Richard
Dawkins
(The God
Delusion)
Chương
2 (tiếp theo)
Sự nghèo nàn của thuyết không thể biết
Con người tráng kiện của phong trào “Kitô Bắp thịt” [1]
khi dài dòng “lên lớp” chúng tôi từ bục giảng của nhà nguyện trong trường học
ngày xưa của tôi, đã thú nhận một cái nhìn thầm lén với những người
không-tin-có-gót. Ít nhất những người này đã can đảm trong những xác quyết lạc
hướng của họ. Điều mà nhà thuyết giáo này không thể chịu đựng nổi là những
người theo thuyết không thể biết [2]:
ủy mị sướt mướt, mềm như núm vú, nhạt như nước trà loãng, lóng ngóng như cỏ
dại, những kẻ trung lập nhợt nhạt, ngồi trên hàng dậu phân ranh hai đối nghịch.
Ông đã có phần đúng, nhưng với toàn bộ lý lẽ sai lầm. Trong cùng một mạch suy
diễn, theo như Quentin de la Bedoyère, nhà sử học Catô Ross Hugh Williamson đã
“tôn trọng những người dốc một lòng có tin tưởng tôn giáo (tin-có-gót), và cũng
cả những người dốc một lòng không-tin-có-gót. Ông đã dành sự khinh miệt của ông
cho những xoàng xĩnh thiếu xương mềm như bún vữa, là những người bật qua bay
lại phành phạch giữa hai đối nghịch. [3]
Tôi sẽ bắt đầu bằng phân biệt hai loại của thuyết không thể
biết. TAP [7],
hay Thuyết không thể biết Tạm thời trong Thực hành, là sự trung lập chính đáng,
nơi thực sự có một trả lời rõ ràng, cách này hay cách kia, nhưng cho đến nay
chúng ta thiếu bằng chứng để đạt đến nó (hoặc không hiểu rõ bằng chứng, hoặc
chưa có thời giờ để đọc bằng chứng, vv.) TAP sẽ là một lập trường hợp lý đối
với sự tuyệt chủng cuối kỷ Permian. Có một sự thật ở đâu đó ngoài kia, và một
ngày nào đó chúng ta hy vọng sẽ biết nó, dù hiện nay chúng ta không biết.
Nhưng cũng có một loại ngồi trên hàng dậu phân ranh, loại
trung lập sâu xa không thể tránh được, mà tôi sẽ gọi là PAP [8]
(thuyết Không thể biết Vĩnh viễn trong Nguyên tắc). Sự kiện là
từ-ghép-những-chữ-gốc [9]
như một từ ngữ được vị thày giảng ở trường học cũ là đã dùng [10],
thì (hầu như hoàn toàn) ngẫu nhiên. Kiểu thức PAP của thuyết không thể biết là
thích hợp cho những câu hỏi mà có thể không bao giờ trả lời được, bất kể dù
chúng ta có thu thập được bao nhiêu chứng cứ đi nữa, vì chính ý tưởng về bằng
chứng đã là không thể áp dụng được. Vấn đề hiện hữu trên một mặt phẳng khác
biệt, hay trong một chiều khác biệt, vượt ra ngoài những khu vực nơi bằng chứng
có thể vươn tới. Một thí dụ có thể là câu hỏi triết học quen thuộc vẫn trích
dẫn, câu hỏi liệu bạn thấy màu đỏ như tôi thấy hay không. Có thể màu đỏ của bạn
là màu xanh lá cây của tôi, hoặc một gì đó hoàn toàn khác với bất kỳ màu sắc
nào tôi có thể tưởng tượng. Những triết gia dẫn câu hỏi này như một câu hỏi có
thể không bao giờ trả lời được, bất kể bằng chứng mới dù là gì một ngày có thể
trở thành sẵn sàng. Và một vài nhà khoa học và những trí thức khác đã chịu
thuyết phục – quá hăm hở, theo quan điểm của tôi – rằng câu hỏi về sự hiện hữu
của Gót thuộc vào thể loại PAP vĩnh viễn không thể đạt đến được. Từ điều này,
như chúng ta sẽ thấy, họ thường tạo những diễn dịch phi-lôgích rằng giả thuyết
về sự hiện hữu của Gót, và giả thuyết về sự không hiện hữu của Gót, có chính
xác cùng một xác suất là-đúng ngang bằng nhau. Quan điểm tôi sẽ bảo vệ thì rất
khác biệt: thuyết không thể biết về sự hiện hữu của Gót thuộc vững chắc trong
loại tạm thời, hay thể loại TAP. Hoặc là ông hiện hữu, hoặc là ông không hiện
hữu. Nó là một câu hỏi khoa học; một ngày nào đó rồi chúng ta có thể biết câu
trả lời, và trong khi chờ đợi, chúng ta có thể nói một gì đó khá vững về xác
suất.
Trong lịch sử của những ý tưởng, có những thí dụ về những câu
hỏi trả lời được, nhưng vốn trước đó đã phán xét là mãi mãi nằm ngoài tầm với
của khoa học. Năm 1835, triết gia nổi tiếng người Pháp Auguste Comte đã viết về
những vì sao: “Chúng ta sẽ không bao giờ có khả năng để nghiên cứu, dù bằng bất
kỳ phương pháp nào, thành phần hóa học, hoặc cấu trúc khoáng chất của chúng”.
Thế nhưng, ngay cả trước khi Comte viết những lời này, Fraunhofer đã bắt đầu
dùng máy đo quang phổ của ông để phân tích thành phần hóa học của mặt trời.
