Cái Ta và cái
Đó
Sigmund Freud
(1856-1939)
The Ego and
the Id
Das Ich und
das Es (1923)
Lời bạt của người dịch bản tiếng Việt
“Psycho-analysis
is a procedure for the medical treatment of neurotic patients.” (Introductory Lectures on Psychoanalysis).
Phân
Tâm hay Phân tích Tâm lý là một khoa trị bệnh dựa trên tâm lý học hơn là trên y
học – đó là chữa trị những chứng bệnh liên hệ với não thức như lo lắng không
dứt, sợ hãi những gì không thực và những chứng tương tự; nhưng cũng, và có lẽ
quan trọng hơn, đối với nhiều người là một
cách tìm được hiểu biết về chính mình, và sau đó được tự do, thoát khỏi những
giới hạn áp đặt trên chính mình từ những bận tâm vô thức hay những chấn thương
tâm lý thường gây ra từ tuổi thơ ((hay chiến tranh, đặc biệt với thế hệ có những
biến cố loại như Mỹ-Lai).
Nhưng
trong khi ngành trị bệnh bằng tâm lý học (psychotherapy) là một ngành tổng quát
chỉ chung những trị liệu với những phương tiện không sinh học này (thí dụ gần đây, mở
rộng sang những khoa trị bệnh bằng thiền, bằng yoga); nhưng Phân Tâm
(PsychoAnalysis) là từ ngữ đặc biệt và chỉ riêng dành để chỉ về một dạng của
khoa trị bệnh bằng tâm lý, hoàn toàn đặt cơ sở trên những lý thuyết của Sigmund
Freud (1856-1939), và những người đi theo lối mở của ông, và tập Cái-Ta và Cái-Đó này là giới thiệu gần
gũi nhất và trực tiếp nhất; The Ego and
the Id cho chúng ta vắn tắt và rõ ràng nhất những khái niệm nội dung chủ
yếu của lý thuyết – nay quen gọi là lý thuyết Phân tâm học. Và cũng thế, khi
chúng ta dùng từ ngữ Phân tâm – lý thuyết (Phân tâm học) hay thực hành (dùng
Phân tích tâm lý), chúng ta đều biết là chỉ nói về những gì hiểu theo Freud.
Sigmund
Freud, người nước Áo, là một y sĩ, chuyên khoa về thần kinh (neurologist), và
là một nhà trị liệu thần kinh (psychiatrist). Ông đã bắt đầu phát triển những quan
điểm của ông, những năm 1880 khi thăm dò những lợi ích của phép thôi miên
(hypnosis) như một cách chữa trị cho chứng hysteria của phụ nữ,
những người này không cho thấy có một nguyên nhân trực tiếp về sinh lý vật lý
nào trên cơ thể. Ông đã đi đến quan điểm rằng hysteria có nguyên nhân từ những ký ức không thoải mái đẹp đẽ, vốn
đã bị dồn nén trong vô thức của họ. Đầu tiên ông nghĩ là họ đã là những nạn
nhân của nạn lạm dụng tình dục trong thời thơ ấu. Ông gọi đây là lý thuyết về
cám dỗ (seduction theory). Sau đó,
ông thay đổi và chủ trương rằng những ký ức bị dồn nén, xua đuổi đó là những mong ước loạn
luân với cha mẹ khác phái, và điều này đã được lấy làm nền tảng cho quan điểm
của ông rằng tất cả những chứng nơ-rô thấy nơi người lớn đều bắt rễ từ những
phát triển tâm sinh lý, hoặc đã bất toàn, hoặc bị rối loạn, trong thời thơ ấu.
Trong
lý thuyết trưởng thành của ông (vẫn đương phát triển trong hai mươi năm cuối
đời ông). Freud chủ trương là có ba cơ cấu trung tâm của não thức – hay ba khuôn mặt của mỗi nhân cách – ông gọi là
cái-Đó, cái-Ta, và cái-Ta-lý tưởng, và có lẽ cả thế giới
ngày nay đều biết chúng dưới tên gọi “quốc tế” của chúng là: Id, Ego, và
Super-ego, nên chúng ta hãy dùng những thuật ngữ phổ thông này để chỉ những
khái niệm đặc biệt này của ông.
Sáng tạo của ông về
Phân tâm học, vốn vừa là một lý thuyết về tâm lý con người, vừa là một phương
pháp trị liệu những chứng bịnh thần kinh, và vừa là một kính chiếu được dùng
trong phân giải những hiện tượng nhân văn trong lịch sử xã hội và văn hóa loài
người. Lý thuyết của ông về triebe (vẫn dịch theo bản
tiếng Anh – instinct - bản năng, nhưng
nguyên nghĩa tiếng Đức là xung lực, thúc đẩy) trong nhiều phương diện là một xây dựng có
tính chất triết học siêu hình, có thể so sánh được với élan vital của Bergson, hay với ý
chí của Schopenhauer. Những lý thuyết của ông đã có ảnh hưởng sâu rộng
vượt rất xa tâm lý học, và cũng chính như ông, ông đã mở những thăm dò, nghiên cứu
vừa táo bạo, vừa sáng tạo ra ngoài lĩnh vực hạn hẹp của phòng điều trị một y sĩ. Trên
chiếc ghế sô pha dành cho người bệnh phân tâm nổi tiếng ở thành Vienna, cuối cùng Freud đã
đi đến đặt cả nhân loại nằm trên đó, hay đúng hơn một con người tiêu biểu cho tất cả chúng ta, nhìn xuốt lịch sử tiến hóa sinh vật.
1.
