(The Natural History of Religion)
David Hume
Tiết. VIII.
Trào Lưu Thay Đổi Của Tin Nhiều Gót Và Tin
Một Gót
N 8.1, Bea 58
Điều đáng chú ý, rằng những nguyên lý của
tôn giáo có một loại trào lưu của thay đổi lên
xuống trong não thức con người, và rằng con người có một khuynh hướng tự
nhiên từ tín ngưỡng sùng bái
thờ linh tượng vươn lên những ý tưởng tin một gót, rồi lại chìm xuống từ tin một gót
đến thờ linh tượng. Giới bình dân ít học, thực ra, nghĩa là tất cả loài người, ngoại trừ một số ít, ngu muội
và không được hướng dẫn, không bao giờ nâng chiêm nghiệm của họ hướng lên vòm
trời cao. Họ cũng không dự vào việc tìm hiểu sâu xa cấu trúc bí ẩn của thực vật hoặc động vật, trong phạm vi khiến họ có thể nhận ra
sự là-có của một trí tuệ tối cao hoặc một quyền năng thần thánh, ban phát trật tự cho mọi phần
của tự nhiên. Họ xem
xét những công
trình đáng ngưỡng phục này trong một cái nhìn hạn hẹp và cá nhân hơn;
thấy rằng hạnh phúc và đau khổ của họ phụ thuộc vào
ảnh hưởng bí mật, và sự đồng thuận không lường trước của những đối tượng bên
ngoài, họ xem xét, với liên tục chú ý, những nguyên nhân chưa biết, chi
phối tất cả những sự kiện tự nhiên này, và phân phối hạnh phúc và đau khổ, may
mắn và bất hạnh, qua sự hoạt động mạnh mẽ nhưng thầm lặng của chúng. Những nguyên nhân chưa biết này
vẫn được gọi đến để được giải thích hay
hỗ trợ mỗi lần xuất hiện; và trong diện mạo tổng quát hay hình ảnh mờ mịt này, là những đối tượng vĩnh cửu của hy vọng và sợ hãi, của mong muốn và lo
lắng của con người. Dần dần, trí tưởng tượng tích cực của con người, không
thoải mái với khái niệm trừu tượng này về những đối tượng, vốn luôn được dùng
liên tục, bắt đầu biến chúng thành cụ thể hơn và khoác lên chúng những hình
dạng phù hợp hơn với khả năng hiểu biết
tự nhiên của nó. Nó tượng trưng cho họ là những sinh vật hữu hình cảm giác được, thông minh, giống như loài người; được thương yêu và thù hận khởi động, và mềm dẻo thuyết phục bằng những tặng vật và những cầu khẩn, bởi những khấn nguyện và hiến tế hy sinh. Do đó có nguồn gốc của tôn giáo: Và thế đó, có nguồn gốc của
thờ linh tượng hay tôn giáo tin nhiều gót.
N 8.2, Bea 58-9
Nhưng cùng một quan tâm lo
lắng về hạnh phúc, vốn sinh ra ý tưởng của những quyền
năng thông minh vô hình này, không để cho loài người ở lại lâu trong khái niệm đơn giản đầu
tiên về chúng; như những sinh vật quyền năng nhưng giới hạn; là những chủ nhân của định mênh con người, nhưng lại là những nô lệ của số phận và tiến trình của tự nhiên. Những tán thưởng phóng đại và những ngưỡng phục của con người
vẫn thổi phồng ý tưởng của họ lên chúng; và nâng những vị thần của họ đến những giới hạn tột cùng của toàn hảo, sau cùng sinh ra những thuộc
tính của hợp nhất và vô hạn, giản dị và tinh thần. Những ý tưởng tinh tế như vậy, có phần không cân
xứng với sự hiểu biết tầm thường, không ở lại lâu trong dạng thuần khiết ban đầu của chúng; nhưng đòi hỏi phải được hỗ trợ bởi khái niệm của những nhân vật trung gian hoặc tác nhân phụ thuộc,
những gì đứng giữa giữa loài người và vị thần tối cao của họ. Những vị thần-một nửa, hay những sinh vật trung gian này,
trông giống con người và dễ gần gũi hơn với mọi người, trở thành đối tượng chính của sự tôn sùng, và dần dần dẫn mang trở lại sự sùng
