Wednesday, January 1, 2025

Hume – Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo (01)

Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo

The Natural History of Religion (1757-1777)

David Hume

(1711-1776)

 

 




Thay lời dẫn nhập

 

1.

Nhìn chung, Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo (1757) và Những Đàm Thoại Về Tôn Giáo Tự Nhiên (1779) của David Hume là những tấn công liên tục vào những khái niệm đương thời về Gót, vị thần linh tối cao trong đạo KiTô, và vị trí của tôn giáo trong lịch sử. Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo là một phân tích trực tiếp về những nguyên nhân của tôn giáo, những động lực tâm lý đằng sau một tin tưởng vào những thần linh, và sự tiến hóa tự nhiên tiếp theo của những tín ngưỡng, những tin tưởng tôn giáo. trong những kinh nghiệm sinh hoạt của con người theo thời gian. Xuất bản sau khi ông đã qua đời, The Natural History of Religion là một luận văn về tâm lý và lịch sử tôn giáo, sau đó Dialogues Concerning Natural Religion là một luận văn triết học về bản chất của tôn giáo.

 

2.

Trong Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo, Hume xem xét nguồn gốc và sự phát triển của tôn giáo dựa trên bản chất và kinh nghiệm của con người, thay vì trên sự vén lên cho thấy huyền bí, hay những nguyên lý gót học được “mặc khải”. Hume giả định rằng những yếu tố chính thúc đẩy sự ra đời của những ý tưởng về Gót và tôn giáo là những biến cố “bất thường” trong đời sống, khơi dậy hy vọng và sợ hãi. Những sự kiện không thể đoán trước, nằm ngoài kiểm soát con người, n thiên tai, bệnh tật, thay đổi đột ngột về vận mệnh. Chúng làm nảy sinh ý tưởng về những thế lực vô hình đang hoạt động trong thế giới. Sau đó, trí tưởng tượng của chúng ta bắt đầu hoạt động. Những tôn giáo nguyên thủy trong lịch sử là những tôn giáo tin nhiều gót, khi trí tưởng tượng của con người hình dung những thần linh như những đấng siêu phàm nhưng vẫn mang nhiều tính người. Từ tôn giáo tin nhiều gót, tôn giáo tin chỉ một Gót tinh tế hơn đã xuất hiện một cách tự nhiên, dẫn đến sự luân chuyển trong lịch sử giữa những tôn giáo tin nhiều gót và những tôn giáo tin chỉ một Gót. Những tôn giáo tin chỉ một Gót phổ biến đã nảy sinh mê tín và cực đoan, gây những hậu quả tiêu cực nghiêm trọng với cả con người lẫn xã hội. Quá khích và cuồng tín làm băng hoại nhận thức về đạo đức và đức hạnh, thúc đẩy sự đàn áp những gì ngoài tôn giáo hay khác tiins ngưỡng. Hume tin rằng tôn giáo “làm hư hỏng” những tình cảm đạo đức tự nhiên của chúng ta và khiến chúng ta khó thấu hiểu được bản chất thực sự của Gót một cách hợp lý (nếu như có một Gót như thế). Với những xung đột tôn giáo trong thế kỷ XVII, đặc biệt ở châu Âu, những ý tưởng này của Hume không làm chúng ta ngày nay ngạc nhiên.

 

Người dịch bản tiếng Việt

Dọn Bàn

 


Mục Lục

 

Giới thiệu (1757, 1777)

Tiết 1. Tôn giáo Tin Nhiều Gót đã là tôn giáo chính của con người (1757, 1777)

Tiết 2. Nguồn gốc của tôn giáo Tin Nhiều Gót (1757, 1777)

Tiết 3. Tiếp tục cùng đề tài (1757, 1777

Tiết 4. Những vị thần không được coi như những sáng tạo hay những hình thành của thế giới (1757, 1777)

Tiết 5. Những hình thức khác nhau của ý tưởng Tin Nhiều Gót: Ẩn dụ, Thờ-Anh Hùng (1757, 1777)

Tiết 6. Nguồn gốc của Ý tưởng Tin-Một-Gót từ Ý tưởng Tin-Nhiều-Gót (1757, 1777)

Tiết 7. Xác nhận học thuyết này (1757, 1777)

Tiết 8. Trào Lưu Thay Đổi Của Tin Nhiều Gót Và Tin Một Gót (1757, 1777)

Tiết 9. So sánh những tôn giáo này, về Sự đàn áp và Sự khoan dung (1757, 1777)

Tiết 10. Về can đảm hay sự hạ mình (1757, 1777)

Tiết 11. Về hợp lý hay phi lý (1757, 1777)

Tiết 12. Về sự hoài nghi hay sự xác quyết (1757, 1777)

Tiết 13. Những khái niệm nghịch đạo về bản chất thiêng liêng trong những tôn giáo phổ biến thuộc cả hai loại (1757, 1777)

Tiết 14. Ảnh hưởng xấu của những tôn giáo phổ biến trên đạo đức (1757, 1777)

Tiết 15. Hệ Luận Tổng quát (1757, 1777)

 


 

Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo [1]

 

Giới thiệu

 

N 0,1, Bea 33

Tôn giáo là một đề tài có ý nghĩa to lớn và có hai câu hỏi cụ thể đáng được chúng ta đặc biệt lưu ý. Câu hỏi đầu tiên liên quan đến nền tảng của tôn giáo trong lý trí và câu hỏi thứ hai liên quan đến nguồn gốc của nó trong bản chất con người. May mắn thay, câu hỏi đầu tiên, quan trọng hơn trong hai câu hỏi, có câu trả lời rõ ràng và hiển nhiên. Bản chất của chính thế giới tự nhiên cho thấy sự là-có của một đấng sáng tạo thông minh. Bất kỳ người có lý trí nào, sau khi cân nhắc kỹ lưỡng, đều không thể nghi ngờ những nguyên lý cơ bản của tôn giáo tin có Gót (tin tưởng vào một Gót, hay những vị thần) và tôn giáo.

 

Tuy nhiên, câu hỏi thứ hai, câu hỏi về nguồn gốc của tôn giáo trong bản chất con người, phức tạp hơn và khó trả lời hơn. Tin tưởng vào những quyền năng thông minh vô hình đã lan rộng trong con người trong suốt chiều dài lịch sử, qua nhiều văn hóa và những thời đại khác nhau. Nhưng tin tưởng này đã không từng phổ quát theo nghĩa là mọi cá nhân hay xã hội đều có cùng những ý tưởng về tôn giáo. Trong thực tế, theo những nhà du hành và sử gia, đã có một số văn hóa trong đó đã hoàn toàn có không hề có tin tưởng tôn giáo. Ngay cả trong số những người tin vào tôn giáo, không có hai xã hội nào và hầu như không có hai cá nhân nào có chính xác cùng tin tưởng.

 

Điều này cho thấy rằng tin tưởng vào tôn giáo không phát sinh từ bản năng cơ bản, phổ quát hay động lực tự nhiên, như tình yêu tự thân, tình cảm giữa những giới tính, mong muốn chăm sóc con cái, lòng biết ơn hay sự tức giận. Những bản năng này có trong mọi xã hội loài người, trong mọi thời đại và địa phương, và chúng luôn có một đối tượng hay mục đích rõ ràng và cụ thể vốn chúng tập trung vào. Tuy nhiên, tin tưởng vào tôn giáo thì khác. Nó dường như là một nguyên lý thứ cấp, một gì có thể không được chia sẻ rộng rãi và là một gì có thể bị định hình hay bóp méo bởi nhiều hoàn cảnh khác nhau. Trong thực tế, có những trường hợp tin tưởng này có thể không phát triển chút nào, tùy thuộc vào một số yếu tố nhất định.