Não thức
trên vật chất
Từ một lập
trường khởi-nguyên-từ-tâm lý (psychogenic) trong tâm lý học, nghĩa là
những triệu chứng bất thường tâm lý có nguyên nhân trong não thức; nhưng Freud
cũng đã là một lý thuyết gia xây dựng lý thuyết của mình chặt chẽ nhất trên cơ
bản sinh học; là một nhà khoa học nghiên cứu ngành thần kinh, lý thuyết của ông
cũng là một lý thuyết dựa trên thuyết Sinh động-nơ-rô (neurodynamic), có
tham vọng giải thích những hành vi ứng của con người bằng những tiến trình
nơ-rô, biết được hay chỉ đoán được, trong não bộ. Từ đó ông đi đến lý thuyết
tất định sinh lý (biological
determinism), tổng quát, chủ
trương rằng, tất cả những hành vi ứng của con người có thể truy ngược về
những động lực sinh lý, trong đó có thể ngầm, chúng ta không biết, và từ đó dẫn đến lý thuyết của ông về
những bản năng vô thức (unconscious instincts). Như ông cho biết, trên
những khám phá “đã mở ra trong Beyond the Pleasure Principle”, trong tập
“The Ego and the Id” này, xuất bản ba năm sau tập trên, ông đi
đến lập thuyết, ông gọi là làm “một tổng hợp hơn là một suy đoán, và xem dường
đã có một mục đích tham vọng. Tuy nhiên, tôi ý thức rằng nó không đi xa hơn
những phác thảo thô sơ nhất, và tôi hoàn toàn hài lòng trong vòng giới hạn đó”.
Lý thuyết
đó nay đã phổ thông và nổi tiếng – thường gọi là Lý thuyết của Freud về não
thức – có thể tóm thu trong hai mô hình đơn giản, chúng ta đã thấy trong tập
sách này. Mô hình thứ nhất là một “núi băng trên biển” với ba vùng tương
ứng với: ý thức, tiền-ý thức và vô thức. Mô hình thứ hai, là – “Não thức ba
ngôi” – hay ba cơ cấu não thức: Id (đọc là Ít), ego và super-ego,
tôi đề nghị dịch là cái-Đó (tôi muốn cái đó và ngay bây giờ), cái-Ta
(gượm gượm đã nào, để xem không biết có được không), và Cái-Ta-Lý-tưởng
(tởm thật, sao thèm thuồng xấu xa đến thế! Quên hết cả liêm sỉ!).
Đặc biệt, Id là kho chứa của những bản năng, Freud phân thành hai nhóm, ông
gọi là hai “class” – hiểu như hai tập hợp lớn của những bản năng: Những bản
năng Sống: chính yếu là những xung lực đòi thỏa mãn đói, khát, tự bảo vệ, tình
dục. Ông lấy tên thần ái tình Eros đặt cho chung cho chúng, chính yếu là
bản năng khao khát tình dục – vì những bản năng này muốn sống, muốn sinh con đẻ
cái, và cũng có nghĩa là muốn được thương yêu. Xung lực của bản năng này cũng
được gọi bằng một tên gọi đặc biệt, biết đến nhiều nhất Libido. Những bản năng Chết: những bản
năng này khó thấy, vì thường kết hợp, trộn lẫn với những bản
năng Sống khác,
nhưng khi nó quay ra ngoài- sẽ thấy qua tính gây hấn hung hãn, chiến tranh, dai
dẳng lập đi lập lại những ép buộc thúc bách phi lý. Ông cũng đem tên thần chết
đặt cho nó là Thanatos, xung lực hủy hoại tàn phá của nó là Destrudo,
đối lập với Libido
Sau đây nhắc lại một vài điểm quan trọng với những khái niệm vừa kể, dù có
thể là thừa thãi.
Vô thức
Freud không phải là người khám phá ra
vô thức, nhưng ông là một nhà lý thuyết về vô thức, giải thích vô thức tác động
ra sao, ảnh hưởng của nó như thế nào. Qua đó, Freud là người đã sáng tạo ra một hình ảnh mới về não thức, không phải
như là trung tâm được lý trí chiếu sáng, nhưng của đen tối đầy những khó hiểu,
vô lý. Não thức như một thứ biển lớn. Những gì chúng ta thấy trên mặt mặt và
xuống sâu thêm một vài bước cách phần nước bên trên, là phần có ý thức, hay hữu
thức. Nhưng từ đó xuống dưới đáy, phần bao la và đầy đen tối, là những chiều
sâu vô thức chưa khám phá, chứa đầy những quái vật kỳ lạ. Viễn cảnh này là kết
quả dẫn đến từ sự phát triển của khoa “tâm lý học chiều sâu”, chủ yếu là một
quá trình thăm dò vô thức, bằng những phương pháp phân tích tâm lý, và còn là
trị liệu từ sự nhận diện được một số những quái vật này. Hy vọng của Freud là
tìm thấy và xây dựng một khoa học nhân văn, thực nghiệm, khoa học đó sẽ cung
cấp cho chúng ta một sự nắm vững hữu thức về phần vô thức. Nhưng đã có một số
người phản đối, họ phê phán là ông đã cung cấp một huyền thoại mới cho
con người hiện đại, chứ không phải một khoa học mới.
Ngờ rằng con người có những hoạt động
tinh thần vượt ngoài tầm hiểu biết tỉnh thức của chúng ta. Đặc biệt là có lẽ là
sau những giấc mơ. Thế nên, từ buổi binh minh của văn minh loài người, chúng ta
vẫn ý thức là có những gì không ý thức được trong chúng ta – nhưng vẫn nghiêng
sang xem chúng là “mộng”, nghĩa là không thực. Vô thức vẫn nằm trong đêm tối, vẫn bị
ngờ vực, thực hay hư đây.
Dĩ nhiên ở đây, tôi đương nói về tư tưởng phương Tây mà thôi, vì ở
phương Đông, cụ thể trong tầm hiểu biết là Ấnđộ, lấy thí dụ - đặc biệt trong
Phật giáo, đã sớm có những công trình nghiên cứu rất thâm sâu về lĩnh vực của
những gì chúng ta gọi chung là vô thức (Duy Thức học là một học phái
lớn của Phật học). Quay về phương Tây, cái nôi văn hóa của Freud, chúng ta thấy cho đến thế kỷ 17, trong tư
tưởng triết học phương Tây, tựu trung có thể thu về hai chủ nghĩa lớn, và mỗi
triêt gia nếu không nghiêng về chủ nghĩa này thì đứng về phía chủ nghĩa kia.
