawkins đã chỉ đơn giản là nhà vua chiên
này là một kẻ đạo đức giả, rằng ông ta không thể là chân thực về khoa học và tự
thân Dawkins ông chỉ đơn giản là thà ưa thích một người tôn giáo chính thống
quá khích nhưng trung thực.
Từ một quan điểm hoàn toàn chiến lược, tôi có thể nhìn thấy
sự hấp dẫn bề ngoài trong sự so sánh của Ruse với cuộc chiến chống Hitler:
“Winston Churchill và Franklin Roosevelt đã không thích Stalin và chủ nghĩa
cộng sản. Nhưng trong khi chống Hitler, họ nhận ra rằng họ đã phải cộng tác với
nước Nga. Những nhà theo thuyết tiến hóa của tất cả mọi loại, tương tự như vậy,
phải làm việc với nhau để chiến đấu thuyết sáng tạo”. Nhưng cuối cùng tôi đã
đến đứng cạnh người đồng nghiệp của tôi, nhà di truyền học Jerry Coyne, ở
Chicago, người đã viết rằng Russ
thất bại, không nắm được bản chất
thực sự của cuộc xung đột. Nó không chỉ là sự tiến hóa chống với với thuyết
sáng tạo. Đối với những nhà khoa học như Dawkins và Wilson [E. O. Wilson, nhà
sinh vật học Harvard trứ danh], cuộc chiến tranh thực sự là giữa chủ nghĩa duy lý và sự mê tín dị đoan. Khoa học chỉ
là một dạng của chủ nghĩa duy lý, trong khi tôn giáo là hình thức phổ biến nhất
của mê tín dị đoan. Thuyết Sáng tạo chỉ là một triệu chứng của những gì họ thấy
như là đối thủ lớn hơn: tôn giáo. Trong khi tôn giáo có thể hiện hữu mà không
cần thuyết sáng tạo, thuyết sáng tạo không thể hiện hữu mà không có tôn giáo [3].
Tôi thực có chung một điểm với những người theo thuyết sáng
tạo. Giống tôi, nhưng không giống “trường phái Chamberlain”, họ sẽ không đổi
chác với NOMA và thẩm quyền giảng huấn riêng biệt của nó. Còn lâu họ mới tôn
trọng sự phân cách với thảm cỏ của khoa học, những người theo thuyết sáng tạo,
như không có gì để làm hay hơn là dẵm những gót giày đầy đinh nhọn nhơ bẩn của
họ khắp trên nó. Và họ cũng đấu tranh bẩn thỉu hạ tiện nữa. Luật sư của phái
tin thuyết sáng tạo, trong những vụ kiện tụng ở tòa án khắp những chốn hẻo lánh
ở nước Mỹ, tìm kiếm những người theo thuyết tiến hóa mà cũng công khai là người
không-tin-có-gót. Tôi biết – thật rầu rĩ cho tôi – rằng tên tôi đã được dùng
theo cách này. Nó là một chiến thuật hiệu quả vì bồi thẩm đoàn lựa chọn ngẫu
nhiên có khả năng sẽ gồm những cá nhân đã được dưỡng dục để tin rằng người
không-tin-có-gót là những ma quỷ nhập thể, xếp cùng hàng với những kẻ tà dâm
với trẻ em, hoặc những kẻ “khủng bố” (tương đương thời nay với những phù thủy ở
Salem, và những người cộng sản của McCarthy). Bất kỳ luật sư phe sáng tạo nào
nếu gọi được tôi ra làm nhân chứng chất vấn sẽ thắng được bồi thẩm đoàn ngay
lập tức chỉ đơn giản bằng cách hỏi tôi: “Có phải kiến thức của ông về thuyết
tiến hóa đã ảnh hưởng ông theo chiều hướng thành một người không-tin-có-gót hay
không?” Tôi sẽ phải trả lời có, và chỉ một vẫy tay, tôi bị mất sạch bồi thẩm
đoàn. Ngược lại, câu trả lời chính xác về tư pháp từ phía những người phe thế
tục sẽ là: “Những tin tưởng tôn giáo của tôi, có hay không, là một vấn đề cá
nhân, không là việc của tòa án này cũng chẳng kết nối dẫu cách nào với khoa học
của tôi”. Thành thực, tôi không thể nói như thế này, tôi sẽ giải thích vì lý do
nào, trong Chương 4.