 

Mục đích của thăm dò này là khám phá những tin tưởng chính đó về tôn giáo là gì, và những yếu tố hay sự kiện nào có thể ảnh hưởng, hay ngăn cản những tin tưởng này bén rễ trong những dân tộc hay xã hội khác nhau.

 

Tiết I.

Tôn giáo Tin Nhiều Gót đã là tôn giáo chính của con người

 

N 1. 1, Bea 34

Đối với tôi, có vẻ như nếu chúng ta xem xét sự cải thiện của xã hội loài người, từ những khởi đầu thô sơ đến một trạng thái hoàn thiện hơn, thì tôn giáo tin nhiều gót hay tín ngưỡng thờ linh tượng đã và nhất thiết phải từng là tôn giáo đầu tiên và cổ xưa nhất của loài người. Ý kiến này tôi sẽ cố gắng xác nhận bằng những luận chứng sau đây. [2]

N 1. 2, Bea 34

 

Đây là một sự kiện không thể chối cãi, rằng khoảng 1700 năm trước, toàn thể loài người đều đã là những người theo thuyết tin nhiều thần linh. Những nguyên lý hoài nghi và ngờ vực của một số triết gia, hay thuyết tin có gót [3], và rằng điều đó cũng không hoàn toàn rõ ràng, của một hay hai quốc gia, không tạo ra sự phản đối nào đáng xem xét. Vậy thì hãy xem bằng chứng rõ ràng của lịch sử. Càng đi sâu về thời cổ, chúng ta càng thấy loài người chìm đắm trong thuyết tin nhiều thần linh. Không có dấu hiệu, không có triệu chứng của bất kỳ tôn giáo toàn hảo nào hơn. Những ghi chép cổ xưa nhất của loài người vẫn cho chúng ta thấy hệ thống đó như tín ngưỡng đã được thiết lậpphổ biến. Phương Bắc, phương Nam, phương Đông, phương Tây, đều đưa ra lời chứng nhất trí của chúng về cùng một sự kiện. Có gì có thể phản đối một bằng chứng đầy đủ như vậy?

 

N 1. 3, Bea 34

Về mặt văn bản hay lịch sử, loài người, trong thời cổ, dường như đều là những người tin nhiều gót. Chúng ta có nên khẳng định rằng, vào thời xa xưa hơn, trước khi có kiến thức về chữ viết, hay phát minh bất kỳ nghệ thuật hay khoa học nào, con người đã chấp nhận những nguyên lý của tư tưởng tin chỉ một Gót thuần túy? Nghĩa là, trong khi họ còn ngu muội và man rợ, họ đã tìm ra sự thật: Nhưng đã rơi vào sai lầm, ngay khi họ có được học thức và văn minh.

 

N 1. 4, Bea 34

Nhưng trong khẳng định này, bạn không chỉ mâu thuẫn với mọi sự biểu hiện bên ngoài có thể xảy ra, nhưng cũng mâu thuẫn với kinh nghiệm hiện tại của chúng ta về những nguyên lý và quan điểm của những quốc gia man rợ. Những bộ lạc man rợ ở Châu Mỹ, Châu Phi Châu Á đều là những người thờ linh tượng. Không có một ngoại lệ nào cho quy tắc này. Theo đó, nếu một nhà lữ hành mạo hiểm đến một vùng đất xa lạ và thấy dân chúng ở đó tiến bộ về nghệ thuật và khoa học, thì vẫn có khả năng lớn là họ sẽ không theo tôn giáo tin chỉ một Gót. Trong trường hợp như vậy, nhà lữ hành không thể tự tin đưa ra bất kỳ phán đoán nào về tín ngưỡng của họ nếu không điều tra thêm. Tuy nhiên, nếu nhà lữ hành gặp một dân tộc thiếu hiểu biết và chưa khai hóa, ông có thể tự tin phỏng đoán rằng họ sẽ là những người thờ linh tượng, và sẽ cực kỳ khó có khả năng nhà lữ hành này sai lầm trong giả định này.

 

N 1. 5, Bea 34-5

Có vẻ rõ ràng rằng, dựa trên sự phát triển tự nhiên của tư tưởng con người, con người trong giai đoạn đầu tiên phải có những ý tưởng đơn giản, quen thuộc về những quyền năng siêu việt trước khi họ có thể thấu hiểu được khái niệm của một hữu thể toàn năng, toàn hảo, ban phát trật tự cho toàn thể vũ trụ. Thật phi lý khi nghĩ rằng con người trước tiên sẽ hiểu Gót là một hồn thuần khiết – toàn năng, toàn trí và toàn hiệntrước khi nhận ra Ngài là một đấng quyền năng, mặc dù có giới hạn, với những đặc điểm giống con người, chẳng hạn như những tình cảm [4], những ham muốn và những đặc điểm thể chất. Cũng giống như con người không bắt đầu bằng xây dựng những cung điện nhưng bằng dựng những lều tranh vách đất đơn giản, họ đã không đầu tiên hình dung về Gót trong dạng toàn hảo nhất của Ngài. Não thức phát triển dần dần, bắt đầu từ sự bất toàn và hướng tới sự toàn hảo. Bằng dần dần phân biệt giữa những phần cao quý hơn và thấp kém hơn của bản chất con người, con người sẽ bắt đầu hình dung về một thần linh, dần dần làm tinh tế hơn những ý tưởng của họ về sự toàn hảo. Sự tiến triển tự nhiên này của tư tưởng chỉ có thể bị phá vỡ bởi một số luận chứng không thể phủ nhận mạnh mẽ hơn, sẽ ngay lập tức dẫn người ta đến những nguyên lý thuần túy của tôn giáo tin chỉ một Gót, cho phép họ nhảy qua khoảng cách rộng lớn giữa bản chất con người và bản chất thần thánh chỉ trong một khoảnh khắc. Mặc dù tôi đồng ý rằng trật tự của vũ trụ, khi xem xét cẩn thận, đưa ra một luận chứng như vậy, nhưng tôi không tin điều này có thể ảnh hưởng đến con người thời kỳ đầu, khi họ đầu tiên hình thành những ý tưởng thô sơ về tôn giáo.

 

