Bertrand Russell
Lịch sử Triết học phương Tây
Quyển Một – Triết học Cổ thời
Chương 15. Lý thuyết về những Ý tưởng
Ở giữa tập Republic, từ phần sau của quyển V đến cuối quyển VII, chiếm chủ yếu với những câu hỏi triết học thuần túy, hiểu như đối nghịch với chính trị. Những câu hỏi này được giới thiệu bởi một tuyên bố hơi đột ngột:
Ở giữa tập Republic, từ phần sau của quyển V đến cuối quyển VII, chiếm chủ yếu với những câu hỏi triết học thuần túy, hiểu như đối nghịch với chính trị. Những câu hỏi này được giới thiệu bởi một tuyên bố hơi đột ngột:
Cho đến khi nào những triết gia làm vua, hoặc những vị
vua và những vương hầu của thế giới này có tinh thần và sức mạnh của triết học,
và sự cao cả của chính trị và của trí tuệ gặp nhau thành một, và những bản chất
thường dân đó là những kẻ đều theo đuổi sự loại trừ kẻ khác, bị bắt buộc phải
đứng sang một bên, những thành phố sẽ không bao giờ được yên khỏi những tà ác
này – không đâu, loài người cũng chẳng được, như tôi tin – và sau đó, chỉ với
thế, Nhà nước của chúng ta sẽ có cơ được sống và được ngắm ánh dương quang. [1]
Nếu điều này là đúng, chúng ta phải quyết định những gì tạo nên một triết
gia, và những gì chúng ta hàm nghĩa là “triết học”. Những cuộc thảo luận nối
theo là phần nổi tiếng nhất của Republic và có lẽ là đã có ảnh hưởng lớn
nhất. Trong những phần của nó, có vẻ đẹp văn chương trác tuyệt; người đọc có
thể không đồng ý (giống như tôi) với những gì được nói, nhưng không thể nào giữ
không bị nó làm xúc động.
Những đoạn văn sau đây tóm tắt lý thuyết của Plato về Ý tưởng [2].
Câu hỏi của chúng ta là: một triết gia là gì? Câu trả lời đầu tiên là
theo từ nguyên: một triết gia là một người yêu sự khôn ngoan. Nhưng điều này
không giống như một người yêu của kiến thức, theo ý nghĩa mà trong đó một người
tò mò hay dọ hỏi có thể nói là yêu kiến thức; tò mò thông tục không làm nên một
triết gia. Do đó định nghĩa được sửa đổi cho tốt hơn: triết gia là một người
yêu “thị kiến về sự thật”. Nhưng thị kiến [3]
này là gì?
Hãy xem xét một người yêu những gì đẹp đẽ, người có chủ định có mặt trong
những bi kịch mới, xem những phim cinê mới, và nghe nhạc mới. Người loại như
vậy không phải là một triết gia, bởi vì ông yêu chỉ những gì đẹp đẽ, trong khi
những triết gia yêu chính cái đẹp tự thân. Người chỉ yêu thích những gì đẹp đẽ
là mơ mộng, trong khi người hiểu biết cái đẹp tuyệt đối là người hoàn toàn
tỉnh. Người trước chỉ có ý kiến; người sau có kiến thức.
Sự khác nhau giữa “kiến thức” và “ý kiến” là gì? Người có kiến thức có
kiến thức về một cái gì, nói thế là, về một-cái-gì-đó nó tồn tại, bởi vì
những-gì không tồn tại là không-gì cả. (Đây là nhớ gợi lại từ Parmenides) Như
vậy kiến thức là không sai lầm, bởi vì về lôgích là nó không thể để cho bị nhầm
lẫn. Nhưng ý kiến có thể bị nhầm lẫn. Làm sao có thể là thế được? Ý kiến không
thể là về những-gì vốn nó là không, bởi vì như thế là không thể, cũng không
phải là về những gì là (có), vì thế vậy, nó sẽ là kiến thức. Vì vậy ý kiến phải
là về những gì là cả hai, vừa là và không là.
Nhưng điều này sao có thể có được? Câu trả lời là những-gì đặc thù cụ thể
luôn luôn tham dự vào cùng những tính chất đối lập: những gì là đẹp, trong một
số khía cạnh, là xấu xí, những gì là công chính, trong một số khía cạnh, là bất
công; và vân vân. Tất cả mọi đối tượng cụ thể cảm thức được, Plato do đó, dám
chắc rằng, có tính cách mâu thuẫn này, chúng như vậy, là trung gian giữa là và
không-là, và thích hợp như những đối tượng của ý kiến, nhưng không của kiến
thức. “Trừ những ai là người thấy sự tuyệt đối, và vĩnh cửu, và bất biến, mới
có thể nói là biết, và không chỉ có ý kiến mà thôi”.
Thế nên, chúng ta đi đến kết luận rằng ý kiến là của thế giới được trình
bày cho những giác quan, trong khi đó kiến thức là của một thế giới giác quan
siêu việt, vĩnh cửu, lấy thí dụ, ý kiến là quan tâm đến những điều đẹp đẽ cụ
thể, nhưng kiến thức là quan tâm với cái đẹp tự thân.
Chỉ có một phản chứng đã đưa ra là nó tự mâu thuẫn, khi giả sử rằng một
điều-sự-vật-gì có thể là cả hai, vừa đẹp và vừa không đẹp, hoặc vừa công chính
vừa không công chính, và rằng tuy nhiên như những-gì đặc thù xem dường kết hợp
những tính chất trái ngược loại như thế. Thế nên những-gì đặc thù là không
thực. Heraclitus đã nói: “Chúng ta bước vào và không bước vào trong cùng những
dòng sông, chúng ta là và không là”. Nhưng kết hợp điều này với Parmenides,
chúng ta đi đến kết quả của Plato.
Tuy nhiên, có môt cái gì đó thuộc tầm quan trọng rất lớn lao trong học
thuyết của Plato mà không truy nguyên về những người đi trước ông, và đó là lý
thuyết về “ý tưởng” hoặc “thể dạng” [4].
Lý thuyết này thì một phần có tính lôgích, một phần có tính siêu hình. Phần
lôgích có liên quan với ý nghĩa của những từ ngữ tổng quát. Có rất nhiều những
động vật cá biệt mà với chúng, chúng ta thực sự có thể nói “đây là một con
mèo”. Với chúng ta dùng từ “mèo” có nghĩa gì? Rõ ràng là một cái-gì đó khác
biệt với từng mỗi con mèo cá biệt. Một động vật là một con mèo, sẽ xem ra, vì
nó cùng có phần, tham dự vào một bản chất tổng quát chung cho tất cả những con
mèo. Ngôn ngữ không thể tiếp tục mà không có những từ tổng quát loại như “mèo”,
và những từ loại như vậy là hiển nhiên không phải vô nghĩa. Nhưng nếu từ “mèo”
có nghĩa là bất cứ một cái gì, nó có nghĩa là một cái gì đó mà không phải là
con mèo này, hay con mèo kia, nhưng một vài loại nào đó của mèo-tính phổ
quát. Điều này không sinh ra khi một con mèo cá biệt được sinh ra, và không
chết đi, khi nó chết. Trong thực tế, nó không có vị trí trong không gian hay
thời gian, nó là “vĩnh cửu”. Đây là phần có tính lôgích của học thuyết này.