Ngày nay, những nhà nghiên cứu quang phổ hàng ngày làm thuyết không thể biết
của Comte ngượng ngùng với những phân-tích-từ-xa của họ về thành phần hóa học chính
xác của những vì sao ngay cả rất xa.[11]
Dẫu chỗ đứng chính xác của thuyết không thể biết của Comte về thiên văn là gì
đi nữa, câu chuyện như một cảnh cáo thận trọng này, ít nhất gợi ý, rằng chúng
ta nên do dự trước khi tuyên bố quá to tiếng về chân lý vĩnh cửu của thuyết
không thể biết. Tuy nhiên, khi nói đến Gót, một số rất nhiều những triết gia và
những nhà khoa học đã rất niềm nở để làm như thế, bắt đầu với người phát minh
của chính từ ngữ, T. H. Huxley.[12]
Huxley giải thích sự ghép chữ của mình đương khi đáp ứng với
một tấn công cá nhân vốn nó đã gây nên. hiệu trưởng của trường đại học King’s
College ở London, Mục sư Tiến sĩ Wace, đã trút khinh miệt xuống “thuyết không
thể biết hèn nhát” của Huxley:
Ông có thể thích gọi chính ông là một
người theo thuyết không thể biết, nhưng tên gọi thật sự của ông là một tên gọi
cũ hơn – ông ấy là người “vô đạo bất trung”; đó là nói rằng, một kẻ vô tín
ngưỡng. không tin vảo to đạo của Abraham [13].
Từ vô-tín ngưỡng, có lẽ, mang một nghĩa khó chịu. Có lẽ, nó đúng là nên như
thế. Nó là, và phải nên là, một điều khó chịu cho một người để phải nói thẳng
không úp mở rằng ông không tin vào Jesus Christ.
Huxley đã không phải là người để cho hành động khiêu khích
loại như thế được ông bỏ qua, và trả lời của ông, năm 1889, đã cũng gay gắt
mạnh mẽ như chúng ta nên mong đợi (Mặc dù không bao giờ xa rời khỏi tập quán
đẹp đẽ thận trọng: như con chó bun của Darwin, răng của ông đã được sự mỉa mai
thời Victoria tao nhã mài cho sắc bén). Cuối cùng, sau khi giáng cho Tiến sĩ
Wace trận đòn đâu vào đây đích đáng của mình và vùi chôn những tàn dư, Huxley
quay về với từ ngữ “không thể biết”, và đã giải thích nó đã xảy ra lần đầu tiên
với ông như thế nào. Những người khác, ông ghi chú,
đã khá chắc chắn rằng họ đã đạt được
một “kiến thức bí truyền” nhất định nào đó – ít hay nhiều thành công, đã giải
quyết vấn đề về hiện hữu (của Gót); trong khi tôi đã hoàn toàn chắc chắn rằng
tôi đã không, và đã có tin tưởng chắc chắnkhá mạnh mẽ là vấn đề thì không thể
có giải đáp. Và, với Hume và Kant đứng về phía tôi, tôi không thể nghĩ bản thân
mình là táo bạo tự phụ khi tôi bị ý kiến đó giữ chặt ... Vì vậy, tôi đã băn
khoăn suy nghĩ, và đã phát minh ra điều tôi hình thành trong đầu là tên gọi mô
tả thích hợp cho sự “không thể biết”.
Sau đó, trong bài diễn văn của mình, Huxley đã giải thích
tiếp rằng người của thuyết không thể biết không có tín ngưỡng, ngay cả không có
tín ngưỡng do đã có rồi bỏ đi.
Thuyết không thể biết, trên thực tế,
không phải là một tín ngưỡng, nhưng là một phương pháp, yếu tính của nó nằm
trong việc áp dụng nghiêm ngặt chỉ một nguyên tắc duy nhất.. .. Một cách chủ
động, nguyên tắc có thể được phát biểu: Trong những vấn đề về tri thức, đi theo
lý trí của bạn xa đến mức như nó sẽ dẫn bạn tới, mà không màng đến bất kỳ cân
nhắc nào khác. Và một cách thụ động: Trong những vấn đề về tri thức, đừng giả
vờ làm ra vẻ rằng những kết luận thì chắc chắn chúng vốn không chứng minh được,
hay không thể chứng minh được. Rằng tôi xem như là lòng tin vào sự không thể
biết, trong đó nếu một người giữ toàn bộ trọn vẹn và thuần khiết không vết nhơ,
ông sẽ không phải xấu hổ khi nhìn thẳng vào mặt vũ trụ, bất kỳ là tương lai có
thể dành chờ sẵn cho ông ta.
Với một nhà khoa học đây là những những lời cao quý, và người
ta không phê bình H. T. Huxley dễ dàng. Nhưng Huxley, trong sự tập trung của
ông trên tính tuyệt đối không thể của chứng minh hay bác bỏ Gót, xem dường đã
bỏ qua màu sắc đậm nhạt (nặng nhẹ) của xác
suất. Sự kiện là chúng ta – có thể chứng minh được, và cũng có thể không
chứng minh được – sự hiện hữu của một điều gì đó, không đặt sự hiện hữu và
không hiện hữu trên cùng một cơ sở ngang nhau. Tôi không nghĩ rằng Huxley sẽ
không đồng ý, và tôi ngờ rằng khi ông bên ngoài làm như thế, ông đã bẻ cong lại
về đằng sau để nhường nhịn chịu thừa nhận một điểm, vì ích lợi của sự đảm bảo
cho một điểm khác. Tất cả chúng ta, thỉnh thoảng đều đã làm điều này.