N 1. 6, Bea 35-6

Nguyên nhân của những sự vật việc đó, vốn rất quen thuộc với chúng ta, không bao giờ làm bật dậy sự chú ý hay tò mò của chúng ta; và dù tự thân những đối tượng này có phi thường hay kinh ngạc đến đâu đi nữa, chúng vẫn bị đám đông thông tục và ngu muội bỏ qua mà không xem xét, hay tìm hiểu chi nhiều. Adam, sau khi ngay lập tức hiện ra, trên thiên đường và trong sự toàn thiện trọn vẹn của những khả năng của mình, như Milton rình bày [5], sẽ tự nhiên kinh ngạc trước những hiện ra huy hoàng của thiên nhiên, vòm trời, không khí, trái đất, và cơ thể và những phần cơ thể của chính mình, và sẽ đi đến tự hỏi tất cả những sự vật việc đó đến từ đâu. Nhưng một động vật man rợ, phải vật lộn để đáp ứng những nhu cầu cơ bản (chẳng hạn như một con người như thế nguồn gốc đầu tiên của xã hội), bị vô số ham muốn và tình cảm như vậy thúc ép, không có nhàn rỗi để chiêm ngưỡng khuôn mặt bình thường của tự nhiên, hay đặt những câu hỏi về nguyên nhân của những đối tượng đó, vốn người này đã dần quen thuộc với chúng từ thơ ấu. Ngược lại, thiên nhiên càng bình thường và đồng nhất bao nhiêu, tức là thiên nhiên xuất hiện càng toàn hảo bao nhiêu, thì người này càng quen thuộc với nó và càng ít có khuynh hướng xem xét kỹ lưỡng và tìm hiểu nó. Một sinh nở bất thường hay dị dạng, kích thích óc tò mò của người này, và được coi là một kỳ diệu. Nó khiến người này lo lắng vì sự mới lạ của nó; và ngay lập tức khiến người này run rẩy, dâng cúng hiến tế và cầu nguyện. Nhưng một con vật, sinh ra với đầy đủ tứ chi và cơ quan mình mẩy, với người này chỉ là một cảnh tượng bình thường và không tạo ra ý kiến hay tình cảm tôn giáo nào. Hãy hỏi người này, con vật đó từ đâu sinh ra; người này sẽ cho bạn biết, từ sự giao hợp của cha mẹ nó. Và những cha mẹ của con vật đó từ đâu ra? Từ sự giao hợp của ông bà chúng. Truy tìm nguồn gốc của một gì đó (như động vật) trở ngược lại vài thế hệ trước, sẽ thỏa mãn sự tò mò của người này và đặt những đối tượng một khoảng cách xa, đến mức người này hoàn toàn không còn nhìn thấy chúng nữa. Đừng tưởng tượng rằng người này ngay cả sẽ bắt đầu hỏi con vật đầu tiên đến từ đâu, chứ đừng nói đến việc đặt câu hỏi về nguồn gốc của toàn bộ hệ thống hay cấu trúc thống nhất của vũ trụ phát sinh từ đâu. Hoặc, nếu bạn bắt đầu hỏi người này một câu hỏi như vậy, đừng mong đợi rằng người này sẽ dùng não thức của mình với bất kỳ lo lắng nào về một đề tài quá xa vời, quá nhàm chán và vượt quá những giới hạn khả năng của người này.

 

N 1. 7, Bea 36

Nhưng xa hơn nữa, nếu con người lúc đầu được dẫn dắt vào tin tưởng của một Hữu Thể Tối Cao, bằng lý luận từ trật tự và khuôn khổ của tự nhiên, thì họ không bao giờ có thể rời bỏ tin tưởng đó, để tin theo tôn giáo tin nhiều gót; nhưng cũng chính những nguyên lý của lý trí, vốn lúc đầu đã tạo ra và phổ biến khắp loài người, một quan điểm quá huy hoàng như vậy, phải có khả năng bảo tồn nó dễ dàng hơn. Việc phát minh và chứng minh đầu tiên của bất kỳ học thuyết nào thì đều khó khăn hơn nhiều so với việc ủng hộ và duy trì nó.

 

N 1. 8, Bea 36

Có một sự khác biệt lớn giữa những sự kiện lịch sử và những ý kiến luận đoán; kiến thức của điều này cũng không được truyền bá theo cách tương tự với kiến thức của điều kia. Một sự kiện lịch sử, mặc dù được truyền miệng từ những người chứng kiến tận mắt và những người đương thời, nhưng lại được ngụy trang trong mọi lời tường thuật liên tiếp, và cuối cùng có thể giữ lại nhưng rất ít, nếu có, sự tương đồng với sự thực nguyên thủy, trên đó nó đã dược tạo lâp. Những ký ức mong manh của con người, thói thích cường điệu, sự bất cẩn uể oải của họ; những nguyên lý này, nếu không được sửa chữa bằng những tập sách và ghi chép, sẽ sớm làm sai lệch giải thích của những sự kiện lịch sử; nơi mà biện luận hay luận chứng có rất ít hay không có chỗ đứng, cũng như không bao giờ có thể nhớ lại được sự thực vốn đã từng thoát khỏi những tường thuật đó. Do đó, những truyền thuyết về Hercules, Theseus, Bacchus đều được cho là ban đầu từng được hình thành trong lịch sử thực, đã bị truyền thống làm hư hỏng. [6] Nhưng xét về những ý kiến luận đoán thì trường hợp lại hoàn toàn khác. Nếu những ý kiến này được xây dựng trên những luận chứng rõ ràng và hiển nhiên về phần thuyết phục với phần lớn loài người, thì cũng chính những luận chứng đó, lúc đầu đã phổ biến những ý kiến, sẽ vẫn gìn giữ chúng trong trạng thái thuần khiết ban đầu của chúng. Nếu những luận chứng thâm sâu hơn và xa vời hơn với sự hiểu biết tầm thường, thì những ý kiến sẽ luôn chỉ hạn định trong một số ít người; và ngay khi con người rời khỏi việc suy ngẫm về những luận chứng, những ý kiến sẽ ngay lập tức bị mất và bị chôn vùi trong quên lãng. Dù chúng ta đứng về phía nào của vấn đề nan giải này, thì có vẻ như không thể nào, rằng tôn giáo Tin một gót, từ lý luận, đã từng là tôn giáo chính của loài người, và sau đó, do sự suy đồi của nó, đã sinh ra tôn giáo tin-nhiều-gót và tất cả những mê tín dị đoan khác nhau của thế giới ngoại đạo [7]. Lý trí, khi hiển nhiên, sẽ ngăn chặn những hư hỏng này: Khi thâm sâu khó hiểu, nó giữ những nguyên lý hoàn toàn khỏi sự hiểu biết của những người thường tục, những người duy nhất có khả năng gây hư hỏng cho bất kỳ nguyên lý hay ý kiến nào.

 

Tiết II.

Nguồn gốc của tôn giáo Tin Nhiều Gót

 

N 2. 1, Bea 37

Do đó, nếu chúng ta có thể thỏa mãn óc tò mò của chúng ta, trong việc tìm hiểu nguồn gốc của tôn giáo, chúng ta phải hướng những suy nghĩ của chúng ta về tôn giáo tin-nhiều-gót, tôn giáo nguyên thủy của loài người, trong giai trạng thái ban đầu, chưa nhận giảng dạy, trước khi có sự truyền bá của những tôn giáo có tổ chức.

 

N 2. 2, Bea 37

Nếu con người được dẫn dắt vào sự hiểu biết về quyền năng thông minh, vô hình bằng một chiêm nghiệm của những công trình của tự nhiên, họ sẽ không bao giờ có thể nhận được bất kỳ một khái niệm nào khác ngoài một hữu thể duy nhất, người đã ban tặng hiện hữu và trật tự cho cỗ máy khổng lồ này, và điều chỉnh tất cả những bộ phận của nó, theo một kế hoạch thường xuyên hay hài hòa hệ thống kết nối. Tuy nhiên, với những người có một cách suy nghĩ đặc biệt nhất định, điều đó có thể thấy không hoàn toàn phi lý khi một số sinh vật độc lập, được phú cho trí tuệ vượt trội, có thể hợp tác để thiết kế và thực hiện một kế hoạch duy nhất, hài hòa; tuy nhiên đây có phải là một giả định đơn thuần tùy tiện, mà ngay cả khi được phép, phải nhìn nhận là không được xác suất cũng như tất yếu hỗ trợ. Tất cả mọi sự vật việc trong vũ trụ rõ ràng là một phần. Mọi sự vật việc đều được điều chỉnh cho phù hợp với mọi sự vật việc. Một thiết kế chiếm ưu thế trong toàn bộ. Và sự đồng nhất này khiến não thức nhìn nhận một tác giả; bởi vì khái niệm về những tác giả khác nhau, với không phân biệt nào về thuộc tính hay hoạt động, chỉ phục vụ cho việc đem lại bối rối cho trí tưởng tượng, không đem cho cho hiểu biết dược bất kỳ thỏa mãn nào. Bức tượng Laocoon [8], như Pliny, cho chúng ta biết, đã là công trình của ba nghệ nhân: Nhưng chắc chắn rằng, nếu chúng ta không được nói cho biết như vậy, chúng ta sẽ không bao giờ tưởng tượng được rằng một nhóm những nhân vật, được tạc từ một tảng đá và hợp nhất trong một kế hoạch, đã không là công trình và tài khéo của một nghệ thuật tạc tượng. Việc gán bất kỳ tác động đơn lẻ nào cho sự kết hợp của nhiều nguyên nhân chắc chắn không phải là một giả thuyết tự nhiên và hiển nhiên.

