Bertrand Russell
Lịch sử Triết học phương Tây
Quyển Một – Triết học Cổ thời
Phần II. Socrates, Plato, và Aristotle
Chương 11. Socrates
Socrates là một đề tài rất khó khăn
đối với nhà viết sử. Có rất nhiều người, những gì liên quan đến người ấy, chắc
chắn là biết được rất ít, và có những người khác, những gì liên quan đến người
ấy, chắc chắn là biết được rất nhiều, nhưng trong trường hợp Socrates, sự không
chắc chắn là về phần – không biết chúng ta biết rất ít, hay là biết rất nhiều
về ông. Chắc chắn ông là một công dân Athens thuộc giai tầng xã hội trung bình [1] ,
một người dành đời mình trong tranh luận, và giảng dạy triết học cho giới trẻ,
nhưng không vì tiền, giống như những Sophists. Ông chắc chắn đã bị ra tòa, kết
án tử hình, và chịu xử chết, năm 399 TCN, lúc ấy, ông khoảng bảy mươi tuổi.
Chắc chắn ông là một nhân vật nổi tiếng ở Athens, bởi vì Aristophanes đã vẽ hý
họa ông trong The Clouds. Tuy nhiên, vượt quá điểm này, chúng ta trở
thành vướng vào tranh cãi. Hai học trò của ông, Xenophon và Plato, đã viết rất
dồi dào về ông, nhưng họ nói những điều rất khác nhau. Ngay cả khi họ đồng ý,
Burnet đã gợi ý đó là vì Xenophon chép lại của Plato. Chỗ nào họ không đồng ý,
một số tin người này, một số tin người kia, một số không tin người nào cả.
Trong một bàn cãi nguy hiểm loại như vậy, tôi sẽ không dám phiêu lưu đứng về
bên nào, nhưng tôi sẽ bắt đầu vắn tắt về những quan điểm khác nhau.
Đã có một xu hướng nghĩ rằng tất cả
những-gì Xenophon nói phải đúng sự thật, bởi vì ông đã không giảo trí lắm để
nghĩ được về bất cứ điều gì không-thật. Đây là một mệnh đề rất bất hợp lệ của
luận chứng. Một người ngu xuẩn thuật lại những gì một người thông minh nói,
không bao giờ chính xác, bởi vì anh ta đã chuyển dịch một cách vô thức những gì
anh ta nghe vào một cái gì đó mà anh ta có thể hiểu được. Tôi thà được kẻ thù
cay đắng của tôi trong số những triết gia thuật kể, hơn là bởi một người bạn
chẳng biết gì về triết học. Do đó chúng ta không thể chấp nhận những gì
Xenophon nói, nếu như hoặc nó liên quan đến bất kỳ điểm khó khăn nào trong
triết học, hoặc nó là phần của một luận chứng để chứng minh rằng Socrates đã bị
lên án bất công.
Dù sao đi nữa, một vài những hồi
tưởng của Xenophon rất thuyết phục đáng tin. Ông kể (cũng như Plato vậy),
Socrates đã liên tục bận rộn như thế nào với vấn đề có được những người khả
năng vào những chức vụ quyền lực. Ông sẽ đặt những câu hỏi loại như: “Nếu tôi
muốn vá một chiếc giày, tôi nên dùng người nào?”. Một vài người trẻ ngay thực
sẽ trả lời câu đó: “Một anh thợ đóng giày, Ô Socrates”. Ông sẽ tiếp tục với
những thợ mộc, những thợ đúc đồng, vv…, và cuối cùng hỏi một số câu hỏi loại
như “ai nên sửa chữa chỉnh đốn Con tàu Quốc gia?” Khi ông rơi vào xung đột với
nhóm lãnh đạo Ba mươi Bạo chúa, Critias, thủ lĩnh của họ, ông này biết những
lối của Socrates vì đã từng học với Socrates, đã cấm ông không được tiếp tục
dạy những người trẻ nữa, và đã thêm: “Ông tốt hơn là nên chấm dứt với (chuyện)
những thợ đóng giày, những thợ mộc, những thợ đúc đồng của ông, họ phải hết sức
là có cơ hội may mắn phen này lỉnh cho nhanh chân, cứ kể những lòng vòng ông đã
đẩy họ!”. (Xenophon, Memorabilia, Quyển I, Ch. II). Điều này đã xảy ra
trong thời gian ngắn ngủi với chính phủ tập-đoàn-trị, do những người Sparta đã
thiết lập sau khi cuộc Chiến tranh Peloponnesian kết thúc. Tuy nhiên, Athens đã
là dân chủ trong hầu hết mọi thời, dân chủ nhiều đến nỗi ngay cả những tướng
lĩnh quân đội cũng được chọn bằng bầu cử, hay rút thăm. Có lần gặp một người
trẻ tuổi muốn trở thành một vị tướng, Socrates đã thuyết phục người này rằng sẽ
là điều tốt nếu như biết được ít nhiều về nghệ thuật chiến tranh. Theo đó,
người trẻ tuổi này đã ra đi và theo học một khóa ngắn về chiến thuật. Khi quay
về gặp Socrates, sau một vài lời khen ngợi trào phúng, ông lại gửi anh ta trở
lại để tiếp tục học hỏi thêm (ibid. Quyển III, Ch. I). Một người trẻ
tuổi khác, ông đã đặt định cho theo học những nguyên tắc tài chính. Ông đã cố
gắng xếp đặt cùng loại như thế với nhiều người, trong đó có cả một bộ trưởng
chiến tranh; nhưng đã được quyết định rằng cái cách dùng chất độc từ cỏ hemlock [2] để
làm ông tắt tiếng thì dễ dàng hơn là chữa trị những tà ác vốn chúng làm ông đã
bị lên án.
Với biên bản của Plato về Socrates,
khó khăn là một loại khác biệt hoàn toàn với trong trường hợp của Xenophon, cụ
thể là, rằng rất khó để phân định Plato có ý miêu tả Socrates-lịch-sử xa cho
đến đâu, và ông chủ tâm dùng con người được gọi là “Socrates” trong những đàm
thoại của ông chỉ làm không gì hơn là cái loa cho những ý kiến của riêng ông xa
cho đến đâu. Plato, bên cạnh sự kiện là một triết gia, còn là một nhà văn giàu
trí tưởng tượng, có thiên tài và sức mê hoặc lớn lao. Không một ai giả định, và
tự chính ông cũng không nghiêm túc làm ra vẻ rằng những đàm thoại trong những đàm
thoại của ông đã diễn ra như ông ghi chép chúng. Tuy nhiên, với bất kỳ tỷ lệ
nào trong những đàm thoại có sớm hơn, cuộc đàm thoại là hoàn toàn tự nhiên và
những nhân vật khá đáng tin thuyết phục. Chính sự xuất sắc của Plato như một
nhà viết tiểu thuyết đã ném lên nghi ngờ về ông như là một nhà viết sử.
Socrates của ông là một nhân vật trước sau như một và đáng chú ý lạ thường,
vượt quá mức khả năng của hầu hết con người để tạo dựng được, nhưng tôi nghĩ
Plato đã có thể đã tạo dựng ra ông ta. Không biết liệu ông đã có làm như
thế hay không, dĩ nhiên lại là một câu hỏi khác.
Đàm thoại mà thường được hầu hết đã
xem như lịch sử có thật là Apology [3] . Bản văn này tuyên bố
là bài phát biểu vốn Socrates đã làm biện hộ cho chính mình tại phiên tòa xử
ông, dĩ nhiên không phải là bản báo cáo ghi tốc ký, nhưng là những gì đã còn
lại trong ký ức của Plato một vài năm sau khi biến cố xảy ra, đã đặt chung vào,
và trau chuốt công phu bằng nghệ thuật văn chương. Plato đã có mặt tại phiên
toà, và chắc chắn xem ra khá rõ ràng rằng những gì được viết xuống là điều
thuộc loại Plato đã ghi nhớ như Socrates đã nói, và đó là ý định, nói
một cách rộng rãi, ghi chép lịch sử. Điều này, với tất cả những giới hạn của
nó, là đủ để cung cấp một bức tranh khá rõ ràng về nhân vật Socrates.
Những sự kiện chính của phiên tòa xử
Socrates không có gì mở ra để nghi ngờ. Truy tố đã dựa trên sự buộc tội cho
rằng, “Socrates là một kẻ làm tà ác, và là một người kỳ dị khác thường, tìm
kiếm trong những điều sâu dưới đất và cao trên trời, và làm cho cái tồi tệ hơn
xuất hiện ra như lý lẽ tốt hơn, và giảng dạy tất cả điều này cho những người
khác”. Nền tảng thực sự của ác cảm thù địch đối với ông, đã là gần như chắc
chắn, ông bị xem như thông đồng với phái quí tộc; hầu hết những học sinh của
ông thuộc về phe này, và một số, ở những chức vị có quyền lực, đã tự chứng tỏ
họ rất độc hại. Nhưng nền tảng này đã không thể được dùng làm bằng chứng, vì
luật ân xá. Ông đã bị kết phạm tội bởi một đa số, và theo như pháp luật lúc ấy
của Athens, đã mở cho ông để được đề nghị một vài hình phạt nhẹ hơn cái chết.
Những người xử án đã phải lựa chọn, nếu như họ đã tìm thấy bị cáo là phạm tội,
giữa hình phạt của bên công tố đòi hỏi và của bên biện hộ đề nghị. Như thế, đã
là vì quyền lợi của Socrates để đề nghị một hình phạt đáng kể, mà tòa án có thể
chấp nhận là thích đáng. Tuy nhiên, ông đề nghị một phạt vạ bằng ba mươi đồng
tiền mina, mà một số bạn của ông (bao gồm cả Plato) đã sẵn sàng đứng bảo đảm.
Điều này đã là một hình phạt rất nhỏ đến nỗi tòa án đã khó chịu, và đã lên án
ông với tội tử hình bằng một đa số lớn hơn với so với lúc đã thấy ông phạm tội.
Không hồ nghi gì rằng ông đã thấy trước kết quả này. Rõ ràng là ông đã không có
ước muốn tránh án tử hình bằng những nhượng bộ mà có thể được xem như thừa nhận
tội lỗi về mình.
Những người khởi tố là Anytus, một
chính trị gia dân chủ; Meletus, một nhà thơ bi kịch, “trẻ trung và chưa có tên
tuổi, với mái tóc gầy ốm, và râu quai nón lưa thưa, và một cái mũi khoằm”; và
Lykon, một nhà tu từ học không ai biết đến. (Xem Burnet, từ Thales đến Plato,
p. 180.) Họ duy trì rằng Socrates đã phạm tội không tôn thờ những vị thần linh [4]
nhà nước đã tôn thờ, nhưng lại giới thiệu những thần linh mới khác, và hơn nữa
ông đã có tội làm hư giới trẻ bằng dạy cho họ như đã kể.
Để tránh cho chúng ta khỏi tự rắc rối
thêm với những câu hỏi không có giải đáp về quan hệ giữa
Socrates-theo-như-Plato với con người thực sự, chúng ta hãy cùng xem Plato đã
khiến ông nói gì để trả lời sự lên án này.
Socrates bắt đầu bằng buộc tội những
người khởi tố của ông là hùng biện, và phủ nhận lời buộc tội hùng biện như áp
dụng vào chính ông. Hùng biện duy nhất mà ông có khả năng, ông nói, là của sự
thật. Và họ không phải không tức giận với ông, nếu như ông nói theo cách đã
quen thuộc của ông, không trong “một bài diễn văn xếp đặt, trang trí hoa mỹ với
những từ và những câu”[5].
Ông đã trên bảy mươi, và cho đến bây giờ, đã chưa bao giờ xuất hiện trong một
tòa án, như thế họ phải tha thứ lối nói không thuật-ngữ-toà-án của ông.
Ông nói tiếp rằng, thêm vào ngoài
những người chính thức buộc tội ông, ông có một tập đoàn rộng lớn những người
không chính thức buộc tội ông, những người này, kể từ khi những những người xử
án đã còn là trẻ em, đã đi đó đây “kể rằng có một Socrates, một người khôn
ngoan, người đã suy đoán về trời ở trên, và đã tìm kiếm vào trong quả đất bên
dưới, và làm cho tồi tệ hơn xuất hiện thành căn nguyên tốt hơn”. Người loại như
vậy, ông nói, đã giả định là không tin vào sự hiện hữu của những vị thần linh.