Nhà báo Madeleine Bunting của tờ Guardian đã viết một bài báo có đầu đề “Tại sao nhóm vận động hành
lang chính trị cho những người tin thuyết thiết kế thông minh lại cảm ơn Gót vì
có Richard Dawkins” [4]
Không có dấu hiệu cho thấy bà đã tham khảo ý kiến bất cứ ai, ngoại trừ Michael
Ruse, và bài viết của bà có thể cũng đã bị ông này ma ám ảnh như bóng ma, viết
nên đã [5].
Dan Dennett trả lời, nhanh chóng dẫn Chú Remus [6]:
Tôi thấy thú vị rằng hai người Anh –
Madeleine Bunting và Michael Ruse – đã cùng mê một phiên bản của một trong
những lừa đảo nổi tiếng nhất trong văn hóa dân gian Mỹ (Tại sao nhóm vận động
hành lang chính trị cho những người tin thuyết thiết kế thông minh lại cảm ơn
Gót vì có Richard Dawkins, 27 tháng 3). Khi con thỏ Brer bị con cáo bắt, nó van
nài con cáo: “Ồ, xin làm ơn, hãy làm ơn, cáo Brer ơi, làm bất cứ điều gì ông
thì làm, nhưng xin đừng có ném tôi vào trong đám bụi cây dại khủng khiếp đó!”.
– đúng là chỗ con thỏ sau cùng rơi xuống an toàn và vững chắc, vì con cáo đã cứ
làm đúng y như thế. Khi nhà tuyên truyền Mỹ William Dembski khiêu khích viết
bảo Richard Dawkins, nói ông ta hãy cứ tiếp tục làm việc cho tốt công, nhân
danh phe thiết kế thông minh, Bunting và Russ rơi ngay vào bẫy đó nó! “Ôi Trời
ơi, Cáo Brer ơi, khẳng định thẳng thắn của bạn – rằng thuyết tiến hóa sinh học
bác bỏ ý tưởng một Gót sáng tạo – đặt việc giảng dạy sinh học trong lớp khoa
học vào nguy hiểm, vì dạy như thế có thể vi phạm vào sự tách biệt nhà thờ và
nhà nước!”. Đúng đấy. Bạn cũng phải đạp gas nhẹ lại với môn sinh lý học, vì nó
tuyên bố chuyện sinh nở mà vẫn còn trinh là không cách nào có thể xảy ra được..
.[7]
Toàn bộ vấn đề này, gồm cả một kêu nài riêng lẻ của con thỏ
Brer về đám bụi cây dại, được nhà sinh vật học P. Z. Myers thảo luận khéo léo,
ông là người có blog Pharyngula đáng tin cậy, có thể tin cậy được để tham khảo
lấy những ý thức sắc bén [8].
Tôi không gợi ý rằng những đồng nghiệp của tôi trong giới vận
động hành lang theo đường lối xoa dịu là nhất thiết không trung thực. Họ có thể
chân thực tin vào NOMA, mặc dù tôi không thể không tự hỏi làm thế nào họ đã suy
nghĩ nó cho kỹ từ đầu đến đuôi và làm thế nào họ hòa giải những xung đột nội bộ
trong não thức của họ. Không cần theo đuổi vấn đề cho thời điểm này, nhưng bất
cứ ai tìm cách để hiểu những phat biểu đã được công bố của những nhà khoa học
về những vấn đề tôn giáo sẽ làm được việc hay hơn nếu cũng đừng quên bối cảnh
chính trị: cuộc chiến tranh văn hóa siêu thực hiện đang̣ xé nát nước Mỹ.
Phong cách xoa dịu lối-NOMA sẽ xuất hiện một lần nữa trong một chương sau. Ở
đây, tôi quay trở lại thuyết không thể biết và khả năng có thể có được trong sự
cắt xén đi bớt sự thiếu hiểu biết của chúng ta và giảm thiểu được sự không chắc
chắn của chúng ta về sự hiện hữu hay sự không hiện hữu của Gót.