bái thờ linh tượng, vốn trước đây đã bị xóa bỏ bởi những cầu nguyện và những tán tụng nồn nhiệt của những cá nhân sợ hãi và tuyệt vọng cho một vị
thần tối cao. Nhưng khi những tín
ngưỡng sùng bái linh tượng này ngày càng rơi vào những khái niệm thô thiển và
thông tục hơn, cuối cùng chúng tự hủy hoại, và bằng những biểu hiện thấp hèn, vốn chúng tạo ra của những thần linh của
chúng, khiến trào lưu quay trở lại với ý
tưởng tin một gót. Nhưng trong
cách mạng luân phiên này của tình cảm con người, khuynh hướng quay trở lại với
thờ linh tượng là rất lớn, đến nỗi biện pháp phòng ngừa tối đa không thể ngăn
chặn hiệu quả.được nó. Và về điều này, một số người theo tôn giáo Tin một gót, đặc biệt là người Jew và người Muslim, đã sáng suốt; như thể hiện qua việc họ xóa bỏ mọi nghệ thuật tạc tượng
và hội họa, và không cho phép những hình ảnh, ngay cả hình người, được
mô phỏng bằng đá cẩm thạch hoặc màu sắc; nếu không, tinh thần nhu nhược chung
của loài người sẽ dẫn đến sùng bái linh tượng. Sự hiểu biết yếu hèn của con người không
thể thỏa mãn được với hình dung vị thần của họ như
một tinh thần thuần khiết và thông minh toàn hảo; nhưng khiếp hãi tự
nhiên của họ ngăn cản họ gán cho vị thần một bóng mờ tối thiểu của giới
hạn và không toàn hảo nào. Họ dao động giữa những tình cảm đối lập này. Cùng một yếu đuối vẫn kéo
họ xuống, từ một thần linh toàn năng và tinh thần, thành một thần linh hữu hạn
và hữu hình, và từ một thần linh hữu hình và hữu hạn thành một bức tượng hoặc
hình ảnh hữu hình. Cùng một cố gắng nâng cao vẫn đẩy họ lên cao, từ bức tượng
hoặc hình ảnh vật chất đến sức mạnh vô hình; và từ sức mạnh vô hình đến một
thần linh vô cùng toàn hảo, đấng sáng tạo và chủ tể của vũ trụ.
Tiết. IX.
So Sánh
Những Tôn Giáo Này, Về
Sự Đàn Áp Và Sự Khoan Dung.
N 9.1, Bea 60-1
Tôn giáo tin-nhiều-gót hay tín ngưỡng thờ hình tượng,
hoàn toàn dựa trên những truyền thống thường tục, dễ gặp phải sự bất tiện lớn
này, rằng bất kỳ tập tục hay quan điểm nào, bất kể tàn ác hay đồi bại đến đâu,
đều có thể được chấp nhận như một phần của truyền thống, và tạo ra cơ hội
lớn cho sự lừa dối lợi dụng lòng cả tin, cuối cùng đẩy đạo đức và nhân tính ra
khỏi những hệ thống tôn giáo của loài người. Điều này cho phép những cá nhân
gian dối lợi dụng sự cả tin của mọi người, cuối cùng loại bỏ đạo đức và lòng
trắc ẩn khỏi những hệ thống tôn giáo của loài người. Đồng thời, tín ngưỡng thờ linh tượng
có lợi thế rõ ràng này, bằng cách giới hạn quyền năng và chức năng của những vị
thần, nó tự nhiên nhìn nhận những thần linh của những giáo phái và quốc gia
khác cùng có thần thánh, đồng thời tôn vinh tất cả những thần linh khác nhau. như
những nghi thức, nghi lễ hay truyền thống tương đồng với nhau [42] . Tôn giáo Tin một gót trái ngược cả về ưu điểm và nhược điểm. Vì hệ
thống đó giả định rằng chỉ có một vị thần duy nhất, sự toàn hảo của lý trí và
tốt lành, nên nếu được tiến hành chính đáng, nó sẽ loại bỏ mọi sự vật việc phù phiếm, phi lý hoặc vô nhân đạo
khỏi sự thờ cúng tôn giáo, và đặt trước mặt con người tấm gương sáng chói nhất,
cũng như động cơ chỉ huy nhất, về công lý và nhân đạo. Những lợi thế to
lớn này thực sự không cân bằng (vì điều đó thì không thể có), nhưng phần nào
bị giảm đi, bởi những bất tiện, phát sinh từ những tệ nạn và định kiến của