Điều cáo buộc cũ này của dư luận công cộng là nguy hiểm còn hơn cáo trạng chính
thức, đã vậy lại càng nhiều hơn, vì ông không biết ai là những người mà từ đó
nó phát ra, ngoại trừ trong trường hợp của Aristophanes [6].
Ông chỉ ra, trong khi đáp lại với những cơ sở cũ hơn này của sự sự thù địch,
rằng ông không phải là một người của khoa học – “Tôi không có gì với những suy
đoán vật lý” – rằng ông không phải là một thày giáo, và không lấy tiền giảng
dạy. Ông tiếp tục chế diễu những nhà Sophists, và chối ông không có những kiến
thức mà họ tự nhận đã có. Rồi nếu thế, cái gì là “lý do tại sao tôi được gọi là
khôn ngoan và có tiếng tăm tà ác như vậy?”
Tiên tri ở đền Delphi, xem ra là, có
một lần đã được hỏi, nếu thử có bất kỳ người nào khôn ngoan hơn Socrates hay
không, và đã trả lời rằng không. Socrates thú nhận đã hoàn toàn bối rối, bởi vì
ông không biết gì cả, và ấy thế nhưng thần linh không thể nói dối. Vì thế, ông
đã đi đây đi đó, khắp nơi giữa những người nổi tiếng khôn ngoan, để xem liệu
ông có thể tuyên bố thần linh sai lầm. Đầu tiên, ông đã đi đến một chính trị
gia, người “đã được nhiều người nghĩ là khôn ngoan, và vẫn còn sáng suốt hơn
chính ông”. Chẳng mấy chốc, ông thấy rằng người này đã không được khôn ngoan,
và giải thích điều này với ông ta, tử tế nhưng đoan quyết, “và hậu quả đã là
ông ta ghét tôi”. Ông sau đó đã đi đến nhà thơ, và yêu cầu họ giải thích những
đoạn trong những gì họ viết, nhưng họ đã không có khả năng làm như vậy. “Sau
đó, tôi biết rằng không phải bằng sự khôn ngoan nhà thơ làm thơ, nhưng bởi một
thứ thiên tài và cảm hứng”. Sau đó, ông đã đi đến những thợ thủ công, nhưng đã
tìm thấy họ cũng đều thất vọng ngang nhau. Trong quá trình này, ông nói, ông đã
tạo nhiều kẻ thù nguy hiểm. Cuối cùng ông kết luận rằng “chỉ mình Thần linh là
khôn ngoan, và bằng câu trả lời của vị này, có ý định cho thấy rằng sự khôn
ngoan của con người đáng giá nhỏ nhoi, hoặc không đáng giá gì cả, vị này không
nói về Socrates, chỉ sử dụng tên của tôi, làm lối minh hoạ, dưởng nếu như ông
đã nói, Ông ta, Ôi những con người, là khôn ngoan nhất, (còn) kẻ nào, như
Socrates, biết rằng sự khôn ngoan của ông trong sự thực là chẳng đáng gì cả”.
Công việc này, đưa ra những người giả đò là khôn ngoan, đã chiếm hết thời gian
của ông, và đã để lại ông trong hoàn toàn nghèo túng, nhưng ông cảm thấy đó là
một nhiệm vụ làm sáng tỏ lời tiên tri.
Những người trẻ tuổi thuộc những tầng
lớp giàu có hơn, ông nói, không có nhiều việc phải làm, thích thú nghe ông vạch
trần mọi người, và tiến tới làm cũng giống như vậy, như thế lại tăng số lượng
kẻ thù của ông. “Vì họ không thích thú nhận rằng sự giả cách của họ về kiến
thức đã bị phát hiện”.
Quá nhiều, cho những người buộc tội
lớp đầu.
Socrates bây giờ tiến đến đối chất
với Meletus, người khởi tố của ông, “con người tốt và thực sự yêu đất nước của
mình đó, như ông ta tự gọi mình”. Ông hỏi ai là người cải tiến được
những người trẻ tuổi. Meletus, đầu tiên đề cập đến những quan toà, sau đó, dưới
áp lực, đã bị lái bẻ đi, dần từng bước một, để nói rằng tất cả mỗi người
Athens, cải tiến giới trẻ, chỉ trừ Socrates; đến chỗ ấy, Socrates chúc mừng
thành phố về sự tốt số của nó. Tiếp theo, ông chỉ ra rằng sống giữa những người
tốt, là tốt hơn giữa những người xấu, và do đó ông không thể ngu ngốc như vậy
để làm hư hỏng công dân đồng bào của mình, một cách chủ định, nhưng nếu như
không chủ định, vậy thì Meletus nên chỉ bảo cho ông, chứ không truy tố ông.
Bản cáo trạng đã nói rằng Socrates
không những chỉ phủ nhận những vị thần linh của Nhà nước, nhưng đã đem vào giới
thiệu những thần linh khác của chính mình; Meletus, tuy nhiên, nói rằng
Socrates là một người vô thần hoàn toàn, và thêm: “Ông nói rằng mặt trời là đá
tảng và mặt trăng (cũng là thứ) quả đất”. Socrates trả lời rằng Meletus xem
dường như nghĩ rằng ông ta đương truy tố Anaxagoras, những quan điểm của tác
giả này chỉ tốn một drachma [7] có
thể nghe được trong rạp hát (có lẽ trong những vở kịch của Euripides). Dĩ
nhiên, Socrates vạch ra rằng lời cáo buộc mới về sự vô thần hoàn toàn này là
mâu thuẫn với bản cáo trạng, sau đó tiếp tục đến những quan tâm tổng quát hơn.
Phần còn lại của Apology cơ
bản có giọng điệu tôn giáo. Ông đã là một người lính, và đã ở lại vị trí chiến
đấu của mình, khi ông đã có lệnh phải làm thế. Giờ đây, “Thần linh ra lệnh cho
tôi để hoàn thành nhiệm vụ của triết gia, tìm kiếm trong bản thân tôi và trong
những người khác”, và nó sẽ là cũng đáng xấu hổ rời bỏ vị trí của ông bây giờ
như rời bỏ trong thời chiến đấu. Sợ chết không phải là khôn ngoan, vì không có
ai biết liệu cái chết có thể không phải là điều tốt lớn lao hơn. Nếu như ông
được tặng lại đời sống của ông, trên điều kiện ngừng luận đoán như ông đã làm
từ trước đến nay, ông sẽ trả lời: “Những người Athens, tôi vinh hạnh và yêu quí
vị, nhưng tôi sẽ tuân theo Thần linh hơn là theo quí vị [8],
và trong khi tôi có đời sống và sức lực, tôi sẽ không bao giờ rời khỏi sự thực
hành và giảng dạy triết học, khi thúc đẩy bất kỳ một ai tôi gặp.... Vì biết
rằng đây là lệnh của Thần linh; và tôi tin rằng không điều tốt lớn hơn nào đã
từng xảy ra trong quốc gia, so với sự phục vụ của tôi với Thần linh”. Ông tiếp
tục:
Tôi có một một vài
điều thêm nữa để nói, mà đến đó quí vị có thể có thể có khuynh hướng kêu to
lên, nhưng tôi tin rằng nghe tôi, sẽ tốt cho quí vị, và do đó tôi khẩn cầu rằng
quí vị sẽ đừng kêu to lên. Tôi mong cho quí vị biết, rằng nếu quí vị giết một
một như tôi, quí vị sẽ làm tổn thương chính quí vị nhiều hơn quí vị sẽ làm tổn
thương tôi. Không-gì sẽ làm tổn thương tôi, không Meletus mà cũng chẳng Anytus
– họ không thể, bởi vì một người xấu thì không được cho phép làm tổn thương một
người tốt hơn so với chính anh ta. Tôi không phủ nhận rằng có lẽ Anytus có thể
giết người ấy, hoặc đuổi người ấy sống lưu vong, hoặc tước mất những quyền công
dân của người ấy, và anh ta có thể tưởng tượng, và những người khác có thể
tưởng tượng, rằng anh ta đương giáng một thương tổn rất lớn cho người ấy: nhưng
tôi không đồng ý. Bởi vì hành động tà ác mà anh ta đương làm – tà ác khi tước
đoạt mất sự sống của người khác một cách bất công – là to lớn hơn nhiều.
Đó là vì lợi ích của những người xử
án của ông, ông nói, không phải vì lợi ích riêng của ông, rằng ông đương bào
chữa. Ông là một kẻ gây khó chịu (cái gai trước mắt) [9],
của Thần linh đã cho cho Nhà nước, và sẽ không là dễ dàng tìm thấy một người
khác như ông. “Tôi dám nói rằng quí vị có thể cảm thấy nổi nóng (như một người
đột nhiên đánh thức khỏi giấc ngủ), và quí vị nghĩ rằng quí vị có thể dễ dàng
giáng cho tôi chết như lời Anytus khuyên, và sau đó quí vị sẽ ngủ tiếp trọn
phần đời còn lại của quí vị, trừ khi Thần linh, trong sự quan tâm với quí vị,
gửi cho quí vị một cái gai trước mắt gây khó chịu khác”.
Tại sao ông chỉ đã đi vào trong
chuyện riêng tư, và không đưa ra lời khuyên về những vấn đề công cộng? “Quí vị
đã nghe tôi nói trong nhiều lần tạp nhạp, và nhiều chỗ khác biệt về một tiên
tri hay một dấu hiệu vốn nó xảy đến với tôi, và đó sự linh thiêng mà Meletus
chế nhạo trong bản cáo trạng này. Dấu hiệu này, nó là một thứ tiếng nói, trước
tiên bắt đầu đến với tôi khi tôi là một đứa trẻ, nó luôn luôn cấm cản, nhưng
không bao giờ ra lệnh tôi làm bất cứ điều gì mà tôi sẽ làm. Đây là điều ngăn
trở tôi khỏi việc thành là một chính trị gia”. Ông đi tiếp để nói rằng trong
chính trị, không có người trung thực nào có thể sống lâu dài. Ông cho ra hai
trường hợp, trong đó ông đã không thể tránh được khỏi dính trộn với những vấn
đề công cộng: trong trường hợp đầu tiên, ông chống lại nền dân chủ, trong
trường hợp thứ hai, với Ba mươi Bạo chúa, trong từng trường hợp khi những nhà
chức trách đã hành động bất hợp pháp.
Ông chỉ ra rằng trong số những người
có mặt, có nhiều học trò cũ của ông, và cha và anh em của những học trò cũ;
không một ai trong số này đã được đưa ra để làm chứng cho sự truy tố rằng ông
làm hư hỏng giới trẻ. (Điều này gần như là luận chứng duy nhất trong Apology
mà một luật sư biện hộ sẽ đồng ý thừa nhận) Ông từ chối theo lối phong tục đưa
các con ra khóc lóc trước tòa, để làm mềm trái tim của những người xử án, những
cảnh như vậy, ông nói, làm cho bị cáo và thành phố lố bịch giống nhau. Công
việc của ông đó là thuyết phục những người xử án, không phải để xin họ một đặc
ân.
Sau khi tòa tuyên án, và hình án thay
thế phạt vạ ba mươi đồng minae bị bác bỏ (chấp nối với điều này, Socrates đã kể
tên Plato là một trong số những người bảo đảm cho mình, và hiện có mặt tại tòa
án), ông nói một phát biểu cuối cùng.
Và bây giờ, ôi những
người đã kết án tôi, tôi sẽ đành phải nói lời tiên tri với quí vị; vì tôi sắp
sửa chết, và trong giờ phút của cái chết, con người được thiên khiếu với năng
lực tiên tri. Và tôi tiên tri cho quí vị, những kẻ sát nhân của tôi, là ngay
lập tức sau khi tôi ra đi, hình phạt nặng hơn hơn nhiều những gì quí vị đã gây
ra với tôi, chắc chắn sẽ dành cho quí vị. . . . Nếu quí vị nghĩ rằng bằng giết
chết người, quí vị có thể ngăn một vài những ai khỏi sự khiển trách những cuộc
đời tà ác của quí vị, quí vị đã nhầm lẫn; đó không phải là một cách để trốn
thoát mà nó là hoặc có được hoặc danh dự; cách dễ nhất và cao thượng nhất là
đừng có làm bất lực những người khác, nhưng là tự cải thiện chính mình.