Giả sử rằng dụ ngôn của Bertrand Russell đã có quan tâm không
với một ấm trà trong không gian, nhưng với sự
sống trong không gian ngoài bao la kia – đối tượng của sự từ chối đáng nhớ
của Sagan, không suy nghĩ bằng lối “bụng
bảo dạ” của mình. Một
lần nữa, chúng ta không thể bác bỏ nó, và lập trường hợp lý duy nhất đúng là
thuyết không thể biết. Nhưng giả thuyết thì thôi không còn phù phiếm. Chúng ta
không “ngửi thấy” ngay lập tức mùi cực mạnh của tính không có thể xảy ra. Chúng
ta có thể có một luận chứng thú vị dựa trên bằng chứng chưa đầy đủ, và chúng ta
có thể viết xuống loại bằng chứng cho thấy có thể sẽ giảm bớt đi sự không chắc
chắn của chúng ta. Chúng ta sẽ giận điên lên nếu chính phủ chúng ta đổ tiền đầu
tư vào những kính viễn vọng đắt tiền chỉ để cho mục đích của việc tìm kiếm
những ấm trà bay trong quỹ đạo không gian. Nhưng chúng ta có thể thông cảm đối
với sự tiêu tiền cho chương trình SETI, Tìm
Kiếm Hữu thể Thông minh ngoài Trái Đất [9],
dùng những kính thiên văn vô tuyến để rà xoát bầu trời với hy vọng bắt được tín
hiệu từ người ngoài hành tinh [10]
có óc thông minh (tương tự như chúng ta).
Tôi ca ngợi Carl Sagan đã từ chối những cảm nhận từ “bụng bảo dạ” của mình về sự sống ngoài hành tinh. Nhưng người ta có thể
(và Sagan đã làm) thực hiện một đánh giá tỉnh táo về những gì chúng ta cần phải
biết để ước tính về xác suất có thể có hay không (sự sống ngoài hành tinh).
Điều này có thể bắt đầu từ không gì khác hơn là một danh sách gồm những điểm
của sự không biết của chúng ta, như trong phương trình Drake nổi tiếng, theo
những từ Paul Davies đã dùng, là thu thập những xác suất. Nó nói rằng để ước
lượng con số những văn minh đã tiến hóa độc lập trong vũ trụ, bạn phải nhân bảy
thông số với nhau. Bảy thông số bao gồm con số những vì sao, con số những hành
tinh giống như Trái Đất của mỗi vì sao, và xác suất về điều này, điều kia và
những điều khác, mà tôi không cần kể ra đây, vì điểm duy nhất mà tôi muốn nói
là chúng tất cả đều là những chưa-biết, hoặc được ước tính với một sai số biên [11]
khổng lồ. Khi rất nhiều thông số như thế mà chúng đều là hoàn toàn hoặc gần như
hoàn toàn không biết, được nhân lên, con số thành – con số ước tính của những
văn minh ngoài hành tinh – như vậy có bar
sai số khổng lồ trong đồ thị [12]
khiến lập trường theo thuyết không thể biết có vẻ như rất hợp lý, nếu không nói
là lập trường đáng tin cậy duy nhất.
Một vài thông số trong phương trình Drake đã ít không-rõ hơn
rồi, so với khi đầu tiên ông đã ghi nó xuống trong năm 1961. Vào lúc đó, hệ mặt
trời của chúng ta về những hành tinh quay quanh một ngôi sao trung tâm đã là hệ
duy nhất được biết, cùng với những tương tự địa phương đem lại từ hệ thống vệ
tinh của Jupiter và Saturn. Ước tính tốt nhất của chúng ta về số lượng những hệ
thống tinh cầu có hành tinh xoay quanh trong vũ trụ đã dựa trên những mô hình
lý thuyết, gắn cùng với dạng thức không chính thức của “nguyên lý về tính tầm
thường” [13]:
cảm thức (sinh ra từ những bài học lịch sử không thoải mái từ Copernicus,
Hubble và những người khác) rằng không có gì đặc biệt, hay khác thường về nơi
đã xảy ra là chỗ chúng ta sinh sống (trái đất). Thật không may, nguyên lý về
tính tầm thường là đến lượt nó bị nguyên lý “loài người” [14]
làm suy yếu đi (xem Chương 4): nếu thái dương hệ của chúng ta thực sự đã là hệ
hành tinh duy nhất trong vũ trụ, đây là nói chính xác nơi chúng ta đang là, như
những hữu thể là những sinh vật có thể suy nghĩ về những vấn đề về như vậy, sẽ
phải là chỗ để sống ở đó. Chính ngay sự kiện rằng sự hiện hữu của chúng ta truy
có thể truy ngược về quá khứ xác định rằng chúng ta sống trong một nơi cực kỳ
không tầm thường.