 

N 2. 3, Bea 37-8

Mặt khác, nếu rời khỏi những công trình của tự nhiên, chúng ta dõi theo những dấu chân của quyền năng vô hình trong những biến cố khác loại và trái ngược của đời sống con người, chúng ta tất yếu được dẫn vào trong thuyết tin nhiều thần linh và sự nhìn nhận của một số thần linh không toàn năng và không toàn hảo. Giông bão hủy hoại những gì đã được mặt trời nuôi dưỡng. Mặt trời phá hủy những gì được ẩm ướt của sương và mưa chăm sóc. Chiến tranh có thể có lợi cho một quốc gia đang phải gánh chịu nạn đói do thời tiết khắc nghiệt. Bệnh tật và dịch bệnh có thể làm giảm dân số một vương quốc, giữa sự sung túc nhất của nó. Cùng một quốc gia thì không đồng thời thành công vừa trên biển và trên bộ. Và một quốc gia, hiện đang chiến thắng những thù địch của nó, có thể sớm chịu khuất phục trước vũ khí giàu manh hơn của họ. Nói tóm lại, việc tiến hành những sự kiện, hay những gì chúng ta gọi là sự sắp xếp của một quyền năng thần thánh cụ thể, đầy rẫy những đa dạng và bất trắc, đến nỗi, nếu chúng ta giả định rằng nó được sắp đặt trực tiếp bởi bất kỳ hữu thể thông minh nào, chúng ta nhìn nhận một đảo ngược trong những thiết kế và ý định của họ, một chiến tranh liên tục của những thế lực đối lập, và một ăn năn hay thay đổi ý định trong cùng một thế lực, từ sự bất lực hay khinh suất. Mỗi quốc gia đều có vị thần hộ trì của nó. Mỗi yếu tố đều chịu sự chi phối của quyền năng hoặc tác nhân vô hình của nó. Lãnh địa của mỗi vị thần tách biệt với lãnh địa của vị thần khác. Hoạt động của cùng một vị thần không phải lúc nào cũng chắc chắn và bất biến. Hôm nay ngài bảo vệ: Ngày mai ngài bỏ rơi chúng ta. Những cầu nguyện và hiến tế, nghi lễ và tuân giữ, dù được thực hiện tốt hay xấu, đều là nguồn gốc của sự ưu ái hay thù địch của ngài, và tạo ra mọi sự vật việc tốt lành hay bất hạnh, có thể tìm thấy giữa loài người.

 

N 2. 4, Bea 38

Do đó, chúng ta có thể kết luận rằng trong tất cả những quốc gia theo tôn giáo tin nhiều gót, những ý tưởng đầu tiên về tôn giáo nảy sinh không phải từ chiêm nghiệm những công trình của thiên nhiên, nhưng từ một quan tâm đến những sự kiện của đời sống và từ những hy vọng và sợ hãi không ngừng tác động não thức con người. Theo đó, chúng ta nhận thấy rằng tất cả những người thờ linh tượng, sau khi đã tách biệt những lĩnh vực của những thần linh của họ, đều phải nhờ đến tác nhân vô hình đó, người mà họ phải tuân theo thẩm quyền của người đó ngay lập tức, và người mà thẩm quyền của người đó là giám sát tiến trình hành động mà họ tham gia vào bất kỳ lúc nào. Juno được cầu nguyện trong những hôn nhân; Lucina khi sinh nở. Neptune nhận cầu nguyện của những thủy thủ; và Mars của những chiến binh. Người nông dân canh tác cánh đồng của mình dưới sự bảo vệ của Ceres ; và thương gia nhìn nhận thẩm quyền của Mercury [9]. Mỗi sự kiện tự nhiên được cho là do một tác nhân thông minh nào đó chi phối; và không có điều gì thịnh vượng hay bất lợi có thể xảy ra trong sống, mà không phải là đề tài của những cầu nguyện hay tạ ơn đặc biệt [10].

 

N 2. 5, Bea 38-9

Thật vậy, cần phải nhìn nhận rằng, để đưa sự chú ý của con người vượt ra ngoài tiến trình hiện tại của mọi sự vật việc, hoặc dẫn họ đến bất kỳ suy luận nào liên quan đến quyền năng thông minh vô hình, họ phải được một số tình cảm kích động, thúc đẩy suy tưởng và trầmcủa họ; một số động cơ, vốn thôi thúc thămđầu tiên của họ. Nhưng chúng ta sẽ dùng đến tình cảm nào ở đây để giải thích một tác động có hậu quả to lớn như vậy? Chắc chắn không phải sự tò mò suy đoán, hay thuần túy yêu chuộng chân lý. Động cơ đó quá tinh tế với những hiểu biết thô thiển như vậy; và sẽ dẫn con người vào những thămvề cấu trúc tổng thể của thế giới tự nhiên, một đề tài quá lớn và toàn diện với khả năng hạn hẹp của họ. Do đó, không thể giả định rằng tình cảm nào có thể tác động đến những người man rợ như vậy, ngoại trừ những tình cảm thông thường của đời sống con người; quan tâm lo lắng về hạnh phúc, sợ hãi về tương lai khốn khổ, kinh hoàng về cái chết, khát vọng của trả thù, thèm ăn khát uống và những sự vật việc cần thiết khác. Bị kích động bởi những hy vọng và sợ hãi thuộc bản chất này, đặc biệt là sợ hãi, con người dò xét chi ly, với một tò mò run rẩy, những diễn biến của những nguyên nhân trong tương lai, và xem xét những sự kiện khác loại và trái ngược nhau của đời sống con người. Và trong khung cảnh hỗn loạn này, với những con mắt còn lạc hướng và kinh ngạc hơn, họ nhìn thấy những dấu vết mờ tối lần khuất không rõ đầu tiên của thần thánh.

 

Tiết III.