Ngược lại với Huxley, tôi sẽ đề nghị rằng sự hiện hữu của Gót
là một giả thuyết khoa học giống như bất kỳ giả thuyết nào khác. Ngay cả nếu
khó khăn để thử nghiệm trong thực tế, nó thuộc trong cùng một ngăn riêng của
TAP hay thuyết không thể biết tạm thời, như những tranh cãi về sự tuyệt chủng
kỷ Permi và kỷ Cretaceous [14].
Sự hiện hữu hay không hiện hữu của Gót là một sự kiện khoa học về vũ trụ, có
thể khám phá được trên nguyên tắc nếu không trong thực hành. Nếu như ông đã
hiện hữu và đã chọn tiết lộ cho thấy, chính Gót có thể xác nhận, làm cho không
bác lại được những Luận chứng, ầm ĩ và dứt khoát rõ ràng, trong lợi thế của
mình. Và ngay cả nếu sự hiện hữu của Gót thì không bao giờ chứng minh được hoặc
bác bỏ được với chắc chắn cách này hay cách khác, chứng cứ có thể có sẵn và sự
lý luận có thể đưa đến một ước tính về xác suất nhiều hơn 50 phần trăm.
Chúng ta hãy cùng, nghiêm trang, sau đó, một cách nhiêm trang,
lấy ý tưởng về một quang phổ của những xác suất, và đặt những phán đoán của con
người về sự hiện hữu của Gót dọc theo nó, giữa hai cực của sự chắc chắn đối
nghịch. Quang phổ thì liên tục, nhưng nó có thể được tiêu biểu tương ứng bằng
bảy cột mốc sau đây dọc theo đường đi.
- Người mạnh mẽ tin-có-gót. Xác
suất về Gót là 100 phần trăm. Trong những lời của C. G. Jung, “Tôi không
tin, tôi biết.”
- Xác suất rất cao nhưng chưa đến
100 phần trăm. Trên thực tế là
người tin-có-gót. “Tôi không thể biết chắc chắn, nhưng tôi tin tưởng mạnh
mẽ vào Gót, và tôi sống đời tôi trên giả định rằng ông ta có đấy”.
- Cao hơn 50 phần trăm, nhưng
không phải là rất cao. Về mặt kỹ thuật là không-thể-biết nhưng nghiêng về
phía thuyết tin-có-gót. “Tôi không chắc chắn lắm, nhưng tôi nghiêng sang
tin tưởng vào Gót ”.
- Đúng 50 phần trăm. Hoàn toàn
khách quan không thể biết. “sự
hiện hữu và không hiện hữu của Gót thì đều có thể xảy ra với cùng một xác
xuất ngang nhau”.
- Thấp hơn 50 phần trăm, nhưng
không phải là rất thấp. Về mặt kỹ thuật là không thể biết nhưng nghiêng về
phía thuyết không-tin-có-gót. “Tôi không biết Gót có hiện hữu hay không,
nhưng tôi nghiêng sang phía hoài nghi”.
- Xác suất rất thấp, gần đến,
nhưng vẫn chưa đến số không. Trên
thực tế là người không-tin-có-gót. “Tôi không thể biết chắc chắn,
nhưng tôi nghĩ rằng Gót thì rất khó mà có xảy ra, và tôi sống đời tôi trên
giả định rằng ông không có”.
- Người mạnh mẽ không-tin-có-gót.
“Tôi biết không có Gót, với cùng
một đoan quyết như Jung “biết” là có một (gót)”.
Tôi sẽ lấy làm ngạc nhiên nếu gặp nhiều người ở nhóm 7, nhưng tôi gồm nó
vào cho đối xứng với nhóm 1, vốn có đông người. Đó là trong bản chất của lòng
tin mà người ta có khả năng, như Jung, để giữ một tin tưởng dù không có lý do
thỏa đáng để làm như thế (Jung cũng đã tin rằng những quyển sách cá biệt nào đó
trong tủ sách của ông tự nhiên phát nổ với một tiếng lớn)[15]. Người không-tin-có-gót không có lòng tin tôn giáo, và chỉ mình lý trí mà
thôi không thể đẩy người ta đến được sự hoàn toàn tin tưởng chắc chắn rằng bất
cứ một gì đó rõ ràng nhất định là không hiện hữu. Do đó, nhóm 7 trong thực tế
dĩ nhiên là có trống vắng hơn nhóm 1 đối nghịch của nó; vốn trong nhóm
1 có nhiều người đặt hết lòng. Tôi kể chính tôi trong nhóm 6, nhưng hướng
đến nhóm 7. Tôi là một người theo thuyết không thể biết, chỉ trong mức độ mà
tôi không thể biết về những tiên nữ tí hon ở đáy vườn hoa.