Nhưng những ước tính hiện nay về tính thấy-có-khắp-nơi của
những hệ mặt trời – như thái dương hệ của chúng ta – thôi không còn dựa trên
nguyên lý về tính tầm thường, chúng có thông tin từ bằng chứng trực tiếp. Những
quang phổ, kẻ thù của chủ nghĩa thực chứng của Comte, phản công trở lại. Những
kính viễn vọng của chúng ta thì khó mà đủ mạnh để có thể nhìn thấy trực tiếp
những hành tinh xoay quanh những vì sao khác. Nhưng vị trí của một ngôi sao thì
bị nhiễu loạn bởi lực hấp dẫn của hành tinh của nó khi chúng quay quanh nó, và
những viễn kính quang phổ có thể bắt được những thay đổi Doppler [15]
trong quang phổ của vì sao, ít nhất là trong trường hợp hành tinh gây nhiễu
loạn thì lớn. Chủ yếu là dùng phương pháp này, tại thời điểm viết tập sách này,
giờ đây chúng ta đã biết có 170 hành tinh quay quan bạn đọc quyển sách này. Cho
đến nay, chúng là những Jupiter “cồng kềnh”, vì chỉ có những giống như Jupiter
là đủ lớn để gây nhiễu loạn cho những vệ tinh của chúng vào khu vực của có thể
dò nhận ra của những viễn kính quang phổ ngày nay.
Ít nhất, chúng ta đã có cải tiến về phía số lượng trong ước
tính của chúng ta về một thông số trước đây bị che kín trong phương trình
Drake. Điều này cho phép một ý nghĩa đáng kể, nếu vẫn còn vừa phải, nới lỏng
thái độ không thể biết của chúng ta về giá trị cuối cùng thu được từ phương trình.
Chúng ta vẫn còn phải là không thể biết
về sự sống trên những thế giới hành tinh khác – nhưng bớt không thể biết một
chút, vì chúng ta như thế vừa mới bớt đi được một chút ngu dốt. Khoa học có thể
tỉa gọt bớt đi vào thuyết không thể biết, trong một cách mà Huxley đã vặn cong
người ngược ra đằng sau để phủ nhận với trường hợp đặc biệt của Gót. Tôi đang
lập luận rằng, bất kể sự tiết chế lịch sự của Huxley, Gould và nhiều người
khác, câu hỏi về Gót thì không trong nguyên tắc và không mãi mãi ở bên ngoài phạm
vi của khoa học. Như với câu hỏi về bản chất của những vì sao, (nay đã) phản Comte, và như với khả năng có thể
có sự sống trên những hành tinh quay quanh chúng, khoa học có thể, ít nhất là,
mở đường tiến vào lãnh vực của thuyết không thể biết.
Định nghĩa của tôi về Giả thuyết Gót đã bao gồm những từ
“siêu nhân” và “siêu nhiên”. Để làm rõ sự khác biệt, hãy tưởng tượng rằng một têlêcốp rađiô [16]
SETI thực sự đã bắt được tín hiệu từ ngoài không gian cho thấy, rõ ràng, rằng
chúng ta không một mình. Nó là một câu hỏi không phải nhỏ nhặt, nhân đây, loại
tín hiệu nào có thể thuyết phục chúng ta về xuất xứ thông minh của nó. Một cách
tiếp cận tốt là xoay câu hỏi ngược lại. Điều gì chúng ta nên làm một cách thông
minh để quảng cáo sự có mặt của chúng ta với những người nghe bên ngoài lớp khí
bao quanh trái đất? Những nhịp đập lập đi lập lại điều hòa sẽ không làm việc
đó. Jocelyn Bell Burnell, nhà thiên văn vô tuyến, người đầu tiên đã khám phá ra
một sao pulsar [17]
vào năm 1967, đã bị động lòng bởi sự chính xác của chu kỳ 1,33 giây của nó, để
đặt tên cho nó, đùa dỡn, là tín hiệu LGM (Little Green Men – Những Người Tí hon
Màu xanh). Sau này, bà tìm thấy một sao pulsar
thứ hai, ở một nơi nào đó khác trong bầu trời và có chu kỳ khác, điều đó đã
phần nào gạt bỏ giả thuyết LGM. Những nhịp đập lập đi lập lại điều hòa và có
thể đo được có thể được tạo ra bởi nhiều hiện tượng không có sự thông minh, từ
những cành cây lắc lư đến nước nhỏ giọt, từ thời gian bị chậm trong vòng phản
hồi tự điều tiết đến những thiên thể xoay quanh nó và xoay vòng theo quĩ đạo.
Có hơn một nghìn pulsar bây giờ đã
được tìm thấy trong galaxy của chúng
ta, và nó đã được chấp nhận chung rằng mỗi một pulsar là một sao neutron
quay, có năng lượng radio phát ra như quét xung quanh nó tựa những tia sáng của
một ngọn đèn biển. Thật là tuyệt vời để nghĩ tới một ngôi sao tự quay trong một
khoảng thời gian của giây (thử tưởng tượng nếu mỗi ngày của chúng ta kéo dài
1,33 giây thay vì 24 giờ!), nhưng đúng là tất cả mọi điều mà chúng ta biết
những sao neutron là tuyệt vời. Điểm
nhấn mạnh là hiện tượng sao pulsar bây giờ được hiểu như một sản phẩm của vật
lý đơn giản, không phái của “trí thông minh” nào cả.