Sau đó ông quay sang những người
trong những người xử án đã bỏ phiếu cho sự tha bổng, và bảo họ rằng, trong tất
cả những gì ông đã làm ngày hôm đó, sấm thiêng [10]
của ông đã không bao giờ chống đối ông, mặc dù trong những dịp khác, nó thường
ngưng ông lại ở giữa một bài phát biểu. Điều này, ông nói, “là một điều báo cho
biết rằng điều gì đã xảy ra với tôi là một điều tốt, và rằng những ai trong
chúng ta nghĩ rằng cái chết là một tà ác là sai lầm”. Bởi vì cái chết, hoặc là
một giấc ngủ không mơ, cái đó hiển nhiên là tốt – hoặc là hồn người di cư sang
một thế giới khác. Và “điều gì mà một người sẽ không đem đổi nếu như ông có thể
trò chuyện với Orpheus, và Musaeus, và Homer, và Hesiod, và Nay? Nếu như điều
này là đúng, hãy để tôi chết, và lại chết lần nữa”. Trong thế giới tiếp, ông sẽ
trò chuyện với những người khác, họ đã bị chết oan, và trên tất cả, ông sẽ tiếp
tục sự tìm tòi của ông theo sau kiến thức. “Trong thế giới khác, họ sẽ không
đem một người ra giết chết vì đặt những câu hỏi: chắc chắn là không. Bởi vì
ngoài sự là hạnh phúc hơn chúng ta, họ sẽ là bất tử, nếu những gì đã nói là sự
thật....
“Giờ lên đường đã đến, và chúng ta đi
những đường của chúng ta – Tôi đi đường chết, và quí vị đường sống.. Cái nào
tốt hơn chỉ thần linh biết”.
Apology cho ra hình ảnh rõ ràng của một
người thuộc một mẫu nhất định: một người rất chắc chắn về chính mình, có tinh
thần cao, dửng dưng với những thành công thế tục, tin rằng ông được một tiếng
nói thần linh dẫn dắt, và đã xác quyết rằng suy nghĩ cho minh bạch là điều đòi
hỏi tiên quyết quan trọng nhất cần thiết cho một đời sống chính trực. Ngoại trừ
điểm cuối này, ông giống như một tín đồ Kitô tử đạo, hay một tín đồ của Thanh
giáo. Trong đoạn cuối cùng, nơi ông suy ngẫm những gì sẽ xảy ra sau cái chết,
không thể nào không cảm thấy rằng ông vững tin vào sự bất tử, và sự không chắc
chắn ông đã tự thú chỉ là mặt giả. Ông đã không có khó khăn, như những người
Kitô, bởi những sợ hãi về sự trừng phạt đọa đày vĩnh cửu: ông không có hồ nghi
rằng đời mình trong thế giới sau sẽ là một đời hạnh phúc. Trong Phaedo,
Socrates-theo-Plato đưa ra những lý do về niềm tin vào sự bất tử, không biết có
phải những lý do này đã ảnh hưởng đến Socrates-lịch-sử hay không, thật không
thể nào nói được.
Xem ra khó có nghi ngờ rằng
Socrates-lịch-sử đã tuyên bố rằng ông được một tiên tri (oracle) hay quỉ
thần (daimon) hướng dẫn. Không biết đây có là tương tự như những gì một tín
đồ Kitô gọi là tiếng nói lương tâm, hay không, hoặc không biết nó có xuất hiện
với anh ta như là một tiếng nói thực sự hay không, điều này không thể
nào có thể biết được. Joan Arc đã cảm khích bởi những tiếng nói, đó là một hình
thức phổ biến của bệnh mất trí. Socrates có khả năng là có những trạng thái
xuất thần, toàn thân tê cứng; ít nhất, điều đó xem như lời giải thích tự nhiên
của một sự bất thường loại như vậy đã xảy ra một lần khi ông còn trong nghĩa vụ
quân sự:
Một sáng nọ, ông suy nghĩ về một điều-gì đó mà ông không thể
giải được, ông đã không chịu bỏ cuộc, nhưng vẫn tiếp tục suy nghĩ từ sáng sớm
đến trưa – chết đứng bất động đó trong suy tưởng, và lúc giữa trưa sự chú ý kéo
mọi người lại với ông, và tin đồn truyền lan trong đám đông băn khoăn tự hỏi
rằng Socrates đã đương đứng và đương suy nghĩ về một điều-gì đó kể từ mới sáng
bảnh mắt. Cuối cùng, vào buổi tối sau bữa ăn tối, một số người Ionians vì khỏi
tò mò (tôi nên giải thích rằng điều này không xảy ra vào mùa đông, nhưng vào
mùa hè), mang chiếu mình ra ngủ giữa trời, để họ có thể canh nhìn ông, và xem
liệu ông có sẽ đứng xuốt đêm hay không. Tại đó, ông đứng cho đến sáng hôm sau,
và khi ánh sáng ban ngày trở lại, ông dâng một lời cầu nguyện với vầng thái
dương, và rồi tiếp tục công việc của mình (Symposium, 220).
Sự việc loại như thế này, trong một
mức độ ít hơn, đã là một sự thông thường xảy ra với Socrates. Vào đầu đàm thoại
Symposium [11],
Socrates và Aristodemus cùng đi với nhau đến dự tiệc, nhưng Socrates rơi ở sau
trong một cơn chết xững quên mất hết xung quanh. Khi Aristodemus đến, Agathon,
chủ tiệc, hỏi rằng “bạn đã làm gì Socrates vậy?” Aristodemus đã lấy làm ngạc
nhiên thấy Socrates không cùng với mình; một nô lệ được gửi quay lại để kiếm
ông, và tìm thấy ông ở cổng một nhà hàng xóm. “Ông ấy chết trân ở đấy”, người
nô lệ trở về nói, “và khi tôi gọi ông, ông không động đậy”. Những người biết
ông nhiều giải thích rằng “ông ấy có một cái lối ngừng lại ở bất cứ đâu, và tự
quên mình đi chẳng có lý do nào cả”. Họ để mặc ông yên một mình, và đến khi ông
bước vào, bữa tiệc đã xong quá nửa.
Tất cả mọi người, ai cũng đồng ý rằng
Socrates rất xấu xí, ông có mũi hếch và bụng phệ lớn; ông đã “xấu hơn tất cả
những thần Silenuses trong bi kịch về các Satyr ” [12] (Xenophon,
Symposium) [13].
Ông luôn luôn mặc quần áo cũ tồi tàn, và đi chân đất ở khắp nơi. Sự thờ ơ của
ông với nóng và lạnh, đói và khát, làm sửng sốt tất cả mọi người. Alcibiades
trong Symposium, mô tả Socrates khi làm nghĩa vụ quân sự, nói:
Sức chịu đựng của ông
đã đơn giản là tuyệt vời khi, bị cắt đứt nguồn tiếp tế của chúng tôi, Chúng tôi
đã buộc phải tiếp tục với không thức ăn – những dịp như vậy, thường xảy ra luôn
trong thời chiến tranh, ông không vượt xa chỉ trên tôi, nhưng trên tất cả mọi
người: không có một-ai so sánh được với ông ta. . . . sự dũng cảm chịu lạnh của
ông cũng đáng ngạc nhiên. Đã có một cơn sương giá rất dữ dội, vì mùa đông trong
vùng ấy thực sự là khủng khiếp, và tất cả mọi người khác, hoặc ở yên trong nhà,
hoặc nếu họ đi ra ngoài, trên mình có một số lượng quần áo đáng kinh ngạc, và
mang giày chặt chẽ, và bàn chân quấn trong dạ và lông cừu: ở giữa cảnh này,
Socrates với chân không trên băng và trong trang phục bình thường của mình đã
đi di hành tốt hơn so với những người lính khác, những người mang giày, và họ
nhìn ông hầm hầm vì ông dường như khinh thường họ.
Sự tự chủ của ông trên tất cả những
đam mê quá độ của thân xác được nhấn mạnh luôn luôn. Ông ít khi uống rượu nho,
nhưng khi ông đã uống, ông có thể uống hơn bất cứ ai, không có ai bao giờ đã
thấy ông say rượu. Trong tình yêu, thậm chí với những cám dỗ mạnh nhất, ông vẫn
“lý tưởng” (Platonic), nếu như Plato là đã nói sự thật. Ông là vị thánh tuyệt
hảo của tôn giáo Orphic: trong lưỡng nguyên của hồn người trên trời và thể xác
dưới trần, ông đã đạt được sự làm chủ hoàn toàn của hồn người trên thể xác. Sự
dửng dưng của ông với cái chết ở cuối, là bằng chứng cuối cùng của sự làm chủ
này. Đồng thời, ông không phải là một Orphic chính thống, ông chấp nhận chỉ
những chủ thuyết cơ bản của nó, không phải những mê tín dị đoan và những nghi
lễ về tẩy rửa thanh lọc.
Socrates-theo-như-Plato báo trước cả
những người khắc kỷ Stoics và những người hoài nghi Cynics. Những Stoics cho
rằng điều tốt đẹp tối thượng là đức hạnh, và rằng một người không thể bị tước
đoạt mất đức hạnh vì những nguyên nhân bên ngoài; học thuyết này ngầm định trong
thách thức của Socrates rằng những người xử ông không thể làm hại ông. Những
người hoài nghi khinh thường của cải thế gian, và cho thấy sự khinh thường của
họ bằng kiêng tránh những tiện nghi của văn minh, đây cũng là cùng một quan
điểm đã đưa đến Socrates đi chân đất và coi thường cái mặc.
Có vẻ khá chắc chắn rằng những bận
tâm của Socrates đã là đạo đức hơn là khoa học. Trong Apology, như chúng
ta đã thấy, ông nói: “Tôi chẳng có dính líu gì với những suy đoán vật lý”.
Trong số những đàm thoại Plato sớm nhất, chúng thường được xem như là (phản ành
trung thực về) Socrates nhất, chủ yếu là bận rộn với việc tìm kiếm những định
nghĩa cho những thuật ngữ về đạo đức. Đàm thoại Charmides bận tâm với
định nghĩa của tiết độ hay điều độ; Lysis với tình bạn, Laches
với sự can đảm. Trong tất cả những đàm thoại này, không dẫn đến kết luận nào,
nhưng Socrates làm rõ rằng ông nghĩ rằng xem xét những câu hỏi như vậy là quan
trọng. Socrates-theo-như-Plato luôn duy trì rằng ông không biết gì, và chỉ khôn
ngoan hơn những người khác trong sự biết rằng ông không biết gì, nhưng ông
không nghĩ rằng kiến thức không thể thu đạt được. Ngược lại, ông nghĩ rằng việc
tìm kiếm kiến thức là quan trọng hết sức đến cực điểm. Ông chủ trương không có
người nào tội lỗi một cách sáng suốt [14],
và do đó chỉ có kiến thức là cần thiết để làm cho tất cả mọi người nên đức hạnh
toàn hảo.
Sự kết nối chặt chẽ giữa đức hạnh và
kiến thức là đặc tính của Socrates và Plato. Trong một mức độ nào đó, nó có mặt
trong tất cả những tư tưởng Hylạp, như đã trái ngược với của đạo Kitô. Trong
đạo đức đạo Kitô, một trái tim tinh khiết là thiết yếu, và ít nhất cũng có khả
năng tìm thấy được nó trong số những kẻ dốt nát cũng như trong những kẻ học
thức. Điều khác biệt này giữa Hylạp và đạo đức đạo Kitô đã vẫn dai dẳng tồn tại
cho tới ngày nay [15].