Tiếp tục cùng đề tài

 

N 3. 1, Bea 40

Chúng ta được đặt vào thế giới này, như trong một “đại hý trường”, ở đó những nguồn gốc và những nguyên nhân thực của mọi biến cố đều hoàn toàn bị che giấu khỏi chúng ta; chúng ta cũng không đủ khôn ngoan để thấy trước hay có đủ sức mạnh để ngăn chặn những bất hạnh này vốn chúng liên tục đe dọa chúng ta. Chúng ta luôn bị treo lơ lửng giữa sống và chết, khỏe mạnh và bệnh tật, dư thừa và thiếu thốn; vốn đã phân phối giữa những loài người bởi những nguyên nhân bí mật và chưa biết, hoạt động của chúng thường bất ngờ và luôn không thể giải thích được. Khi đó, nguyên nhân chưa biết này trở thành đối tượng thường trực của hy vọng và sợ hãi của chúng ta; và trong khi những tình cảm được giữ trong tình trạng báo động liên tục bởi một chờ đợi lo lắng về những biến cố, thì trí tưởng tượng cũng được dùng một cách tương tự trong việc hình thành những ý tưởng về những sức mạnh đó mà chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào. Liệu con người có thể mổ xẻ thiên nhiên, theo triết lý có thể xảy ra nhất, ít nhất là dễ hiểu nhất, rằng những nguyên nhân này không gì khác ngoài sự đan dệt và cấu trúc cụ thể của chính những bộ phận nhỏ bé của cơ thể họ và của những vật thể bên ngoài; và rằng, bằng một guồng máy đều đặn và liên tục, tất cả những biến cố được tạo ra, vốn họ rất quan tâm về chúng. Nhưng triết lý này vượt quá sự thấu hiểu của đám đông ngu muội, những người chỉ có thể hình dung những nguyên nhân chưa biết một cách tổng quát và mù mờ; dù trí tưởng tượng của họ, thường xuyên được cùng một chủ thể đem dùng, phải vất vả để hình thành một số ý tưởng cụ thể và khác biệt về chúng. Họ càng xem xét tự thân những nguyên nhân này và sự bất trắc trong hoạt động của chúng, thì họ càng ít hài lòng với những tìm kiếm của họ; và, dù không sẵn lòng, cuối cùng họ cũng phải từ bỏ một cố gắng gian nan như vậy, nếu không phải vì một khuynh hướng trong bản chất con người, dẫn đến một hệ thống, mang lại cho họ một sự hài lòng nào đó.

 

N 3. 2, Bea 40-1

Có một khuynh hướng phổ quát giữa loài người là quan niệm mọi sinh vật đều giống như chính họ, và chuyển sang mọi đối tượng những phẩm tính đó vốn họ quen thuộc thân thiện biết rõ chúng mật thiết. Chúng ta tìm thấy những khuôn mặt người trên mặt trăng, những đoàn quân trong những đám mây; và bởi một khuynh hướng tự nhiên, nếu kinh nghiệm và suy ngẫm không điều chỉnh, sẽ gán ác ý hay thiện ý, cho mọi sự vật việc vốn làm tổn thương hay hài lòng chúng ta. Do đó mới có rất nhiều sự lập lại và cái đẹp của nhân cách hóa [11] trong thơ ca; ở đó cây cỏ, núi đồi và suối nước đều mang tính cách giống con người, và những phần vô tri của thiên nhiên có được tình cảm và tình cảm như con người. Và mặc dù những hình tượng và biểu hiện thơ ca này không không đạt được tin tưởng, nhưng ít nhất chúng có thể dùng để chứng minh một khuynh hướng nhất định trong óc tưởng tượng, nếu không có nó thì chúng không thể là đẹp đẽ hay tự nhiên. Thần sông hay hamadryad [12] cũng không phải lúc nào cũng được coi như một nhân vật thơ mộng hay tưởng tượng đơn thuần; nhưng đôi khi có thể đi vào tín ngưỡng thực sự của những người thông tục ngu muội; trong khi mỗi lùm cây hay cánh đồng được mô tả như sở hữu một thần linh hay quyền năng vô hình cụ thể, ngự trị và bảo vệ nó. Không, những triết gia cũng không thể hoàn toàn thoát khỏi sự yếu đuối tự nhiên này; nhưng thường gán cho vật chất vô tri sự kinh hoàng về chân không, những thiện cảm, ác cảm và những tình cảm khác của bản chất con người [13]. Sự phi lý cũng không hề ít hơn, khi chúng ta ngước mắt nhìn lên cao; và, như thường lệ, chuyển những tình cảm và yếu đuối của con người cho thần linh, mô tả ông ta như người ghen tị và trả thù, thất thường và thiên vị, và tóm lại, như một người độc ác và xuẩn ngốc, về mọi mặt ngoại trừ có quyền năng và uy lực vượt trội của ông ta. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi loài người, bị đặt trong tình trạng hoàn toàn không biết gì về nguyên nhân, và đồng thời quá lo lắng về vận mệnh tương lai của mình, nên ngay lập tức nhìn nhận một phụ thuộc vào những quyền năng vô hình, vốn sở hữu tình cảm và trí thông minh. Những nguyên nhân chưa biết liên tục dùng tư tưởng của chúng, luôn xuất hiện trong cùng một khía cạnh, đều được coi là cùng loại hay cùng loài. Cẳng bao lâu, chúng ta gán cho chúng suy nghĩ, lý trí và tình cảm, đôi khi ngay cả bốn chân tay và hình dáng của con người, để làm cho họ gần hơn với giống như chúng ta.

 

N 3. 3, Bea 41-2

Theo tỷ lệ với quá trình sinh sống của bất kỳ con người nào bị ngẫu nhiên chi phối, chúng ta luôn thấy, rằng người này càng tăng thêm mê tín; điều này đặc biệt có thể thấy ở những người đánh bạc và những thủy thủ, mặc dù trong số tất cả loài người, họ là những người ít có khả năng suy nghĩ thận trọng nhất, nhưng lại có những lo lắng phù phiếm và mê tín nhiều nhất. Những vị thần, Coriolanus nói trong Dionysius [14] nói rằng những thần linh có một ảnh hưởng đến mọi biến cố; nhưng trên hết là trong chiến tranh; nơi những gì xảy ra thì rất không chắc chắn. Toàn bộ đời sống của con người, đặc biệt là trước khi có thể chế của trật tự và chính quyền tốt, đều có thể gặp phải những tai nạn ngẫu nhiên; điều tự nhiên là sự mê tín sẽ chiếm ưu thế ở mọi nơi trong những thời man rợ, và đặt con người vào điều tra thành tâm nhất về những quyền năng vô hình, những thế lực quyết định hạnh phúc hay đau khổ của họ. Không biết gì về thiên văn học và giải phẫu thực vật và động vật, và quá ít hiếu kỳ để quan sát sự điều chỉnh đáng ngưỡng phục của những nguyên nhân cuối cùng; họ vẫn không nhân ra được một đấng sáng tạo đầu tiên và tối cao, và với tinh thần toàn hảo vô hạn đó, người duy nhất, bằng ý chí toàn năng của mình, đã ban tặng trật tự cho toàn bộ khuôn khổ của tự nhiên. Một ý tưởng tuyệt vời như vậy là quá lớn với những khái niệm hạn hẹp của họ, những người không thể quan sát được cái đẹp của công trình cũng như không thể lĩnh hội được sự vĩ đại của tác giả của nó. Họ giả định rằng những thần linh của họ, dù có quyền năng và vô hình đến đâu, cũng chẳng là gì ngoài một loài sinh vật người, có lẽ được nuôi dưỡng giữa loài người, và vẫn giữ lại mọi tình cảm và ham muốn con người, cùng với những tay chân và cơ quan nội tạng. Những sinh vật giới hạn như vậy, dù là những chủ nhân của số phận con người, nhưng mỗi trong số họ không có khả năng mở rộng ảnh hưởng của mình đến khắp nơi, phải được nhân lên rất nhiều để đáp ứng cho sự đa dạng của những sự kiện xảy ra trên toàn bộ bề mặt của tự nhiên. Do đó, mọi nơi đều có một đám đông những vị thần địa phương; và do đó tôn giáo tin nhiều gót đã thịnh hành, và vẫn còn thịnh hành, trong phần lớn của loài người chưa được giáo dục. [15]