Chủ nghĩa duy vật - Materialism –
về phương diện tâm lý, xem cơ thể và những hoạt động cơ thể - nghĩa là như tên
gọi – những gì là hữu hình vật chất - là những thực tại duy nhất để nghiên cứu
tâm lý. Chủ nghĩa duy ý - Idealism - (vẫn gọi tên sai là chủ nghĩa
duy tâm), thêm vào những gì gọi chỉ có trong ý tưởng, hay tinh thần, xem chúng
cũng là những thực thể - ở đây là thực thể tâm lý. Trong số những nhà theo chủ
nghĩa Duy ý – Nhóm rất có ưu thế ở lục địa châu Âu, được gọi dưới tên là Cartesian
dualism – những người theo
thuyết thuyết nhị nguyên của Descartes – những người này chủ trì có hai lĩnh
vực độc lập trong con người: những gì vô hình, trừu tượng, tinh thần là res
cogitans và những gì không như thế, vật chất, là res extensa.
Như thế, chúng ta thấy những gì không ở trong hai lĩnh vực này, đặc biệt là
những gì chúng ta không có ý thức – những gì vẫn ngờ là vô thức - thì không
được xem là có trong con người. Giải thích và chủ trương như thế vì họ muốn duy
trì sự thuận hợp tư tưởng của họ với những khái niệm thần học Kitô. Thế kỷ 17, đặc biệt ở nước Pháp, nhà thờ giữ
thế lực rất quan trọng, gần như vẫn còn độc tôn và khuynh đảo tư tưởng.
Sang đến thế kỷ 18 và về sau, ý tưởng
về những tiến trình não thức vô thức dần dần được xác định. Chúng ta thấy Kant (1724-1804) đã gợi ý rằng những
hoạt động sáng tạo của những thiên tài chảng han, là được những cứu cánh vô
thức hướng dẫn. Trong số những triết gia Đức, đặc biệt F. Nietzsche (1844-1890), ông không bao giờ nghi
ngờ sự hiện hữu của vô thức, chính ông mới là người tạo ra từ “Id”, để chỉ những yếu tố tinh thần vô
ngã nhưng tuân theo những luật tự nhiên của thế giới vật chất, và cuối cùng đến
Freud, như chúng ta biết là người đã hệ thống hóa, khai triển và dựng một lý
thuyết hết sức quan trọng và có tầm ảnh hưởng lâu dài và sâu xa – lý thuyết về
vô thức.
Nhắc lại, Freud không phải là người
khám phá ra vô thức, nhưng sau ông – Vô thức là thực thể tâm lý, và muốn hiểu vô thức
“thực” như thế nào, chúng ta có thể bắt đầu từ tập sách The Ego and the Id này.
Ego
Đối với
Freud, não thức gồm một cái-ta, ông gọi là ego, Nó là tất cả
những suy nghĩ bình thường của một người, và nó xem dường có trách nhiệm chỉ
đạo hành vi ứng xử hàng ngày của người ấy; nhưng đó chỉ là phần đóng vai ngoài
mặt, dưới sâu là cái-đó, ông gọi là id. Chính Id trước
hết chứa tất cả những bản năng tự nhiên bẩm sinh và sau đó những cảm xúc hay tư
tưởng bị xua đuổi dồn nén của chúng ta, Những xung lực khởi từ chúng, từ id
mới thực sự là những động lực cho ứng xử của chúng ta. Trên cái-ta còn
có cái-ta-lý-tưởng, ông gọi là super-ego, nó duy trì những lý
tưởng, những qui luật, những nguyên tắc, tất cả đã tích lũy, chúng đến từ cha
mẹ, giáo dục, xã hội, và super-ego này đóng vai canh chừng, cấm đoán,
kiểm soát ego qua một thứ cảm xúc về lầm lỗi; từ căng thẳng giữa ego và
super-ego là những gì xa gần chúng ta thường gọi là lương tâm, hay ý
thức đạo đức. Trong các tôn giáo, cảm thức về sai trái này thường được gán cho
một nguồn gốc thần linh (tiếng nói của Gót), nhưng với Freud, đó là tiếng
nói của super-ego. Chấn thương tâm lý trong thời thơ ấu có thể
phá vỡ sự cân bằng giữa ba cái tôi kể trên, và ego khi ấy trở thành đấu
trường nội tâm của cuộc vật lộn giữa một id xâm lấn và một superego
đe dọa. Kết quả có thể là những chứng trối loạn thần kinh, những bệnh trầm cảm,
những bất an lo lắng trong đời người.
Não thức ba
ngôi
Giống Plato,
Freud dùng hình ảnh của người đánh xe ngựa:
“Vì vậy,
trong mối quan hệ của nó với id, ego giống như một người đàn ông cỡi
trên lưng ngựa, người đó phải cố nắm (dây cương) giữ sức mạnh vượt trội của con
ngựa, nhưng có sự khác biệt này, là người cỡi ngựa cố gắng để làm như vậy với
sức mạnh của mình, trong khi ego sử dụng những sức mạnh vay mượn. Sự
tương tự có thể được kéo xa thêm một chút nữa. Thường thì một người cỡi ngựa,
nếu ông không phải rời bỏ con ngựa của mình, ông có trách nhiệm hướng dẫn con
ngựa đi đến nơi ông muốn đi, do đó, trong cùng một cách ego là trong thói quen
chuyển đổi ý muốn của id vào hành động như thể là của riêng của nó” (“The
Ego và Id”).
2.
Sức mạnh của
vô thức
Freud là
người đầu tiên trong lịch sử tư tưởng phương Tây cho thấy sức mạnh to lớn của
vô thức – đây là điều chính yếu khiến ông thành nổi tiếng. Trước Freud, “vô
thức” chỉ có nghĩa là bản năng, hoặc những phản ứng máy móc có tính cách cơ khí
đôi khi thấy nơi con người. Freud là người đã tạo ra một hình ảnh mới của não
thức – với vô thức và hữu thức - như nói ở trên – não thức chúng ta là một đại
dương mênh mông, mà chúng ta chỉ biết phần trên mặt – có ý thức, còn dưới sâu
tối đen rộng lớn, đầy những quái vật kỳ lạ. Cái nhìn này biến đổi tâm lý học,
tạo ra một ngành khoa học mới, được gọi là “tâm lý học chiều sâu”.