Quang phổ của những xác suất ứng dụng tốt được với TAP
(Thuyết không thể biết Tạm thời trong Thực hành). Có điều cám dỗ ngoài mặt là
đặt PAP (thuyết Không thể biết Vĩnh viễn trong Nguyên tắc) ở giữa của quang
phổ, với xác suất 50 phần trăm về sự hiện hữu của Gót, nhưng điều này thì không
là chính xác. Những người không thể biết PAP quả quyết rằng chúng ta không thể
nói bất cứ điều gì, cách này hay cách khác, về vấn đề không biết liệu Gót có
hay không hiện hữu. Câu hỏi này, với những người PAP không thể biết, là trong
nguyên tắc không thể trả lời được, và họ nên nghiêm nhặt từ chối để đặt mình ở
bất cứ đâu trên quang phổ của những xác suất. Sự kiện là – tôi không thể biết
liệu màu đỏ của bạn có giống như màu xanh lá cây của tôi hay không – không làm
thành xác suất 50 phần trăm. Mệnh đề phát biểu đưa ra thì quá vô nghĩa để được
xứng đáng với một xác suất. Tuy nhiên, đó là một sai lầm phổ biến, mà chúng ta
sẽ lại gặp lần nữa, để làm bước nhảy vọt từ tiền đề rằng những câu hỏi về sự
hiện hữu của Gót là là trong nguyên tắc không thể trả lời được đến kết luận
rằng sự hiện hữu của Gót và sự không hiện hữu của Gót là đều có thể xảy ra, có
cùng một xác xuất bằng nhau.
Một cách khác để thể hiện sai lầm đó là trong thuật ngữ “gánh
nặng của bằng chứng” [16]
(trách nhiệm đưa ra bằng chứng), và trong hình thức này được Bertrand Russell
chứng minh cho thấy rõ một cách thích thú bằng dụ ngôn một ấm trà trên trời.[17]
Nhiều tín đồ tôn giáo thuần thành nói
cứ như phận sự của những người hoài nghi là phải đưa ra phản chứng các giáo
điều thay vì chính các nhà chủ trương giáo điều phải chứng minh các giáo điều
này cho đúng. Dĩ nhiên, đây là một sai lầm. Nếu như tôi đưa ra giả thuyết là
giữa trái đất và sao Hỏa (Mars) có một cái bình trà bằng sứ, quay quanh mặt
trời, theo một quĩ đạo hình ellipse, không ai có thể bác bỏ sự xác quyết của
tôi, nếu như tôi cẩn thận thêm vào rằng cái bình trà này rất nhỏ, những viễn
vọng kính dẫu mạnh mẽ nhất của chúng ta cũng không thể tìm được nó. Nhưng nếu
như tôi cứ tiếp tục nói như thế, trong khi giả thuyết của tôi dẫu không thể phủ
bác, không thể nào tự đắc nói rằng lý trí con người không ngờ vực nó. Đáng cho
tôi bị xem đúng là nói ba láp. Tuy nhiên, nếu như sự hiện hữu của cái bình trà
đã được xác nhận trong các quyển sách cổ, lại được dạy như chân lý thiêng liêng
mỗi Chủ nhật, và cho ngấm giọt vào tâm trí trẻ con ở nhà trường, ai chậm chạp
trong sự tin vào hiện hữu của bình trà là dấu hiệu của tánh tình lập dị và đủ
để kẻ ngờ vực này được nhà tâm lý chuyên môn chú ý, trong một thời đã khai sáng
nay, hay sự chú ý của phán quan tòa dị giáo trong một thời trước đây. [18]
Chúng ta sẽ không phí thời giờ nói như vậy vì không ai, cho
đến nay như tôi biết, phụng thờ cái ấm trà [19];
nhưng nếu bị ép, chúng ta sẽ không ngần ngại tuyên bố tin tưởng mạnh mẽ của
chúng ta rằng tuyệt đối chắc chắn không có ấm trà nào bay trong quỹ đạo không
gian. Tuy nhiên, cho nghiêm nhặt, tất cả chúng ta phải nên là những người không thể biết về ấm trà.
Trong thực tế, chúng ta chuyển xa khỏi thuyết không thể biết, hướng tới thành
những người không-tin-có-ấm trà.
Một người bạn, là người đã được nuôi dạy thành một người
Dothái, vẫn giữ lễ Sa-bát và những phong tục Dothái khác, đến từ lòng trung thành
với di sản của mình, tự mô tả ông là theo thuyết không thể biết về những “cô
tiên đổi răng lấy quà” [20].
Ông coi Gót như là không có thể xảy ra, không nhiều hơn so với những cô tiên
đổi răng lấy quà. Bạn không thể bác bỏ một nào trong hai giả thuyết, và cả hai
đều không thể xảy ra bằng nhau. Ông là một người không-tin-có-gót chính xác cùng một mức độ mà ông là một người không-tin-có-thần-tiên. Và là người
không-thể-biết về cả hai, trong cùng phạm vi nhỏ như vậy.
Ấm trà của Russell, dĩ nhiên, là đứng đại diện cho một lượng
vô hạn gồm những sự-vật-việc mà sự hiện hữu có thể mường tượng được và không
thể bị bác bỏ. Nhà luật sư nổi tiếng người Mỹ Clarence Darrow đã nói, “Tôi
không tin vào Gót như tôi không tin vào Mẹ Ngỗng” [21].
Nhà báo Andrew Mueller thì có ý kiến rằng cam kết buộc mình vào một tôn giáo
bất kỳ đặc biệt nào “là không nhiều hoặc ít quái gở hơn hơn so với việc lựa
chọn để tin rằng thế giới là hình thoi, chuyển dịch qua vũ trụ trong những gọng
kìm của hai con tôm hùm khổng lồ màu xanh lá cây, gọi là và Esmerelda Keith”. [22]
Một yêu chuộng triết học là con ngựa-một-sừng vô hình, không thể trông thấy
được, không thể sờ thấy được, không thể nghe thấy được [23],
hàng năm, trẻ em vẫn phản chứng minh, vẫn cố gắng thử bác bỏ nó ở Trại hè Quest
[24].