 

N 3. 4, Bea 42

Bất kỳ tình cảm nào của con người đều có thể dẫn chúng ta đến khái niệm về quyền năng thông minh, vô hình; hy vọng cũng như sợ hãi, lòng biết ơn cũng như đau khổ: Nhưng nếu chúng ta xem xét trái tim mình hay quan sát những gì diễn ra xung quanh mình, chúng ta sẽ thấy rằng con người thường quỳ xuống trước đau buồn hơn là trước những tình cảm dễ chịu. Sự thịnh vượng có thể dễ dàng được coi là nhữngchúng ta đáng được hưởng, và ít câu hỏi được đặt ra về nguyên nhân hoặc tác giả của nó. Nó tạo ra sự vui vẻ, hoạt động và sự nhanh nhẹn và tận hưởng sống động mọi thú vui xã hội và nhục dục: Và trong trạng thái tinh thần này, con người ít có thời gian rảnh rỗi hoặc khuynh hướng nghĩ đến những vùng vô hình chưa biết. Mặt khác, mọi tai nạn thảm khốc đều báo động chúng ta và khiến chúng ta thắc mắc về những nguyên lý từ đó nó nảy sinh:: Những lo lắng nảy sinh liên quan đến tương lai: Và não thức, chìm đắm trong sự thiếu tự tin, sợ hãi và u sầu, đã dùng đến mọi phương pháp để xoa dịu những quyền năng thông minh bí mật đó, phải viện đến mọi phương pháp xoa dịu những quyền năng thông minh bí mật đó, những người mà vận mệnh của chúng ta được cho là hoàn toàn phụ thuộc vào chúng.

 

N 3. 5, Bea 42-3

Không đề tài nào thông thường hơn với tất cả những thần linh phổ thông, hơn là phô bày những ưu thế của đau khổ, trong việc đem con người đến một ý thức đúng đắn về tôn giáo; bằng chế ngự lòng kiêu hãnh và tập trung vào hưởng thụ thú vui trần tục, thể xác của họ, những sự việc mà trong thời kỳ thịnh vượng khiến họ quên mất sự hướng dẫn và cai quản của thần thánh với thế giới. Đề tài này cũng không chỉ giới hạn trong những tôn giáo thời nay. Người xưa cũng đã dùng nó. Một nhà sử học Greece  [16]nói rằng vận may chưa bao giờ hào phóng, với không đố kỵ, ban tặng cho loài người một hạnh phúc trọn vẹn; nhưng với tất cả những món quà của nó, nó luôn kèm theo một số hoàn cảnh tai hại nào đó, nhằm trừng phạt con người vào trong một tôn kính những vị thần, những thần linh, trong một quá trình liên tục của thịnh vượng, họ có khuynh hướng bỏ bê và quên lãng .

 

N 3. 6, Bea 43

Độ tuổi hay giai đoạn nào của cuộc đời thì nghiện ngập với mê tín nhất? Đó là giai đoạn đánh dấu bằng sự yếu đuối và nhút nhát lớn nhất. . Và giới tính nào? Câu trả lời tuân theo cùng một lý lẽ: đó là những người dễ bị tổn thương và do dự nhất. Strabo [17]  nói rằng những người đứng đầu và là những tấm gương của mọi loại mê tín đều là những phụ nữ. Những người này truyền cảm hứng cho những người đàn ông tham dự vào những hoạt động sùng đạo, cầu nguyện và tuân giữ nghiêm ngặt những nghi thức và những ngày lễ tôn giáo. Thật hiếm khi gặp một người sống tách biệt với phụ nữ, và lại mê nghiện những thực hành như vậy. Và vì lý do này, không gì không có khả năng xảy ra hơn là câu chuyện về một nhóm đàn ông trong số những người Getes [18], những người thực hành chế độ độc thân, và mặc dù là những người cuồng tín tôn giáo nhất. Một phương pháp lý luận, sẽ dẫn chúng ta đến một ý niệm không hay về lòng sùng đạo của những nhà tu; chẳng phải chúng ta đã biết qua một kinh nghiệm, có lẽ không phổ biến lắm vào thời của Strabo, rằng người ta có thể sống độc thân và thề giữ mình trong sạch, nhưng vẫn duy trì những quan hệ gần gũi nhất và sự đồng cảm trọn vẹn nhất với phụ nữ, phái yếu nhút nhát và ngoan đạo đó sao.




Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(Dec/2024)

(Còn tiếp... )

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com




[1] The Natural History of Religion (1757, 1777)

Hume Texts Online               https://davidhume. org/texts/n/

Biên tập                             Amyas Merivale Peter Millican

Bản của Hume Texts Online có ghi những số tiết mục và ghi chú từ bản của The Natural History of Religion, lưu giữ tại Thư viện Quốc gia Scotland và Hội Hoàng gia Edinburgh.

Chúng có dạng : . N 0,1, Bea 33, N 1. 1, Bea 34 : N 1. 1, Bea 34, N 2. 4n1, . . .

N: viết tắt của Natural History of Religion. ;

1. 1: Tiết Mục 1, Đoạn 1. ;

n1 = Ghi chú 1

Bea 34: trang 34 : Bea = Beattie (James Beattie ?, một triết gia và nhà thơ người Scotland thế kỷ 18, là người đương thời và là nhà phê bình của David Hume) biên tập.

Những chú thích như “n1” (kèm tiết đoạn, số trang,. như trên, dịch từ nguyên bản. Những chú thích này, của chính Hume, ghi trong ngoặc vuông [ ... ]

Những chú thích khác, với những sai lầm nếu có, là của tôi, sẽ đọc lại, tìm chữa sau. Tất cả, mong có thể cho một một bản đọc triết học, trung thực với nguyên tác, nhìn theo hướng diễn giải, khai triển những khái niệm, tư tưởng và luận thuyết triết học, đồng thời cố gắng giữ phần nào văn phong cổ kính của tác giả.

 

[2] Tôi dùng những từ đã dịch và giải thích rõ trong bản dịch – Richard Dawkins – Huyễn Tưởng Gót  của tôi, lập lại đây với vài sửa đổi , nhấn mạnh trên những tôn giáo/học thuyết/lập trường chính yếu nhắc trong tập sách này:

Theist, deist: Chúng ta đã dịch marxist – là người mác-xít, vậy tôi dịch theistngười thê-ít, và deistngười đê-ítpantheist là người pan-thê-ít. Gọn, giản dị, sát với gốc, và không phải vòng quanh qua lối Tàu – còn nội dung của chúng, dĩ nhiên chúng ta phải trở về với lý thuyết gốc của phương Tây:

Animism:             Tín ngưỡng / thờ vật-linh

Idolatry:              Tín ngưỡng / thờ linh tượng

Theism:               Thuyết/Tôn giáo Tin-có-gót

hay rõ hơn           Tin-gót-có-nhúng-tay               (hữu thần)

Deism:                Thuyết/Tôn giáo Tin-gót-không-nhúng-tay

Polytheism:         Thuyết/Tôn giáo Tin nhiều gót                           (đa thần)

Atheism:              Thuyết/Tôn giáo Không-tin-có-gót                          (vô thần)

Monothesim:       Thuyết/Tôn giáo tin chỉ một Gót               (Nhất thần/độc thần)

(trong Hume > Theism có thể hiểu là Monothesim = tin chỉ một Gót)

Pantheism:          Thuyết/Tôn giáo Tin-gót-là-khắp-cả (thuyết phiếm thần), có 2 nội dung chính:

-         God = Everything > Gót = Gót là tất cả mọi sự vật việc – Gót không tách biệt khỏi vũ trụ (tất cả mọi sự vật việc) nhưng chính là vũ trụ.