Lý thuyết về
libido
Freud đã chấn
động xã hội truyền thống vẫn giữ quan điểm bảo thủ bằng cách giải thích hành vi
xã hội và những tổ chức xã hội như dựa trên nhu cầu phải áp chế những xung lực
ham muốn trong những bản năng cơ bản của con người – trước tiên là bản năng dục
tình – libido- và gây hấn xâm lược. Freud được biết đến nhiều nhất
về lý thuyết liên hệ nhiều những hành vi của con người với bản năng tình dục. Libido
là khám phá của Freud, chỉ sau thế chiến thứ I, bản năng gây hấn xâm lược mới
được ông đưa thêm vào. Nền tảng và trọng tâm suy nghĩ của ông đã luôn luôn là
những gì ông gọi là “lý thuyết tình dục”, với ham muốn tình dục – libido- như
xung lực chính yếu và là chìa khóa giải thích hành vi con người. Freud đặt tầm
quan trọng lớn trên sự tưởng tượng về tình dục trong thời thơ ấu. Lý tưởng của
con người vẫn có trước đây về sự vô tội trong trắng của tuổi thơ đã bị Freud
giết chết, và “lý thuyết tình dục” đã ra đời.
Tô tem và Ta
bu
Freud không
chỉ gắn buộc phát triển tâm lý cá nhân mà cũng còn những hệ thống xã hội vào
với nhu cầu phải đàn áp những bản năng cơ bản của con người, như tình dục và
gây hấn hung hãn. Ông truy tìm nguồn gốc của xã hội loài người ngược về thời
của một bầy đàn nguyên thủy, trong đó những đứa con trai đã có lúc kết hợp
chống lại và giết người cha để giành quyền giao hợp với những người nữ trong
đàn. Ông thậm chí còn phỏng đoán rằng “trong thời kỳ nguyên thủy của gia đình
nhân loại, người cha ghen tuông và độc ác đã thực sự đem thiến những đứa con
trai mình khi chúng còn là những đứa trẻ đang phát triển”, và từ đó đã giải
thích tục cắt bao quy đầu của tín đồ một số tôn giáo, như là một di tích của sự
kiện này. Sự phát triển của xã hội loài người như chúng ta biết, đòi hỏi sự đàn
áp liên tục những bản năng cơ bản của con người là tình dục và hung hăng. (“Totem
và Taboo” 169).
3.
Định nghĩa
lại Con người
Freud là một
y sĩ, và nhìn mình như một nhà khoa học, nghiên cứu với những phương pháp khoa
học. Nhưng công trình của ông có ý nghĩa triết học hết sức lớn rộng. Freud đã
thêm vào một chiều mới cho khái niệm về não thức, và làm như vậy, ông đã định
nghĩa lại con người. Não thức thôi không còn là trung tâm của lý trí nữa. Con
người nếu không là một nạn nhân, thì cũng là kẻ phần lớn bị động của những tư
tưởng và những bản năng trong vô thức, vốn vượt ra ngoài sự kiểm soát của lý
trí nằm trong hữu thức của não thức. So sánh mình với Copernicus và Darwin,
Freud đã từng nhận xét rằng ông là người cuối cùng của ba cuộc cách mạng hạ
thấp con người. Đầu tiên, con người bị mất vị trí của nó như là trung tâm của
toàn vũ trụ, sau đó nó lại bị mất đặc tính phân biệt mình và đặt mình trên tất
cả những dạng sống khác. Đến Freud, cuối cùng đã cho thấy con người thậm chí
còn không làm chủ được những hành động bên ngoài và những tiến trình trong não
thức của chính mình.
Dồn nén
Freud tin
rằng xung lực chính yếu làm động cơ thúc đẩy hành vi con người từ tuổi sớm nhất
là ham muốn tình dục – ông gọi là libido, là sự săn tìm khoái cảm tình
dục. Ông vẽ ra tiến trình phát triển tâm lý con người qua một loạt những giai
đoạn, bắt đầu với giai đoạn miệng khi trẻ sơ sinh giành được niềm vui từ bú vú
mẹ, qua giai đoạn hậu môn đến giai đoạn dương vật. Ở đỉnh cao của giai đoạn
dương vật (khoảng 3-6 tuổi), xung lực libido của đứa trẻ tập trung vào cha mẹ
khác phái tính, ông đặt tên là mặc cảm Oedipus (hay mặc cảm Electra ở
những bé gái). Những điều cấm kỵ xã hội đối với sự loạn luân lên án những khoái
lạc tình dục trong của mối quan hệ cha mẹ-trẻ em ở giai đoạn dương vật, do đó
cảm giác hoan lạc được đẩy ra khỏi ý thức vào vô thức - tiến trình đàn áp này
gọi là xua đuổi dồn nén.
Mặc cảm
Oedipus
Tin tưởng của
Freud vào mặc cảm Oedipus và sự quan trọng của nó có tính cách cá nhân và đam
mê. Trong một bức thư cho người bạn của mình là Fliess, ông thú nhận:
“Tôi cũng đã
tìm thấy tình yêu mẹ và ghen tị với cha trong trường hợp của riêng tôi nữa, và
bây giờ tôi tin rằng nó là một hiện tượng phổ thông của thời thơ ấu ...” (“The
Interpretation of Dreams”, 168)
Ở chỗ khác,
ông tuyên bố:
“Số phận của
vua Oedipus làm cảm động chúng ta chỉ bởi vì nó có thể đã là của chúng ta - bởi
vì lời tiên tri đã cùng một lời nguyền trên chúng ta trước khi chúng ta ra đời
của cũng như với Oedipus. Đó là định mệnh của tất ca chúng ta, có lẽ, hướng
xung động tình dục đầu tiên của chúng ta về với mẹ của chúng ta và hận thù đầu
tiên của chúng ta và mong muốn giết người đầu tiên của chúng ta chống lại cha
của chúng ta “. (Thư gửi Fliess, ngày 15 tháng 10).