Những luận chứng tán thành ủng hộ về nó, cho dù cuối cùng có hợp lệ hay không,
chúng rất mạnh mẽ, và khá độc lập với phần mang tính siêu hình của học thuyết.
Theo như phần mang tính siêu hình của học thuyết, từ “mèo” có nghĩa là
một con mèo lý tưởng nào đó, “cái mèo,” Gót sáng tạo ra, và chỉ có một,
đơn nhất. Những con mèo cá biệt lấy phần của bản chất của cái mèo, hoặc
ít hơn hay nhiều hơn, nhưng không toàn hảo, chính là chỉ do từ sự không toàn
hảo này nên có thể có nhiều những chúng. Cái mèo là thực; những con mèo
cá biệt chỉ là biểu hiện.
Trong quyển cuối cùng của tập Cộng hòa, như là một sơ bộ cho một
sự lên án những họa sĩ, có một khai triển rất rõ ràng về học thuyết của những ý
tưởng hoặc những thể dạng.
Chỗ này, Plato giải thích rằng, bất cứ khi nào có một số những cá biệt có
một tên chung, chúng cũng có một “ý tưởng” hay “thể dạng” chung. Lấy thí dụ,
mặc dù có nhiều giường nằm, chỉ có một “ý tưởng” hay “thể dạng” của một cái
giường. Cũng giống hệt như một phản ánh của một cái giường trong một cái gương
rõ ràng chỉ là một biểu hiện và không “thực”, thế nên nhiều những cái giường
khác loại là không-thực, chỉ là những sao chép của cái “ý tưởng”, vốn nó là một
cái giường thực, và được Gót tạo thành. Từ cái giường thực, và được Gót tạo
thành này, mới có thể có kiến thức, nhưng còn về phần nhiều những cái
giường của những thợ mộc làm nên, chỉ có thể có ý kiến. Triết gia, như
vậy, sẽ chỉ quan tâm với một cái giường lý tưởng, mà không với nhiều những cái
giường trong thế giới cảm quan. Ông sẽ có một sự lãnh đạm nhất định nào đó với
những công việc trần tục bình thường: “làm thế nào một người có não thức chói
lọi và là khán giả của tất cả mọi thời và mọi hiện hữu, có thể suy nghĩ nhiều
về đời sống con người được?”. Những người trẻ tuổi có khả năng trở thành một
triết gia sẽ được phân biệt ra giữa những đồng bạn của anh ta như là công
chính, hiếu học, có trí nhớ tốt và não thức hài hòa tự nhiên. Một người loại
như vậy sẽ được giáo dục thành một triết gia và một người giám hộ.
Tại điểm này, Adeimantus chen vào với một phản kháng. Khi ông cố gắng
tranh luận với Socrates, ông nói, ông cảm thấy mình đã mỗi bước mỗi đi lạc một
chút, cho đến khi, vào lúc cuối cùng, tất cả những ý niệm trước đây của ông bị
đảo lộn ngược. Nhưng dẫu bất cứ điều gì Socrates có thể nói, nó vẫn còn là
trường hợp, như bất kỳ ai có thể thấy, rằng những người dính vào triết lý là họ
trở thành những quái vật kỳ lạ, nếu không phải nói là hoàn toàn lừa đảo; thậm
chí những kẻ tốt nhất của bọn họ cũng bị triết học làm thành vô dụng.
Socrates thừa nhận rằng điều này là đúng trong thế giới như nó hiện là,
nhưng chủ trương rằng chính những người khác mới là những người được đáng đổ
lỗi, không phải là những triết gia, trong một cộng đồng khôn ngoan, những triết
gia sẽ không bị xem là điên rồ, nó là chỉ giữa những kẻ điên rồ mà khôn ngoan
được phán xử là thiếu thốn kiến thức thông thái.
Chúng ta sẽ gì làm trong dilemma này? Đã từng có hai cách để khai mở Cộng hoà của chúng ta: bằng những triết
gia trở thành những nhà cai trị, hay bằng những nhà cai trị trở thành những
triết gia. Điều thứ nhất xem ra có vẻ không thể có được như một khởi đầu, bởi
vì trong một thành phố đã chưa được triết lý, những triết gia không được quần
chúng ưa chuộng. Tuy nhiên, một người sinh ra làm hoàng tử có thể là một
triết gia, và “một là đủ, hãy để cho có được một người, người ấy có một thành
phố tuân phục theo ý chí của ông, và ông có thể mang chính thể lý tưởng vào
thành hiện thực, vốn thế giới hoài nghi quá đỗi về nó”. Plato đã hy vọng rằng
ông đã tìm thấy một hoàng tử loại như thế trong Dionysius trẻ tuổi, bạo chúa
của thành Syracuse, nhưng con người trẻ đó cuối cùng hóa ra chán ngán, không
được như mong mỏi.
Trong quyển thứ sáu và thứ bảy của tập Cộng hoà, Plato có bận tâm
với hai câu hỏi: Thứ nhất: triết học là gì? Thứ hai, làm thế nào – một người
trẻ, nam hoặc nữ, với tính khí phù hợp – có thể được giáo dục như thể để trở
thành một triết gia?
Triết học, đối với Plato, là một loại thị kiến, “thị kiến về sự thật”. Nó
không thuần tuý là trí thức; nó không chỉ đơn thuần là sự khôn ngoan,
nhưng yêu chuộng sự khôn ngoan. “Tình yêu trí thức với Gót” của Spinoza là
nhiều phần cũng giống như sự hợp nhất mật thiết giữa tư tưởng và cảm giác. Mỗi
một ai, người đã làm bất kỳ một công việc thuộc loại sáng tạo nào, đã có kinh
nghiệm, trong một mức độ nhiều hơn hoặc ít hơn, trạng thái của não thức, trong
đó, sau lao động dài lâu, sự thật, hoặc vẻ đẹp, xuất hiện, hoặc có vẻ như xuất
hiện, trong một vinh quang bất ngờ – nó có thể được chỉ là về một số vấn đề
nhỏ, hoặc nó có thể là về cả vũ trụ. Kinh nghiệm là, tại khoảnh khắc này, rất
thuyết phục; nghi ngờ có thể đến sau, nhưng lúc ấy là hoàn toàn chắc chắn. Tôi
nghĩ rằng hầu hết những công trình sáng tạo bậc nhất, trong nghệ thuật, trong
khoa học, trong văn học, và trong triết học, đã từng là kết quả của một khoảnh
khắc loại như vậy. Không biết nó đến với những người khác có giống như đến với
tôi hay không, Tôi không thể nói. Về phần tôi, tôi đã tìm thấy rằng, khi tôi
muốn viết một cuốn sách về chủ đề nào đó, trước hết tôi phải ngâm đẫm mình
trong chi tiết, cho đến khi tất cả những phần riêng biệt của nội dung vấn đề
thành quen thuộc, sau đó, một ngày nào đó, nếu tôi may mắn, tôi nhận thức được
toàn bộ, với tất cả những phần của nó kết nối với nhau đâu vào đấy thuận hợp.