Không gì đơn giản chỉ là có nhịp điệu, sau đó, sẽ thông báo
sự có mặt thông minh của chúng ta với vũ trụ đương chờ đợi. Những số nguyên tố
thường đề cập đến như là tiếp nhận của lựa chọn, vì là điều khó khăn để nghĩ ra
một tiến trình hoàn toàn thuần vật lý mà có thể phát sinh ra chúng. Cho dù bằng
cách dò nhận ra được những số nguyên tố hoặc bằng một vài phương tiện khác, hãy
tưởng tượng rằng SETI đi đến với bằng chứng rõ ràng không thể phủ nhận được về
óc thông minh ngoài vũ trụ, tiếp theo, có lẽ, bằng một sự truyền giao khổng lồ
về kiến thức và trí tuệ, theo cùng dòng viết trong những truyện khoa học giả
tưởng như A cho Andromeda của Fred
Hoyle, hoặc Contact của Carl Sagan.
Chúng ta nên đáp ứng thế nào? Một phản ứng có thể tha thứ được là một điều
gì đó tương tự như tôn sùng thờ phụng, vì bất kỳ một nền văn minh nào có khả
năng phát tín hiệu trên một khoảng cách lớn như thế thì có thể sẽ là siêu vượt
rất xa chúng ta. Ngay cả khi nền văn minh đó không phải là tiên tiến hơn so với
chúng ta vào thời truyền phát tín hiệu, khoảng cách rất lớn giữa họ và chúng ta
cho ta có quyền tính toán rằng họ phải đi trước chúng ta hàng nghìn năm, đến
thời những tin nhắn bay đến chúng ta (trừ khi họ tự làm họ tuyệt chủng, điều đó
không phải là không thể xảy ra!).
Cho dẫu không biết liệu chúng ta có bao giờ có cơ hội để biết
về họ hay không, rất có thể có những văn minh ngoài hành tinh siêu vượt hơn con
người, đạt đến điểm của hữu thể giống-gót trong những cách trội vượt quá bất cứ
điều gì một nhà gót học có thể có thể tưởng tượng được. Những thành tựu kỹ
thuật của họ sẽ có vẻ như là siêu nhiên với chúng ta, như của chúng ta có vẻ
như với một nông dân thời Trung cổ đen tối được mang đến thế kỷ XXI. Hãy tưởng
tượng phản ứng của người này với laptop computer, với một điện thoại di động,
bom hydro, hoặc máy bay phản lực khổng lồ. Như Arthur C. Clarke nói, trong Luật
thứ Ba của ông: “Bất cứ một kỹ thuật tiến bộ đầy đủ nào thì cũng không thể phân
biệt được với sự kỳ diệu”. Những phép lạ được kỹ thuật của chúng ta đã làm nên,
đối với những người thời cổ tất sẽ xem dường không kém phi thường hơn những câu
chuyện Moses rẽ nước biễn làm đôi, hoặc Jesus đi trên nước. Những người ngoài
hành tinh của tín hiệu SETI của chúng ta, với chúng ta sẽ tựa như những vị gót,
cũng giống như những nhà truyền giáo đã được đối xử như những vị gót (và vinh
dự không xứng đáng đã được khai thác đến cùng mức) khi họ đi lạc vào những văn
hóa các dân tộc sơ khai còn trong thời Đá cổ, mang theo súng, kính viễn vọng,
bao diêm, và niên giám dự đoán nhật thực đúng đến từng giây.
Trong ý nghĩa nào, sau đó, những người ngoài hành tinh SETI
tiên tiến nhất sẽ không là những vị gót?