Huyền thoại
Oedipus được Sophocles trình bày mạnh mẽ và sống động trong một bi kịch HyLạp
thế kỷ 5, nhưng nó đã tiếp tục chiếm giữ trí tưởng tượng con người phương Tây
qua suốt những thế kỷ sau đó. Lévi-Strauss cũng sử dụng nó trong hỗ trợ lý
thuyết của ông về phân tích cấu trúc của những thần thoại. Câu chuyện đó rất
phổ thông trong cổ điển HyLạp, được khắc vẽ trên những bình lọ cổ. Một trong
những bức vẽ này cho thấy con quái vật Sphinx, hoành hành khủng bố dân chúng ở
thành Thebes, vào thời điểm đó, một lần đã thách mọi người, trong đó có Oedipus
một câu đố. Chỉ bằng cách trả lời câu đố này, Oedipus mới có thể vào thành
Thebes và tiếp tục hành trình tìm kiếm sự thật về đời ông. Câu đố chỉ là một
phần nhỏ của câu chuyện Oedipus là một người có định mệnh xếp đặt không thể tránh
khỏi là mang số phận phải giết cha và kết hôn với mẹ của mình. Tuy nhiên, với
Freud, câu đố có liên quan với con người – là một con vật với những giai đoạn
phát triển nó phải trải qua trong đời, và cũng như Oedipus, chúng ta thường
mù lòa trước những hành động của chính mình.
Mặc cảm
Oedipus được xem là dấu hiệu văn hoá đặc biệt của Freud, trong tập The Ego
and the Id này, được ông dẫn lại khi trình bày nguồn gốc của ego và
super-ego.
4
Chúng ta biết
được những gì về chúng ta?
a. Con
người là một sinh vật vô lý hơn là hữu lý.
Cho dù là chủ
nghĩa duy lý hay duy vật, tất cả những khái niệm về việc học tập của con người
trước đây nhìn thấy nó như là một quá trình qua lại giữa ý thức với môi trường
bên ngoài. Về phương diện hành vi ứng xử. Ít nhất Freud đã xoay tiến trình học
tập và phát triển từ bên trong ra bên ngoài. Sự phát triển của hành vi con
người được những xung lực nội tại xem dường vô lý thúc đẩy từ bên trong, và
cũng bị kiểm soát bởi sự đàn áp của những xung lực tự nhiên bản năng này. Lý
thuyết của Freud về đàn áp bản năng và dồn nén có thể giải thích rất nhiều về
hành vi của con người bình thường, không chỉ những chứng rối loạn thần kinh.
Con người duy lý tìm kiếm sự hiểu biết cao hơn về những chân lý phổ quát như đã
các triết gia từ Plato đến Descartes vẽ ra, nay đã nhường chỗ cho một sự hiểu
biết mới về con người vô lý, không hợp lý, con người bị thúc đẩy bởi những sức
mạnh mà chính cái -Ta, ego của hắn, cũng chỉ có một kiểm soát giới hạn.
b. Thăm dò và
Phân tích Nội tâm
Thay vì tìm
kiếm sự hiểu biết con người thông qua việc theo đuổi những lý tưởng phổ quát,
như các triết gia duy lý; hoặc qua một hữu thể tối cao, như gót trong các tôn
giáo Abraham. Những cái ta cá nhân - những ego - có thể trở nên
tự nhận thức về chính mình thông qua một quá trình xem xét và phân tích tâm lý.
Mục đích chính của phân tâm học là để thăm dò những độ sâu của vô thức. Thường
thường với trợ giúp của một ý sĩ đóng vai hướng dẫn. Một quá trình tháo gỡ
những liên kết (free association) để khuyến khích những cá nhân nói bất cứ gì
mà đột nhiên đến với não thức, được xem là cho phép những suy nghĩ và những cảm
xúc trước đây bị áp chế, bị dồn nén, bị xua đuổi nay có thể trồi lên xuất hiện
trên mặt nổi của ý thức. Freud tin rằng phương pháp này sẽ không chỉ dẫn đến sự
hiểu biết về não thức cá nhân, mà còn cho phép những khám phá lớn lao hơn,
trong kiến thức khoa học về những hoạt động của não thức con người. Thực tế là
những dữ liệu phân tích tâm lý là hoàn toàn chủ quan, và do đó không thể kiểm
chứng trong một chiều hướng khoa học. Như một người đi câu cá, cuối cùng sẽ chỉ
thấy cá, nhà phân tâm cuối cùng nếu thấy sẽ chỉ tìm thấy những gì ông
muốn tìm. Vì vậy, tâm lý chiều sâu không bao giờ có thể là một khoa học khách
quan. Nhưng là khoa học hay không, nó đã chiếu những ánh sáng mới và làm sáng
tỏ hơn về não thức con người.
c. Những tác
động của Vô thức
Chúng ta nghe
những lời nói hớ, hay lỡ lời – gọi là Freudian slips - khi
những rào cản bình thường bị suy yếu và xung lực từ id vượt qua hàng rào
áp đảo và đi vào ego. Những giấc mơ cũng tương tự như thế, xảy ra khi
những yếu tố vô thức xâm nhập vào ý thức. Giấc mơ có thể hoạt động như sựu thực
hiện những mong muốn bị dồn nén, trấn áp, một sự hòa giải những nhu cầu mâu
thuẫn nhau trong mỗi chúng ta. Ở một mức độ xã hội, tôn giáo thực hiện một chức
năng tương tự, hoạt động như đền đáp, thay thế cho những ước-muốn-được-thành
cho những con người não thức yếu đuối như trẻ em, tôn giáo như thế là một
một loại “ loạn thần kinh tập thể”. Nghệ thuật cũng là một ảo giác thần kinh,
một sự đào thoát khỏi thực tại cho nghệ sĩ và xã hội, thông qua tưởng tượng.