Sau đó, tôi chỉ có phải viết xuống những gì tôi đã thấy. Chuyện tương tự gần
nhất là trước hết đi bộ khắp các nơi trên một ngọn núi trong sương mù, cho đến
khi tất cả những lối mòn, và sống núi, và thung lũng thành quen thuộc từng cái
một, và sau đó, từ xa, nhìn thấy ngọn núi trong toàn bộ và rõ ràng dưới ánh
nắng tươi sáng.
Kinh nghiệm này, tôi tin rằng, đó là cần thiết cho công trình sáng tạo
tốt, nhưng nó không phải là đủ; thực vậy, sự chắc chắn chủ quan mà nó mang lại
với nó có thể là gây hiểu nhầm tai hoạ. William James mô tả một người, người
này đã có kinh nghiệm của thuốc mê [5],
bất cứ khi nào ông bị tác dụng của nó, ông biết bí mật của vũ trụ, nhưng khi
ông tỉnh, ông lại quên mất nó. Cuối cùng, với nỗ lực lớn lao, ông đã viết xuống
những bí mật trước khi thị kiến phai mờ. Khi hoàn toàn bình phục, ông ta vội
vàng xem mình đã viết những gì. Đó là: “Một mùi dầu hỏa chiếm hoàn toàn từ đầu
đến cuối”. Những gì có vẻ như cái nhìn sâu sắc đột ngột có thể là lầm lạc, và
phải được kiểm tra tỉnh táo, khi sự say nhiễm thần thánh đã qua rồi.
Thị kiến của Plato, mà ông hoàn toàn tin cậy vào thời điểm ông viết Cộng
hòa, tận cùng cần sự trợ giúp của một dụ ngôn, dụ ngôn cái hang, để truyền
đạt bản chất của nó tới người đọc. Nhưng nó đã dẫn dắt đến bằng nhiều những
thảo luận sơ bộ khác nhau, được thiết kế để làm cho người đọc thấy sự cần thiết
của thế giới của những ý tưởng.
Trước hết, thế giới của tri thức được phân biệt với thế giới của những
giác quan, sau đó trí thức và nhận thức-từ-giác quan được lần lượt mỗi thứ chia
thành hai loại. Hai loại nhận thức giác quan chúng ta không cần phải
quan tâm; hai loại của trí thức tương ứng được gọi là “lý trí” và “sự hiểu
biết”. Trong số này, lý trí là loại cao hơn, nó là quan tâm với những ý tưởng
thuần túy, và phương pháp của nó là phép biện chứng. Hiểu biết là loại trí tuệ
được sử dụng trong toán học, nó kém hơn lý trí là lý do ở chỗ nó sử dụng những
giả thuyết không thể kiểm nghiệm. Trong hình học, thí dụ, chúng ta nói: “Hãy
gọi ABC một tam giác thẳng”. Nếu hỏi ABC có thực sự là một tam giác thẳng hay
không, là chống lại những quy tắc, mặc dù, nếu như nó là một hình vẽ mà chúng
ta đã vẽ, chúng ta có thể chắc chắn rằng nó là không, bởi vì chúng ta không thể
nào vẽ được những đường tuyệt đối thẳng. Theo như đó, toán học không bao giờ có
thể bảo chúng ta biết những-gì là gì được, nhưng chỉ những-gì sẽ là được, nếu.
. . . Không có đường thẳng tuyệt đối trong thế giới cảm quan, thế nên, nếu như
toán học là có hơn là sự thật giả định, chúng ta phải tìm bằng chứng cho sự
hiện hữu của những đường thẳng siêu-cảm-giác trong một thế giới siêu-cảm-giác.
Điều này không thể làm được được bằng sự hiểu biết, nhưng theo như Plato, nó có
thể thực hiện được bằng lý trí, trong đó cho thấy rằng có một tam giác thẳng ở
trên thiên đường, từ trong đó những mệnh đề hình học có thể được khẳng định một
cách dứt khoát, chứ không một cách giả thuyết.
Có đó, tại điểm này, một khó khăn mà nó đã không thoát khỏi ghi nhận của
Plato, và nó đã là hiển nhiên với những triết gia duy ý hiện đại. Chúng ta thấy
rằng gót chỉ làm có một cái giường, và sẽ là điều tự nhiên để giả định rằng ông
ta chỉ làm tạo có độc nhất một đường thẳng. Nhưng nếu như đã có một tam giác
trên thiên đường, ông đã phải tạo ít nhất là ba đường thẳng. Những đối tượng
của hình học, mặc dù lý tưởng, phải hiện hữu trong nhiều những thí dụ, chúng ta
cần sự khả hữu, có thể có của hai vòng tròn giao nhau, như vậy và vân
vân. Điều này gợi lên cho thấy hình học, theo trong lý thuyết của Plato [6],
đã không nên là có khả năng có được chân lý tối cùng, nhưng phải nên được bắt
buộc như thuộc phần của việc nghiên cứu về biểu hiện. Tuy nhiên chúng ta sẽ bỏ
qua điểm này, vì về phần nó, Plato trả lời có hơi lờ mờ.
Plato tìm cách giải thích sự khác biệt giữa thị kiến trí thức rõ ràng và
thị kiến nhầm lẫn lộn xộn của nhận thức-giác quan, bằng một so sánh tương đồng
từ cảm giác của thị lực. Thị lực, ông nói, khác với những giác quan khác, bởi
vì nó đòi hỏi không chỉ đôi mắt, và đối tượng, mà cũng cả ánh sáng. Chúng ta
nhìn thấy rõ ràng những đối tượng, mặt trời chiếu sáng trên chúng, trong tranh
tối tranh sáng, chúng ta thấy một cách lờ mờ lẫn lộn, và trong bóng tối-đen,
không thấy gì tất cả. Bây giờ, thế giới của những ý tưởng là những gì chúng ta
nhìn thấy khi đối tượng được mặt trời chiếu sáng, trong khi thế giới của những
gì đi qua là một thế giới hoàng hôn tranh tối tranh sáng lẫn lộn. Mắt được so
sánh với hồn người, và mặt trời, vì là nguồn của ánh sáng, như với sự thật hoặc
sự thiện.