Phương pháp Biện chứng, đó là để nói,
phương pháp của sự tìm kiếm kiến thức bằng hỏi và đáp, đã không do Socrates
phát minh. Nó dường như đã được Zeno, học trò của Parmenides, thực hành đầu
tiên một cách có hệ thống, trong đàm thoại Parmenides của Plato, Zeno
đặt Socrates trong cùng một loại bàn luận mà, ở nơi khác trong Plato, Socrates
bàn luận với những đối tượng khác. Nhưng có mọi lý do để cho rằng Socrates đã
thực hành và phát triển phương pháp này. Như chúng ta đã thấy, khi Socrates bị
lên án tử hình, ông vui vẻ phản ánh rằng trong thế giới sau, ông có thể tiếp
tục hỏi những câu hỏi không bao giờ thôi, và không thể bị đưa đến cái chết, vì
ông sẽ bất tử. Chắc chắn, nếu ông ta thực hành biện chứng như trong lối đã mô
tả trong Apology, sự thù địch với ông có thể giải thích dễ dàng: tất cả
những kẻ kịp bợm tại Athens sẽ kết hợp chống lại ông.
Phương pháp biện chứng thì thích hợp
với một số những câu hỏi, và không phù hợp với những câu hỏi khác. Có lẽ điều
này đã giúp xác định đặc tính của những tra vấn của Plato, đối với phần lớn như
hầu hết chẳng hạn, chúng đã có thể được giải quyết theo lối này. Và thông qua
ảnh hưởng của Plato, hầu hết triết học tiếp theo về sau, đã bị buộc bởi những
hạn chế có hậu quả từ phương pháp của ông.
Một số nội dung là hiển nhiên không
phù hợp để giải quyết theo lối này, thí dụ như trong khoa học-thực nghiệm,
chẳng hạn. Đúng là Galileo đã sử dụng những đàm thoại để biện hộ cho lý thuyết
của mình, nhưng đó là chỉ để ngõ hầu khắc phục những định kiến – những nền tảng
tích cực cho những khám phá của ông không thể được gài vào trong một đàm thoại
mà không có tính chất giả tạo lớn lao. Socrates, trong những tác phẩm của
Plato, luôn luôn giả vờ rằng ông chỉ khơi ra kiến thức mà người ông đương hỏi
vốn đã có sẵn rồi; trên nền tảng này, ông so sánh mình với một bà đỡ. Trong Phaedo
và Meno, khi ông áp dụng phương pháp của ông vào những vấn đề hình
học, ông đã phải đặt những câu hỏi dẫn khởi mà bất kỳ những người xử án nào
cũng sẽ không cho phép. Phương pháp này thì trong hài hòa với học thuyết về sự
hồi tưởng, theo đó chúng ta học bằng nhớ lại những gì chúng ta đã biết trong
một kiếp sống trước đây. Để chống lại quan điểm này, hãy xem xét bất kỳ phát
hiện nào đã được thực hiện bằng những phương tiện của kính hiển vi, nói rằng sự
lan truyền của những bệnh dịch do bacteria, nó là khó mà có thể duy trì được
rằng kiến thức như vậy có thể được khơi ra từ một người trước đây dốt nát bằng
phương pháp dùng hỏi và đáp.
Những nội dung thích hợp cho cách
giải quyết theo phương pháp Socrates là những nội dung đối với nó, chúng ta đã
đã có đủ kiến thức để đi đến một kết luận đúng, nhưng đã không thành công, bởi
vì sự rối rắm về tư tưởng, hoặc thiếu sự phân tích, dùng nó để làm nên sự sử
dụng một cách lôgích nhất những gì chúng ta biết. Một câu hỏi thuộc loại như
“công lý là gì?” là hết sức thích hợp cho sự thảo luận trong một cuộc đàm thoại
theo như lối Plato. Chúng ta đều sử dụng một cách rộng rãi những từ “công
chính” và “bất công”, và bằng cách khảo sát những cách thức mà chúng ta sử dụng
chúng, một cách qui nạp, chúng ta có thể đi đến định nghĩa mà nó sẽ phù hợp
nhất với cách dùng. Tất cả những gì cần thiết là kiến thức về như thế nào những
từ trong trong câu hỏi đã được sử dụng. Nhưng khi sự điều tra của chúng ta đi đến
kết thúc, chúng ta đã chỉ thực hiện một khám phá về ngôn ngữ học, không phải là
một khám phá về đạo đức học.
Tuy nhiên chúng ta có thể, áp dụng
những phương pháp một cách có lợi vào một lớp những trường hợp lớn rộng hơn.
Bất cứ nơi nào những gì đang được tranh luận là lôgích hơn là sự kiện, thảo
luận là một phương pháp tốt để khơi mở ra sự thật. Giả sử một ai đó duy trì,
thí dụ, rằng dân chủ là tốt, nhưng những người nắm giữ một số ý kiến nào đó
không nên cho phép được bỏ phiếu, chúng ta có thể kết tội ông ta không nhất
quán, là trước có sau không, và chứng minh với ông rằng ít nhất một trong hai
khẳng định của ông phải bị sai lầm dù ít hay nhiều. Những sai lầm về lôgích,
tôi nghĩ rằng, có tầm quan trọng thực tế lớn hơn nhiều người vẫn tin, chúng cho
phép thủ phạm của chúng cứ thoải mái lần lượt giữ quan điểm về mọi đề tài. Bất
kỳ một cơ chế toàn bộ lý thuyết lôgích chặt chẽ nào cũng chắc chắn sẽ là một
phần làm đau phiền và trái nghịch với thành kiến lưu hành. Phương pháp biện
chứng – hoặc, nói tổng quát hơn, những thói quen của cuộc thảo luận tự do không
bị trói buôc – có xu hướng để thúc đẩy hợp lý nhất quán, và theo cách này là
hữu ích. Nhưng nó là khá không có tác dụng hiệu quả, khi đối tượng là để khám
phá những sự kiện mới. Có lẽ “triết lý” có thể được định nghĩa là tổng số thành
của những thẩm vấn thăm dò có thể theo đuổi được bằng những phương pháp của
Plato. Nhưng nếu như định nghĩa này là thích hợp, đó là vì ảnh hưởng của Plato
trên những triết gia tiếp theo sau ông.
Để hiểu Plato, và quả thật, nhiều
những triết gia về sau này, là cần thiết để biết một vài điều về Sparta. Sparta
có hiệu lực gấp đôi trên tư tưởng Hylạp: thông qua thực tại, và thông qua huyền
thoại. Mỗi một chúng là quan trọng. Thực tại đã làm Sparta có khả năng đánh bại
Athens trong chiến tranh; huyền thoại đã ảnh hưởng lý thuyết chính trị của
Plato, và của vô số những người viết tiếp nối về sau. Huyền thoại, đã khai
triển đầy đủ, được tìm thấy trong Plutarch [16] Đời
của Lycurgus; những lý tưởng mà nó tán chuộng đã một phần lớn lên khuôn,
định hình cho những chủ thuyết của Rousseau, của Nietzsche, và của chủ nghĩa Xã
hội Quốc gia [17] [18].
Huyền thoại, về lịch sử lại có tầm quan trọng còn hơn thực tại; Tuy nhiên,
chúng ta sẽ bắt đầu với cái thứ hai. Bởi vì thực tại đã là nguồn gốc của huyền
thoại.
Vùng Laconia, hoặc Lacedaemon, trong
đó Sparta là thủ đô, chiếm phía đông nam của bán đảo Peloponnesus. Những người
Sparta, giống người cầm quyền cai quản, đã chinh phục vùng đất này vào thời có
cuộc xâm lăng của giống dân Dorian [19]
từ phương bắc, và đã đẩy đám dân mà họ thấy ở vùng đó xuống tình trạng của
những nông nô. Những nông nô này được gọi là helots. Trong những thời có
sử, toàn bộ đất đai thuộc về người Sparta, tuy nhiên họ là những người bị pháp
luật và phong tục cấm không cho tự họ canh tác, cả hai dựa trên nền tảng là lao
động như thế làm hạ thấp con người họ, và cũng ngõ hầu họ luôn luôn tự do không
vướng bận, sẵn sàng cho những dịch vụ quân sự. Những nông nô đã không bị đem ra
mua và bán, nhưng vẫn chịu gắn buộc vào đất đai vốn được chia thành những lô,
mỗi người nam Sparta trưởng thành được dành cho một hoặc nhiều lô. Những lô
này, như những helots, không thể được mua hoặc đem bán, và bởi pháp luật, được
chuyển từ đời người cha sang con trai. (Tuy nhiên, chúng có thể được chuyển qua
chúc thư). Những địa chủ nhận được từ người nô lệ helots, bảy mươi medimni
(khoảng 105 bushels [20])
thóc lúa cho mình, mười hai medimni cho vợ ông, và một phần ấn định về rượu
vang và trái cây hàng năm [21].
Còn bất cứ bao nhiêu nếu vượt quá số lượng này thuộc về của người helots.
Những helots là người Hylạp, cũng như người Sparta, và họ ghét cay đắng thân
phận nô lệ hèn hạ của họ. Khi họ có thể, họ nổi loạn. Sparta đã có một cơ chế
cảnh sát bí mật để ngầm đối phó với nguy cơ này, nhưng để bổ sung cho sự đề
phòng này, họ đã có cái khác: một năm một lần, họ tuyên chiến với helots, như
thế, những người trẻ tuổi của họ có thể giết bất kỳ người helots nào xem ra
không chịu tuân phục, mà không phải vướng tội phạm pháp giết người. Những người
Helots có thể được giải phóng cho tự do, nhưng không phải từ những chủ nhân của
họ, cũng thường họa hiếm mới có, nhưng từ nhà nước vì sự dũng cảm khác thường
của họ trong chiến trận.
Trong khoảng thời gian nào đó ở thế
kỷ thứ tám trước công nguyên, người Sparta chinh phục xứ láng giềng Messenia,
và chuyển phần lớn cư dân của xứ này xuống tình trạng những nông nô helots. Đã
thiếu một không gian sinh sống (Lebensraum) [22] ở
Sparta, nhưng lãnh thổ mới, trong một thời gian, nhổ đi được gốc của sự bất mãn
này.
Đất lô là cho những người Sparta bình
thường; tầng lớp quý tộc đã có những bất động sản của riêng mình, trong khi ấy
những đất lô là những phần của đất chung được nhà nước phân định.
Những cư dân tự do của những vùng
khác của xứ Laconia, được gọi là “perioeci”, họ không được chia sẻ quyền lực
chính trị [23].
Công việc duy nhất của một công dân
Spartan là chiến tranh, với nó anh ta đã được đào tạo từ lúc sơ sinh. Những trẻ
em ốm yếu bị đem ném bỏ sau cuộc thanh tra của những thủ lĩnh bộ lạc; chỉ những
trẻ được đánh giá là mạnh mẽ mới được phép giữ nuôi [24].
Cho đến tận tuổi hai mươi, tất cả những trẻ em trai được huấn luyện trong một
trường học lớn; mục đích của sự huấn luyện là để làm cho chúng cứng rắn, thản nhiên
với đau đớn, và phục tùng kỷ luật. Không có chuyện vô nghĩa về giáo dục văn hóa
hay khoa học; chỉ một mục đích duy nhất là sản xuất những quân lính thiện
chiến, hoàn toàn hiến mình cho Nhà Nước.
Đến tuổi hai mươi, thực sự bắt đầu
dịch vụ quân sự. Được phép lấy nhau với bất kỳ ai hơn hai mươi tuổi, nhưng cho
đến tận khi ba mươi tuổi, một người nam phải sống trong “nhà của nam giới”, và
phải xoay sở hôn nhân của mình như thể đó là một chuyện bất hợp pháp và bí mật.
Sau ba mươi tuổi, anh ta hoàn toàn trở thành một công dân chính thức. Tất cả
mọi công dân thuộc về một nhà ăn tập thể (mess), và ăn chung với những thành
viên khác; anh ta phải đóng góp bằng hiện vật từ sự sản xuất của lô đất mình.