Những hiện tượng tương tự, Freud gọi là thăng hoa, giữ những xung lực
nhưng chuyển đối tượng thấp hèn, bị xã hội lên án của nó, sang những đối tượng
được xã hội chấp nhận, tán thưởng.
5
Ảnh hưởng của
Freud
Vị thày chiếu
ánh sáng vào vô thức, đánh thức những giấc mơ của nhân loại.
Freud thích
được xem mình như là người tạo ảnh hưởng, không phải là người chịu ảnh hưởng.
Ông tự xưng, dùng những lời của chính ông - Tôi là một người “khám phá não
thức”, một người “chinh phục đất mới”, (nguyên văn là “Columbus của não thức”,
một “Conquistador”), là một người “quấy động giấc ngủ của loài người”.
Ông cũng nói “tôi đã phải vung rìu chém mở từng bước một, trên con đường đi
riêng của mình, qua một khu rừng rậm rạp chỉ một mình tôi”. Ông tự hào, tương
phản nỗ lực của ông với của những người nổi tiếng đương thời như Einstein.
Trong suốt cuộc đời của mình, Freud đã thu hút một nhóm những người hâm mộ mà
ông đòi hỏi phải hết lòng tuyệt đối. Hai trong số những người ông đỡ đầu hướng
dẫn, A. Adler và C. Jung, sau đã thành lập những trường phái tâm lý mới, tách
khỏi phân tâm học của Freud. Những thành công của họ cho thấy ảnh hưởng của
Freud trong lĩnh vực tâm lý học, chỉ kể một thí dụ nổi bật là trường hợp Carl
Gustav Jung (1875 –1961).
Jung và Vô
thức tập thể
Jung vốn một
thời đi cùng đường với Freud, nhưng Jung là người đặt câu hỏi về uy quyền của
“lý thuyết về tình dục” và đã tách ra khỏi Freud. Ông đưa ra lý thuyết vô
thức tập thể (collective unconscious), mẫu người hướng nội, hay hướng
ngoại là thuật ngữ của ông (introvert, extrovert). Cuối cùng, Jung
dựng một trường phái tâm lý mới của riêng mình, với một cái nhìn rộng hơn về
libido - ham muốn tình dục và ảnh hưởng của nó trên hành vi của con người. Jung
thấy libido như là một năng lực sống đầy sức sáng tạo, có khả năng được đầu tư
theo những chiều hướng khác nhau, vào tôn giáo, hay nghệ thuật chẳng hạn. Đối
với Freud, vô thức là vùng sâu thẳm đen tối của não thức, đầy những chất liệu
ấu trĩ bị xua đuổi, áp chế. Đối với Jung, nó đầy những sức mạnh huyền bí đem
cho sự sống. Nó là kết nối của chúng ta với những suối nguồn của cuộc sống.
Jung thấy vô
thức có hai phần - một lớp cá nhân và một lớp vô thức tập thể, lớp này
được thừa kế chung cho tất cả nhân loại và gồm những mẫu thức (archetypes). Vô thức tập thể là nguồn gốc của khả năng của chúng ta
để tượng trưng hóa cho những tình huống phổ quát của con người. Những mẫu thức
là những nội dung của vô thức tập thể, đã cung cấp cơ chế để tạo ra những huyền
thoại, nghệ thuật, những hệ thống tôn giáo, chúng giải quyết những băn khoăn
muôn thuở của con người, trong đó có cái chết.
Ảnh Hưởng sâu
rộng, đặc biệt trong văn hóa, nghệ thuật
“(Psycho-analysis)
can be applied to the history of civilization, to the science of religion and
to mythology, no less than to the theory of the neuroses, ... What is aims at
and achieves is nothing other than the uncovering of what is unconscious in
mental life.” (Introductory Lectures on Psychoanalysis).
Trong khi
phần lớn của tư tưởng của Freud đã bị từ chối hoặc sửa đổi, ảnh hưởng của ông
về tư tưởng hiện đại hết sức lớn rộng và sâu xa. Chúng ta đều mặc nhiên là
những người theo Freud, khi nói về vô thức, ego, dồn nén trong tâm lý thông
thường hành ngày. Đặc biệt chú ý về văn hóa nghệ thuật, nên tôi phải nhắc qua
ảnh hưởng của Freud ở đây.
Ba nguyên lý
của Freud có ảnh hưởng sâu xa vào văn học nghệ thuật:
-
Thuyết tất định tâm lý (psychic determinism):
chủ trương rằng tất cả những sự kiện não thức, bao gồm mơ, những tưởng tượng,
lầm lỗi và những xáo động, nhiễu loạn thần kinh đều có một ý nghĩa.
-
Lý thuyết về vô thức, nhấn mạnh trên những
tiến trình não thức nhưng chúng ta không có ý thức, không hay biết gì về chúng,
dù chúng vai trò chủ động trong đời sống tinh thần và những ứng xử trong đời
sống hàng ngày chúng ta với thế giới bên ngoài.
-
Một quan điểm về sự phát triển tâm lý của đời sống
con người, trong đó nhấn mạnh vào những kinh nghiệm thơ ấu, và giải thích nhân
cách dựa trên khuôn khổ của khơi chảy, chuyển hướng và làm nguội lạnh những
năng lượng của libido.
Ảnh
hưởng của Freud, đặc biệt trong văn học nghệ thuật châu Âu, trong hai thế kỷ
qua, sau khi ông qua đời, vẫn tiếp tục đến nay. Chúng ta có thể kể những tên
tuổi lớn, trong tiểu thuyết như Thomas Mann, M. Proust, J. Joyce, Franz Kafka,
William Faulkner, Virginia Woolf, D. H. Lawrence; trong thơ như T.S. Eliot and
W.B. Yeats, trong kịch như S. Beckett, trong phê bình văn học như I.A.
Richards, William Empson, Edmund Wilson. Trong mỹ thuật như chúng ta thấy
trong các tranh vẽ của Dali, Picasso, Beckmann.