Hồn người giống như một con mắt: khi nằm nghỉ ở trên
đó, mà trên đó sự thật và tồn tại sáng ngời, hồn người nhận thức và hiểu biết,
và là rạng rỡ với trí tuệ thông minh, nhưng khi đã quay về phía hoàng hôn chập
choạng của sự trở thành và diệt vong, sau đấy, nó chỉ có ý kiến mà thôi, và đâm
ra nhấp nha nhấp nháy, và đầu tiên là có của một ý kiến, và sau đó là của ý
kiến khác, và dường như không có thông minh. . . . Bây giờ cái điều đem chia
phần sự thật đến sự biết, và sức mạnh của hiểu biết với người biết, là cái điều
tôi muốn có các bạn mệnh danh là ý tưởng của cái tốt, và điều này bạn sẽ thấy
nó là nguyên nhân của khoa học.
Điều này dẫn đến câu chuyện so sánh nổi tiếng về cái hang, hoặc cái hầm,
theo như trong đó, những người không có triết học là những người có thể được so
sánh với tù nhân trong một cái hang, những người chỉ có thể nhìn theo một
hướng, vì họ bị trói, và những người này có một đám lửa cháy phía sau và một bức
tường ở phía trước họ. Giữa họ và tường không có gì cả; tất cả những gì họ thấy
được là những cái bóng của chính họ, và của những đối tượng phía sau họ, ném
lên tường bởi ánh sáng của ngọn lửa. Chắc chắn, không thể nào khác được, họ xem
những cái bóng này là thật, và không có khái niệm nào về những đối tượng là gốc
của chúng mà ra. Ít nhất, cuối cùng có một vài người thành công trong việc
thoát khỏi hang ra ánh sáng của mặt trời; vì là lần đầu tiên anh nhìn thấy
những-gì trong thực tại, và trở nên ý thức rằng cho đến nay anh đã bị những cái
bóng đánh lừa. Nếu anh là người thuộc loại triết gia vốn thích hợp để trở thành
một giám hộ, anh sẽ cảm thấy là nhiệm vụ của mình đối với những người là bạn tù
của mình trước đây, để lại một lần nữa đi xuống, vào trong hang, hướng dẫn họ
về phần sự thật, và chỉ cho họ lối đi lên. Tuy nhiên, anh sẽ gặp khó khăn trong
việc thuyết phục họ, bởi vì, đã ra với ánh sáng mặt trời, anh sẽ thấy những cái
bóng kém rõ ràng hơn là như họ thấy, và đối với họ, anh xem ra có phần lai ngu
hơn trước khi anh trốn thoát.
“Và bây giờ, tôi đã nói, hãy để tôi tỏ rõ cho thấy
trong một hình ảnh minh hoạ bản chất của chúng ta được soi sáng, hay không được
soi sáng xa đến đâu: – Hãy nhìn kìa! Những con người sống trong một cái hang
dưới đất, nó mở rộng – như một cái miệng – về phía có ánh sáng, và kéo dài hết
chiều dọc cái hang; những người này đã ở đây từ thời họ thơ ấu, chân và cổ họ
bị xiềng khiến không thể di chuyển, và chỉ có thể nhìn thấy thẳng về phía trước
mặt họ, vì xiềng quanh cổ đã ngăn họ không thể xoay đầu. Phía trên và sau họ,
cách một khoảng xa, có một đám lửa cháy sáng, và giữa lửa cháy và các người tù
có một lối đi nâng cao; và bạn sẽ thấy, nếu bạn nhìn, một bức tường thấp được
xây dọc con đường đi, giống như màn hình mà người chơi rối có trong trước mặt
họ, trên đó, họ trình bày những con rối.
[Glaucon:] Tôi thấy.
Và bạn thấy không, tôi đã nói, những người đi dài theo
bức tường, mang đủ loại những bình, chậu, lọ vại, và những tượng cùng khuôn
hình làm bằng gỗ và bằng đá, và bằng nhiều loại chất liệu khác loại của những
động vật, chúng xuất hiện trên tường. Một vài người trong đám họ nói năng,
những người khác im lặng.
Ông đã cho tôi thấy một hình ảnh lạ lùng, và họ là
những người tù lạ lùng.
Giống như chính chúng ta, tôi trả lời, và họ chỉ thấy
những cái bóng của chính họ, hay những cái bóng của người này hoặc người kia
cùng bọn, vốn ngọn lửa chiếu hắt lên bức tường đối diện của cái hang?”. [7]
Địa vị của cái thiện, hay cái tốt trong Plato là đặc biệt khác thường.
Khoa học và sự thật, ông nói, cũng giống như cái thiện, nhưng thiện có một vị
trí cao hơn. “Cái thiện không phải là bản thể, nhưng vượt xa bản thế về phẩm
cách và quyền lực”. Biện chứng dẫn đến sự kết thúc của thế giới trí tuệ trong
sự nhận thức về cái thiện tuyệt đối. Chính là là bằng những phương tiện của cái
thiện mà biện chứng có thể phân phát cho những nhà toán học với những giả
thuyết. Sự giả định nằm chìm ở dưới là thực tại, như đối nghịch với biểu hiện,
thì tốt đẹp trọn toàn và tuyệt đối; do đó lĩnh hội được cái tốt, là lĩnh hội
được thực tại. Trong suốt triết học của Plato, có cùng sự hợp nhất của trí tuệ
và huyền bí như trong của thuyết Pythagoreanism, nhưng ở cao điểm cuối cùng
này, huyền bí rõ ràng có nắm tay trên.
Học thuyết về những ý tưởng của Plato chứa đựng một số những sai lầm hiển
nhiên. Nhưng bất kể những sai lầm này, nó đánh dấu một bước tiến rất quan trọng
trong triết học, bởi vì nó là lý thuyết đầu tiên đã nhấn mạnh đến vấn đề của
những ý niệm phổ quát, vốn chúng, với những hình thức khác nhau, đã tồn tại dai
dẳng cho đến ngày nay. Những bước đầu có khuynh hướng là thô thiển, nhưng không
nên bỏ qua tính chất độc đáo sáng tạo của chúng trên đánh giá kết toán này.
