Dụ Ngôn Cái Hang
Plato
(The Parable of the Cave – quyển VII, Republic)
Lời người dịch
1.
Đây là một câu chuyện ngắn từ tập sách nổi tiếng nhất của
Plato, Republic. Socrates nói chuyện với Glaucon, một người trẻ theo
ông, và kể cho anh truyền thuyết này. Đây cũng là câu chuyện được biết đến và
nhắc nhở nhiều nhất, minh họa sự tương phản giữa thế giới của cảm nhận giác
quan đem cho những ý kiến/tin tưởng chủ quan và thế giới của suy tưởng tinh
thần đem cho kiến thức khách quan của Plato, và thế nào là một triết gia – một
người yêu sự khôn ngoan – ở đây, là người đi từ thế giới kể trước đến thế giới
kể sau; người đã thoát bóng tối, ra ánh sáng để thấy được thực tại – Hầu hết
mọi người, kể cả bản thân chúng ta, sống trong một thế giới tương đối mù quáng,
hiểu biết sai lạc về bản chất của thực tại. Chúng ta thậm chí còn cảm thấy
thoải mái với sự thiếu hiểu biết đó, bởi vì đó là tất cả những gì chúng ta vẫ biết
được cho đến nay. Lần đầu tiên, khi chúng ta có dịp chạm mặt với thực tại, tiến
trình này thường có thể là kinh hoàng, và nhiều người có thể quay trở lại, về
với đời sống cũ, dù chỉ gồm những ảo tưởng, những gì không thực, nhưng đã thân
thuộc của họ. Nhưng nếu chúng ta thực sự yêu thích sự khôn ngoan, chúng ta
sẽ có can đảm để nhìn nhận thực tại chân thực, rồi cuối cùng chúng ta sẽ có khả
năng xứng đáng để sống hài hoà tốt đẹp với thực tại; thêm nữa, chúng ta cũng nhận
trách nhiệm để giáo dục những đồng hành kém may mắn hơn, họ vẫn còn trong bóng
tối, giúp họ cũng thoát được ra ánh sáng. Trong thực tế, khi đó chúng ta chỉ
muốn sống với thực tại tìm được và còn muốn khai mở thực tại mới khám phá đó nhiều
hơn nữa! Có thể nhiều người xung quanh chúng ta bây giờ nghĩ rằng chúng ta gàn
dở, hoặc thậm chí là một nguy hiểm cho xã hội, nhưng đừng sợ hãi, và đừng lấy
thế làm điều lo lắng. Một khi đã nếm biết sự thật, chúng ta sẽ không bao giờ
muốn trở lại với mù quáng, vô minh. Không muốn bị giam dưới hang tối, không
muốn sống trong đêm đen của cõi chết!
Từ trong kho tàng cổ tích quen thuộc của Phật học, không thể không nhắc
một câu chuyện dù chỉ hơi gọi là có chút phần tương tự, và dẫu sẽ dẫn
đến những nội dung khác hẳn, dĩ nhiên. Đó là câu chuyện về con cua và con cá. Cả hai sống
trong cùng một giòng sông, cùng một thế giới dưới nước, chúng chuyện trò với
nhau về mọi sự vật việc, và đều thông hiểu nhau, cả trong những điều có kiến
thức tương đồng hay ý kiến khác biệt, cua và cá, vẫn có thể trao đổi, bàn bạc,
chia sẻ những suy nghĩ.
Nhưng một hôm, cua bị bão đánh bật lên cạn, lạc giữa đám bờ bụi ven
sông; phải mất một thời gian mới có cơ hội về lại thế giới sông nước, gặp lại
bạn cá của mình. Sau đó, mọi sự không còn như xưa, những gì cua kể về kinh
nghiệm trên cạn của mình, cá dĩ nhiên không thể mường tượng hay hình dung được,
nên không thể hiểu được, chẳng những thế, các quan niệm và ý kiến của cua về
nhiều sự vật việc xung quanh, giờ cũng thay đổi ít nhiều, và cá cũng không hiểu,
ngay cả sao có sự dị biệt, giờ mới thấy hiện ra, như thế nữa.