Một đấng-gót phổ phổ biến trên Internet hiện nay – Và cũng không thể chứng minh
là không-có như Yahweh hoặc như bất kỳ một-gì nào khác – là Quái Vật Mì Spaghetti Bay (Flying
Spaghetti Monster), [25]
là kẻ, nhiều người tuyên bố là đã chạm vào họ với với phụ tùng “rối như những
sợi mì cuốn” [26].
Tôi rất vui mừng thấy rằng sách Phúc Âm của
Quái Vật Mì Spaghetti Bay đã được
xuất bản, rất được hoan nghênh [27].
Tôi đã không tự mình có đọc, nhưng ai là người cần đọc một tin mừng khi bạn chỉ biết
nó là sự thật? Nhân đây, chuyện đã phải xảy ra đã xảy ra – Một sự ly khai tôn
giáo lớn đã xảy ra rồi, kết quả là Hội
Nhà thở Cải cách của “đạo” tin có Quái
Vật Mì Spaghetti Bay đã ra đời.[28]
Điểm nêu lên của tất cả những thí dụ “quá xá” rộng mở này là
rằng chúng đều không thể chứng minh là không-đúng, thế nhưng không ai nghĩ rằng
giả thuyết về sự hiện hữu của chúng là ngang bằng trên cùng một cơ sở ngay cả
với những giả thuyết về sự không hiện hữu của chúng. Điểm nêu lên của Russell
là trách nhiệm chứng minh, gáng nặng đưa ra bằng chứng, thuộc về những người
tin tưởng, không phải về những người không tin tưởng. Điểm liên quan của tôi là
là tỷ lệ đánh cá nghiêng về thuận cho phía ấm trà (quái vật spaghetti /
Esmerelda và Keith / ngựa một sừng,... vv) đều không ngang bằng với tỷ lệ đánh
cá về chống lại chúng.
Sự thật là ấm trà bay trên quỹ đạo và những cô tiên đổi răng
lấy quà đều không thể chứng minh là không-có được, thì bất kỳ một người nào có
đầu óc hợp lý phải chăng đều không cảm thấy chúng thuộc về những loại sự kiện
có thể giải quyết, phân định được bất kỳ tranh luận thú vị nào. Không ai trong
chúng ta cảm thấy một bổn phận phải bác bỏ bất kỳ nào trong hàng triệu những sự
vật việc phóng đại xa vời mà một óc tưởng tượng màu mỡ hoặc khôi hài có thể mơ
tưởng lên. Tôi thấy nó là một chiến thuật thú vị, khi được hỏi liệu tôi có phải
là một người không-tin-có-gót hay không, bằng cách chỉ ra rằng người hỏi cũng
là một người không-tin-có-gót, khi đối chiếu hướng nhìn với những Zeus, Apollo,
Amon Ra, Mithras, Baal, Thor, Wotan, Con bê Vàng và Quái Vật Mì Spaghetti Bay. Tôi chỉ đi xa hơn với một gót nữa. [29]
Tất cả chúng ta đều cảm thấy mình được hưởng quyền để bày tỏ
chủ nghĩa hoài nghi cực đoan của sự không tin hoàn toàn, một cách thẳng thắn
trực tiếp, không phải úp mở, – ngoại trừ là trường hợp của (các chuyện về) ngựa
một sừng, cô tiên đổi răng lấy quà, và những vị gót của Hylạp, Lamã, Egypt và
dân Viking, là những thứ mà ngày nay không cần phải bận tâm nữa. Tuy nhiên,
trong trường hợp của Gót của đám con cái Abraham, cần phải có một bận tâm, vì có
một tỷ lệ đáng kể gồm những người mà chúng ta cùng chia xẻ hành tinh này, họ
thực sự tin tưởng mạnh mẽ vào sự hiện hữu của ông ta. Ấm trà của Russell cho
thấy rằng sự có mặt khắp nơi của tin tưởng vào Gót, khi so với tin tưởng vào ấm
trà trên trời, không trút được gánh nặng của bằng chứng trong lôgíchh, mặc dù
có thể xem ra thay đổi nó như một vấn đề chính trị thực tiễn. Điều rằng bạn
không thể chứng minh sự không hiện hữu của Gót thì được chấp nhận và tầm
thường, nếu chỉ trong ý hướng là chúng ta có thể không bao giờ hoàn toàn chứng
minh sự không-hiện hữu của bất cứ điều gì. Điều quan trọng thì không phải liệu
Gót là không-chứng-minh-là-không-được (ông ta thì không); nhưng liệu sự hiện
hữu của ông là có thể chứng minh được-là-có hay không. Đó là một vấn đề khác.
Một vài điều không-chứng-minh-được thì đã cân nhắc theo lẽ thông thường là
chúng ít có cơ hội xảy ra hơn so với
một số điều cũng không-chứng-minh-được khác. Và chắc chắn không có lý nào để
xem Gót như là tránh không đem vào xem xét trong quang phổ gồm những xác suất.
Và chắc chắn không có lý do để giả định rằng, chỉ vì Gót có thể là một trong
hai: không chứng minh được và cũng không bác bỏ được, nên xác suất về sự hiện
hữu của ông là 50 phần trăm. Nhưng ngược lại, như chúng ta sẽ thấy sau đây.