Trong tác
phẩm của họ, chúng ta tìm thấy những chủ đề của Freud, ngay cả trong khi chính
họ từ chối lời giải thích của ông về sự thúc đẩy sáng tạo. “Dòng chảy của ý
thức” – chúng ta thường gọi là “độc thoại nội tâm” như là một kỹ thuật
văn học có nguồn gốc của nó từ Freud. Ngoài ảnh hưởng về văn học nghệ thuật đã
được thừa nhận, chúng ta rất khó có thể tưởng tượng sự phát triển của chủ nghĩa
hiện sinh (existentialism) hay chủ nghĩa cơ cấu
(structuralism) mà không có Freud.
Mới đây,
Jaques Lacan đã kết hợp tư tưởng của Freud với ngôn ngữ học cấu trúc và đã dẫn
đến một sự hồi sinh chủ nghĩa Freud-Mới bắt đầu ở Pháp. Và cũng phải nhắc
– một trường phái phê bình văn học – chúng ta vẫn gọi là trường phái phân tâm (Psychoanalytic
criticism) có thể nói là bắt đầu với những bài viết của chính Freud – đến
nay đã đưa đến những khám phá và khai triển sáng tạo trong những lý thuyết của
Jacobson, Lévi-Strauss, Barthes, và Lacan.
6.
Tạm kết
Một người đọc với
nhận thức thông thường như chúng ta, đều bảo chúng ta rằng Freud là một nhà bút
chiến lỗi lạc và là một khuôn mặt tư tưởng lớn của nhân loại. Những vấn đề ông
đưa ra là những vấn đề gây tranh cãi muôn thuở của con người, và có lẽ sẽ không
bao giờ đi đến kết thúc. Trong lý thuyết của ông, nếu có bất kỳ bằng chứng nào
cho những khẳng định của ông, thì chắc chắn rằng bằng chứng cũng có thể đến từ
những lĩnh vực bên ngoài khoa phân tích tâm lý của ông, và khi xem xét những
bằng chứng này, chúng ta cũng tìm thấy chúng có nhiều mâu thuẫn với những giả
thuyết của Freud.
Ví dụ, những
nhà bệnh lý học khẳng định rằng không có kết nối có thể được rút ra từ những sự
kiện hay biến cố xảy ra trong thời thơ ấu và chứng loạn thần kinh hay những
chứng bện tâm lý khác ở người lớn, hoặc thậm chí là khuynh hướng tình dục của
người lớn. Kết quả là, nhiều những luận văn của Freud mất đi ý nghĩa giải thích
trong thời đại của nó. Những nhà thần kinh học, chẳng hạn như Edelman, thông
báo cho chúng ta rằng ký ức con người nên được hiểu trong những điều kiện của
tính dẻo dai và do đó những gì Freud coi như não thức bị áp chế thì có thể đúng
hơn xem như quan sát một não thức được tổ chức, dàn xếp lại những chức năng và
những kỷ ức của nó. Tuy nhiên, khi nhìn Freud trong triết học, chúng ta chuyển
sang một lãnh thổ khác.
Ở đây, con
người cố gắng hiểu chính mình và lẫn nhau, thế nên sự hiểu biết, phân tích và
kết quả không bao giờ có thể là khách quan. Hãy cứ làm thử, một người – dù là
ai - luôn luôn sẽ ít nhiều rút lui vào chủ quan của mình, hiển nhiên vì đây là
chỗ dựa vững chắc duy nhất một người có thể có được. Bằng cách này, chúng ta
chỉ có thể hiểu Freud là đúng sự thật đến đâu trong những mức độ mà trong đó
mọi người tự tìm thấy những gì ông nói có ý nghĩa với cuộc sống nội tâm, trong
não thức của riêng họ.
Tôi nghĩ rằng
Freud nên được hiểu như là một nhà tư tưởng cách mạng triệt để, cách mạng từ
gốc rễ, ông đã nâng cao nghi ngờ về những hoạt động của não thức chúng ta, trên
nhiều những vấn đề đã được Nietzsche và Schopenhauer đặt ra, và chỗ đứng của
ông trong tư tưởng nhân loại không chỉ là một y sĩ, một nhà tâm lý, hoặc nhà
khoa học, nhưng là một nhà tư tưởng vĩ đại. Freud đã thành lập một triết lý văn
hóa, triết lý về bản chất con người, giúp chúng ta tự khám phá chính mình. Ông
đã để lại một triết lý về đời sống (Lebensphilosophie), ông đi vào
văn hóa bình dân, phổ thông (popular culture) –đem cho chúng ta từ ngữ
mới và giá trị phán đoán mới đi kèm với chúng. Ông đứng cùng hàng với những
triết gia duy lý Đức, từ Kant, qua Fichte, Schelling, đến
Hegel. Chỉ khác với họ là ông đưa ra một tri thức luận, một lý thuyết không về
lý trí (như Hegel) nhưng về những gì phi-lý trí của tâm lý con người.