Một-gì đó giữ lại từ những-gì Plato đã phải nói, ngay cả sau khi đã thực hiện
tất cả những sửa chữa điều chỉnh cần thiết. Tối thiểu tuyệt đối của những gì
còn lại, ngay cả trong quan điểm của những chống đối nhất với Plato, là như
vầy: chúng ta không thể diễn tả tự chúng ta trong một ngôn ngữ bao gồm hoàn
toàn chỉ những tên riêng, nhưng cũng phải có những từ tổng quát như “người đàn
ông”, “chó”, “mèo” , hoặc, nếu không những từ này, vậy phải những từ chỉ quan
hệ, loại giống như “tương tự”, “trước” , và vân vân. Những từ như thế đó không
phải là những tiếng ồn vô nghĩa, và là điều khó khăn để xem làm thế nào chúng
có thể có nghĩa, nếu như thế giới bao gồm hoàn toàn chỉ những-gì cá biệt cụ
thể, như những-gì được chỉ định bởi những từ chỉ tên riêng. Có thể có những
cách đi vòng tránh luận chứng này, nhưng với bất kỳ tỷ lệ nào, nó có đủ khả
năng là một trường hợp giá trị tiên khởi ủng hộ những phổ quát. Tôi sẽ
tạm chấp nhận nó như trong một vài mức độ là hợp lệ. Nhưng khi quá nhiều giả dụ
cứ nhận cho là như vậy, phần còn lại của những gì Plato nói, không hẳn là xuông
sẻ thuận hợp.
Ở điểm đầu tiên, Plato không có sự hiểu biết về cú pháp triết học. Tôi có
thể nói “Socrates là người”, “Plato là người,” và vân vân như vậy. Trong tất cả
những phát biểu này, điều có thể giả định được là từ “người” có chính xác cùng
một nghĩa. Nhưng bất cứ nó có nghĩa là gì, nó có nghĩa là một-cái-gì đó mà
không phải là cùng một loại như Socrates, Plato, và tất cả phần những cá nhân
còn lại, những người tạo nên giống người. “Người” là một thuộc từ (tính từ) nó
sẽ là vô nghĩa để nói “người là người”. Plato phạm một sai lầm tương tự khi nói
rằng “người là người”. Ông nghĩ rằng cái đẹp thì đẹp, ông nghĩ rằng “người” phổ
quát là tên của một người mẫu thức được Gót tạo ra, từ cái người này, những con
người thật là không toàn hảo và là những bản sao không thực. Ông hoàn toàn thất
bại không nhận ra khoảng cách những giữa những phổ quát và những cụ thể lớn
rộng đến chừng nào; những “ý tưởng” của ông thực sự chỉ là những cụ thể khác,
có tính đạo đức và tính thẩm mỹ vượt trội cao hơn hẳn những cụ thể loại thông
thường. Chính ông, ở một thời điểm về sau này, đã bắt đầu nhìn thấy khó khăn
này, như xuất hiện trong Parmenides [8],
vốn nó có chứa đựng một trong những trường hợp đáng chú ý nhất trong lịch sử về
tự phê bình của một triết gia.
Bản văn Parmenides được xem là liên quan đến Antiphon (anh-em cùng
mẹ khác cha với Plato), vốn là người độc nhất còn nhớ cuộc trò chuyện, nhưng
hiện nay chỉ quan tâm đến ngựa. Họ tìm thấy ông lúc đang vác một cương ngựa, và
với khó khăn mới thuyết phục ông ta thuật lại cuộc thảo luận nổi tiếng giữa
Parmenides, Zeno, và Socrates. Cuộc thảo luận này, chúng ta được kể, đã diễn ra
khi Parmenides đã già (khoảng 65), Zeno lúc trung niên (khoảng bốn mươi), và
Socrates là một người khá trẻ. Socrates trình bày chi tiết lý thuyết về những Ý
tưởng, ông chắc chắn rằng có những ý tưởng của sự giống nhau, công bằng, sắc
đẹp, và sự thiện; ông không chắc chắn rằng nếu có một ý tưởng của “người”
không; và ông bực dọc bác bỏ đề nghị rằng có thể có những ý tưởng về những-gì
loại giống như tóc, và bùn, và đất – mặc dù, ông nói thêm, có những lúc ông
nghĩ rằng không có gì mà với không có kèm một Ý tưởng. Ông chạy xa khỏi quan
điểm này vì ông sợ rơi xuống một cái hố không đáy của vô nghĩa.
“Đúng thế, Socrates, Parmenides cho biết; đó là bởi vì ông vẫn còn trẻ,
rồi thời sẽ đến, nếu như tôi không nhầm, khi triết lý trong ông sẽ vững chặt
hơn, và lúc ấy, ông sẽ không khinh thường ngay cả những điều thấp xấu nhất”.
Socrates đồng ý rằng, trong cái nhìn của ông, “Có một số những ý tưởng từ
chúng tất cả những thứ gì-khác cùng có phần, và từ chúng những thứ gì-khác rút
ra những tên gọi của chúng; rằng những tương tự đó, lấy thí dụ, trở thành tương
tự, bởi vì chúng cùng có phần sự tương tự, và những điều vĩ đại trở thành sự vĩ
đại, bởi vì chúng cùng có phần sự vĩ đại, và rằng những-gì công lý và những-gì
xinh đẹp trở thành công lý và cái đẹp, bởi vì chúng cùng có phần công lý, và
cái đẹp”.
Parmenides tiến thêm đến nêu lên những khó khăn.
(a) Có phải những cá biệt cùng có phần từ toàn bộ Ý tưởng, hay chỉ từ của
một phần? Với bất cứ điều nào trong hai, cũng có những bất bình. Nếu là điều
trước, cùng một điều-gì nhưng một lúc cùng ở nhiều nơi, nếu điều sau, Ý tưởng
bị phân chia, và một điều-gì nó vốn có một phần của sự nhỏ-bé, sẽ là nhỏ hơn sự
nhỏ-bé tuyệt đối, thành ra phi lý.
(b) Khi một cá biệt cùng có phần của một Ý tưởng, cái cá biệt và ý tưởng
là tương tự, thế nên sẽ phải có được một Ý tưởng khác, nó bao gồm cả hai, những
cá biệt và cái ý tưởng nguyên thủy. Và thế rồi sẽ lại phải có môt cái khác nữa,
bao gồm cả hai, những cá biệt và hai Ý tưởng, và cứ như vậy cho đến vô cùng
tận. Như thế nên, mỗi Ý tưởng, thay vì là một, trở thành một chuỗi vô hạn những
ý tưởng. (Điều này cũng giống như lý luận của Aristotle về “người thứ ba”) [9].
(c) Socrates đề nghị có lẽ những Ý tưởng chỉ là những suy tưởng, nhưng
Parmenides chỉ ra rằng những suy tưởng phải là suy tưởng về một-cái-gì đó.
(d) Những Ý tưởng không thể giống với những đặc thù vốn cùng có phần từ
chúng, với lý do được đưa ra trong (b) ở trên.