Kể lại đây, để suy nghĩ về một vài khái niệm tổng quát khác biệt giữa
hai dòng tư tưởng, cổ India và cổ Hellas, nếu không phải là Á Đông và phương
Tây, như chúng ta vẫn hiểu, và rất hạn hẹp thuộc lĩnh vực tri thức luận.
Cua và cá nói trên, với hai kinh nghiệm nhận thức khác biệt; có thể nói
đã dẫn tới hai thứ tri thức khác biệt, tương ứng với những đối tượng nhận thức
khác biệt, và cũng có thể đã dựng thành những khái niệm tư tưởng khác biệt, nhưng
tất cả, dù trên bờ hay dưới nước, vẫn đến từ và vẫn trong cùng một thực tại.
Nhưng trong Plato, thực tại đã phân hai, với bản chất của đối tượng và tri thức
khác nhau. Một trong hầm tối chỉ có ánh sáng thiếu thốn từ một ngọn lửa, và một
ngoài hầm dưới ánh áng mặt trời rạng rỡ – một tương ứng với thế giới mở ảo của hiện
tượng, thế giới của Nhiều, của thay đổi, của trở-thành, thế giới của
Heraclitus, của những cụ thể cá biệt, đối tượng của kinh nghiệm giác quan, qua
chúng chỉ có được ý kiến chủ quan – và thế giới của những lý tưởng phổ quát,
thế giới của Một, của bất biến, của bản thể, thế giới của Parmenides, đối tượng
của tinh thần và chỉ qua đó chúng ta mới có được kiến thức đích thực – Sự phân
chia thế giới như thế, và cho rằng kiến thức là bẩm sinh chỉ có thể đến được
qua sự nhớ lại về những khái niệm vĩnh cửu và do thế nên khách quan; chính là
trọng tâm nội dung tư tưởng Plato, từ đó cho đến ngày nay, vẫn tiếp tục được
những thế hệ triết gia sau ông tiếp nhận như một di sản triết học, hoặc biện hộ
khai triển hoặc phê phán phủ nhận.
3.
Đã có rất nhiều giấy mực về câu chuyện cái hang của Plato. Tôi nghĩ để
bắt đầu, chúng ta hãy tạm để qua một bên những bàn luận, và cứ đọc thẳng vào
nội dung, vốn đã được Plato trình bày những ý nghĩa tượng trưng khá rõ ràng, và
phơi mở ẩn dụ của nó khá trọn vẹn trước người đọc; vì ông muốn người đọc
cùng suy ngẫm về lý thuyết những Thể dạng
của ông. Luận đề của Plato là phải nhìn vượt trên những thường biến, thay
đổi, đơn lẻ và “không thực” của thế giới hiện tượng, để tìm nhận được những gì
là thường hằng, bất biến, phổ quát và “chân thực” của thế giới vĩnh cửu, để
chúng làm lý tưởng cho công lý trong trật tự xã hội, vốn là chủ đề chính trị
của Republic. Dụ ngôn Cái Hang không là một luận thuyết, nhưng là một chuyện kể
sống động, lồng trong khung cảnh và tình tiết đầy kịch tính, không kém phần giá
trị văn chương thú vị. Vậy hãy cứ theo Plato xuống hang tối của ông, rồi theo
ông đi lên vùng ánh sáng, để suy nghĩ về ẩn ngôn này – Phải chăng có hai tầng
đối tượng tách biệt và nhận thức tương ứng khác nhau? Bản chất của những đối tượng đó, và ngay cả bản chất của tri thức về chúng cũng thay đổi theo những
đối tượng của nhận thức loại như thế đó? Phải chăng bản thể của thực tại chỉ có thể biết
được qua những thực thể phi vật chất, hoàn toàn tách biệt với thế giới hiện
thực chúng ta hiện đang sống này?
Tôi tạm dịch câu chuyện nổi tiếng này của Plato, để giới thiệu trực tiếp
một văn bản của lý thuyết về Ý tưởng (Ideas), hay đúng hơn về những Thể dạng (Forms), ngày nay gọi là Platonic Forms; chúng là những Thể dạng
tuyệt đối, bất biến không đổi, trong thế giới vĩnh cửu của Plato, có thể gọi
theo danh từ ngày nay là những đối tượng phi vật chất, trừu tượng, những Phổ
quát. Bản dịch này để phụ đính cho bản dịch Chương 15, Lý thuyết về những Ý
tưởng, Bertrand Russell, Lịch sử
Triết học phương Tây.