Đã là chủ thuyết của nhà nước rằng không có công dân Spartan nào phải chịu
nghèo túng, và không ai được nên giàu có. Mỗi người được dự kiến sẽ sống trên
những sản phẩm từ lô đất của mình, mà anh không thể chuyển nhượng, trừ khi là
tặng phẩm miễn phí. Không được phép sở hữu vàng hoặc bạc, và tiền đã được làm
bằng sắt. Tính đơn giản của Sparta đã trở thành phương ngôn. [25]
Phụ nữ trong xã hội Sparta có vị trí
kỳ dị, khác thường. Họ đã không sống phân cách, không tránh chung đụng, như
những phụ nữ đáng kính tại những nơi khác ở Hylạp. Con gái cũng trải qua cùng
một huấn luyện thể dục như đã được dành cho con trai; điều đáng chú ý đặc biệt
hơn cả, là con trai và con gái thực tập thể dục chung với nhau, tất cả đều trần
truồng. Đó là điều được mong muốn (Tôi trích dẫn Plutarch Lycurgus trong
bản dịch của North):
Rằng những thiếu nữ
nên tôi luyện cho cứng cáp cơ thể của họ với thực tập chạy, đấu vật, cử tạ, và
ném phi tiêu, đến cuối cùng thu hoạch được quả từ đó, về sau họ có thể có thai,
lấy dinh dưỡng từ một cơ thể mạnh mẽ và khỏe mạnh, nên càng trổ (cao) ra và vạm
vỡ càng tốt: và rằng những thiếu nữ kết tập được sức mạnh như vậy bởi những tập
luyện thể dục, sẽ khiến những đau đớn của thai nghén càng giảm bớt, dễ
dàng chịu đựng hơn. . . . Và mặc dù những thiếu nữ đã cho thấy mình trần truồng công khai
như vậy, nhưng đã không có gì gian dối trong những gì được nhìn thấy, cũng như
được tặng hiến, nhưng tất cả những thể thao này là đầy những trò chơi và đồ
chơi, mà lại không có bất kỳ phần trẻ dại luông tuồng hoặc sự phóng đãng nào.
Nam giới, những ai không muốn kết
hôn, đã bị làm “tai tiếng bởi pháp luật”, và bị bắt buộc, ngay cả trong thời
tiết lạnh nhất, đi rảo lên và xuống trần truồng bên ngoài nơi những
người trẻ tuổi đang tập thể dục và tập múa.
Phụ nữ không được phép bày tỏ bất kỳ
cảm xúc nào không có lợi cho Nhà nước. Họ có thể để lộ ra khinh bỉ trước một kẻ
hèn nhát, và sẽ được khen ngợi nếu kẻ ấy lại là con trai của họ, nhưng họ không
có thể cho thấy mình đau buồn nếu đứa con sơ sinh của họ bị buộc để cho chết,
vì nó là một trẻ yếu đuối, hoặc nếu con trai của họ đã bị giết trong chiến
trận. Những người Hylạp khác đã xem họ là trong sạch khác thường; đồng thời,
một người phụ nữ đã lập gia đình nhưng không có con, sẽ không phản đối gì nếu
như nhà nước ra lệnh cho bà tìm xem liệu một số đàn ông khác sẽ có cơ thành
công hơn chồng bà, trong việc làm cha để sinh ra những công dân. Pháp luật
khuyến khích có trẻ con. Theo như Aristotle, nếu là cha của ba đứa con trai, sẽ
được miễn nghĩa vụ quân sự, và là nếu là cha của bốn đứa, được miễn trừ tất cả
những gánh nặng của nhà nước.
Hiến pháp của Sparta phức tạp. Có hai
vị vua, thuộc hai gia đình khác nhau, và truyền nối qua dòng họ. Vị này hay vị
kia trong họ chỉ huy quân đội trong thời chiến, nhưng trong thời bình, quyền
hạn của họ bị hạn chế. Tại tiệng tùng cộng đồng, họ được gấp đôi phần ăn so với
bất kỳ ai khác, và có đại lễ tang cả cộng đồng khi một trong họ chết. Họ là
những thành viên của Hội đồng Nguyên lão [26],
một cơ chế gồm ba mươi người (bao gồm cả những vị vua); hai mươi tám thành viên
còn lại kia, tuổi phải hơn sáu mươi, và được toàn bộ hội đồng các công dân
tuyển chọn làm thành viên mãn đời, nhưng chỉ chọn từ những gia đình quý tộc.
Hội đồng xử những vụ án hình sự, và sửa soạn những vấn đề sẽ được đưa ra trước
Đại hội đồng. Cơ chế này (Đại hội đồng) [27]
gồm tất cả những công dân; nó không thể đề xướng bất cứ điều gì, nhưng có thể
bỏ phiếu có hay không với bất kỳ đề nghị nào được đem ra trước hội đồng. Không
có luật có thể được ban hành mà không có sự đồng ý của nó. Nhưng sự đồng ý của
nó, mặc dù cần thiết, đã không đủ; những trưởng lão và quan tòa phải tuyên bố
những quyết định trước khi nó trở thành hợp lệ.
Ngoài những vị vua, Hội đồng Nguyên
lão, và Đại hội đồng, có một chi nhánh thứ tư của chính phủ, đặc biệt của
Sparta. Đây là năm người ephors. Những người này được lựa chọn trong số toàn bộ
cơ phận gồm những công dân, bởi một phương pháp mà Aristotle nói là “quá trẻ
con”, và Bury nói nó thực sự là bằng rút thăm. Chúng đã là một yếu tố “dân chủ”
trong hiến pháp [28] , hiển
nhiên như có ý định cân bằng với những vị vua. Hàng tháng những vị vua thề duy
trì hiến pháp, và sau đó những ephors thề duy trì những vị vua, chừng nào những
vị vua vẫn giữ đúng lời thề của họ. Khi một trong hai vị vua du hành theo một
cuộc viễn chinh, hai ephors đi kèm cùng ông ta để xem chừng hành vi của ông
này. Những ephors là tòa án dân sự tối cao [29],
nhưng họ có thẩm quyền xét xử hình sự trên những vị vua.
Hiến pháp được xem là của Spartan,
trong thời sau thời cổ đại, được cho là từ một nhà làm luật tên Lycurgus, cho
rằng là người đã ban hành luật pháp của ông trong năm 885 TCN. Trong sự kiện
thực tế, hệ thống của Spartan đã trưởng thành, lớn lên dần dần, và Lycurgus là
một nhân vật huyền thoại, nguyên thuỷ là một vị thần linh. Tên của ông có nghĩa
“kẻ đuổi chó sói”, và gốc của ông là dân Arcadian.
Sparta khơi dậy giữa những người
Hylạp khác, rạo rực một sự ngưỡng mộ mà với chúng ta có phần nào đáng ngạc
nhiên. Nguyên thủy, nó ít khác biệt hơn nhiều so với những đô thị khác của
Hylạp, không như về sau này nó đã trở thành, trong những buổi đầu, nó sản xuất
được những nhà thơ và những nghệ sĩ cũng tài giỏi như ở những nơi khác. Nhưng
khoảng thế kỷ thứ bảy TCN, hoặc có lẽ thậm chí sau đó, hiến pháp của nó (lầm
lẫn đã quy cho Lycurgus) đã kết tinh thành dạng đã được chúng ta đương xem xét;
tất cả mọi thứ gì nào khác đã hy sinh cho sự thành công trong chiến tranh, và
Sparta đã ngừng thôi không còn có bất cứ phần nào vào trong những gì Hylạp đã
đóng góp cho nền văn minh của thế giới. Đối với chúng ta, nhà nước Spartan xuất
hiện như một mô hình thu nhỏ, của nhà nước mà Quốc xã Đức sẽ thành lập nếu như
đã chiến thắng. Đối với người Hylạp xem dường như có khác. Như Bury nói:
Một người lạ từ Athens
hoặc Miletus, trong thế kỷ thứ năm, đến thăm những làng mạc rải rác đây đó,
chúng đã hình thành nên thành phố khiêm tốn không tường bao bọc của Sparta,
phải có có một cảm giác được chuyển ngược về một thời quá khứ đã xa lắm, thuở
con người đã dũng cảm hơn, tốt hơn và đơn giản hơn, còn chưa bị sự giàu có làm
hư hỏng, không bị những ý tưởng khuấy động. Đối với một triết gia, như Plato,
khi suy đoán trong chính trị học, nhà nước Spartan xem dường như tiến gần nhất
đến lý tưởng. Những người Hylạp bình thường đã nhìn nó như là một cấu trúc của
vẻ đẹp mộc mạc và đơn giản, một thành phố Dorian oai vệ như một ngôi đền
Dorian, quí phái hơn nhiều so với chốn ngụ cư của họ, nhưng không thoải mái
được bằng khi sống trong đó. [30]
Một lý do ngưỡng mộ của những người
Hylạp khác cảm nhận với Sparta là sự ổn định của nó. Tất cả những thành phố
Hylạp khác đã có những cuộc cách mạng, nhưng hiến pháp Spartan đã vẫn giữ
nguyên không thay đổi qua nhiều thế kỷ, ngoại trừ một sự gia tăng dần về quyền
hạn của những ephors, diễn ra bằng những phương tiện pháp lý, mà không có bạo
lực.
Không thể phủ nhận rằng, trong một
thời gian dài, người Sparta đã thành công trong mục đích chính của họ, việc tạo
ra một giống dân của những chiến binh bất khả chiến bại. Trận Thermopylae (480
TCN), mặc dù là một thất bại về kỹ thuật, có lẽ là thí dụ tốt nhất về sự dũng
cảm của họ. Thermopylae là một đèo hẹp thông qua những rặng núi, được hy vọng
rằng quân đội Persian có thể bị cầm chân tại đó. Ba trăm quân Sparta, với những
người phụ dịch, đã đẩy lùi tất cả các cuộc tấn công trực diện. Nhưng cuối cùng
người Persian đã phát hiện được một đường vòng qua những ngọn đồi, và đã thành
công khi tấn công người Hylạp ở cả hai đầu cùng một lúc. Tất cả từng người
Spartan một, đều chết tại vị trí chiến đấu của mình. Có hai người đương nghỉ
bệnh nên đã vắng mặt, vì mắc một chứng đau mắt đến gần như mù tạm thời. Một
người trong họ đã nhất định đòi người nô lệ helot của ông dẫn trở lại trận chiến,
nơi ông đã bỏ mạng; người kia, Aristodemus, quyết định rằng ông đã quá yếu để
đánh nhau, và vẫn giữ sự vắng mặt. Khi ông trở về Sparta, không ai muốn nói
chuyện với ông; ông bị gọi là “Aristodemus hèn nhát”. Một năm sau, ông đã xóa
sạch ô nhục của mình, bằng tử trận anh dũng trong trận Plataea, nơi người
Sparta giành chiến thắng.
Sau chiến tranh, người Sparta đã dựng
một đài tưởng niệm trên chiến địa Thermopylae, chỉ nói: “Hỡi khách lạ, hãy nói
với những người Lacedaemonia (Sparta) rằng chúng tôi nằm nơi đây, trong tuân phục
những lệnh truyền của họ”.
Trong một thời gian dài, người Sparta
đã chứng minh mình vô địch trên đất liền. Họ giữ ưu thế của họ cho đến năm 371
TCN, khi họ bị những dân thành Thebes đánh bại tại trận Leuctra. Đây đã là kết
thúc sự vĩ đại quân sự của họ.
Ngoài chiến tranh, những thực tại của
Sparta không bao giờ được khá giống như trong lý thuyết. Herodotus, người sống
ở thời kỳ vĩ đại của nó, ngạc nhiên nhận xét rằng không có một người Spartan
nào có thể cưỡng được một hối lộ. Điều này đã bất chấp sự kiện là khinh giàu
sang, yêu đời sống đơn giản đã là một trong những điều chính được gieo trồng
trong giáo dục của người Spartan. Chúng ta được kể rằng những phụ nữ Spartan
tiết hạnh, nhưng đã xảy ra nhiều lần rằng một người thừa kế có uy tín dành ngôi
vua, đã bị gạt sang một bên, trên nền tảng đã không là con trai của người chồng
của mẹ mình. Chúng ta được kể rằng những người Spartans có lòng yêu nước không
lay chuyển, nhưng vua Pausanias, kẻ chiến thắng ở Plataea, cuối cùng đã là một
kẻ phản quốc nhận tiền của Xerxes. Ngoài những vấn đề hiển nhiên như vậy, chính
sách của Sparta luôn luôn nhỏ nhặt và tỉnh lẻ. Khi Athens giải phóng vùng Hylạp
của đất Tiểu Á và những đảo lân cận, từ người Persian, Sparta đã đứng lãnh đạm
một mình; miễn là chừng nào vùng bán đảo Peloponnesus được coi là an toàn, còn
số phận của người Hylạp ở các vùng khác đã là một vấn đề của sự thờ ơ. Tất cả
những cố gắng về một liên minh của toàn thế giới Hylạp đã bị đánh bại bởi chủ
nghĩa phân lập [31] của
Spartan.