-         God is in Everything > Gót ở trong Mọi sự vật việc – Mọi phần của Tự nhiên, từ atom nhỏ nhất đến vũ trụ bao la, đều có sự hiện diện của Gót.

Panentheism: Thuyết/Tôn giáo Tin-gót-ở-trong-mọi sự vật (Thuyết toàn thần, hay Thuyết vạn hữu tại thần) “God is in everything > Panentheism: tin gót ở khắp mọi nơi “Gót ở trong mọi sự vật” – Gót hiện hữu trong mọi sự vật nhưng cũng hiện hữu ngoài chúng. Vũ trụ là phần của Gót, nhưng Gót không chỉ là Vũ trụ.

Panentheism / Tin-gót-ở-trong-mọi sự vật là một dạng đặc biệt của Pantheism / Tin-gót-là-khắp-cả nhưng khác nhau ở một điểm chính. Tin-gót-là-khắp-cho rằng Gót thì đồng nhất với vũ trụ, trong khi Tin-gót-ở-trong-mọi sự vật phiếm thần khẳng định rằng Gót ở trong tất cả sự vật, nhưng cũng ở ngoài vũ trụ. Cả hai đều coi thần thánh hiện diện trong vũ trụ, nhưng Tin-gót-ở-trong-mọi sự vật gồm cả sự siêu việt của Gót, khiến nó trở thành một quan điểm rộng hơn, sắc thái hơn.

Theism, Deism, Atheism: Những thuyết tin-có-gót, như tên gọi cho rằng có một hữu thể siêu nhiên, một gót “cá nhân”, gót có tính người, đứng ngoài thế giới này – và tác động vào thế giới – hoặc chỉ là nguyên nhân đầu tiên: sáng tạo thế giới (Deism: tin-gót-không-nhúng-tay), hay là cả nguyên nhân thứ hai: thống trị vận hành thế giới (Theism: tin-gót-có-nhúng-tay). Phủ nhận Gót của cả hai – là thuyết Không-tin-có-gót (Atheism).

Tin-gót-không-nhúng-tay là một loại của Tin-gót-có-nhúng-tay. Cà hai gọi chung là những thuyết Tin-có-gót. Như tên gọi, cả hai lý thuyết đều có nội dung là tin chỉ một Gót hay nhiều gót đã sáng tạo ra thế giới trong đó có loài người. Thuyết/Tôn giáoTin-gót-không-nhúng-tay tin rằng sau khi tạo thế gian, gót khoanh tay đứng ngoài, không còn dính líu gì đến con người, thế gian. Còn Tin-gót-có-nhúng-tay đi xa hơn – và là tin tưởng cũ hơn – tin rằng tin sau khi sáng tạo thế giới, gót đã và vẫn là bàn tay đằng sau tất cả mọi chuyện của vũ trụ và con người. Christianity, Judaism, Islam là những tôn giáo tiêu biểu cho tin tưởng Tin-gót-có-nhúng-tay này. Những người thành lập nước Mỹ, soạn thảo hiến pháp, đặc biệt là những tên tuổi nổi tiếng như Thomas Jefferson, Benjamin Franklin, James Madison, Alexander Hamilton, Ethan Allen,Thomas Paine đều là những người tin-có-gót nhưng Tin-gót-không-nhúng-tay.

Pantheism (Tin-gót-là-khắp-cả) phủ nhận loại gót như hữu thể cá nhân, không đứng ngoài và tách biệt với thế giới – trái lại tin rằng Vũ trụ và Tự nhiên là thiêng liêng, bí ẩn. Tính chất Siêu nhiên những tôn giáo gán cho hữu thể Gót là là khắp cả, là thế giới này, tất cả mỗi phần tử của thế giới là biểu hiện của Siêu Nhiên; toàn thể vũ trụ, tất cả tự nhiên là Siêu nhiên. Hegel (1770–1831) và lý thuyết về lịch sử như sự biểu hiện của Tinh thần Tuyệt đối, và Benedict de Spinoza (1632–1677) và phát biểu nổi tiếng ‘Deus sive Natura’ (‘God hay Tự nhiên’), tóm thu quan điểm của của ông đồng nhất Gót với Tự nhiên.

Panentheism: Cũng tin Vũ trụ và Tự nhiên là thiêng liêng, bí ẩn. Siêu nhiên là khắp cả, là thế giới này, nhưng cũng còn lớn hơn thế giới này, bao trùm thế giới này. Tôn giáo điển hình nhất với tin tưởng này là Brahmanism Tôn giáo/đạo Brahman (tiền thân của đạo Hindu) – với atman trong mỗi cá nhân và Brahman trong tổng thể vũ trụ (the belief or doctrine that God is greater than the universe and includes and interpenetrates it. )

Polytheism: tin-nhiều-gót – và ngược lại là – monotheism: tin-chỉ-một-Gót, là những quan điểm về nhìn nhận / tin có gót, nhưng khác nhau về số lượng: tin có một, hay tin có nhiều.

Animism: thuyết vật-linh hay vạn vật hữu linh: là tin tưởng gần như tín ngưỡng rằng tât cả những sự vật trong thiên nhiên đều có một hồn, hay thần tinh, hay thần linh trong nó ­– tin tưởng này không chỉ với sinh vật như cây cỏ, nhưng với cả những vật vô sinh, vô tri giác như ngọn đồi, hòn đá bên đường, hay những hiện tượng thiên nhiên như giòng sông, con suối, ngọn gió, tia nắng, cơn mưa. Tin tưởng này mở rộng đi đến cho rằng có một năng lực siêu nhiên vốn điều hành thế giới vật chất và đem sinh khí cho nó.

[trong – https://chuyendaudau. blogspot. com/2013/07/richard-dawkins-huyen-tuong-got. html]

[3] Polytheists người theo thuyết hay tin tưởng, hay tôn giáo Tin Nhiều Gót. Polytheism (vẫn dịch là đa thần), như đạo Hindu, đạo Phật), trái với Theism (vẫn dịch là hữu thần): tin tưởng, học thuyết, hay tôn giáo Tin Có Gót. Trong Hume, Theism: hiểutin tưởng, hay học thuyết, hay tôn giáo tin chỉ một Gót (Monotheism – vẫn dịch là độc thần) ở châu Âu – như những đạo Kitô, Juda, Islam.

[4] passion trong nguyên văn

[5] tả của Milton về Adam: trong Paradise Lost (1667) của John Milton, Adam được mô tả như một sinh vật hoàn toàn có trí khôn, được Gót tạo ra và đặt trong vướn Eden hoàn hảo. Trong Sách VIII, Adam kinh ngạc trước bầu trời và trái đất, suy ngẫm về nguồn gốc của chúng. Mô tả lý tưởng này trái ngược với con người thời ban đầu, những người, còn nguyên thủy và bận tâm đến chuyện sống còn, thiếu sự tò mò triết học như vậy.

[6] Những câu chuyện ngụ ngôn về Hercules, Theseus và Bacchus trong thần thoại Greek: (a) Hercules (Heracles): Một anh hùng sức mạnh phi thường trong Mười hai kỳ công (Thư viện của Apollodorus, Biến hình của Ovid). (b) Theseus: Người anh hùng của thành Athens đã giết quái vật Minotaur (Cuộc đời Theseus của Plutarch). (c) Bacchus (Dionysus): Thần rượu, lễ hội và khả năng sinh sản, nhắc trong Bacchae của Euripides. Những câu chuyện thần thoại này có nguồn gốc từ truyền thống truyền miệng, có thể lấy cảm hứng từ những sự kiện có thật nhưng sau đó đã được phóng đại và thần thoại hóa.