loài người. Trong khi một đối tượng duy nhất của lòng sùng kính được nhìn nhận, thì việc thờ
phụng những vị thần khác được nhìn
như phi lý và vô đạo đức. Không, sự thống nhất về đối tượng này dường như tự
nhiên đòi hỏi sự thống nhất giữa tin tưởng tôn giáo và những nghi lễ, và cung
cấp cho những người thiết kế một cái cớ để coi kẻ thù của họ là phàm tục, và là
đối tượng của sự trả thù của cả thần thánh lẫn con người. Vì mỗi giáo phái đều
khẳng định rằng tin tưởng tôn giáo và sự thờ cúng của họ hoàn toàn được những
thần linh chấp nhận, và vì không ai
có thể hình dung rằng cùng một thầnlại hài lòng với với những nghi thức và nguyên lý khác biệt và đối lập; những giáo phái khác nhau tự nhiên rơi vào tình
trạng thù địch, và cùng nhau trút lên nhau lòng nhiệt thành và sự căm ghét
thiêng liêng, là tình cảm dữ dội và không thể xoa dịu nhất của con người.
N 9.2, Bea 61
Tinh thần khoan
dung của những người thờ linh tượng, cả thời cổ lẫn thời nay, rất rõ ràng với bất kỳ ai,
những người ít thông thạo những tác phẩm của những sử gia hay những nhà du hành. Khi
nhà tiên tri [1] của đền Delphi
được hỏi, nghi thức hay sự thờ phụng nào được những thần linh chấp nhận
nhất? Những gì đã được thiết lập hợp pháp ở mỗi thành phố, nhà tiên tri trả lời [43] . Dường như ngay cả những giáo sĩ, trong những thời đại đó, cũng có thể
ban ơn cứu rỗi [2] cho những người thuộc một cộng đồng tôn giáo khác. Người Rôma thường chấp nhận và kết hợp những thần linh vốn họ đã chinh phục tôn thờ;
và không bao giờ tranh luận
về và không bao giờ đặt câu hỏi về quyền năng hay phẩm
chất của những vị thần địa phương và quốc gia này, đặc biệt là khi họ sống ở những vùng
lãnh thổ nơi những vị thần đó được tôn kính.
Những chiến tranh tôn giáo và đàn áp giữa những người thờ ngẫu tượng
Egypt thực sự là một ngoại lệ với quy tắc chung về sự khoan dung được thấy
trong những tôn giáo tin nhiều thầnthời cổ. Những tác giả thời cổ giải thích
ngoại lệ này bằng những lý do độc đáo và đáng chú ý. Ở Egypt, những giáo phái
khác nhau tôn thờ những loài động vật khác nhau như những vị thần của họ – chẳng
hạn như chó, mèo hoặc sói. Vì những vị thần động vật này được cho là luôn xung
đột với nhau, nên những người theo họ cũng bị cuốn vào những tranh chấp và thù
địch. [44] . Nhưng ở nơi nào lý
do đó không xảy ra. Sự mê tín của người Egypt đã không quá không quá mâu thuẫn
như người ta thường tưởng tượng, vì chúng ta biết từ Herodotus [45] rằng Amasis đã đóng góp rất lớn để xây dựng lại đền
Delphi.
N 9.3, Bea 61
Sự không khoan dung
của hầu hết những tôn giáo, vốn nó duy trì sự thống nhất của Gót,
thì cũng đáng chú ý như nguyên lý trái ngược của những
người theo tôn giáo tin nhiều gót. Tinh thần hẹp hòi không nhượng bộ của người Jew được nhiều người biết đến. Muslim bắt đầu với những nguyên tắc lại còn đẫm máu hơn và
cho đến ngày nay, vẫn tiếp tục tuyên bố sự nguyền rủa – mặc dù không thực thi
bằng lửa và hành quyết – với tất cả những giáo phái khác. Và nếu, trong số những người theo đạo Kitô, người Anh và người Netherlands đã chấp nhận những nguyên lý của khoan dung, trường hợp hiếm hoi và độc nhất này bắt nguồn từ quyết tâm vững chắc.của chính quyền dân sự, tích cực
phản đối những nỗ lực dai dẳng của những
giáo sĩ và những người cuồng tín.