Trong ý nghĩa nào họ sẽ là những siêu nhân nhưng không siêu nhiên? Trong một ý
nghĩa rất quan trọng, vốn đi đến trung tâm của quyển sách này. Sự khác biệt chủ
yếu giữa những vị gót và những người ngoài hành tinh giống-gót không nằm trong
những tính chất họ có nhưng trong nguồn gốc lai lịch của họ. Những thực thể đối
tượng mà chúng phức tạp đến mức đủ để là thông minh là những sản phẩm của một
quá trình tiến hóa. Bất kể dù họ xem dường có giống-gót đến như thế nào khi
chúng ta bắt gặp họ, họ đã không bắt đầu như cách thế đó. Những tác giả truyện
khoa học giả tưởng, như Daniel F. Galouye trong Counterfeit World, thậm chí đã đưa ý tưởng (và tôi không thể nghĩ
làm thế nào để bác bỏ nó) rằng chúng ta sống trong một sự mô phỏng computer [18],
đã được một vài nền văn minh hết sức cao vời siêu việt thiết lập. Tuy nhiên,
chính những kẻ mô phỏng sẽ phải đến từ một nơi nào đó. Những luật của khoa học
xác suất cấm tất cả những khái niệm về xuất hiện đột nhiên của họ mà không có
những tiền thân đơn giản hơn. Họ có lẽ đã có thể có được hiện hữu của mình nhờ
vào một phiên bản (có lẽ không quen thuộc) của sự tiến hóa theo như của Darwin:
một vài loại “cần trục” có răng bánh xe quay một chiều, như trái ngược những
“Móc Trời” để, để dùng thuật ngữ của Daniel Dennett [19].
Skyhooks – bao gồm tất cả những vị gót – là
những thần chú phép thuật. Họ làm những việc giải thích trên không thực (bona fide) và chúng đòi giải thích nhiều
hơn chúng cắt nghĩa. Cần trục là những thiết bị giải thích mà chúng thực sự cắt
nghĩa. Chọn lọc tự nhiên là cần trục vô địch của mọi thời đại. Nó đã nâng sự
sống từ đơn giản nguyên sinh tới độ cao chóng mặt phức tạp, đẹp đẽ và thiết kế
mặt ngoài làm choáng lòa mắt chúng ta ngày nay. Đây sẽ là một chủ đề quán xuyến
trong suốt Chương 4, “Tại sao có hầu như chắc chắn là không có Gót.” Nhưng đầu
tiên, trước khi tiếp tục với lý do chính của tôi để chủ động hoài nghi về sự
hiện hữu của Gót, tôi có một trách nhiệm để bác bỏ những luận chứng tích cực
với tin tưởng đã được đem lại trong lịch sử.
Chương 3
Những luận chứng cho hiện hữu của Gót
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Jul/2013)
[1]
Neville Chamberlain, là thủ tướng nước Anh (1937-1940), trước sự đe dọa của
nước Đức thời Hitler, ông đã chủ trương một đường lối chính trị nhân nhượng với
nước Đức dưới thòi đảng Nazi cầm quyền, mong có thể tránh được chiến tranh,
nhưng chính sách này đã thất bại, và ông từ chức, sau đó Churchill đã lên thay
ông, lãnh đạo nước Anh trong thế chiến thứ II.
[2] [In court
cases, and books such as Ruse (1982). Bài báo của ông trong số tháng Apr/2006
của tạp chí Playboy]
[3] [Trả lời
của Jerry Coyne với Ruse trong in trong số báo tháng Aug/2006 của tạp chí Playboy.]
[4] [Madeleine
Bunting, Guardian, 27 March 2006]
[5]
[Cũng có thể nói cùng như thế về một bài viết, “Khi vũ trụ học va chạm xung
đột”, trong New York Times,
Jan/22/2006, của nhà báo được kính trọng Judith Shulevitz (và thường là tóm tắt
hay hơn nhiều). Quy tắc đầu tiên trong chiến tranh của tướng Montgomery là
“Đừng có tiến về phía Moscow”. Có lẽ cũng nên có một quy tắc đầu tiên của Khoa
học về Báo chí: “Nên phỏng vấn ít nhất thêm một người khác nữa, ngoài Michael
Ruse”]
[6]
Nhân vật trong những chuyện truyền khẩu phổ thông của người da đen bình dân ở
Mỹ.
[7]
[Tră lời của Dan Dennett trên tờ Guardian, 4 April 2006.]
[8] [http://scienceblogs.com/pharyngula/2006/03/the_dawkinsdennett_boogeyman.php;
http://scienceblogs.com/
pharyngula/2006/02/our_double_standard.php;
http://scienceblogs.
com/pharyngula/2006/02/the_rusedennett_feud.php.]