[7] the heathen world: “thế giới ngoại đạo” trong nội dung này chỉ những xã hội hoặc văn hóa thực hành tôn giáo tin nhiều gót hoặc những hình thức tín ngưỡng tôn giáo khác không dựa trên thuyết tin chỉ một Gót (tin vào chỉ một Gót). Nó không có nghĩa là “phi tôn giáo”, mà đúng hơn là ám chỉ những người theo những tôn giáo bị những người theo tín ngưỡng tin chỉ một Gót coi là “ngoại đạo” hoặc “thờ ngẫu tượng”“. Người ngoại đạo” trong lịch sử được dùng để mô tả những người không thuộc những tín ngưỡng của Abraham, đặc biệt là theo nghĩa tiêu cực hoặc xúc phạm.

[8] Tượng Laocoön và những con trai của ông : còn gọi là Nhóm Laocoön, là một trong những tác phẩm điêu khắc thời cổ nổi tiếng nhất. Tác phẩm điêu khắc bằng đá cẩm thạch, mô tả một vị tư tế thành Troy và hai con trai của ông là Antiphantes và Thymbraeus đang bị những con rắn biển do một gót nữ Greek gửi đến siết cổ. Đây là công trình tổng hợp của 3 nhà điêu khắc: Agesander, Athenodoros và Polydorus, như ghi chú của Pliny trong Natural History cho biết, nhưng tượng xuất hiện hợp nhất như một tác phẩm nghệ thuật thống nhất.

[9] Những thần Rôma và vai trò của họ: Juno được cầu khẩn trong những đám cưới (tên tiếng Greek tương đương: Hera). Lucina chủ trì việc sinh nở (Eileithyia). Thần Neptune cai quản biển cả (Poseidon). Mars là thần chiến tranh (Ares). Ceres là thần nông nghiệp (Demeter). Mercury là thần thương mại (Hermes). Việc phân chia trách nhiệm, lĩnh vực thiêng liêng này cho phép con người tìm kiếm sự giúp đỡ từ những thần linh liên quan đến những quan tâm trước mắt của họ.

[10] [ N 2. 4n1  1. Xem GHI CHÚ [YY].]

[ N 2. 4n1. 1, Bea 38

FRAGILIS & laboriosa mortalitas in partes ista digessit, infirmitatis suæ memor, ut portionibus quisquis coleret, quo maxime indigeret”. Loài người mong manh và vất vả cần cù, ý thức được chính sự yếu đuối của mình, đã chia những bận tâm của đời sống thành nhiều phần, giao cho mỗi vị thần một lĩnh vực cụ thể để đáp ứng nhu cầu của họ. - (Pliny, Natural History, Quyển II, Chương 7). Ngay từ thời Hesiod, người ta đã nói rằng có 30. 000 vị thần (Works and Days, Quyển I, Câu 250). Tuy nhiên, ngay cả con số này dường như vẫn không đủ cho những nhiệm vụ mà họ được giao. Vai trò của những vị thần được phân chia rất nhỏ, đến nỗi ngay cả còn có một vị thần chuyên lo về hắt hơi (xem Aristotle, Problems, Phần 33, Chương 7). Phạm vi nam nữ giao hợp, xét đến ý nghĩa và quan trọng của nó, cũng đã được phân chia tương tự giữa nhiều vị thần. ]

Pliny the Elder lưu ý rằng con người, nhận thức được yếu điểm của mình, đã chia trách nhiệm cho nhiều vị gót, giao cho mỗi vị một vai trò cụ thể để đáp ứng nhu cầu của họ (Natural History, Quyển 2, Chương 7). Vào thời Hesiod, người ta cho rằng có 30. 000 vị gót linh (Works and Days, Quyển 1, Dòng 250). Mặc dù có số lượng lớn như vậy, nhưng nhiệm vụ mà những vị gót linh này phải giải quyết vẫn rất lớn. Trách nhiệm được chuyên môn hóa đến mức ngay cả còn có một vị gót coi về việc hắt hơi (như Aristotle đã đề cập trong Problems, Phần 33, Chương 7). Một thí dụ về sự phân chia này là cách thức những vị gót tình yêu và sinh sản được chia thành nhiều vị gót, phản ảnh sự quan trọng của những hoạt động này trong đời sống con người. Thí dụ, những vị gót linh như Aphrodite, Eros và Priapus mỗi vị cai quản những phương diện khác nhau của tình yêu và khả năng sinh sản.

[11] prosopopœia

[12] Hamadryad : Trong thần thoại Greece, là loài tiên nữ sống trong cây (hay hồn cây). Sự sống của hamadryad gắn liền với sự sống của cây, nếu cây chết, hamadryad của cây cũng chết.

[13] Hume phê phán ý tưởng horror vacui (sự “kinh hoàng về chân không” của Aristotle) ​​và những ý tưởng tương tự, lưu ý rằng ngay cả những nhà triết học cũng nhân cách hóa vật chất vô tri với những đặc điểm như “thiện cảm” và “ác cảm”, phản ảnh khuynh hướng của con người là phóng chiếu những cảm xúc lên thiên nhiên.

[14] [ N 3. 3n2, Bea 41 1.Lib. viiii. ]

 

[15] [ N 3. 3n3, Bea 42 Những dòng sau đây của Euripides có liên quan rất nhiều với thảo luận hiện tại, và tôi không thể không trích dẫn chúng:

 Ουκ εστιν ουδεν πιςτον, ουτ ευδοξια,

 Ουτ' αν καλως πρασσοντα μη πραξειν κακως.

 Φυρουσι δ'αυθ'οι θεοι παλιν τε και προσω,

 Ταραγμον εντιθεντες, ως αγνωσια

 Σεβωμεν αυτους.     Hecuba.

Không có gì an toàn trong thế giới; không vinh quang, không thịnh vượng. những thần linh ném mọi sự sống vào hỗn loạn; trộn lẫn mọi sự vật việc với mặt đối lập của nó; rằng tất cả chúng ta, từ sự thiếu hiểu biết và không chắc chắn của mình, có thể thể hiện sự thờ phụng và tôn kính lớn hơn với họ. ]

[16] [N 3. 5n4, Bea 42 - Diod. Sic. lib. iii. ]

[17] [ N 3. 6n5, Bea 43 Lib. vii. ]

Strabo (64 TCN 24): nhà địa lý, triết gia và sử gia Greece thời cổ, nổi tiếng nhất với Geographica, một mô tả gồm 17 tập về thế giới được biết trong thời ông. Tác phẩm của Strabo cung cấp những hiểu biết giá trị về địa lý, văn hóa và lịch sử của nhiều khu vực, gồm Châu Âu, Châu Á và Châu Phi, trong Đế quốc Rôma.

[18] Người Getae: một dân tộc thời cổ, sống ở khu vực bắc sông Danube, gần Romania và Bulgaria ngày nay. Họ có quan hệ họ hàng gần với người Thracia và nổi tiếng với văn hóa chiến binh của họ. Người Getae có quan hệ với văn hóa Greece và Rome và thường được nhắc đến trong những bản văn cổ, đặc biệt là về những thực hành tôn giáo và ý thức về liên hệ chặt chẽ của họ với thần linh