Dịch từ bản Anh ngữ vẫn lưu hành phổ thông của Jowett, Benjamin
(1817-1893).
Trân trọng
Lê Dọn Bàn
[514a]
[Socrates:] Và bây
giờ, tôi đã nói, hãy để tôi tỏ rõ cho thấy trong một hình ảnh minh hoạ bản chất
của chúng ta, được soi sáng hay không được soi sáng, xa đến đâu: – Hãy
nhìn kìa! Những con người sống trong một cái hang dưới đất, nó mở rộng – như một
cái miệng – về phía có ánh sáng, và kéo dài hết chiều dọc cái hang; những người
này đã ở đây từ thời họ thơ ấu, chân và cổ họ bị xiềng khiến không thể di chuyển,
và chỉ có thể nhìn thấy về phía trước họ, vì xiềng quanh cổ đã ngăn họ không thể
xoay đầu. Phía trên và sau họ, cách một khoảng xa, có một ngọn lửa cháy sáng,
và giữa ngọn lửa và những người tù có một đường đi đắp cao; và nếu bạn nhìn, bạn
sẽ thấy một bức tường thấp xây dọc đường đi, giống như màn hình vốn những người
chơi rối có ở đằng trước họ, trên đó, họ trưng bày những con rối.
[Glaucon:] Tôi
thấy.
Và bạn thấy
không, tôi đã nói, những người đi qua, dọc theo bức tường, mang đủ loại những
bình, chậu, lọ vại, và những tượng và những khuôn hình của những thú vật, làm bằng
gỗ và đá và bằng nhiều vật liệu khác loại, chúng xuất hiện trên tường. Một số
người trong đám họ nói năng, số người khác im lặng. [2]
Ông đã cho tôi thấy
một hình ảnh lạ lùng, và họ là những người tù lạ lùng.
Giống như chính chúng
ta, tôi trả lời, và họ chỉ thấy những cái bóng của chính họ, hay những cái bóng
của người này hoặc người kia cùng bọn, vốn ngọn lửa chiếu hắt lên bức tường đối
diện của cái hang?
Đúng thật, anh ta
nói; làm thế nào họ có thể nhìn thấy bất cứ điều gì, ngoài những cái bóng, nếu
như họ không bao giờ được phép chuyển động đầu của họ?
Và của những đối tượng vốn
chúng đương được mang đi trong cách thức giống thế, họ tất có thể chỉ nhìn thấy
những cái bóng?
Đúng, anh ta nói.
Và nếu như họ đã có khả
năng trò chuyện với nhau, phải chăng không giả định là họ đang gọi tên cho những
gì đã thực sự ở phía trước họ, có đúng không?
Rất đúng
Và giả định thêm rằng
nhà tù đã có một tiếng vang vốn đến từ phía bên kia, không phải là họ chắc chắn
sẽ tưởng tượng khi một trong những người đi qua lên tiếng, là cái giọng nói họ
nghe được đã đến từ những cái bóng đang đi qua?
Không phải hỏi, anh
ta trả lời.
Đối với họ, tôi đã nói,
sự thật sẽ là không-gì khác hơn, nhưng đúng là những cái bóng của những khuôn hình.