[9] The Search for ExtraTerrestrial Intelligence:
tên ghép chữ cái đầu là SETI: Tìm Kiếm
Hữu thể Thông minh ngoài Trái Đất: Từ buổi đầu của văn minh nhân loại, con người
đã tự hỏi nếu chúng ta chỉ có một mình trong vũ trụ hay còn có một sự sống
thông minh tương tự ở một nơi nào khác. Trong những năm cuối thế kỷ XX, các nhà
khoa học hội tụ trên ý tưởng cơ bản là rà xoát bầu trời bầu trời
và “lắng nghe” những luồng sóng điện phát ra, từ ngoài vũ trụ chạm đến trái
đất, tìm nhận những xếp đặt có vẻ có khuôn mẫu nhưng không ngẫu nhiên
(non-random patterns of electromagnetic emissions) như những luồng sóng radio
hoặc truyền hình, để thăm dò “nghe ngóng”, phân tích mong đi đến có thể nhận
biết được rằng một nền văn minh nào đó khác có thể có ở một nơi nào đâu đó
trong vũ trụ ngoài kia hay không.
Cuối 1959 và khoảng đầu1960, dự án SETI đã bắt đầu
với Frank Drake, ông thực hiện dò tìm SETI đầu tiên, cùng thời có Giuseppe
Cocconi và Philip Morrison đã cho xuất bản một bài báo khoa học cơ bản trong đó
đề nghị đường lối “săn tìm” sự sống trong không gian bằng phân tích những luồng
sóng điện.
Đó là sự tìm kiếm Sự sống trong Vũ trụ: Có thể chăng nếu chỉ loài người là
những hữu thể thông minh duy nhất có giữa tất cả bao la của vũ trụ ngoài kia?
Hoặc chúng ta chỉ là một giống sinh vật khiêm tốn, một thành viên của một tập
hợp có chung những tính chất khá gần gũi, tương tự của sự sống, gồm những nền
văn minh tiên tiến hơn, trong không gian bao la xuyên-những-thiên-hà? SETI, Tìm Kiếm Hữu thể Thông minh ngoài Trái Đất:
là sự truy tầm khoa học để trả lời những ẩn số lớn này. Giờ đây, tất cả những
gì chúng ta có chỉ mới là những câu hỏi, nhưng trong tương lai, khi những câu
trả lời đến với chúng ta, dù là có hay không, chúng có thể hoàn toàn biến đổi
thế giới của chúng ta.
[10]
aliens: hữu thể từ thế giới khác. Chúng ta quen gọi là người (từ) hành tinh,
nhưng dĩ nhiên, nếu có, họ không phải là “người” theo nghĩa như chúng ta quan
niệm
[11]
margin of error
[12]
error bar
[13] The principle of mediocrity: Có thể tạm
hiểu như sau – Nguyên lý về tính tầm
thường chỉ đơn giản nói rằng bạn thì không là đặc biệt. Vũ trụ không xoay
quanh bạn, hành tinh này không phải là có gì đặc biệt, may mắn, hay ưu thế gì
trong bất kỳ cách độc đáo nào, đất nước của bạn không phải là sản phẩm hoàn hảo
của số phận hay định mệnh nào đó, sự hiện hữu của bạn không phải là sản phẩm
của những gì được xếp đặt, hay đạo diễn, hay gọi là số phận đã cố ý định đoạt,
và bát phở bạn ăn vội ngoài vệ đường thay cho bữa ăn trưa đã chẳng có “âm mưu”
nào trong đó để làm cho bạn bị sôi bụng khó tiêu chiều nay,.... Hầu hết tất cả
những gì xảy ra trên thế giới qunh chúng ta chỉ là hệ quả của những qui luật tự
nhiên, và phổ quát – những luật này áp dụng ở khắp mọi nơi và trong tất cả mọi
thứ, với tất cả mọi sinh vật, ... không có ngoại lệ đặc biệt nào cho bất cứ gì.
Trong triết lý khoa học: The mediocrity principle is
the notion in the philosophy of science that there is nothing special about
humans or the Earth. It is a Copernican principle, used either as a heuristic
about Earth's position or a philosophical statement about the place of
humanity. The mediocrity principle is further boosted by:
– Fossil
evidence supported by genetics concluding that all humans have a common
ancestor about 100,000 years ago and that they share a common ancestor with
chimpanzees about six million years ago. Therefore humans are part of the
biosphere, not above it or unique to it.
– Humans share
about 98% of their DNA with chimpanzees. Chimpanzees have actually undergone
more genetic change than humans.
– The answering
of Schrödinger's question What is Life?
through the discovery of the double-helix structure of DNA and the reduction of
life to organic chemistry, negating the vitalism of previous centuries.
– Edwin Hubble
discovered that the universe is substantially larger than humans first thought
and James Hutton discovered the Earth is a lot older. The Hubble Deep Field is
a long exposure of thousands of galaxies, making it one of the best pictorial
representations of the principle of mediocrity.
