Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo
(The Natural History of Religion)
David Hume
Tiết. IV.
Những vị thần không được coi như những sáng tạo hay
những hình thành của thế giới
N 4. 1, Bea 44
Điểm duy nhất của gót học, [1] trong đó chúng ta
sẽ tìm thấy một sự đồng thuận gần như phổ quát của loài người, đó là, có một quyền năng thông minh, vô hình
trong thế giới: Nhưng cho dù quyền năng này là tối cao hay phụ thuộc, dù chỉ
giới hạn trong một thực thể hay được phân phối giữa nhiều thực thể, những thuộc tính,
phẩm chất, quan hệ hay nguyên lý hành động nào phải được gán cho những thực thể
đó; liên quan đến tất cả những điểm này, có sự khác biệt lớn nhất trong những
hệ thống gót học phổ biến. Tổ tiên của chúng ta ở Châu Âu, trước khi kiến
thức và học thuật cổ điển
hồi sinh [2], cũng như chúng ta ngày nay, đã tin rằng có một Gót tối cao, tác giả
của Tự Nhiên, vị có quyền năng, dù trong
bản chất là vô hạn, không gì có thể thể kiểm soát được,
nhưng vẫn thường được thực hiện qua can thiệp của những thiên thần và những sứ giả, những người thực
hiện những mục đích thiêng liêng của ngài.
Nhưng họ cũng tin rằng toàn bộ thiên nhiên đều chứa đầy những quyền năng
vô hình khác; thần tiên, yêu tinh, elves, hồn
tinh; những sinh vật mạnh mẽ [3] và quyền năng hơn loài người, nhưng vẫn kém hơn nhiều so
với những thực thể siêu phàm
sống trong cõi thần thánh quanh ngai cao của Gót. Bây giờ,
giả sử rằng bất kỳ ai, trong những thời đại đó, đã phủ nhận sự là-có của Gót và
những thiên thần của Ngài; chẳng lẽ sự bất kính của người này xứng đáng bị gọi
là thuyết không tin có gót, mặc dù người này vẫn đồng ý, bằng một lý luận
thất thường kỳ lạ nào đó, rằng những câu chuyện phổ biến về yêu tinh và thần
tiên đều là chính đáng và có cơ sở vững chắc? Sự khác biệt, một
mặt, giữa một người như vậy và một người chân thực tin có gót thì vô cùng lớn thế,
hơn khác biệt giữa người này và người tuyệt đối loại bỏ mọi quyền năng thông minh vô hình.
Và đây là một ngụy biện,
đơn thuần từ sự giống nhau ngẫu nhiên của
những tên gọi, với
không có bất kỳ một tương đồng ý nghĩa
nào, để xếp những ý kiến trái ngược nhau như vậy vào cùng một hàng ngũ tôn giáo. [4]
N 4. 2, Bea 44
Bất kỳ ai suy ngẫm
kỹ về vấn đề này sẽ thấy rằng những vị thần của tất cả những
người tin nhiều gót đều không hay
gì hơn những yêu tinh hay tiên nữ trong văn hóa dân gian của tổ tiên chúng ta, và cũng chẳng đáng
được tôn thờ hay sùng bái hơn. Những người “làm như” có tôn giáo này đều thực sự là một loại
người vừa không tin thần linh
vừa mê tín, và không nhìn nhận bất kỳ hữu thể nào tương ứng với ý
tưởng của chúng ta về một vị thần
thực sự. Không có nguyên lý
đầu tiên nào của não thức hay tư tưởng, Không có bất kỳ thẩm quyền tối cao nào cai quản vũ trụ, Không có sự sắp đặt hay ý
định thiêng liêng nào trong cấu trúc của thế giới.
N 4. 3, Bea 45
Người Tàu, khi [5] những cầu nguyện của họ không được đáp ứng, họ đánh những thần tượng của họ. Những
thần linh của người Laplanders là bất kỳ hòn đá lớn nào họ
gặp có hình dạng khác thường [6]. Những nhà thần thoại Egypt, để giải thích cho sự tôn thờ loài vật, đã nói rằng
những vị thần, bị truy đuổi bởi bạo lực của những người trần gian, vốn đã là kẻ thù của họ, trước đây đã buộc phải tự cải trang dưới dạng giống như những con thú [7]. Caunii, một quốc gia ở Tiểu Á, nhất định không chấp
nhận bất kỳ vị thần lạ nào giữa
đám họ,
thường xuyên, cứ vào một mùa nhất định, tự tập hợp với
đầy đủ vũ khí, đánh vào không khí bằng giáo và theo cách đó tiến về những biên giới của họ; để, như họ đã nói, trục xuất những thần linh ngoại lai [8]. Một số quốc gia German nói với Cæsar rằng
ngay cả những thần linh bất tử cũng không thể sánh được với người
Suevi [9].