N 9.4, Bea 61
Những học trò của Zoroaster đã đóng mọi
cửa thiên đường với
tất cả, trừ những giáo sĩ
Magi (của họ) [46] . Không gì có thể cản trở tiến trình những chinh phục của
người Persia, hơn là sự nhiệt thành cuồng
nhiệt của quốc gia này với những đền thờ và những hình tượng của người Hellas. Và sau khi đế quốc Persia đó sụp đổ, chúng ta thấy Alexander, như một người tin nhiều
gót, ngay lập tức thiết lập lại những
thờ cúng của dân chúng Babylon,
vốn những vua chúa cai trị trước đây của họ, như
những người tin chỉ một Gót, đã cẩn thận bãi bỏ [47] . Ngay cả sự gắn bó và hết
lòng của người chinh phục đó với sự mê tín của Hellas cũng
đã không ngăn trở chính ông, người đã hiến tế theo như
những nghi thức và lễ lạc của
người Babylon [48] .
N 9,5, Bea 62
Thuyết
tin-nhiều-gót hòa đồng đến mức sự khốc liệt và ác cảm tột độ mà nó gặp phải ở
một tôn giáo đối lập khó có thể khiến nó ghê tởm và giữ khoảng cách với nó. Augustus hết sức ca ngợi sự dè dặt của cháu trai ông, Caius Cæsar, khi hoàng tử này, đi ngang qua Jerusalem
và đã quyết định không dừng
lại tham dự vào những
hoạt động hiến tế theo luật Jew ở
địa phương. Nhưng vì lý do gì
khiến Augustus
lại tán thành hành vi này đến vậy? Chỉ vì tôn giáo đó đó dưới mắt nhìn của những người không
tôn giáo là hèn hạ và man rợ [49]
N 9.6, Bea 62
Tôi có thể mạo muội
khẳng định rằng, ít có sự thoái hóa nào của sùng bái linh tượng và tin nhiều thầnlại có hại cho xã hội
hơn sự thoái hóa này của tôn giáo Tin một gót [50] , khi được đưa lên đến đỉnh cao nhất. Những tục lệ hiến tế, giết người để dâng cúng thần
thánh của dân Carthage, dân Mexico và những quốc gia được
gọi là man rợ khác [51] , mặc dù rất kinh hoàng, nhưng hầu như không vượt quá được sự tàn ác và bạo
lực cực đoan của những tòa án dị
giáo do hội nhà thờ Catô thành lập và những đàn áp tôn giáo thực hiện ở Rome và Madrid. Hơn nữa, dù lượng máu đổ trong trường hợp
trước có thể không nhiều bằng
trong trường hợp sau; nhưng vẫn có một khác biệt quan
trọng khác: những nạn nhân, chọn bằng rút thăm hay qua những dấu hiệu bên
ngoài, cái chết của họ không gây rối loạn xã hội ở cùng mức độ tương tự. Ngược
lại, những tòa án dị giáo đặc biệt nhắm vào những cá nhân có đức hạnh, hiểu
biết và yêu tự do – những phẩm chất thiết yếu cho sự phát triển của xã hội. Khi
những phẩm chất này bị phá hủy, xã hội sẽ chìm trong ngu tối, tham nhũng và áp
bức đáng hổ thẹn. Sự hành quyết bất hợp pháp ngay cả chỉ một cá nhân trong
những áp bức tôn giáo được thể chế hóa như vậy còn gây tổn hại hơn nhiều so với
cái chết của hàng ngàn người do bệnh dịch, nạn đói hoặc bất kỳ tai họa nào
khác.
N 9.7, Bea 62
Trong đền thờ Diana ở Aricia gần Rome, bất cứ ai sát hại vị giáo sĩ hiện tại đều có quyền
được phong làm người kế vị một cách hợp pháp [52] . Một thể chế rất kỳ lạ! Bởi vì, mặc dù những mê tín phổ biến thường đối xử man rợ và đẫm máu với
những giáo đồ, nhưng chúng thường có lợi cho “thánh đoàn” (tầng lớp giáo sĩ). [3]
-------------------------------------------------------------------
N 9.1n42
1.