Aristotle, người sống thời sau khi
Sparta đã sụp đổ, đưa ra một kết toán rất ác cảm về hiến pháp của nó [32].
Những gì ông nói như vậy là khác quá với những gì người khác nói, đến nỗi rất
khó để tin rằng ông đương nói về cùng một chốn, thí dụ: “Nhà lập pháp muốn làm
cho toàn bộ Nhà nước cứng mạnh dày dạn và điều độ, và ông đã đem ý định của
mình thực hiện vào trong trường hợp của những người nam phái, nhưng ông đã bỏ
rơi những người phụ nữ, những người sống trong tất cả những thứ của sự quá độ
và xa xỉ. Hậu quả là trong một Nhà nước như thế, sự giàu có đã được đánh giá
quá cao, đặc biệt là nếu những công dân rơi xuống chịu dưới sự quản trị của
những bà vợ, theo như phong cách của những dân tộc hiếu chiến nhất.... Ngay cả
về phương diện sự can đảm, nó không có chỗ dùng trong cuộc sống hàng ngày, và
chỉ cần thiết trong chiến tranh, ảnh hưởng của những phụ nữ Lacedaemonia hầu
hết đã là tác hại tinh quái... Sự phóng dật của những phụ nữ Lacedaemonia đã
tồn tại từ những thời sớm nhất về trước, và đã chỉ là những gì có thể được đón
đợi. Bởi vì. . . khi Lycurgus, như truyền thuyết nói, đã muốn đem những phụ nữ
đặt vào dưới những luật pháp của ông, họ đã chống lại, và ông đã đành bỏ dở
toan tính”.
Ông tiếp tục đến buộc tội Sparta về
tính tham lam, mà ông cho là thuộc tính của sự phân phối tài sản không đồng
đều. Mặc dù những lô đất không thể đem bán, ông nói, chúng có thể được đem cho,
hoặc để lại theo di chúc. Hai phần năm của toàn bộ đất đai, ông nói thêm, thuộc
về những phụ nữ. Hậu quả là một sự giảm thiểu lớn lao về con số những công dân:
người ta nói rằng một thời đã có mười nghìn, nhưng tại thời điểm bị thành
Thebes đánh bại, đã có ít hơn một nghìn.
Aristotle chỉ trích tất cả mọi điểm
của hiến pháp Spartan. Ông nói rằng những ephors thường rất nghèo, và do đó dễ
dàng bị hối lộ, và quyền lực của họ rất lớn, đến nỗi ngay cả những vị vua cũng
buộc phải chiều đón lấy lòng họ, thế nên hiến pháp đã được chuyển sang thành
một nền dân chủ. Những ephors, như chúng ta được kể, có quá nhiều phóng đãng,
và sống trong một phương cách trái ngược với tinh thần hiến pháp, trong khi đó,
đối với những công dân bình thường, sự nghiêm nhặt quá mức trong quan hệ đến
không thể chịu được, đến nỗi họ ẩn trốn trong đam mê ngấm ngầm bất hợp pháp của
những lạc thú nhục dục.
Aristotle viết sau khi Sparta đã suy
tàn, nhưng trên một số điểm, ông nói rõ ràng rằng những tệ nạn ông đề cập đã
tồn tại từ những thời xưa trước. Giọng điệu của ông thật khô khan và hiện thực,
đến nỗi rất khó khăn mà không tin ông ta, và nó cũng phù hợp với tất cả những
kinh nghiệm hiện đại về những hậu quả của sự nghiêm khắc quá mức trong pháp
luật. Nhưng đó không phải là Sparta của Aristotle đã tồn tại dai dẳng trong trí
tưởng tượng của con người, nó là Sparta-thần-thoại của Plutarch, và là sự lý
tưởng hoá trong triết học về Sparta của Plato trong Cộng hòa. Thế kỷ
tiếp sau những thế kỷ, những người trẻ tuổi đọc những tác phẩm này, và đã được
đốt cháy với tham vọng để trở thành những Lycurgus, hoặc những vị vua minh
triết, vừa là vua vừa là triết gia. Kết quả sự kết hợp của chủ nghĩa duy ý với
tình yêu quyền lực đã dẫn những con người lạc lối, lập đi rồi lại lập lại mãi,
và vẫn còn đang làm như vậy trong thời nay. [33]
Huyền thoại về Sparta, cho độc giả
thời trung cổ và hiện đại, đã chủ yếu là định chắc bởi Plutarch [34] .
Khi ông viết, Sparta đã thuộc về thời quá khứ mơ mộng; giai đoạn lớn lao của nó
cũng đã quá chìm khuất với thời gian của ông, như Columbus với thời của chúng
ta. Những gì ông nói phải được xử lý hết sức thận trọng với những sử gia của
những học viện, nhưng với những sử gia của huyền thoại, nó là điều quan trọng
cùng tột bậc nhất. Hylạp đã ảnh hưởng thế giới, luôn luôn, qua những tác động
của nó trên trí tưởng tượng của con người, trên những lý tưởng, và những hy
vọng, không trực tiếp qua quyền lực chính trị. Rome đã làm những đường giao
thông mà phần lớn vẫn còn tồn tại, và luật lệ vốn là nguồn gốc của nhiều pháp
điển hiện đại, nhưng đã là những đội quân của Rome đã khiến những việc này
thành quan trọng. Người Hylạp, mặc dù là những chiến sĩ đáng ngưỡng mộ, có ít
viễn chinh xâm lược, bởi vì họ mở lớn quân đội của họ chủ yếu trong giận dữ để
đánh lẫn nhau. Đã là bỏ lại cho kẻ “bán-khai” Alexander [35]
bành trướng văn hoá Hylạp rộng khắp cõi Cận Đông, và làm tiếng Hylạp trở thành
ngôn ngữ văn học ở Egypt, và Syria, và những phần nội địa của vùng Tiểu Á.
Những người Hylạp không bao giờ đã có thể hoàn thành được công việc này, không
phải vì thiếu lực lượng quân sự, nhưng do họ thiếu khả năng kết hợp chính trị.
Những phương tiện chính trị của văn minh văn hóa Hylạp [36]
đã luôn luôn là không-Hylạp, nhưng chính là thiên tài Hylạp đã gây nhiều cảm
hứng cho những quốc gia khác lạ, đến mức những quốc gia này [37]
truyền bá nền văn hóa của những người mà họ đã chinh phục.
Điều là quan trọng đối với sử gia của
thế giới không phải là những chiến tranh lặt vặt giữa những thành phố Hylạp,
hay những cuộc cãi nhau ầm ĩ nhớp nhúa cho thế lực đảng phái, nhưng những ký ức
được giữ lại cho nhân loại sau khi kết thúc hồi kịch ngắn ngủi – như hồi ức của
một bình minh rực rỡ trên dãy núi Alps, trong khi những người leo núi phấn đấu
qua xuốt một ngày gian khổ với gió và tuyết. Những ký ức này, khi nó phai nhạt
dần dần, để lại trong trí tưởng những người ấy, chỉ những hình ảnh của một số
đỉnh núi nào đó đã ngời sáng lạ thường trong nắng sớm, giữ cho sống mãi sự hiểu
biết rằng đằng sau những đám mây, có một huy hoàng vẫn còn tồn tại, và có thể ở
bất kỳ giây phút nào, lại bừng hiển lộ. Trong những số người này, Plato đã là
quan trọng nhất vào thời đầu của đạo Kitô, Aristotle trong hội Nhà thờ ở thời
trung cổ, nhưng sau thời kỳ Phục hưng, khi con người bắt đầu coi trọng giá trị
tự do chính trị, họ đã họ quay lại, vượt trên tất cả, với Plutarch. Ông đã ảnh
hưởng sâu xa vào những người theo chủ nghĩa tự do của nước Anh và nước Pháp
trong thế kỷ thứ mười tám, và vào những người sáng lập của nước Mỹ; ông đã ảnh
hưởng vào phong trào Lãng mạn ở nước Đức, và đã tiếp tục, chủ yếu là do những
giòng chảy gián tiếp, ảnh hưởng đến tư tưởng của nước Đức xuống cho tới ngày
nay. Trong một số những đường lối, ảnh hưởng của ông đã là tốt đẹp, trong một
số là xấu; về phần liên quan đến Lycurgus và Sparta, nó là xấu. Những gì ông đã
phải nói về Lycurgus thì quan trọng, và tôi sẽ cung cấp một kết toán ngắn gọn
về nó, dẫu cho có phải chịu thiệt thòi vì một vài sự lặp lại.
Lycurgus – như Plutarch nói – sau khi
đã quyết định đem cho Sparta pháp luật, đã đi du lịch rộng rãi để nghiên cứu
những cơ chế khác nhau. Ông thích những luật của đảo Crete, chúng đã “rất ngay
thẳng và nghiêm khắc” [38]
nhưng không thích của những người Ionia, nơi có “những thừa thãi và những phù
phiếm”. Ở Egypt, ông đã học được lợi thế của sự phân tách những binh sĩ khỏi
phần còn lại của dân chúng, và sau đó, khi trở về từ chuyến đi của ông, “đã đem
nó thực hành vào Sparta: ở đó xếp đặt những người buôn bán, những thợ thủ công,
và những người lao động tất cả mỗi người là một phần của chính những (nhóm của)
họ, ông đã thiết lập một Cộng-đồng-thịnh-vượng-chung [39]
cao quý đáng phục”. Ông đã thực hiện một phân chia bình đẳng về đất đai giữa
tất cả những công dân Sparta, để “trục xuất ra khỏi thành phố tất cả những vỡ
nợ, ganh tị, tham lam, và béo bở, và cũng tất cả những giàu có và sự nghèo
đói”. Ông cấm chỉ dùng tiền vàng và bạc, chỉ cho phép tiền đúc bằng sắt, có giá
trị ít ỏi cho đến nỗi rằng, “để trải ra ngang với giá trị của mười đồng minas,
sẽ đã phải chiếm hết trọn cả hầm trữ rượu trong một căn nhà”. Bằng những cách
này, ông đuổi sạch “tất cả những khoa học thừa thãi và vô lợi lộc”, bởi vì đã
không có đủ tiền để trả cho những người thực hành các môn học ấy; và cũng cùng
luật ấy, ông đã làm cho tất cả ngoại thương trở nên không thể xảy ra được.
Những nhà nhà tu từ học, kẻ mối manh đổi chác, và những thợ kim hoàn, vì không
thích tiền sắt, đã tránh Sparta. Tiếp đến, ông xuống lệnh tất cả các công dân
nên cùng ăn chung với nhau, và tất cả nên có cùng thức ăn giống nhau.
Lycurgus, như những nhà cải cách
khác, đã nghĩ rằng giáo dục cho trẻ em là “vấn đề chủ yếu nhất và lớn lao nhất,
rằng một nhà cải cách pháp luật nên thiết lập”; và giống như tất cả những người
nhằm mục đích chủ yếu là sức mạnh quân sự, ông lo lắng để giữ tỷ lệ sinh sản
cho cao. Những “chơi, thể thao, và những điệu múa vốn những thiếu nữ thực hành
công khai trần truồng trước mắt những người nam phái trẻ, đã là những khiêu
khích để lôi kéo và cám dỗ những người trẻ vào kết hôn: không phải là vì thuyết
phục bởi những lý do hình học, như Plato đã nói, nhưng mang đến cho hôn nhân
bằng sự ưa thich, và với yêu thương rất đỗi”. Tập quán đối xử với một hôn nhân,
trong một vài những năm đầu, như ví thể nó là một giao du vụng trộm, “đã tiếp
tục trong cả hai bên nam nữ, một tình yêu vẫn nồng nàn thiêu đốt, và một thèm
muốn mới mẻ của người này với người kia: – như thế, ít nhất là theo ý kiến của
Plutarch [40]. Ông đi
tiếp đến giải thích rằng một người đã không nghĩ xấu về nó, nếu như với tuổi
già và lại có cô vợ trẻ, ông cho phép một người trẻ tuổi hơn làm cho cô có con.