N 4. 4, Bea 45
Nhiều bất hạnh,
Dione nói trong Homer với Venus bị Diomede làm bị thương, nhiều bất hạnh, con
gái của ta, có những vị thần đã giáng xuống con người: Và bất hạnh, để đáp lại, con người đã giáng
xuống những vị thần [10]. Chúng ta chỉ cần mở bất kỳ tác giả cổ điển nào để gặp những hình ảnh
xúc phạm bất kính này về những thần
linh; và Longinus [11] với lý trí nhận xét rằng những ý
tưởng như vậy về bản chất thần thánh, nếu hiểu theo nghĩa đen, chứa đựng một
thuyết không tin có gót thực sự. [12]
N 4. 5, Bea 45
Một số người viết [13] đã ngạc nhiên khi thấy sự bất kính với tôn giáo của Aristophanes
không chỉ được dung thứ nhưng còn được thể hiện công khai trên sân khấu và thậm chí còn được những người Athens hoan
nghênh. Một dân chúng
cực kỳ mê tín và bảo vệ tôn giáo nhà nước của họ một cách quyết liệt đến nỗi,
cùng thời đó, họ đã kết án tử hình Socrates với giả định ông không tin
tưởng vào những vị thần của Athens. Nhưng những
người viết này không giả định rằng những hình ảnh quen thuộc, lố bịch, mà những vị
thần được nhà thơ hài hước đó miêu tả, thay vì có vẻ vô đạo, đã chính là ánh sáng
chân thực vốn trong đó người xưa hình dung về những
vị thần của họ. Còn hành vi
nào có thể tội lỗi và xấu xa hơn hành vi của Jupiter trong Amphitrion? Thế
nhưng, vở kịch đó, mô tả những chiến công hào hùng của ông, được cho là rất thú
vị với ông, khiến nó luôn được chính quyền cho trình diễn ở Rome, khi đất nước
bị bệnh dịch, nạn đói hoặc bất kỳ tai họa chung nào đe dọa [14]. Người Rome tin rằng, giống như bất kỳ kẻ phóng đãng già nua nào, Jupiter sẽ rất hài lòng khi nghe kể lại những câu chuyện về
những kỳ công với sự dũng mãnh và khí lực cường tráng
của ông trước đây, và không có đề tài nào thích ứng hơn với sự kiêu căng, tự cao tự đại
của ông.
N 4. 6, Bea 45-6
Xenophon cho biết, những người Lacedaemon (Sparta) [15] , trong thời chiến, luôn luôn
nộp những thỉnh nguyện của họ rất sớm vào buổi sáng, dành
làm trước những kẻ địch của họ, và bằng cách là những người khẩn cầu đầu tiên, họ hy vọng được lợi thế là
những vị thần sẽ thiên vị họ. Chúng ta có thể
biết từ Seneca [16], rằng những người hay
đi lễ bái trong những đền thờ, thường tìm thuyết
phục người giữ đền hay nhà thờ, để được
ngồi gần hình tượng của thần
linh. Vị trí này làm cho những lời tụng đọc kinh và cầu xin của họ có nhiều khả năng được vị thần lắng nghe và đáp ứng hơn.
Người Tyrian, khi bị Alexander bao vây, đã
quàng dây xích vào tượng Hercules để ngăn vị thần này không bỏ chạy sang bên kẻ địch [17] . Augustus, sau hai lần bị bão phá hủy hạm đội của ông, đã cấm không được rước Neptune cùng những vị thần khác;
và tưởng tượng rằng mình đã trả thù thần
này đủ bằng cách đó [18]. Cuối cùng, sau cái chết của Germanicus, dân chúng đã vô cùng tức giận
những vị thần của họ, đến nỗi họ ném đá vào họ trong những đền th, và đã công khai từ bỏ tất cả trung thành của họ với những vị thần
[19] .