– The Pale Blue
Dot photograph was taken by Voyager 1 on February 14, 1990. It shows Earth from
over 4 billion miles (6.4 billion kilometers) away, the farthest distance Earth
has been photographed from. Chúng ta chỉ là một hành tinh xanh, một điểm xanh
mờ nhạt trong vũ trụ bao – Chấm xanh mờ nhạt – từ của Carl Sagan.
Widely believed by astronomers since the work of
Nicolaus Copernicus, this principle states that the properties and evolution of
the solar system are not unusual in any important way. Consequently, the
processes on Earth that led to life, and eventually to thinking beings, could
have occurred throughout the cosmos.
The most important assumptions in this argument are
that (1) planets capable of spawning life are common, (2) biota will spring up
on such worlds, and (3) the workings of natural selection on planets with life
will at least occasionally produce intelligent species.
The notion that our evolution (biological, cultural,
and technological) and our surroundings, including the Earth and the Sun, are
typical rather than exceptional. It is often invoked, together with two other
principles (principle of plenitude, principle of uniformity), to support the
claim that life and intelligence occur commonly throughout the Universe. It is
also an implicit assumption in SETI that other beings exist who wish to
communicate and are sufficiently technologically compatible with us to make
communication possible. The principle of
mediocrity remains largely a matter of opinion but has been bolstered by
the discovery of extrasolar planets and that certain organic chemicals, such as
amino acids, occur commonly throughout space.
There was a time when mankind literally thought it was
the center of the universe. The earth was the omphalos of the cosmos, the sun
and everything else revolved around it, and humanity was the apotheosis of
creation. In a word, humans were special. Well along came Copernicus and
numerous scientists since to burst that bubble. We exist on a nondescript piece
of rock, circling an unremarkable star, far from the focal point of an ordinary
galaxy that is but one in 100 billion. The only thing that revolves around us
is the moon, and our projected egocentricity.
Nevertheless there are those, including a few members
of the scientific community, who persist in the conception that there is
something unique about humanity. They further extrapolate that intelligent
humanoids are scarce at best in the universe. They contend that a perfect storm
of improbable variables must converge to create advanced life. The "Rare
Earth Hypothesis" is touted as evidence for why we have yet to encounter
extraterrestrials.
Conversely, the "Mediocrity Principle"
asserts that there’s nothing special about earth, its inhabitants or its
ontogenesis. Proponents of this humbler perspective profess that the universe
is probably teeming with life. Our failure to establish close encounters of any
meaningful kind is easily explained by the incomprehensibly vast distances
between stars, the seeming impossibility of interstellar travel, and our
exploration of only a pinprick of the galaxy.
[14] the anthropic principle: nguyên lý loài
người : the cosmological principle that theories of the universe are
constrained by the necessity to allow human existence.
Why is it that conditions were just right for your survival?
Cosmologists often apply this question to life on Earth with the Goldilocks
principle, which ponders why Earth is "just right" for life. The
anthropic principle tackles an even greater question: Why is the universe
itself just right for life? So if certain conditions in our universe were just
a little off, life would have never evolved. Just how is it that we're so
fortunate? Of all possible universes, why did ours turn out like it did?
In 1974, astronomer Brandon Carter tackled this quandary by
introducing the anthropic principle. Carter hypothesized that anthropic
coincidences are part of the universe's very structure and that chance has
nothing to do with it. He proposed two variants:
– Weak anthropic
principle: This response to anthropic coincidence may sound like a slice of
common sense. Simply put, Carter pointed out that if our universe weren't
hospitable to life, then we wouldn't be here to wonder about it. As such,
there's no sense in asking why.
– Strong anthropic
principle: In this version, Carter draws on the notion of the Copernican
Principle, which states that there's nothing special or privileged about Earth
or humanity. He states that since we live in a universe capable of supporting
life, then only life-supporting universes are possible.
[15] The Doppler effect (or Doppler
shift), named after the Austrian physicist Christian Doppler, who proposed it
in 1842 in Prague, is the change in frequency of a wave (or other periodic
event) for an observer moving relative to its source.
[16]
telescope radio: têlêcốp rađiô: rada nhìn
xa dò sóng radio
[17]
puls(ating st)ar, = a celestial object, thought to be a rapidly rotating neutron star, that emits regular pulses
of radio waves and other electromagnetic radiation at rates of up to one
thousand pulses per second.
[18]
computer simulation
[19] [Dennett (1995).] Khái niệm Skyhook - móc trời - trong Darwin’s Dangerous Idea - Evolution and the Meanings of Life -