(e) Những Ý tưởng, nếu như có bất kỳ cái nào, chúng ta phải không biết
đến được, bởi vì kiến thức của chúng ta không phải là tuyệt đối.
(f) Nếu như kiến thức của Gót là tuyệt đối, Ông sẽ không biết chúng ta,
và do đó không thể cai quản chúng ta.
Dù sao đi nữa, lý thuyết về những Ý tưởng không bị bỏ rơi hoàn toàn. Nếu
không có những Ý tưởng, Socrates nói, sẽ có không có gì mà trí não con người có
thể dựa vào, và như thế sự lý luận sẽ bị phá huỷ. Parmenides bảo ông rằng những
rắc rối của ông là từ thiếu huấn luyện trước đó mà ra, nhưng không kết luận minh
bạch nào đã đạt đến được.
Tôi không nghĩ rằng những phản đối mang tính lôgích của Plato với thực
tại của những cụ thể cảm giác sẽ chịu đựng nổi sự tra xét. Ông nói, lấy thí dụ,
rằng bất cứ điều gì là đẹp đẽ cũng có – trong một số những hướng nhìn nào đó – là
xấu xí; những gì tăng gấp đôi cũng là một nửa; và vân vân. Nhưng khi chúng ta
nói về một vài công trình mỹ thuật vốn nó đẹp trong một số khía cạnh và là xấu
xí ở những khía cạnh khác, sự phân tích sẽ luôn luôn (ít nhất trên mặt lý
thuyết) cho chúng ta có khả năng nói “một phần hoặc khía cạnh này là đẹp, trong
khi đó một phần hoặc khía cạnh kia là xấu xí”. Và về phần “gấp đôi” và “một
nửa”, đây là những từ ngữ tương đối, không có mâu thuẫn trong sự kiện rằng 2 là
gấp đôi của 1, và là một nửa của 4. Plato liên tiếp không ngừng vướng vào trong
rắc rối, qua sự không hiểu biết những từ ngữ chỉ sự tương đối. Ông nghĩ rằng
nếu A lớn hơn B, và bé hơn C, vậy thì A là đồng thời vừa lớn và bé, mà nó dường
như đối với ông là một mâu thuẫn. Những rắc rối loại như thế là thuộc trong số
những tật bệnh ấu trĩ của triết học.
Sự phân biệt giữa thực tại và sự biểu hiện không thể có những tầm quan
trọng mà Parmenides và Plato và Hegel. gán cho nó. Nếu như biểu hiện thực sự
hiện ra, nó không phải là không-gì, và do đó là một phần của thực tại, đây là
một luận chứng thuộc loại mang tính Parmenides chính xác. Nếu biểu hiện không
thực sự hiện ra, tại sao chúng ta để đầu rắc rối về nó? Nhưng có lẽ một số
người nào đó sẽ nói: “Biểu hiện không thực sự hiện ra, nhưng nó xem dường như
hiện ra”. Điều này sẽ không giúp gì thêm, vì chúng ta sẽ hỏi lại: “Liệu nó có
thực sự xem dường như hiện ra, hoặc chỉ có vẻ xem ra dường như hiện ra?”
Sớm hay muộn, nếu biểu hiện dẫu như xem ra dường như hiện ra, chúng ta phải đạt
đến một-cái-gì đó nó thực sự hiện ra, và như thế là một phần của thực
tại. Plato sẽ không mơ tưởng sự phủ nhận rằng có hiện ra là có nhiều những cái
giường, mặc dù chỉ có một cái giường thực, mệnh danh là cái do Gót tạo. Nhưng
ông xem ra không có vẻ như đã phải đối diện với những hàm ngụ của thực tại là
có nhiều những biểu hiện, và rằng cái tính-nhiều này là phần của thực tại. Bất
kỳ cố gắng nào nhằm chia thế giới thành những phần, trong đó một phần là “thực”
nhiều hơn phần khác, là phải chịu số phận thất bại.
Kết nối với điều này là một quan điểm lạ lùng khác của Plato, rằng kiến
thức và ý kiến phải lien quan đến những nội dung-vấn đề khác nhau. Chúng ta nên
nói: Nếu tôi nghĩ rằng trời sẽ có tuyết, đó là ý kiến, nếu muộn sau đó, tôi
nhìn thấy trời tuyết rơi, đó là kiến thức, nhưng nội dung-vấn đề cùng là một
như nhau trong cả hai dịp xảy ra. Plato, tuy nhiên, nghĩ rằng những gì có thể ở
bất kỳ thời gian nào, nếu là một vấn đề của ý kiến, sẽ không bao giờ có thể là
một vấn đề của kiến thức. Kiến thức là chắc chắn và không sai lầm; ý kiến không
chỉ đơn thuần là sai lầm, nhưng nhất thiết phải là nhầm lẫn, vì nó giả định là
thực tại của những gì chỉ là biểu hiện. Tất cả điều này lặp đi lặp lại những gì
đã được Parmenides nói.
Có một phương diện trong siêu hình học của Plato là hiển nhiên khác với
của Parmenides. Đối với Parmenides có duy nhất chỉ cái Một; với Plato,
có nhiều những ý tưởng. Không phải chỉ có cái đẹp, sự thật, và sự tốt lành,
nhưng, như chúng ta đã thấy, có cái giường trên thiên đàng [10]
được Gót tạo ra; có một người trên thiên đàng, một con chó trên thiên đàng, một
con mèo trên thiên đàng, và cứ như vậy, xuyên hết mọi thứ đầy một thuyền Noah.
Tất cả điều này, tuy nhiên, dường như, trong Cộng hòa, đã không từng
được suy nghĩ cho thật tận tường đầy đủ đến mức. Một ý tưởng hoặc thể dạng kiểu
Plato không phải là một ý nghĩ, mặc dù nó có thể là đối tượng của một ý nghĩ.
Là điều khó khăn để tìm xem làm cách nào Gót có thể đã tạo ra nó, bởi vì hữu
thể của nó là phi thời gian, và vị Gót không thể đã quyết định sáng tạo ra cái giường
trừ khi tư tưởng của vị này, khi ông đã quyết định, đã có như đối tượng của nó,
đích xác cái giường y như theo Plato, vốn nó là cái giường mà chúng ta được bảo
cho biết là vị gót đã tạo nên đưa vào hiện hữu. Cái gì nếu là phi thời gian
phải là không được sáng tạo. Ở đây, chúng ta đến một khó khăn vốn đã làm rắc
rối nhiều những nhà gót học triết lý. Chỉ có cái thế giới ngẫu nhiên tình cờ,
thế giới trong không gian và thời gian, mới có thể được sáng tạo, nhưng đây lại
là thế giới của mọi ngày thường, vốn đã bị lên án là ảo ảnh [11]
và cũng là xấu xa [12].