Điều ấy là hẳn
nhiên
Và bây giờ nhìn lại, và
xem những gì sẽ tự nhiên đến tiếp theo, nếu những người tù được thả ra, và thôi
không mù quáng nữa về sai lầm của họ. Đầu tiên, khi bất kỳ một người nào trong
số họ được tự do, và buộc thình lình đứng dậy, và quay ngoái cổ lại, bước đi và
nhìn về phía ánh sáng, anh ta sẽ bị đau nhói mạnh; ánh sáng lòa chói sẽ làm anh
khốn khổ, và anh ta sẽ không có khả năng thấy được những thực tại của những gì
vốn trong trạng thái trước đó của anh, anh ta đã nhìn thấy những cái bóng; và
sau đó, hiểu ra được một vài người nói với anh ta, rằng những gì anh nhìn thấy
trước đó đã là một ảo ảnh, nhưng bây giờ, khi anh được tiếp cận gần hơn đến thực
thể, và mắt của anh chuyển sang với hiện hữu chân thực hơn, anh có một thị lực
rõ ràng hơn, – anh sẽ trả lời những gì? Và bạn có thể tưởng tượng xa thêm nữa rằng
người hướng dẫn của anh chỉ vào những đối tượng khi chúng đương đi qua và yêu cầu
anh ta gọi tên chúng, – anh ta sẽ không lúng túng bối rối hay sao? Liệu anh ta
không tưởng tượng những cái bóng; mà anh đã thấy được trước đó, chúng thật hơn
so với những đối tượng mà hiện giờ được chỉ cho anh?
Không gì đúng hơn nữa.
Và nếu như anh bị buộc
phải nhìn thẳng vào ánh sáng, không phải là mắt anh sẽ đau, nó sẽ làm anh quay
mắt đi không nhận, và nhìn những đối tượng của thị giác mà anh có thể thấy, và
qua đó anh sẽ nhận thức là trong thực tế, chúng rõ ràng hơn những gì mà hiện
nay đang được chỉ cho anh ta?
Đúng, anh nói.
Và lại giả sử một lần nữa,
rằng anh miễn cưỡng bị kéo lên một cái dốc đứng và gồ ghề dẫn lên cao, và giữ
chặt cho đến khi anh ta bị đẩy ra trước sự hiện diện của chính mặt trời, không
có khả năng là anh ta bị đau và tức tối khó chịu sao? Khi anh tiến ra ánh sáng,
đôi mắt của anh sẽ bị chói, và anh sẽ không có khả năng nhìn thấy bất-cứ-gì tất
cả, của những gì bây giờ được gọi là những thực tại.
Trong một giây lát,
không thấy gì tất cả, anh nói.
Phải cần cho anh quen dần
với cảnh tượng của thế giới bên trên. Và đầu tiên, tốt nhất là anh sẽ xem những
cái bóng, tiếp theo là những phản chiếu của những con người và những đối tượng
khác trong nước, và sau đó là tự chính những đối tượng, rồi sau nữa, anh sẽ
nhìn ánh sáng của mặt trăng, và những ngôi sao và vòm trời lấp lánh; và anh sẽ
xem bầu trời và những ngôi sao ban đêm tốt hơn là mặt trời hoặc ánh sáng của mặt
trời ban ngày?
Chắc chắn thế
Cuối cùng, anh sẽ có khả
năng nhìn mặt trời, và không chỉ những phản chiếu của anh trong nước, nhưng anh
sẽ thấy anh ta trong chỗ đứng của riêng anh, và không trong chỗ khác; và anh sẽ
lặng nhìn anh như anh ta là.
Chắc chắn thế
Sau đó, anh sẽ tiến tới
lập luận rằng đây là cái ông đem cho mùa và năm tháng, và là hộ mệnh của tất cả
những gì trong thế giới hữu hình, và trong một cách nhất định nào đó, là nguyên
nhân của tất cả mọi thứ mà anh và những đồng bạn của anh đã từng quen nhìn thấy?
Hiển nhiên, anh
nói, lần đầu tiên anh sẽ nhìn thấy mặt trời và rồi sau đó lý luận về ông trời.
Và khi anh nhớ lại chốn
cư trú cũ của anh, và sự khôn ngoan nơi cái hang và những đồng bạn tù, bạn
không giả định rằng anh sẽ tự khen ngợi mình về sự thay đổi, và thương hại những
người bạn?
Dĩ nhiên, anh ta sẽ.