N 4. 7, Bea 46
Việc gán nguồn gốc
và cơ cấu của vũ trụ cho những hữu
thể bất
toàn này không bao giờ nằm trong tưởng tượng của bất kỳ người theo tôn giáo
tin nhiều gót hay thờ linh tượng
nào. Hesiod, người có những tác phẩm của ông, cùng với những tác
phẩm của Homer, chứa đựng những tín ngưỡng và thực
hành tôn giáo được chấp nhận chính thức của những văn hóa ngoài-Kitô [20]
; Tôi nói rằng, Hesiod giả
định những thần linh và con người đều như nhau, có nguồn gốc từ những quyền năng
vô danh của tự nhiên [21]. Và trong suốt toàn bộ tường thuật về sáng tạo thần linh trong thần thoại của những tác giả đó, Pandora là trường hợp duy nhất của sự sáng tạo hay sự sinh sản tự nguyện; và người nữ ấy cũng được những
thần linh hình thành chỉ từ sự oán
giận Prometheus, người đã đem cho loài người ngọn
lửa lấy cắp từ thượng giới [22]. Quả thực, những nhà thần thoại thời cổ dường như đã chấp nhận ý tưởng
về sự sinh ra hơn là ý tưởng về sự sáng tạo hay hình thành; và từ đó giải thích
được nguồn gốc của vũ trụ này. [23]
N 4. 8, Bea 46
Ovid, người sống trong thời đại uyên bác và đã được những triết gia hướng dẫn
về những nguyên lý tạo ra hay hình thành thế giới thần thánh; nhận thấy rằng ý
tưởng như vậy sẽ không phù hợp với thần thoại phổ biến vốn ông ông đang trình bày. Kết quả là, trong một một cách nào đó, ông bỏ lại vấn
đề mơ hồ và tách biệt với hệ thống của ông. Quisquis fuit ille Deorum [24]? Ông nói rằng bất kỳ
vị thần linh nào đã xua tan sự hỗn loạn và đưa trật tự vào trong vũ trụ.
Đó không thể là Saturn, ông
biết, không là
Jupiter, không là Neptune, không là bất kỳ vị thần linh truyền thống nào
của của giới
ngoại đạo. Hiểu biết của
ông về thần linh học đã không đưa ra một trả lời, vì vậy ông cũng cố tình để
câu hỏi bỏ ngỏ, không giải quyết.
N 4. 9, Bea 46-7
Diodorus Siculus [25], bắt đầu tác phẩm của ông
bằng một liệt kê những ý kiến hợp lý nhất liên quan đến nguồn gốc của thế giới,
nhưng không nhắc đến một vị thần hay một thế lực chỉ đạo thông minh nào đằng
sau sự sáng tạo. Sự vắng mặt này rất đáng chú ý, đặc biệt là vì rõ ràng từ
những tác phẩm của ông rằng ông có khuynh hướng thiên về mê tín hơn là hoàn
toàn không-tôn giáo. Và trong một đoạn văn khác [26], khi nói về Ichthyophagi, một dân tộc ở India, ông nói
rằng, có quá nhiều khó khăn trong việc giải thích nguồn gốc của họ, chúng ta
phải kết luận họ là những
thổ dân, không có bất kỳ
khởi đầu nào cho sự sinh thành
của họ, họ sinh sản truyền giống từ vĩnh viễn vô thủy vô chung, như một số nhà tư tưởng thời cổ khi nghiên cứu về nguồn gốc của thiên
nhiên đã nhận xét đúng. Nhưng trong những đề tài như thế này, nhà sử học cho
biết thêm, vốn vượt quá mọi khả năng của con người, rất có thể những người nói viết nhiều nhất lại biết
ít nhất; đạt đến một vẻ ngoài giả tạo của sự thật,
nhưng lại quá xa vời với sự thật thực tại và vấn đề đích
thực.
N 4. 10, Bea 47
Có thể chúng ta thấy kỳ lạ khi một người một người tự nhận
có tôn giáo sâu xa
và nhiệt thành lại
chấp nhận quan điểm như vậy ! [27] Tuy nhiên, vào thời cổ, câu hỏi về nguồn gốc của thế
giới ban đầu không phải là một phần của học thuyết tôn giáo, cũng không phải là
chủ yếu được những nhà thần học giải quyết. Thay vào đó, chính những nhà triết
học đã đảm nhận nhiệm vụ phát triển những giải thích về nguồn gốc của vũ trụ. Trong thực tế, chỉ sau một
thời gian đáng kể, một số nhà triết học này mới bắt đầu đưa ra ý tưởng về một
trí tuệ tối cao hoặc trí tuệ thần thánh là nguyên nhân đầu tiên của tất cả. Vào thời đó, không
có cảm thức bất kính vô đạo khi đưa ra những giải thích theo thuyết tự nhiên về nguồn
gốc của vũ trụ nhưng không viện dẫn
đến một vị gót. Những nhà triết học như Thales,
Anaximenes và Heraclitus, những người đưa ra những thuyết như vậy, đã làm như vậy
nhưng không phải đối mặt
với bất kỳ buộc tội nào về bất kính; trong khi
Anaxagoras, chắc chắn là người tin có gót đầu tiên trong số những triết gia, rớ
trêu thay, lại là người bị buộc tội không tin có gót. [28] Điều này cho thấy sự nhạy cảm về tôn giáo xung quanh
điều tra như vậy đã phát triển theo thời gian, thay vì vốn có trong chính chủ đề
này.