NOMA
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Jul/2013)
[1] Muscular Christianity: Phong trào Kitô
Bắp thịt: tực hành và quan điểm của nhưng người Kitô, tin rằng một trong những
bổn phận tôn giáo của họ là phải giữ thân thể cường tránng mạnh mẽ, phong trào
này đặc biệt phổ biến trong thời nữ hoàng Victoria nước Anh, thời thơ ấu của
tác giả.
[2] agnosticism: Triết học tôn giáo (từ gốc Hylạp : a (không) + gnostikos (người là kẻ biết)). Một từ T. H. Huxley đã dùng đầu tiên
để chỉ một lập trường không tin Gót hiện hữu, cũng không tin Gót không hiện
hữu, và phủ nhận rằng chúng ta có thể có bất kỳ kiến thức nào về bản chất của
Gót. Như thế thuyết không thể biết tương phản với cả thuyết tin-có-gót, vốn chủ
trương chúng ta có thể biết được sự hiện hữu và bản chất của Gót, và với thuyết
không-tin-có-gót, vốn phủ nhận sự hiện hữu của Gót. Những người theo thuyết
không thể biết, như Kant và Hume, biện luận rằng lý trí con người có những giới
hạn di truyền và không thể vượt qua. Do đó chúng ta không thể biện chứng bất kỳ
một tuyên xưng nào để ủng hộ cả hai lý thuyết tin và không tin về gót, và nên
ngưng những phán đoán của chúng ta về những vấn đề này.
Quan điểm của thuyết không thể biết đã tồn tại qua
nhiều thời đại, nhưng nó trở nên quan trọng trong những tranh luận liên quan
đến khoa học và niềm tin tôn giáo, ở thế kỷ XIX. Ngày nay, thuyết không thể
biết thuyết cũng được sử dụng với nghĩa tổng quát hơn, để chỉ sự đình chỉ phán
đoán về sự thật hay sai lầm của những tuyên bố đi xa hơn những gì chúng ta có
khả năng phán đoán hoặc kinh nghiệm thông thường.
Xem thêm giải thích của Russell – Thế nào là một người theo thuyết
Không-thể-biết?
[3] [Quentin
de la Bedoyere, Catholic Herald, 3 Feb. 2006.]
[4] [Carl Sagan, 'The burden of skepticism', Skeptical
Inquirer 12, Fal 1987.]
[5] Kỷ
Permian kéo dài khoảng 290 đến khoảng 245 triệu năm trước đây. Khí hậu
rất nóng và khô ở nhiều nơi trên thế giới; trong giai đoạn này có sự tuyệt
chủng của nhiều loài động vật biển, và sự gia tăng của loài bò sát. Kỷ Jurassic
kéo
dài khoảng 208 đến khoảng 146 triệu năm trước đây.
[6] dinosaur: (dinosaur):
Năm 1841, Sir Richard Owen đã ghép hai từ Hylạp = deinos + sauros = dinosaur;
để chỉ giống lizard lớn kinh khủng. Nhưng ngày nay ‘dinosaur’ được nhìn nhận là
một loài hay giống mới (species). Mặc dù từ dinosaur có nghĩa là ‘con cắc kè kinh
khủng’ (không phải long/rồng), tên gọi này cũng có phần sai lạc, vì dinosaur không
phải là những con cắc kè. Đúng hơn chúng thuộc một nhóm riêng thuộc loài bò sát
(reptiles).
[7]
Temporary Agnosticism in Practice: thuyết không thể biết Tạm thời trong Thực
hành
[8]
Permanent Agnosticism in Principle: thuyết Không thể biết Vĩnh viễn trong
Nguyên tắc
[9] acronym: từ-ghép-những-chữ-gốc: a word
that is formed by combining some parts (usually the first letters) of some
other terms. Thí dụ, modem là
acronym, ghép từ: modulator/demodulator.
Trong ngôn ngữ ngày thường, acronym cũng dùng để chỉ sự viết tắt chỉ dùng chữ
đầu (initialisms), which are combinations of letters representing a longer
phrase. Thí dụ, CRT is an initialism
for cathode ray tube. The difference
is that an acronym is pronounced as if it were a word rather than just a series
of individual letters. ((e.g., radar
= ra(dio) d(etection) a(nd) r(anging), laser
= light amplification by stimulated
emission of radiation, on the pattern of maser).
[10]
“mushy pap”
[11] [I
discussed this case in Dawkins (1998).]
[12] [T. H.
Huxley, 'Agnosticism' (1889), repr. in Huxley (1931). Toàn bộ văn bản về thuyết
không-thể-biết có thể tìm được ở đây:
http:// www. infidels.
org/library/historical/thomas_huxley/ huxley_wace/part_02.html.]
[13]
Infidel – tiếng gọi miệt thị của những người đạo Kitô, đạo Islam, với những ai
bỏ đao, đứng ngoài, không tin theo tôn giáo của đám đông, không “trung thành”
với tôn giáo của xã hội của họ.
[14]
kỷ Cretaceous kéo dài khoảng 146 đến 65 triệu năm trước đây. Khí hậu ấm áp, và
mực nước biển tăng. Thực vật có hoa đầu tiên xuất hiện, và sự thống trị của
loài
dinosaur vẫn tiếp tục mặc dù
chúng tuyệt chủng khá đột ngột vào cuối kỷ này.