Xem GHI CHÚ [AAA].
N 9.1n42.1, Bea 60
VERRIUS Flaccus, được Pliny trích dẫn, lib.
xxviii. Cap. 2. khẳng định rằng đã
là thông thường cho những người Rôma, trước khi vây hãm bất kỳ thị trấn nào, đều cầu khẩn vị
thần thành hoàng của nơi đó, và bằng cách hứa với vị
này những vinh dự lớn hơn những vinh dự hiện đang
hưởng, để hối lộ” vị thần này
phản bội những người bạn và những người sùng đạo của vị này. Vì tập tục này, tên của vị thần hộ mệnh của chính Rome được giữ bí mật
chặt chẽ. Người Rôma lo sợ rằng kẻ thù của họ có thể dùng cùng một phương
pháp để lôi kéo vị thần của họ tránh xa họ, vì họ tin rằng những lời cầu khẩn
như vậy đòi hỏi phải biết tên của vị thần. Pliny nói rằng hình thức
cầu khẩn phổ biến đã được lưu giữ cho đến thời của ông trong nghi lễ của những
vua chiên Catô. Và Macrobius đã truyền một bản sao của nó từ những điều bí mật
của Sammonicus Serenus.
N
9.2n43, Bea 61
2.
Xenoph. Memor. lib. ii.
N
9.2n44, Bea 61
3.
Plutarch. de Isid. & Osiride.
N
9.2n45, Bea 61
4.
Lib. ii. sub fine.
N
9.4n46, Bea 61
5.
Hyde de Relig. vet. Persarum.
N
9.4n47, Bea 61
6.
Arrian. de Exped. lib. iii. Id. lib.
vii.
N
9.4n48, Bea 61
7.
Id. ibid.
N
9.5n49, Bea 62
8.
Sueton. in vita Aug. c. 93.
N
9.6n50, Bea 62
9.
Corruptio optimi pessima.
N 9.6n51
10.
Xem GHI CHÚ [BBB].
N 9.6n51.1, Bea 62
Hầu hết những quốc gia đã rơi vào tội ác hiến tế
con người; mặc dù, sự mê tín vô đạo đó có lẽ chưa bao giờ phổ biến trong những
xã hội thực sự văn minh, trừ có lẽ
người Carthage [4].
Thí dụ, người Tyrian nhanh chóng từ bỏ tập tục này. [5] Ý tưởng đằng sau lễ hiến tế, trong đó không chỉ
giết sinh vật nhưng cả con người, như đây là lễ vật dâng lên thần linh. Tuy
nhiên, thay vì trao tặng một vật gì đó có giá trị có thể đem dùng hoặc hưởng
thụ, lễ vật bị hủy hoại, khiến nó trở nên vô dụng với con người. Điều này
thường được thực hiện theo nhiều cách khác nhau: đốt những vật thể rắn (như
động vật, thức ăn hoặc những lễ vật khác), đổ chất lỏng (như rượu, máu hoặc
dầu) và giết chết những sinh vật sống (như động vật hoặc con người). Do không
có cách nào tốt hơn để tôn vinh hoặc phục vụ thần linh của mình, mọi người lầm
tưởng rằng qua hủy hoại, họ thể hiện được sự sùng kính sâu xa của họ. Họ nghĩ
rằng bằng dâng một vật gì đó đã trở nên vô dụng hoặc bị hủy hoại, họ thể hiện
sự chân thành trong thờ phụng. Tuy nhiên, trong thực tế, họ chỉ tự lừa dối, khi
nghĩ rằng những hủy hoại như vậy bằng cách nào đó sẽ làm hài lòng vị thần, thực
sự, họ chỉ tự làm tổn hại, không đạt được bất kỳ lợi ích thực sự nào”.
N 9.7n52, Bea 62
11.
Strabo, lib. v.
Sueton. in vita Cal.
Tiết X.
Về
can đảm hay sự tự
hạ mình.