Vì thế nên vị Sáng thế, xem ra như thể, đã sáng tạo ra chỉ ảo ảnh và cũng cả
xấu xa nữa. Một số những giáo phái Gnostics đã hết sức kiên định về phần chấp
nhận theo quan điểm này, nhưng trong Plato, sự khó khăn vẫn còn chìm dưới bề
mặt, và xem dường như, trong Cộng hòa, ông đã chưa bao giờ trở nên biết
đến được về nó.
Triết gia, người là sẽ thành một giám hộ, theo như Plato, phải, trở lại
vào hang động, và sống giữa những người chưa bao giờ thấy mặt trời của sự thật.
Xem ra đã có vẻ như rằng chính Gót, bản thân ông nếu như có muốn sửa đổi sản
phẩm sáng tạo của Ông, cũng phải làm giống như vậy, một tín đồ Kitô theo thuyết
Plato có thể giải thích về sự hiện thân xuống trần theo cách như thế. Nhưng nó
vẫn còn là hoàn toàn không thể nào có thể giải thích được – tại sao Gót đã
không bằng lòng với thế giới của những Ý tưởng [13].
Triết gia tìm thấy cái hang trong hiện hữu, và lòng nhân từ đã thúc đẩy về sự
trở lại với nó, nhưng Đấng Sáng Tạo, nếu Ông đã tạo ra tất cả mọi thứ, một
người có thể sẽ nghĩ rằng, ông đã có thể tránh tất cả cái hang hoàn toàn [14].
Có lẽ khó khăn này phát sinh chỉ từ khái niệm của đạo Kitô về một Đấng
SángTạo, và không kết buộc vào với Plato, người nói rằng Gót không tạo ra tất
cả mọi thứ, nhưng chỉ những-gì là tốt đẹp. Tính phồn tạp của thế giới cảm thức,
trên quan điểm này, sẽ có một vài nguồn gốc khác hơn ngoài Gót. Và những ý
tưởng sẽ, có lẽ, không quá nhiều phần được sáng tạo bởi Gót nhưng là
những thành phần của yếu tính của Ông. Sự đa dạng biểu hiện bao gồm trong sự
liên quan đến tính phồn tạp của những ý tưởng như vậy sẽ không là cuối cùng.
Cuối cùng chỉ có một mình Gót, hoặc sự Thiện, vốn những Ý tưởng là thuộc tính
của Nó. Điều này, với bất kỳ mức độ nào, là một giải thích có thể có đươc cho
Plato.
Plato tiến đến một phác họa lý thú về một nền giáo dục thích hợp cho một
người trẻ, người này sẽ là một người giám hộ. Chúng ta đã thấy rằng người trẻ
tuổi đã được chọn lựa với vinh dự này trên nền tảng của một sự kết hợp cả trí
tuệ và những phẩm chất đạo đức: anh ta phải công chính và hiền hòa, ham thích
học tập, với một trí nhớ tốt và một trí não hài hòa. Người trẻ tuổi, những
người đã được chọn vì những ưu điểm này, sẽ dành những năm từ 20 đến 30 tuổi
trên bốn ngành học theo như Pythagore: số học, hình học (phẳng và không gian),
thiên văn học, và hòa âm âm nhạc. Những môn học này không được theo đuổi trong
bất kỳ một tinh thần hữu dụng nào cả, nhưng để chuẩn bị trí não của mình cho
tầm nhìn đến với những-gì vĩnh cửu. Trong thiên văn học, thí dụ, anh không phải
để mình gặp rắc rối quá nhiều với những thiên thể thực có trên trời, mà đúng
hơn là với toán học của sự chuyển động của những thiên thể lý tưởng trên trời.
Điều này nghe có vẻ vô lý với tai nghe thời hiện đại, nhưng, lạ lùng mà nói, nó
đã chứng tỏ là một điểm có kết quả trong kết hợp với thiên văn học thực nghiệm.
Cái cách điều này đã xảy ra là lạ lùng, và đáng được xem xét.
Những chuyển động biểu kiến của những hành tinh, cho đến khi chúng đã
được phân tích rất sâu xa, xem ra là bất thường và phức tạp, và không giống
chút nào như một vị Sáng tạo theo kiểu Pythagore nếu đã lựa chọn. Là điều đã
hiển nhiên đối với tất cả mọi người Hylạp, là những gì trên trời phải nên được
miễn trừ cho cái đẹp của toán học, mà đó sẽ chỉ là trường hợp nếu như những
hành tinh đã di chuyển theo vòng tròn [15].
Điều này sẽ đặc biệt là hiển nhiên với Plato, do ở sự nhấn mạnh của ông trên
cái tốt đẹp. Thế nên vấn đề phát sinh: là có bất kỳ một giả thuyết nào mà nó sẽ
giảm thiểu tính chất vô trật tự biểu kiến của những chuyển động hành tinh thành
vào với trật tự, và vẻ đẹp, và đơn giản? Nếu như có, ý niệm về cái tốt lành sẽ
chứng minh với chúng ta, qua sự xác nhận giả thuyết này. Aristarchus của đảo
Samos đã tìm thấy một giả thuyết loại như thế: rằng tất cả những hành tinh, bao
gồm cả trái đất, quay vòng quanh mặt trời theo những vòng tròn. Quan điểm này
đã bị phủ nhận trong xuốt hai ngàn năm, một phần vì uy tín của Aristotle, người
đã qui một giả thuyết đúng ra rất nhiều tương tự cho những người “phái
Pytagoras” (De Coelo, 293 a). Nó đã được Copernicus hồi sinh, và sự
thành công của nó có vẻ có thể để biện minh cho thiên kiến mang tính thẩm mỹ
của Plato trong thiên văn học. Tuy nhiên, thật không may, Kepler đã phát hiện
ra rằng những hành tinh di chuyển theo những hình bầu dục, không phải theo
những hình tròn, với mặt trời ở tiêu điểm, nhưng không phải ở trung tâm; rồi
sau đó Newton phát hiện ra rằng chúng không di chuyển, ngay cả theo những hình
chính xác bầu dục. Và như thế, tính đơn giản hình học Plato tìm kiếm, và dường
như Aristarchus người đảo Samos đã tìm thấy, cuối cùng đã được chứng minh là
huyễn ảnh.
Mẩu lịch sử của khoa học này minh họa một châm ngôn tổng quát: rằng bất
kỳ một giả thuyết, nào, cho dẫu phi lý đến đâu, có thể sẽ là hữu ích
trong khoa học, nếu như nó làm cho một người khám phá có khả năng hình thành
trong óc những-gì trong một cách thức mới, nhưng mà, một khi nó đã phục vụ mục
đích này nhờ may mắn, nó có khả năng trở thành một chướng ngại để tiến xa hơn.