Thế nên, danh tiếng của ông
trong lĩnh vực khoa học, đã dần bị vượt ngoài và đến nay đã bị bỏ qua; nhưng
thay vào đó, Freud có thể được nhìn trước hết và quan trọng nhất - như một con
người đã phá vỡ ý tưởng của Descartes, ý tưởng trong cơ bản là lý thuyết nhị
nguyên về con người. Ý tưởng của Descartes trong cogito ergo sum về một
sự thấu hiểu cái-Tôi, khi hỏi tôi là ai? Đã trả lời là sum res
cogitans, là cái tự ngã tự túc, cái-ta của Descartes, nó tự biết nó cảm
thấy như thế nào và tại sao nó cảm thấy như vậy; nhưng tất cả chỉ là ảo tưởng, Dưới
mắt nhìn của Freud, nếu Descartes (và những người theo ông) không sai lầm, cũng
ít nhất thiếu xót. Trong
“tôi suy tưởng nên tôi hiện hữu”, với
Descartes, chỗ chúng ta chắc chắn cuối cùng là ý thức và khiến Descartes tin
rằng đã chứng minh được chính ông hiện hữu vì như một chủ thể suy tưởng, có ý
thức hữu thức. Suy tưởng là ý thức và khi chúng ta suy tưởng chúng ta hoàn toàn
hữu thức. Hữu thức của Descartes không có chỗ hở cho nghi ngờ nữa, và đây là
chỗ Freud đánh đổ Descartes khi nói rằng hữu thức thì không phải là tất cả, cũng
không độc lập, không chắc chắn như chúng ta tưởng. Con người – tạm cho là có
một não thức tinh thần tách biệt với thân xác - không thể biết được tất cả não
thức tinh thần chính mình chỉ với ý thức hữu thức của mình. Freud cho chúng ta
thấy Ego có phần nằm trong vô thức, và trong chúng ta có những tiến trình suy
tưởng – hay đúng hơn những vận động tâm lý - hoàn toàn vô thức, và chúng tác
động mạnh mẽ vào hữu thức. Freud đã chiếu ánh sáng vào não thức vẫn tưởng sáng
sủa minh bạch của Descartes, cho thấy
nó vẫn có những phần u tối, không rõ, không ý thức được.
Ảnh hưởng rất
lớn lao nữa của Freud là trong tư tưởng, văn học của thế kỷ XX, như tóm tắt ở
trên, trong mỹ thuật và phim ảnh, và trong tất cả chúng ta, trong cách mọi
người quanh chúng ta suy nghĩ và nói về bản thân mình. Giờ đây có thể nói,
chúng ta đều là những “tín đồ” của Freud, với các lý thuyết, hay cũng có thể
gọi là tín điều, hay xa hơn là những huyền thoại về những khái niệm được ông
dựng lên là vô thức, hữu thức, libido, ego, super-ego; về
những bản năng Sống và bản năng Chết - Eros và Thatanos; Và cuối
cùng, và có lẽ cũng quan trọng nhất, là cách thức, trong đó ông đã nêu lên từ
đây sự nghi ngờ trên tất cả những đặc điểm vẫn thường vẽ vời như đẹp đẽ của con
người, ông đã chỉ ra một mặt khác của con người vốn đã cố tình bị lãng quên,
hoặc bị bỏ qua trong nhiều thế kỷ, mặt của bản năng thô sống, mặt của vô thức
đen tối. Chúng ta không thể làm ngơ được vì những thể hiện của chúng
trong lịch sử loài người. Như bản năng chết, xung lực gây hấn hung hãn; khi con
người ném mình vào xã hội của chính nó tạo lập – nó chẳng những không bị mất,
nhưng không thể tránh được, và đã bùng nổ từ những mâu thuẫn, dồn nén - giữa cá
nhân và tập thể - ông trình bày trong Văn minh và
những Bất mãn từ nó (Civilization
and Its Discontents). Hay một thể hiện quen thuộc khác – qua niềm
tin tôn giáo dai dẳng mà ông gọi là chứng ám ảnh loạn thần kinh phổ quát của
nhân loại (“the universal obsessional neurosis of humanity”), khi mong tìm cứu
rỗi, đã đặt cứu cánh cuộc sống, giá trị và đạo đức, cho là nguồn gốc đến từ
ngoài trần gian này, vào một ảo tưởng mê muội, trong Tương lai của
một Ảo tưởng (The Future of
an Illusion) –Theo cách đặc biệt của riêng mình, Freud là
một nhà tiên phong đứng ngang hàng với những Copernicus hoặc Darwin, và cũng
như Marx và Nietzsche, Freud là một bậc thầy nghi ngờ, đặt lại những câu hỏi
sau cùng về bản chất con người.
Trở về
với con người bình thường, nhỏ mọn của chúng ta, chừng nào trong đời sống, vẫn
có những lúc chúng ta tự thấy băn khoăn hay sững sờ, hỏi mình, hay hỏi về
người, vì những gì biết từ lý trí sáng xuốt, theo lẽ đời thường vẫn không thể
nào giải thích được - tại sao những ứng xử đó? tại sao những lời như vậy? Nếu
còn những câu hỏi tại sao loại như thế đó, có lẽ Freud vẫn còn quanh đây, chúng
ta chưa thể bỏ được ông, vì từ chính những khái niệm của ông trình bày
trong tập The Ego and the Id này, vẫn có thể tạm cho ngay
chúng ta câu trả lời, và nhiều khi đó là câu trả lời duy nhất, về một phương
diện nào đó, chúng ta có thể nhận được, lúc này.
Đó cũng
là một lý do tôi tạm dịch The Ego and the Id, chúng ta nên có một bản tiếng
Việt của tập luận thuyết quan trọng này, xuất bản bằng tiếng Đức năm 1923, The Ego and the Id là công trình Freud tự tay tóm
tắt một cách rõ ràng nhất những khái niệm chủ yếu trong triết lý tâm lý của
ông. Bản văn đã thành cổ điển, những khái niệm trong nó đã thành phổ thông của
văn hóa và tâm lý học.
Bản tiếng Anh, của nhà xuất bản W. W.
Norton & Co. in tại NewYork, tôi dùng để dịch; chỉ có đúng 62 trang của khổ
sách loại bỏ túi. Tôi cố gắng giữ bản dịch này cũng xấp xỉ, không dài hơn thế,
vì tôi nghĩ (đâu đó từ tiền-ý
thức – không có gì rõ rệt
chứng minh) rằng nếu bản dịch dài hơn nguyên bản - chắc chắn là có nhiều sai
lầm. Nên lời bạt này là cố gắng thêm thắt của tôi, muốn làm sáng tỏ những định
nghĩa của Freud về những khái niệm của chính ông, vốn cho đến nay, chúng vẫn bị
hiểu lầm, hoặc bị phê phán hết sức bất công, hoặc được đem ứng dụng liều lĩnh,
vội vàng, đều trước khi hiểu được đúng những gì ông đã nói.
Lê Dọn Bàn -
bản nháp thứ nhất