Và nếu như họ đã ở trong
thói quen trao vinh dự giữa bọn họ với nhau cho những người quan
sát nhanh nhất những hình bóng đi qua, và nhận xét cái nào trong
chúng đã đi trước, và cái nào đã đi tiếp theo sau, và những cái nào đã đi cùng
với nhau, và do đó ai là người giỏi nhất có thể rút ra kết luận về tương lai, bạn
có nghĩ rằng anh ta sẽ thiết đến vinh dự và tiếng tăm loại như vậy, hay thèm muốn
với những người sở hữu chúng hay không? Phải chăng anh ta sẽ không nói như
Homer, “Tốt hơn là làm đầy tớ nghèo cho một ông chủ nghèo”, [3] và cam chịu
bất cứ gì, hơn là nghĩ như họ nghĩ, và sống như cách sống của họ?
Vâng, anh nói, tôi
nghĩ rằng anh ta thà chịu đựng bất cứ điều gì hơn là vui thú với những khái niệm
sai lầm và sống trong cách thức khốn khổ, này.
Hãy tưởng tượng thêm một
lần nữa, tôi đã nói, một người giống như vậy thình lình ra giữa ánh mặt trời
thay cho tình trạng cũ của mình; có phải là anh ta mà không chắc chắn muốn mắt
anh ở trong hoàn toàn tối đen?
Là chắc chắn, anh
nói.
Và nếu như có một cuộc
thi, và anh ta phải đua tài với những người tù người vốn đã chưa bao giờ rời khỏi
cái hang, bằng cách đo lường những cái bóng, trong khi thị giác của anh vẫn còn
yếu, và trước khi mắt anh trở thành ổn định (và thời gian vốn cần thiết để có
được thói quen mới này của thị giác có thể là rất đáng kể) phải chăng anh sẽ
không là lố bịch buồn cười? [4] Mọi người sẽ nói về anh rằng
anh đã đi lên, rồi đi xuống trở lại với mắt nhìn bị huỷ hoại, và rằng tốt hơn
là ngay cả đừng có nghĩ đến chuyện đi lên trên; và nếu như có bất kỳ một ai nào
cố gắng mở khoá cho một ai khác, và dẫn kẻ này lên tới ánh sáng, hãy để họ bắt
đúng kẻ phạm tội, và họ sẽ buộc kẻ này chịu tội chết [5].
Không phải hỏi han
gì, anh nói.
Toàn thể câu chuyện này,
tôi đã nói, bây giờ bạn có thể nối vào, Glaucon thân yêu ơi, với luận chứng trước;
căn nhà tù là thế giới của thị giác, ánh sáng của nguồn lửa là mặt trời, và bạn
sẽ không hiểu lầm tôi nếu bạn giải thích cuộc hành trình hướng lên cao là sự đi
lên của hồn người vào trong thế giới trí tuệ theo như tin tưởng nghèo nàn của
tôi, vốn do ước muốn của bạn, tôi đã bày tỏ, cho dù đúng hay sai, có Zeus biết.
Nhưng, dù đúng hay sai, ý kiến của tôi là trong thế giới của kiến thức, ý tưởng
về sự tốt lành xuất hiện sau cùng tất cả [6], [517c] chỉ được nhìn thấy
với một nỗ lực, và khi nhìn thấy, cũng được suy ra là tác giả phổ quát của tất
cả những gì đẹp và đúng, sinh thành của ánh sáng, và chúa tể của ánh sáng trong
thế giới hữu hình này, và là nguồn gốc trực tiếp của lẽ phải và sự thật trong
trí tuệ, và rằng đây là sức mạnh vốn dựa trên đó người nào nếu hành động theo
lý trí, hoặc trong đời sống công cộng hoặc riêng tư, người ấy phải không rời mắt
nhìn khỏi nó.
Plato
Lê Dọn
Bàn tạm dịch – bản nháp thứ hai
(The
Parable of the Cave – quyển VII, Republic)
(Jun/2010)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Anh của tác giả Plato – nhân vật đang cùng bàn luận với
Socrates.
Republic gồm 10 quyển, hay tập sách, trong đó có ba câu chuyện
nổi tiếng, thường gọi là:
1. Parable of the Cave, hay các tên khác:
Myth of the Cave, Metaphor of the Cave, The Cave Analogy, Plato's Cave, hay the
Allegory of the Cave (quyển
VII).
2. Metaphor of the Sun (quyển
VI), và
3. Analogy of the Divided Line (quyển
VI).