[15] Jung,
C.G. Memories, Dreams, Reflections. Ed. Aniela Jaffe'; trans. Richard
and Clara Winston. Rev. ed. (pbk.) N.Y.: Vintage Books, 1989. The story is on
pp. 155-156
Câu chuyện, trong tóm tắt là: Jung và Sigmund Freud đang ở
trong một căn phòng khi Jung bắt đầu cảm thấy một cảm giác tâm sinh lý kỳ lạ.
Sau đó, Jung và Freud nghe thấy một tiếng “bốp” to trong một tủ sách. Sau tiếng
ồn đầu tiên, Jung cảm thấy mạnh mẽ rằng sẽ có một tiếng nổ “bốp” thứ hai, và đã
nói như vậy. Sau đó, có một tiếng nổ thứ hai. Cảm giác của Jung rằng có sẽ là
một tiếng nổ thứ hai là điều có vẻ ma quái về chuyện xảy ra này. Ở đây, có thể nói – Jung tin vào “linh tính”,
linh tính bảo ông sẽ có tiếng nổ thứ hai, không chứng cớ gì cả, nhưng tiếng nổ
thứ hai trong tủ sách đã xảy ra! Dù thế, chúng ta phải trở lại với điểm Dawkins
đang bàn – với xác xuất, có bao nhiêu phần trăm những linh tính là đúng?
Thêm nữa,những gì chúng ta gọi là linh tính, trực giác, những câu hỏi bí
hiểm không lối thoát, sau một đêm ngủ yên, sáng hôm sau, đột nhiên thấy “lời
đáp rõ như ban ngày”,... là có dự phần những hoạt động của vô thức. Có thể kinh
nghiệm từ vô thức, đã cho Jung linh tính trên, vì những trang sách cũ, bị nóng,
nổ thường đã không xảy ra một mình, ... trong vắn tắt của một phụ chú, tôi chỉ
muốn nói những suy nghĩ vội vàng, về những người tin không bằng chứng như Jung,
vấn đề phải đào sâu hơn, không đơn giản như Dawkins nhìn, chỉ một khía cạnh, dù
vậy nhìn trong tổng quát là đúng, tin tưởng không chứng cớ, thường thường, hay
không thể nói, chắc chắn là không thể không sai lầm.
[16]
“Burden of proof” – trách nhiệm đưa ra bằng chứng. Những người tin có ma, nếu
muốn mọi người tin theo minhg, họ phải đưa ra bằng chứng rằng có ma; tương tự,
những người tin có gót, có linh hồn, có hỏa ngục, ....) phải đưa ra bằng chứng
nêu muốn người khác tin theo!
[17] [Russell,
'Is there a God?' (1952), repr. in Russell (1997b).
[18] Xem bản tôi tạm dịch Bertrand
Russell – Có Gót Hay Không? trên
blog này.
[19] [* Có lẽ tôi đã nói quá sớm. Báo Independent on Sunday, Ngày 05 tháng 6
năm 2005 đã đăng mục sau đây: “Những giới chức Malaysia cho biết giáo phái tôn
giáo xây ấm thiêng, có kích thước của một ngôi nhà, đã xem thường những quy
hoạch xây dựng.” Cũng xem thêm BBC News tại:
http://news.bbc.co.Uk/2/hi/asia-pacific/4692039.stm. ]
[20]
“tooth fairy”: cô tiên đổi răng lấy quà: trẻ em tin có một cô tiên sẽ cho quà,
thường là một đồng tiền. Khi có răng sữa bị gãy, lúc đi ngủ, hãy đặt dưới gối,
sáng dậy tỉnh giấc, sẽ nhặt được đồng tiền nằm dưới gối, chỗ đã để chiếc răng
gãy.
[21] Mother Goose: Mẹ Ngỗng: Nhân vật tưởng
tượng xem như là tác giả tưởng tượng của những truyện cổ tích, những bài đồng
dao trẻ con vô danh. Mẹ Ngỗng rất phổ thông ở nước Anh, các tập truyện với nhân
vật có biệt danh này xuất bản lần đầu những năm 1760 ở London,. Thường được vẽ
như một người đàn bà nhà quê, đứng tuổi, đội mũ cao, quàng khăn san, có khi đeo
kính lão trễ xuống mũi.
[22] [Andrew
Mueller, 'An argument with Sir Iqbal', Independent on Sunday, 2 April
2006, Sunday Review section, 12-16.]
[23] unicorn : Ngựa một sừng: một con vật
huyền thoại, có dạng giống con ngựa, nhưng chỉ có một sừng dài, mọc thẳng như
chiếc thương nhọn, từ trán.
[24] [* Trại Quest đã đem tổ chức trại hè
của nước Mỹ vào trong một hướng đáng ngưỡng mộ hoàn toàn. Không giống như những
trại hè khác đi theo tính cách tinh thần của một tôn giáo hoặc tổ chức hướng
đạo, Trại Quest, được Edwin và Helen Kagin thành lập ở Kentucky, do những người
thưo chủ nghĩa nhân bản thế tục điều hành, và những trẻ em được khuyến khích để
suy nghĩ với hoài nghi cho chính mình, trong khi có một thời gian vui chơi với
tất cả những hoạt động thông thường ngoài trời.(Www.camp-quest.org). Những trại
hè khác với cùng một đặc tính tương tự như bây giờ đã mọc lên ở Tennessee,
Minnesota, Ohio, Michigan và Canada.]