N 10.1, Bea 63
Từ sự so sánh giữa
tôn giáo Tin một gót và tín ngưỡng thờ linh tượng, chúng ta có thể hình thành
một số quan sát khác, vốn
chúng cũng sẽ xác nhận quan
sát phổ biến, rằng sự băng hoại của những tốt đẹp nhất sẽ dẫn đến những
tệ hại nhất.
N 10.2, Bea 63
Khi vị thần được mô tả như vô cùng siêu việt so với loài người, thì
tin tưởng này, mặc dù hoàn toàn có thể hiểu được, nhưng khi kết hợp với sự kinh hoàng khiếp hãi đến từ mê tín về
sự trừng phạt của thần linh, để bị dìm não thức con người,
xuống sự
khuất phục và tự hạ mình thấp hèn nhất, và để trình
bày những đức
hạnh giáo sĩ của sự hành xác, ăn năn,
khiêm tốn và chịu đựng đau đớn như
những phẩm chất duy nhất có thể được vị thần chấp nhận. Nhưng khi những vị
thần được coi là chỉ cao hơn loài người một chút, và nhiều người trong số họ đã tiến
lên từ cấp dưới đó, thì chúng ta cảm thấy thoải mái hơn khi liên hệ giao tiếp (khấn nguyện, dâng lễ vật) với họ, và ngay cả có thể, không hề thiếu tôn trọng, hay báng bổ, đôi khi có thể khao
khát ganh đua và noi gương họ. Do đó, hoạt động, tinh thần, dũng cảm, độ lượng,
yêu tự do và những đức tính vốn làm một dân tộc lớn dậy.
N 10.3, Bea 63
Những anh hùng
trong những ngoại giáo [6] ,
tương ứng chính xác với những vị thánh trong những đạo Kitô và Islam. Những vai trò do
Hercules, Theseus, Hector và Romulus từng đảm nhiệm, giờ đây được
Dominic, Francis, Anthony và Benedict đảm nhiệm. Thay vì tiêu diệt quái vật,
lật đổ bạo chúa và bảo vệ quê hương như
từng được ca ngợi; nay đã thay thế
bằng những tự roi vọt và
nhịn ăn uống (tự gây đau khổ cho bản thân nhân danh đạo đức), hèn nhát và khiêm
nhường (quá nhu mì đến không hành động), phục tùng tuyệt đối và nô lệ vâng lời
(mù quáng đầu hàng thẩm quyền, bất kể bất công đến mức nào), đã trở thành những phương tiện hầu nhận được vinh dự thiêng liêng trên trời cao trong
thế giới loài người. [7]
N 10.4, Bea 63
Một kích động lớn với
Alexander ngoan đạo trong những viễn chinh hiếu chiến của ông là
sự ganh đua của ông với Hercules và Bacchus, những người mà ông chính đáng
khẳng định rằng đã vượt qua [53] . Brasidas, con
người
Spartan hào phóng và cao quý, sau khi ngã
xuống trong trận chiến, đã được cư dân Amphipolis, những người ông đã
bảo vệ, trao tặng những danh dự anh hùng [54] . Và nói tổng quát, tất cả những người sáng lập những quốc gia và thuộc
địa trong số người Hellas đều được những người gặt hái được lợi ích từ công
lao của họ, nâng họ lên hàng ngũ thần thánh thấp nhỏ
hơn này.
N 10.5, Bea 63-4
Điều này đưa đến
nhận xét của Machiavel [55] , rằng những giảng
dạy của những
tôn giáo Kitô (có nghĩa là đạo Catô ; vì ông không biết giảng dạy nào khác) chỉ khuyến
khích sự chịu đựng đau khổ hoặc bất công nhuwng không chống cự, đã chế ngự tinh
thần của loài người và khiến họ thích nghi với tâm lý nô lệ và phục tùng.
Một nhận xét chắc chắn sẽ chính xác nếu không có nhiều yếu tố khác trong xã hội
loài người ảnh hưởng và định hình bản chất và đặc điểm của một tôn giáo.