Nhan đề là do các tác giả khác nhau khi trích dẫn đã đặt,
để gọi cho tiện lợi. Parable of the Cave được
trích dẫn nhiều nhất, nên cũng có nhiều tên gọi khác nhau.
Plato đã dùng ba câu chuyện này, chúng đều mang những
ý nghĩa tượng trưng, để minh họa quan điểm siêu hình của ông về tri thức luận: Ẩn
dụ về Mặt Trời (the metaphor of the sun), Chuyện tượng trưng
cái hang (Allegory of the cave), và rõ ràng hơn cả là Chuyện tượng trưng về đường thẳng phân đoạn (Analogy
of the Divided Line).
Trong hai tên gọi phổ thông của câu chuyện
này, “allegory of the cave” và “Parable of the cave”, tôi theo Russell, chọn
nhan đề thứ hai, nên dịch là “Dụ Ngôn Cái Hang”. Dụ ngôn này từ [514a] đến
phần đầu của [517c].
Có thể xem thêm một bản dịch khác của tôi, và hai dụ
ngôn kia, trong bản tạm dịch Republic,
quyển 7,của tôi
trên blog này.
[2] Những người này không in bóng lên tường.
[3] Trong Odyssey 11.489-90. Bóng ma của
Achilles đã chết, nói những lời này với Odysseus xuống thăm âm phủ (Hades). Khi
hỏi ông có hãnh diện hay không vì cái chết nổi tiếng của ông vang dội khắp thế
giới, Achilles trả lời là với ý là “ông thà (sống) làm một kẻ lao động cực nhọc,
phục vụ cho một người nào đó khác, một người không đất cát, với rất ít (vật chất),
hơn là làm vua của tất cả những kẻ chết”
[4] Nhà viết kịch Aristophanes đã viết một hài kịch The
Clouds, diễu cợt Socrates, trình bày ông như một trí giả khùng điên, đầu ở
tít trên mây.
[5] Plato hẳn phải
nghĩ về Socrates đã bị tòa án ở Athens buộc tội chết, là người thày vốn Plato
xem là sáng suốt vào bậc nhất.
[6] “the idea of good” , hay “the form of the good” – chỉ
ý tưởng tuyệt đối, hay những thể dạng vĩnh cửu bất biến.
Đây là đoạn quan trọng – tôi thêm một bản dịch khác, mới
hơn của G.M.A Grube, 1972 – cho rõ nghĩa:
(Socrates nói với Glaucon:
....
Toàn thể hình ảnh, này Glaucon, phải được đặt vừa vặn
chung với những gì tôi đã nói trước đây. Lĩnh vực hữu hình có thể nhìn thấy giống
tự như nhà tù ngụ cư, và ánh sáng của nguồn lửa bên trong nó là như năng lực của
mặt trời. Và nếu như bạn diễn giải hành trình đi lên cao và sự học hỏi về những
gì ở bên trên như hành trình đi lên cao của hồn người đến lĩnh vực trí óc có thể
nhận thức được, bạn sẽ nắm bắt được những gì tôi muốn truyền đạt, bời vì đó là
những gì bạn đã muốn nghe bàn về. Không biết nó là đúng hay không, chỉ có thần
linh biết. Nhưng đây là tôi đã thấy như thế nào: trong lĩnh vực có thể biết được,
thể dạng chân thực là điều cuối cùng được xem thấy, và chỉ với khó khăn mới đến
được nó. Tuy nhiên, một khi một ai đã thấy nó, người ấy phải kết luận rằng nó
là nguyên nhân của tất cả những gì là đúng và đẹp trong bất cứ-gì, rằng nó sản
xuất vừa cả ánh sáng vừa cả những nguồn gốc của nó trong lĩnh vực hữu hình, và
trong lĩnh vực trí óc có thể nhận thức được, nó kiểm soát và sinh sản chân lý
và hiểu biết, thế nên bất kỳ ai, nếu người ấy hành động mẫn nhuệ trong công hay
tư, phải nhìn thấy nó.
...)
(G. M. A. Grube, Plato Republic. Hackett
Pub Co Inc, Indianapolis, U.S., 1992 – 2nd edition.
pp.187-189).