“Đó cũng là hợp pháp cho một người lương thiện mà lại yêu vợ một người khác...
đi van nài chồng cô để cho ông ta ăn nằm với người vợ, và rằng ông cũng có thể
cày ở mảnh đất màu mỡ ấy, và rồi reo rắc khắp nơi giống trẻ được ưa chuộng”[41] .
Đã không có ghen tuông điên cuồng, bởi vì “Lycurgus không thích rằng trẻ em nên
là riêng tư của bất kỳ người đàn ông nào, nhưng chúng nên là chung của cả cộng
đồng thịnh vượng: cũng theo lý do đó, ông sẽ cũng có, nếu trẻ con như thế mà
trở thành những công dân, chúng không nên được sinh ra từ tất cả mọi người,
nhưng chỉ từ những người trung thực nhất mà thôi”. Ông tiếp tục đi đến giải
thích rằng đây là nguyên tắc những nông dân áp dụng với gia súc của họ . [42]
Khi một đưa trẻ sinh ra đời, người
cha đã đưa nó đến trước khi những trưởng lão của gia đình ông, để được khám
xét; nếu đứa bé mạnh khỏe, nó được giao trở lại cho người cha để nuôi, nếu
không, nó được ném xuống một hố nước sâu. Trẻ em, ngay từ đầu, phải chịu một
quá trình tôi luyện cứng rắn, dày dạn, về một số khía cạnh là tốt – thí dụ,
chúng không được quấn trong những khăn tã. Lên bảy tuổi, trẻ con trai đã được
đưa ra xa nhà, và đặt vào trong một trường nội trú, nơi chúng được chia thành
những đoàn đội, mỗi đoàn đội dưới lệnh chỉ huy của một trẻ trong số chúng, được
chọn trên khả năng phán đoán và can đảm. “Học bằng sờ mó, chúng có cũng nhiều
khi đến phiên: phần thời gian còn lại của chúng, chúng đã dành trong việc học
làm thế nào để tuân theo, để quên đi đau đớn, chịu đựng lao động, để vượt thắng
sự bất động trong giao chiến”. Chúng chơi trần truồng với nhau hầu hết thời
gian; sau mười hai tuổi, chúng không mặc áo khoác, chúng luôn luôn “thô tục và
nhớp nhúa”, và chúng không bao giờ tắm, trừ vào những ngày nhất định trong
năm. Chúng ngủ trên giường bằng rơm, vào mùa đông rơm trộn lẫn với cỏ có gai.
Chúng được dạy để ăn cắp, và bị trừng phạt nếu bị bắt – không phải vì ăn cắp,
nhưng vì sự ngu xuẩn.
Tình yêu đồng tính, phái nam và nếu
như không là nữ, đã là một phong tục được công nhận ở Sparta, và đã có một phần
được ghi nhận trong việc giáo dục thanh thiếu niên phái nam. Người yêu của một
cậu bé được thêm hay mất điểm vì hành động của cậu: Plutarch nói rằng một lần,
khi một cậu bé khóc lên vì bị thương trong chiến đấu, người yêu của cậu ta bị
phạt vì sự hèn nhát của cậu.
Có ít tự do ở bất kỳ giai đoạn nào
trong cuộc đời của một Spartan.
Kỷ luật của chúng,
trật tự của đời sống vẫn tiếp tục kéo dài, sau khi chúng lớn hẳn thành đàn ông
trưởng thành. Bời vì là điều không hợp pháp nếu bất kỳ một người nào sống như
ông đã đăng ký, nhưng họ đã ở trong thành phố của họ, giống nếu như họ đã trong
một trại lính, nơi mà tất cả mỗi người biết khoản trợ cấp có được để sống với
mức, và có công chuyện gì, ngoài thêm làm trong nghề nghiệp của ông ta. Nói cho
ngắn, tất cả họ đã có não thức này, rằng họ đã không sinh ra để phục vụ bản
thân, nhưng để phục vụ đất nước của họ. . . . Một trong những điều tốt nhất và
hạnh phúc nhất mà Lycurgus từng đưa vào thành phố của ông, là sự nghỉ ngơi lớn
lao và giải trí tuyệt vời mà ông đã làm những công dân của mình có được, chỉ có
cấm họ rằng họ không nên làm bất kỳ nghề nghiệp đê hèn nào hoặc thấp kém nào:
và họ cũng không cần cẩn thận để được giàu có lớn, trong một nơi mà hàng hóa
không có lợi nhuận gì cả mà cũng chẳng coi là quý. Về phần những Helots, những
người bị cầm cố vì những cuộc chiến tranh, đã cày bừa những đất đai cho họ, và
dành phần mang lại cho họ một khoản thu hoạch nhất định hàng năm.
Plutarch tiếp tục kể một câu chuyện
về một người Athens bị lên án là ăn không ngồi rồi vô tích sự, khi nghe chuyện
đó một người Spartan đã kêu lên: “Chỉ cho tôi người bị lên án vì sống lối quí
tộc và giống như một quý ông thượng lưu”.
Lycurgus (Plutarch tiếp tục) “đã tập
cho những công dân của mình thành quen, thế nên họ không muốn mà cũng không thể
sống một mình, nhưng theo những cách xử sự như nam giới kết hợp làm một với
nhau, và luôn luôn cùng với nhau, như những con ong gần quanh ong chúa của
chúng.
Những người Sparta không được phép đi
du lịch, người nước ngoài cũng không được nhận vào Sparta, ngoại trừ trong kinh
doanh; vì sợ rằng những phong tục xa lạ sẽ làm hư hỏng đức hạnh của những người
Lacedaemonia.
Plutarch đã dẫn kể luật cho phép
người Sparta được giết helots bất cứ khi nào họ cảm thấy thế là xảy đến, nhưng
không chịu tin rằng bất cứ điều gì ghê tởm như thế có thể là từ Lycurgus. “Vì
tôi không thể thuyết phục được, rằng bao giờ mà Lycurgus lại phát minh, hoặc
thiết lập, một đạo luật độc ác và tác hại đến thế, như thể đã là loại pháp
lệnh: bởi vì tôi tưởng tượng bản chất của ông là hiền dịu và nhân từ, khoan
hồng và công bằng chúng ta thấy ông đã sử dụng trong tất cả những việc làm khác
của ông”. Ngoại trừ trong vấn đề này, Plutarch không có gì kể, ngoài khen ngợi
hiến pháp của Sparta.
Hiệu quả của Sparta trên Plato, với
người, vào lúc này, chúng ta sẽ đặc biệt quan tâm, sẽ là hiển nhiên từ giải
thích về chốn-Không-tưởng của ông, sẽ
chiếm chương tiếp theo.
Lê Dọn Bàn tạm dịch- bản nháp thứ nhất
[1] Socrates
(470 – 399 TCN) – người thành Athens, cha là Sophroniscus, một nhà điêu khắc,
và mẹ là Phaenarete, một một bà mụ đỡ đẻ, Ông lớn lên theo nghề điêu khắc của
gia đình, và cũng có được một nền giáo dục chính thức, trong đó ông học về hình
học và thiên văn học, ông đã được khen thưởng khi phục vụ trong quân đội, thời
Athens chống với Sparta. Socrates kết hôn với Xanthippe và có ba con trai.
Sau một
vài lần xuất hiện ở bãi công cộng agora
thành Athens, Socrates nổi tiếng là một nhà triết học, vì những giả định khác lạ
của ông. Giả định đầu tiên là tất cả mọi người đều có năng lực để trở thành một
nhà triết học. Do đó, ngay cho đến ngày nay, không có một khóa học nào đặc biệt
loại như “làm thế nào để trở thành một nhà triết học”. Có thể có, nhưng loại
trường học như thế là không cần thiết theo như Socrates. Ông tin rằng triết lý
có thể được tất cả mọi người học hỏi thảo luận, không chỉ những các học giả đằng
sau những bức tường của trường đại học.
Socrates
nói “Cuộc đời không travấn là không đáng sống” (The unexamined life is not
worth living – for a human being). Câu trích dẫn nhiều này cần có một chút giải
thích. Trong cốt lõi, nó có nghĩa là mọi người nên biết lý do tại sao chúng ta
sống cái cách chúng ta sống, chúng ta nên bỏ lười biếng, ngừng chấp nhận những
quan điểm vay mượn, những ý kiến vốn không tự chúng ta suy nghĩ kỹ càng, phải
tra xét những động cơ của chúng ta, và giữ vững lấy nó. Câu dẫn nữa cũng không
kém phổ thông và cho là của Socrates – “Hãy tự biết chính mình “ – (“Know
thyself”)
Những
quan điểm không theo truyền thống của ông về chính trị, tôn giáo đã là cái gai
trước mắt phải nhổ có lẽ đối với nhiều người ở Athens thời ấy, và họ đã đưa ông
ra tòa và buộc ông tội chết. Biến cố này được Plato ghi lại trong Apology.
Lời cuối
cùng của Socrates là “Crito, chúng ta còn nợ thần Asclepius (thần của giới y học)
một con gà trống, nhớ mà (cúng) trả đấy, đừng có sao nhãng đấy”.
Plato, vị
học trò nổi tiếng của ông, gọi ông là “người khôn ngoan nhất, công chính nhất,
và là bậc nhất trong tất cả những người mà tôi đã từng biết” (Phaedo).
Cá nhân
Socrates không để lại tác phẩm triết lý nào của riêng mình. Những gì được biết
về Socrates đã bắt nguồn từ các nguồn tài liệu thứ cấp: các đàm thoại của
Plato, tác phẩm của Xenophon, và tác phẩm của Aristotle.
Plato và
của Xenophon, là những người thân cận gần gũi với ông. Nhưng cả hai đều trẻ hơn
ông nhiều và chỉ thực sự biết ông với vị thế một triết gia là vào thập kỷ cuối
cùng của đời Socrates. Trong hai người, Plato đã ghi lại về Sorates phong phú
và sinh động hơn, trong các dialogues của ông, thường được gọi là Socratic
dialogue vì trong đó Socrates thường là nhân vật chính. Như Russell đã nêu
– thật khó để phân biệt những gì là “Socreats-lịch-sử” và những gì là
“Socrates-theo-như-Plato” trong các dialogues.
Cũng có
thể Socrates đã không có thực, hay một nhân vật như Socrates như chúng ta biết
đã không hề sống thực trong lịch sử.
Socrates
là một nhân vật đầy màu sắc nhất trong lịch sử triết học cổ đại. đã được rộng
rãi ghi công đặt nền móng cho triết học phương Tây. Mặc dù ông công khai tuyên
bố không có khôn ngoan nào khác thường, không xây dựng một hệ thống triết học
nào, không thành lập một trường phái nào, mà cũng không tạo nên một giáo phái
nào. Ảnh hưởng của ông về dòng triết học cổ đại, thông qua Plato, các triết gia
phái hoài nghi, và ít trực tiếp hơn, qua Aristotle, là khôn lường.
[2] “Hemlock” = Cây độc cần (?) – (Conium
Maculatum). Một loại cỏ độc, có hoa. Uống hemlock như Socrates sẽ có thể – có một
cảm giác cháy trong miệng, chảy nước dãi, tiêu chảy và ói mửa. Sau đó các dấu
hiệu thần kinh gồm: run rẩy, bắp thịt tê yếu, mắt mờ, hôn mê và co giật. Cuối
cùng cái chết đến khi cơ quan hô hấp tê liệt. Trong Hylạp cổ đại, hemlock được
dùng để đánh thuốc độc tội nhân. Nạn nhân nổi tiếng nhất của hemlock là chính
là Socrates của chúng ta ở đây.
[3] The
Apology của Plato là một bản văn viết lại những lời cãi của Socrates để tự
bào chữa cho mình trong phiên toà xử ông tại Athens. Không có nghĩa là “xin lỗi”
theo như ngày nay chúng ta hiểu từ này. Từ nguyên của nó là “apologia” gốc Hylạp
– dịch là một biện hộ, hay là một bài phát biểu để bào chữa trước toà. Thế nên,
trong The Apology, Socrates đã cố gắng bảo vệ mình và những hành vi của
mình đương bị lên án – ông tuyệt không “xin lỗi” gì về chúng cả.