N 10.6, Bea 64
Brasidas đã từng
bắt được một con chuột, và khi nó cắn ông, ông thả nó ra. “Không có gì nhỏ
bé hay tầm thường đến thế”, ông nói, “nhưng điều gì nó có thể có, để được an toàn, néu không
là sự can đảm để tự vệ [56] . Bellarmine kiên nhẫn và khiêm tốn đã để cho lũ bọ chét và những
sâu bọ đáng ghét khác cắn ông. Ông nói, chúng ta sẽ có thiên đường để
thưởng chúng
ta vì những đau khổ của chúng ta: Nhưng những sinh
vật tội nghiệp này chẳng có gì ngoài sự vui hưởng cuộc sống hiện tại [57] . Có sự khác biệt như vậy giữa những châm ngôn của một anh hùng Hellas và một vị thánh chiên Catô. [8]
----------------------------------------------
N
10.4n53, Bea 63
12.
Arrian passim.
N
10.4n54, Bea 63
13.
Thucyd. lib. v.
N
10.5n55, Bea 63
14.
Discorsi, lib. vi.
N
10.6n56, Bea 64
15.
Plut. Apopth.
N
10.6n57, Bea 64
16.
Bayle, Article Bellarmine.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Jan/2025)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1]
oracle
[2]
salvation
[3]
Truyền thống này, gọi là Rex Nemorensis (Vua của Rừng thiêng), đòi hỏi những giáo sĩ phải giành được vị
trí của mình bằng giết chết người tiền nhiệm của mình trong một trận đấu tay đôi.
[4]
Carthage: một văn minh thời cổ, tập trung ở Carthage
(Tunisia ngày nay), được người Phoenicia thành lập vào khoảng thế kỷ thứ 9 BCE.
Họ thực hiện nghi lễ hiến tế người, đặc biệt là trẻ em, như lễ vật dâng lên những
vị thần như Baal và Tanit, tin rằng sẽ mang lại sự ưu ái của thần thánh. Nghi lễ này, đặc biệt
ở những
địa điểm như Tophet, kéo dài cho đến năm 146 BCE, khi Carthage bị Rôma phá hủy
trong Chiến tranh Punic lần thứ ba. Sau đó, những nhà sử học Rôma chỉ trích lễ hiến
tế này như biểu
tượng của sự man rợ.
[5]
Người Tyre là người dân của Tyre, một polis của người Phoenicia nằm ở Lebanon
ngày nay.
[6]
Paganism: ngoại giáo: chỉ những tín ngưỡng, tập tục và giáo lý tôn giáo của những
người theo truyền thống ngoại giáo, thường bao gồm tin nhiều gót, thờ cúng
thiên nhiên và tôn kính nhiều vị gót và những thần linh. Nó trái ngược với những
tín ngưỡng tin một như (Juda, Kitô, Islam)Thuật ngữ này có thể bao gồm những
huyền thoại, nghi lễ và thế giới quan của những nền văn minh thời cổ đại, chẳng
hạn như người Hellas, Rôma, Egypt và những dân tộc khác không tuân theo những
tôn giáo Áp-ra-ham.
[7]
Dominic, Francis, Anthony và Benedict đều là những vị thánh chiên đạo Kitô: (a)
Dominic: người sáng lập Dòng Đaminh (Dòng Thuyết giáo), là một thày chăn chiên
người Spain nổi tiếng với cam kết rao giảng và chống lại tà giáo. (b) Francis:
Thánh chiên Catô Phanxicô thành Assisi, người sáng lập Dòng Phanxicô, nổi tiếng
với lời khấn nguyện sống
nghèo khó và khiêm nhường. (c) Anthony: Thánh chiên Catô Anthony thành Padua, một
thày chăn chiên Phanxicô người Portugal , nổi tiếng với tài rao giảng và khả
năng làm phép lạ. (d) Benedict: Thánh chiên Catô Benedict thành Nursia, người
sáng lập Dòng Benedictine, được coi là vị thánh chiên Catô bổn mạng của châu
Âu.
[8]
Brasidas là một vị tướng Spartan quý tộc (445 TCN – 422 TCN)
được biết đến với sự dũng cảm và tài lãnh đạo của ông trong chiến tranh
Peloponnesian. Thánh chiên Catô được nhắc đến ở đây có thể là Robert Bellarmine
(1542–1621), một giáo sĩ hồng y người Ý và là được biết đến với sự khiêm nhường, lòng mộ đạo và sự bảo
vệ đức tin đạo Catô.