Sự tin tưởng vào sự tốt đẹp như là chìa khóa dẫn đến sự hiểu biết khoa học về
thế giới đã là hữu ích, ở một giai đoạn nhất định, trong thiên văn học, nhưng ở
mọi giai đoạn sau đó đã là có hại. Những thiên kiến đạo đức và thẩm mỹ của
Plato, và lại còn nhiều hơn của Aristotle, đã làm rất nhiều để giết chết khoa
học Hylạp.
Cũng đáng ghi nhận rằng những triết gia theo thuyết của Plato hiện đại,
trừ một ít những ngoại lệ, không biết gì về toán học, bất kể tầm quan trọng lớn
lao Plato đã gắn vào số học và hình học, và ảnh hưởng bao la chúng đã có trên
triết lý của ông. Đây là một thí dụ về những cái tai độc của sự chuyên môn: một
người phải không viết gì về Plato, trừ khi ông đã dành rất nhiều thời tuổi trẻ
của mình về Hylạp đến đã không có thì giờ cho những-gì vốn Plato đã nghĩ là
quan trọng.
Chương
16. Lý thuyết của Plato về sự Bất tử.
Lê Dọn Bàn tạm dịch- bản nháp thứ nhất
(Jun/2010)
[1] Xem bản dịch Republic (Cộng Hoà) của tôi (LDB)
[2] Theory of Ideas, or Theory of Forms
(Platonic Forms). Tôi dịch là Thuyết về những Thể Dạng (Forms), như các học giả
thời nay (thế kỉ XXI), nhưng trong tập sách này, vẫn giữ nguyên văn của Russell
(từ thế kỉ XX trước)
[3] vision of truth
[4] Theory
of Ideas or Forms: Lý thuyết về những Ý tưởng, hay “lý thuyết về những Thể Dạng”, tôi dùng từ “Thể Dạng” hiểu
như những khuôn dạng bất biến, vĩnh cửu, phi thời gian, phi không gian, và
chúng mới là những thực thể, tất cả những biểu hiện ở trần gian này, chỉ là những
hiện tượng đặc thù, là những sao chép không toàn vẹn của chúng. Đó là nội dung
của Plato theo tôi được hiểu.
[5] N2O – Nitrous oxide
[6] “đường thẳng”, “vòng tròn”, hay “giường”
không chỉ tuyệt đối thẳng, tròn, thể dạng-giường, nhưng duy nhất,
chỉ có một mà thôi, theo như Plato, vì duy nhất nên tuyệt đối.
[7] Xem Plato, “Dụ Ngôn Cái Hang” – bản tôi tạm dịch.
[8] Một đàm thoại được xem như khó hiểu nhất của
Plato, xem bản tạm dịch của tôi (LDB)
[9] “third
man argument” – “luận chứng người thứ ba”: Vắn tắt, nếu một người cụ thể (trong
thực tại), theo như Plato, là tạo thành qua cách cùng có phần từ một ý tưởng,
hay gọi theo danh từ ngày nay là một “Thể dạng Plato”, như thế một Thể dạng
khác sẽ phải cần có để giải thích cho cả hai – “người cụ thể” và Thể dạng Người
– làm sao chúng có thể được gọi là “người”.
Thể dạng
Người này – khác với thể dạng đầu tiên (vì đã có thêm phần “tổng hợp”) – là
“người thứ ba”, và cứ thế, một Thể dạng Người khác nữa – “người thứ tư” – sẽ phải
có để giải thích làm sao tất cả ba đối tượng này có thể gọi là “người”, và như
thế, sẽ thành một chuỗi trở ngược vô tận (an infinite regress).
[10] “Cái giường” ý tưởng tuyệt đối trên thiên
đàng! dĩ nhiên là không nằm được vì nó không chỉ ở ngoài thời gian, nhưng ngoài
không gian.
[11] Những bóng in trên tường Dụ ngôn cái
Hang của Plato.
[12] Phê bình
của Russell, chủ yếu về đạo Kitô ở đây, gợi nhắc những gì Nietzsche đã phê bình
đạo Kitô, lên án nó là một chủ nghĩa hư vô, vì nó phủ nhận cuộc đời này, xem cuộc
nhân sinh là tội lỗi, và hướng mọi tín đồ về một cõi sông ngoài trần gian này,
mệnh danh là thiên đường, hy sinh tất cả hiện sinh cho một huyễn ảo, ảo ảnh,
không tưởng.
Xem –
Friedrich Nietzsche, Phản Kitô, bản tôi tạm dịch.
Và về
thiên đường, xem – Michael Martin, Thiên đường dậy sóng hoài nghi? bản tôi
tạm dịch.
[13] Muốn cứu
chuộc nhân loại, Gót đã có thể chỉ cần sửa chữa thế giới lý tưởng, vốn theo như
Plato là những Lý tương, hay Khuôn mẫu, hay Thể dạng phổ quát cho tất cả những-gì
biểu hiện trên trần gian này, không cần phải – thí dụ trong đạo Kitô – có con
xuống trần chịu chết. Nhưng có lẽ phải như thế mới có thần tượng để tôn thờ và
thành lập tôn giáo với giai cấp tu sĩ đặc biệt.
[14] Nếu trần
gian với con người là “tội lỗi”, phải “cứu chuộc” – sao không ngay từ đầu tạo
ra một trần gian, giả định là có Gót, và Gót tạo trần gian, sao không tạo một
trần gian hoàn hảo, cho khỏi rắc rối, khổ cả con Gót lẫn tất cả con người!, sao
phải rắc rối tạo ra hai thế giới – thế giới cái hang và thế giới mặt trời soi
sáng ngoài kia, Russell muốn nói, Gót đã có thể tránh hoàn toàn không phải tạo
ra cái hang làm gì!
[15] Thời ấy,
chưa biết quĩ đạo các thiên thể rõ rệt ra sao, nhưng trên tổng quát, không nghĩ
là những vòng tròn.
[16] Phaedo of
Elis (hay Phaedon, Greek: Φαίδων; Thế kỷ 4 TCN) triết gia Hylạp. Người xứ Elis,
trong chiến tranh ông bị bắt và bán làm nô lệ. Sau đó tiếp xúc với Socrates ở
thành Athens, và đã được Socrates đón nhận nồng hậu và cởi phận nô lệ cho ông.
Lúc Socrates chết, ông có mặt và Plato lấy tên ông đặt cho một đàm thoại của
mình. Sau đó, ông về Elis, và thành lập trường phái triết học Elean (Elean
School of philosophy). Xem bản tạm dịch Phaedo
của tôi (LDB)