[25]
Giáo Hội của Quái Vật Mì Spaghetti Bay
-The Flying Spaghetti Monster (FSM) – xuất hiện ở Mỹ vào năm 2005 như một phản
đối chống lại việc giảng dạy thuyết sáng tạo song song với thuyết tiến hóa
Darwin trong các lớp khoa học ở những trường công lập, bắt đầu ở Kansas. Sự vặn
vẹo trào phúng thành phong trào tôn giáo, tự xem chính nó cũng là một tôn giáo,
để diễu cợt những phi lý trong những tôn giáo có tổ chức (điển hình là đạo Kitô
ở Mỹ) kể từ đó đã thu hút tín đồ từ khắp nơi trên thế giới. Những thành viên,
là những người tự gọi mình là “Pastafarians”, nửa giả nửa thật, nói rằng họ tin
có một mì ống vô hình là người ngoài hành tinh đã sáng tạo ra vũ trụ này, sau
một đêm uống rượu say lúy túy. Họ cũng tin rằng “thiên đường có núi lửa phun ra
rượu bia đúng như như mắt có thể nhìn thấy”, và những hải tặc là “những bậc
thánh”.
Những tín đồ của hội nhà thờ Quái Vật Mì Spaghetti Bay này cũng phát triển theo luật tự nhiên và
tiến hóa, phân thành nhiều giáo phái (Pastafarian
Sects), tạm kể một vài giáo phái phổ thông như: Macaronicism, The Talfredoban, Tomato Pirates, Reformed Pastafarianism,
Radical Church of the Rightfully Vengeful Tortellini,...
Khi họp nhà thờ, họ ê a bản kinh tín điều như sau:
“Our spaghetti
Who art in the colander
Hallowed be thy sauce
Thy serving come
Thy strands be wrung
On forks as they are on spoons
Give us this day our daily meatball
And forgive us our starchiness
As we forgive those who are starchy
against us
And lead us not into Kraft parmessan
But deliver us from Chef Boy-Ar-Dee
For thine is the garlic
And the onion and the bay leaves
For ever and ever.
R'Amen”
tạm dịch lấy ý:
“Đấng
mì ống spaghetti của chúng tôi
Cha trong rổ có đục lỗ
Thần linh là Nước sốt Cha
Cha được nước Chúa
Phục vụ Chúa đến
Sợi Cha đã thể được cuốn ép
Trên nĩa cũng như đang trên thìa
Cho chúng tôi đến ngày nay có thịt
viên trong bữa hàng ngày của chúng tôi
Và tha thứ cho sự dính bột trắng của
chúng tôi
Như chúng tôi tha thứ cho những người
ném bột trắng chống lại chúng tôi
Và dẫn dắt chúng tôi đừng tới phó mát
parmessan chế biến sẵn của hiệu Kraft
Nhưng cứu chúng tôi thoát khỏi đầu
bếp Boy-Ar-Dee, kẻ bán mì khô đóng hộp
Vì Người là tỏi nồng
Và hành tây hăng và lá “ngò-bay” thơm
Đời đời.
R'Amen ...”
Tôn giáo này đến nay vẫn phát triển mạnh: Ngày2/ tháng 8/2013, vừa qua; tôi
đọc tin một tín đồ (Pastafarian) ở Cộng hòa Czech đã đòi quyền bình đẳng tôn
giáo; và đươc chấp thuận chụp ảnh làm thẻ ID với mũ đội theo trang phục tôn
giáo của người theo đạo thờ Quái Vật Mì
Spaghetti Bay. Xem thêm ở đây:
http://www.nydailynews.com/news/world/pastafarian-allowed-wear-sieve-head-id-photo-article-1.1415677
[26] [New York
Times, 29 Aug. 2005. See also Henderson (2006).]
[27] [Henderson
(2006).]
[28] [http://www.lulu.com/content/267888.]
[29] Ai cũng đều là người không-tin-có-gót cả, chỉ đơn giản là người ta không
tin gót này nhưng tin gót kia mà thôi; tác giả muốn nói, ông không khác gì
những người Kitô; họ cũng đều là vô thần, họ đã không tin rất nhiều gót (của
Hylạp, bắc Âu, Islam, ...); riêng ông, ông chỉ bước xa hơn một bước, là không
tin thêm một gót nữa (Gót Abraham, hay gót-con Jesus), chẳng qua gót này là gót
cuối cùng trong xã hội phương Tây, nên cuối cùng thành người không-tin-có-gót
nào.
Trên quang phổ xác
xuất về Gót – ông cũng như chúng ta – là “Người mạnh mẽ không-tin-có-gót.” nào
cả. Những người Viêt Kitô, sau khi phủ nhận tất cả những thần linh khác trước
đây đã có của dân tộc họ, họ tự tin Gót Abraham nhập cảng từ Is-ra-el mới là
gót thật – dĩ nhiên thật, hay giả, cao hay thấp, hoàn toàn chỉ là do
lòng tin, nghiã là không chứng cớ!
Ai có thể quả quyết những gì mình tin thì đúng hơn
những gì những người khác tin, và ai có thể chắc chắn nói rằng những gì mình
tin là thực – Nietzsche đã trả lời – bạn hãy thử đi một vòng qua nhà thương
điên, sẽ thấy ngay tin tưởng của con người, dù mạnh đến đâu, đều không vì thế
mà thành sự thực!
(“A casual stroll
through the lunatic asylum shows that faith does not prove anything” – Đi dạo một vòng bình thường qua một nhà thương điên, sẽ cho thấy rằng
lòng tin tôn giáo (đức tin) không chứng minh được bất cứ gì.)