[4] Nguyên
văn “gods” – chỉ có nghĩa là những thần linh – “gót” – đây là thời Socrates,
trước khi các tôn giáo độc thần xuất hiện, thời cổ Hylạp, gần 500 năm trước khi
có “god” theo nghĩa của các tôn giáo độc thần như Dothái, Kitô.
Điển hình
là những thần linh của Hylạp, được xem là sống trên núi Olympus. Thí dụ: Zeus,
Hera, Poseidon, Athena, Ares, Demeter, Apollo, Artemis, Hephaestus, Aphrodite,
Hermes và Dionysus.
[5] CTTG –
Khi trích dẫn Plato, tôi đã thường dùng bản dịch của Jowett.
[6] CTTG –
trong “The Clouds”, Socrates được trình bày như phủ nhận sự hiện hữu của
Zeus.
[7] Drachma:
đơn vị tiền Greek
[8] CTTG –
Cf. Acts, V, 29.
[9] “gad-fly”
[10] oracle
[11] Symposium:
bản văn triết học của Plato, trong đó có bảy nhân vật, gồm Socrates, bàn về khởi
nguyên, cứu cánh và bản chất của tình yêu (eros), từ đây – lý thuyết về
“tình yêu hướng thượng” – qua yêu đưa con người đến những lý tưởng vượt thế
gian của cõi Thần linh, “Platonic love” (amor platonicus).
Symposium
(symposia) là hình thức yến tiệc trong thời cổ Hylạp, thường
có nhạc và rượu, và các trò giúp vui, dành riêng cho nam giới quí tộc Hylạp. Những
khách mời ăn uống trong tư thế thoải mái, họ họp bàn, thảo luận những đề tài
trí thức, thường tổ chức vào những dịp đặc biệt (khao, mừng).
[12] Satyr: Greek
Mythology – A woodland creature depicted as having the pointed ears, legs, and
short horns of a goat and a fondness for unrestrained revelry.
Silenus:
Greek Mythology – any of the minor woodland deities who were companions of
Dionysus.
[13] Xenophon, cũng có một Symposium,
khác với Symposium của Plato.
[14] Gần gũi với quan niệm bình dân trong đạo
Phật “vô minh” là nguồn của sai lầm, tội ác và tạo nghiệp chướng, thế nên”tu” =
“học”. Con người làm ác, vì không thực sự thấu hiểu bản chất của điều đó là ác.
[15] Người ta
hay nhắc câu Bertrand Russell: “Cho đến như tôi có thể nhớ được, chẳng có lấy một
chữ nào trong Tân Ước ca ngợi trí thông minh”. (“So far as I can remember,
there is not one word in the Gospels in praise of intelligence”.)
[16] Plutarch
(c. 50–c. 120 AD) – tác giả “Lives of the Noble Greeks and Romans”, thường
được gọi tắt là “Parallel Lives” hay “Plutarch's Lives”, trong đó
ông ghi chép về nhiều nhân vật nổi tiếng của lịch sự Hylạp và la mã, như
Alexander the Great, Julius Caesar, … mỗi người là một tiểu truyện, dật sử, huyền
thoại hơn là lịch sử.
Một trong
những tiểu truyện là về Lycurgus – Russell nhắc trên đây – đời của Lycurgus
(Lukoûrgos; 800 BC?–730 BC?) là một nhân vật truyền thuyết, không chắc đã có thực
– tuy vậy đã được xem như cha đẻ của đô thị quốc gia Sparta, ông đem lại cho
Sparta sức mạnh nổi tiếng về quấn sự, đi đến đánh bại Athens – Ông tạo dựng
Sparta thành một xã hội khắc khổ, trong đó mọi người đều bình đẳng và giữ thể lực
cường tráng như những chiến sĩ kỷ luật sắt thép luôn sẵn sàng chiến đấu.
Những người
Spartans không chép sử, văn chương hay pháp luật thành văn, theo như truyền
thuyết những điều này bị chính Lycurgus ra lệnh cấm.
[17] Tức là
lý thuyết Nazism (Nationalsozialismus, National Socialism) của đảng Quốc xã nước
Đức – Nazi Party.
[18] CTTG –
Đó là không kể Dr. Thomas Arnold và hệ thống những trường học công lập nước
Anh.
[19] Những
người Spartan là dân Dorian, một trong bốn bộ lạc chính của Hylạp cổ
('Hellenes): Dorians, Ionians, Aeolians và Achaeans.
[20] Đơn vị
đo lường của người Anh – một bushel lúa vào khoảng 37 lít lúa
[22]
“Lebensraum” – chí có nghĩa là “không gian sinh sống” nhưng nguyên tắc lebensraum
kéo theo với nó tham vọng của đảng Nazis nước Đức – thời chiến tranh thứ II, mở
rộng lãnh thổ lấn sang những quốc gia khác để lấy đất sống cho giống dân Đức
tăng trưởng.
Với chúng
ta, người Tàu cũng có một lebensraum mạnh mẽ, luôn luôn giữ tham vọng mở
rộng lãnh thổ, nuốt dần đất đai các dân tộc láng giềng. Mới đây và ngay cạnh
chúng ta, các nước Nam Chiếu, Đại Lý nay thành tỉnh Vân Nam, trước mắt chúng
ta, Tibet đang mất và đã thành đất Tàu. Và người Tàu đi khắp thế giới kiếm ăn,
tìm “không gian sinh sống”, chỗ nào có ruồi, có thức ăn, là có người Tàu!
[23] Như vậy
dân chúng trong xã hội Sparta có ba lớp: những người Sparta tự do có trọn quyền
công dân, những dân thường “perioeci” không có quyền công dân, và dưới cùng là
những nô lệ thuộc quyền sở hữu của Nhà Nước – chuyên canh tác đất đai “helot”.
Có một thành phần phụ bên cạnh những công dân Sparta, gọi là “mothakes” đây là
những người không phải Spartan – được nuôi dạy như những Spartans, và họ là những
người tự do.
[24] the baby
was left on the wild slopes of Mount Taygetos – also known as Apothetae, or as
the Place of Rejection – to die; but it was also common for these rejected
children to be adopted by the helots.
[25] Trong tiếng
Anh, “spartan” – thuộc từ – có nghĩa là – khắt khe tự kỷ, đơn giản, thanh đạm,
hoặc khắc khổ.
[26] Như thượng nghị viện ngày nay (Senat) – trừ
ở Mỹ, tại Anh và Canada, các thượng nghị sĩ (senator) đều được chỉ định, chứ
không bầu cử, họ là đại diện từ các gia đình vọng tộc quí phái (thí dụ tác giả
Russell của chúng ta) , hay các nhân vật tai mắt tiêu biểu cho các thành phần
quan trọng của quốc gia, gọi văn vẻ theo Tàu – là các “nhân sĩ”.
[27] Như hạ
nghị viện – hay quốc hội. (Assembly)
[28] CTTG –
Khi nói về những yếu tố “dân chủ” (democratic) trong hiến pháp của người
Spartan, chúng ta phải dĩ nhiên đừng quên rằng toàn thể các công dân tự do như
một tập thể thống trị đã độc tài khống chế ác liệt những nô lệ helots,
và không cho những người perioeci chút quyền hành nào. Họ đều là
những người Hylạp, không khác những người Spartans. Helots là dân bản địa sinh
sống từ trước, và perioeci là dân xứ láng giềng nhưng bị xâm lấn mất đất.
[29] Tương
đương với cơ quan Tối cao Pháp viện ngày nay – như ở nước Mỹ, có quyền xét xử tổng
thống.
Sparta có
5 làng, nên mỗi làng có một ephor.
[30] CTTG – History
of Greece, Vol. I, p. 141.
[31] Particularism
[32] CTTG – Politics, Vol II, 9 (1269B –
1270A)
[33] Trong thế
kỉ vừa qua, đó là những: Hitler, phần nào Stalin, Mao, và có lẽ thêm Pol Pot.
[34] Lucius
Mestrius Plutarchus (Greek -Plutarchos, Lat – Plutarchus) (46-119) sinh quán
Chaeronea, Boeotia người Hylạp, công dân Lamã, nhà tư tưởng, viết sử, tiểu luận,
là tác giả có tác phẩm ảnh hưởng mạnh mẽ trên tư tưởng châu Âu từ thế kỉ 16 đến
thế kỉ 19, đặc biệt là thời Phục hưng, như Russell phân tích trên đây.
Trong số
hàng trăm tác phẩm của ông, quan trọng nhất là các “Bioi parallēloi”
(Parallel Lives), – kiểu như đời danh nhân- trong đó ông kể lại những hành động
cao quý và các cá tính của các danh nhân Hylạp và Lamã, gồm các nhà lập pháp,
chiến sĩ, hùng biện, và chính trị gia, và “Moralia”, hoặc “Ethica”,
một loạt hơn 60 bài luận về đạo đức, tôn giáo.
[35]
Alexander là người Macedonia, ở phia Bắc vùng trung tâm văn minh Hylạp (Athens,
Thebes, Sparta).
[36] Hellenism – văn hoá và văn minh của cổ Greece
& những nguyên lý và lý tưởng liên kết với văn minh cổ điển Greek.
[37] Như tác
giả viết, trước là Alexander (đại đế) của Macedonia – sau đến đế quốc Roma,
chinh phục Hylạp rồi đem văn minh, văn hoá, triết học Hylạp truyền bá đi khắp Cận
Đông, châu Âu, rồi toàn thế giới.
Tương tự,
về phương Đông, nhưng hết sức khác biệt về tính chất, là văn minh, triết lý,
tôn giáo của Ấn độ đã lan truyền khắp châu Á (phia Bắc theo con đường thương mại
/ tơ lụa sang Afghanistan, Tibet, đến nước Tàu. Phia Nam từ Miến, Thái, sang
Chânlạp, ĐạiViệt, Champa, ...sang vùng Mãlai, Namdương) , nhưng hoàn toàn không
qua vũ lực chính trị, hay sức mạnh quân sự.
[38] CTTG – Mỗi khi dẫn kể Plutarch, tôi dùng bản
dịch của North.
[39] Commonwealth
[40] Bởi vì
pháp luật yêu cầu tập quân sự trong ngày và nhốt vào trại lính ban đêm, sinh hoạt
và ăn uống tập thể, nên quan hệ vợ chồng rất khó khăn và hiếm hoi. “Và quả thật
vậy, đến đêm, đàn ông, thăm vợ trong thấp thỏm sợ hãi và xấu hổ, và với sự cẩn
thận”, sau đó lại trở về trại với đồng ngũ. Bị áp đặt quá nặng, Plutarch cho biết
thêm, rằng một “người chồng đôi khi sẽ có con, trước khi có dịp thấy mặt vợ dưới
ánh sáng ban ngày”.
Lycurgus
làm cho các cặp vợ chồng trẻ luôn luôn không được thoả mãn, giữ họ ở trong thái
luôn luôn khao khát, thèm mốn. Người phụ nữ chỉ là cái máy đẻ, người đan ông chỉ
là kẻ gieo giống, cả hai phải khoẻ mạnh, cường tráng để sinh con cũng khoẻ mạnh,
cường tráng cho Nhà nước. Tất cả cha, mẹ, và đứa con đều là những quân sĩ của một
đội quân tinh nhuệ vô địch.
[41] Một bản dịch khác – đoạn này, tôi đọc – có
nghĩa hơi khác, và có lẽ rõ nghĩa hơn – “Một người đàn ông lương thiện yêu một
người phụ nữ đã có chồng, vì sự khiêm tốn và cũng vì thích những đứa con (có những
đặc tính đáng thích) của bà, có thể, không cần khách sáo, cầu xin chồng bà, cho
ông được làm bạn chăn gối với bà, và ông có thể nuôi, như đã (từng nuôi) như thế,
từ lô đất tốt của ông, những đứa trẻ xứng đáng và nhập đoàn tốt đẹp (với những
đưa con khác) cho chính ông”.
[42] Đây là mầm
mống của lý thuyết và thực hành về sự tuyển lựa chọn giống tốt trong sinh sản
(“eugenic”), cho đến ngày nay, với danh xưng khác nhưng nội dung không phải là
không tương tự – “genetic engineering”.