N 4. 11, Bea 47-8
Sextus Empiricus [29] cho chúng ta biết rằng Epicurus, khi còn là một đứa trẻ, đọc với thầy của
mình những câu thơ này của Hesiod ,
Thực thể lớn tuổi nhất, Hỗn mang đầu tiên nảy sinh;
Trái
đất tiếp theo, trải rộng, chỗ ngồi của tất cả: [30]
Học giả trẻ này lần đầu tiên cho thấy có óc hiếu kỳ thiên tài của ông,
bằng việc hỏi, Và hỗn loạn từ đâu ra? Nhưng người thầy của ông đã nói
rằng ông phải nhờ đến những nhà triết học để giải quyết những câu hỏi như vậy. Và
từ gợi ý này, Epicurus đã rời bỏ môn ngữ văn và tất cả
những nghiên cứu khác, để dấn thân vào khoa
học đó, nơi nhưng chỉ nhờ đó ông mong đợi được hài lòng với những
đề tài cao cả này.
N 4. 12, Bea 48
Những người bình
thường không bao giờ có khả năng đẩy những nghiên cứu của họ đi xa như vậy, hay
bắt nguồn từ việc lý luận những
hệ thống tôn giáo của họ; chúng ta thấy rằng khi những nhà triết học và
thần thoại học hiếm khi tìm ra thâm nhập sâu xa đến vậy. Và ngay cả những triết
gia, những người thảo luận về những đề tài như vậy, cũng sẵn sàng đồng ý với lý
thuyết thô thiển nhất, và nhìn nhận nguồn gốc chung của những thần linh và con
người là từ bóng đêm và sự hỗn loạn; từ lửa, nước, không khí, hay bất cứ thứ gì
họ xác lập là nguyên tố thống trị
của vũ trụ. [31]
N 4. 13, Bea 48
Cũng không phải chỉ
ở nguồn gốc đầu tiên của họ mà những thần linh được cho là phụ thuộc vào
sức mạnh của tự nhiên. Trong suốt thời gian tồn tại của họ, họ phải chịu sự thống
trị của số phận hay định mệnh. Hãy nghĩ đến quyền năng cần
thiết, Agrippa nói với dân chúng Rôma, quyền năng đó mà ngay cả những thần linh cũng phải phục tùng [32]. Và Pliny
người trẻ tuổi [33], đồng ý với cách suy nghĩ này, nói với chúng ta rằng giữa bóng tối,
kinh hoàng và hỗn loạn xảy ra sau lần
phun lửa đầu tiên của Vesuvius, một số người đã kết luận rằng
toàn bộ thiên nhiên sẽ bị tàn phá, và rằng những thần linh và con người diệt
vong trong một đống đổ nát chung.
N 4. 14, Bea 48
Thật là một sự dễ dãi lớn lao, nếu chúng
ta tôn vinh một hệ thống thần học không toàn hảo như vậy bằng cái tên tôn
giáo, và đặt nó ngang hàng với những hệ thống sau này, vốn được xây dựng
trên những nguyên lý công bằng hơn và cao cả hơn. Phần
tôi, tôi khó có thể nhìn những nguyên lý
ngay cả của Marcus Aurelius, Plutarch và một số nhà Khắc kỷ và những người phái Plato khác, mặc dù tinh tế hơn nhiều so với sự mê tín ngoại đạo, là xứng đáng với danh
hiệu tin có gót. Vì nếu thần thoại học của những người
ngoài-tôn giáo, có thể được so sánh với hệ thống những hữu thể tinh thần thời cổ của châu Âu, ngoại
trừ Gót và những thiên thần, thay vào đó tập trung vào những tiên nữ và
những thần tinh; thì triết lý của những nhà tư tưởng này cũng có thể
được mô tả tương tự như bỏ qua một vị thần và chỉ nhìn nhận những sinh vật
giống như những thiên thần và tiên nữ.
Tiết V.
Những hình thức khác nhau của Ý tưởng Tin Nhiều Gót: Ẩn dụ, Thờ-Anh Hùng
N 5. 1, Bea 49
Nhưng chủ yếu công
việc hiện tại của chúng ta là xem xét thuyết tin-nhiều-gót thô thiển của những người ít học, và truy tìm những biểu hiện khác nhau của nó đến những nguyên lý trong bản chất con
người vốn nó bắt nguồn từ đó.
N 5. 2, Bea 49
Bất kỳ ai là người tìm học bằng luận cứ, sự là-có của quyền năng thông minh vô hình. phải suy luận từ sự sáng chế đáng ngưỡng phục
những vật thể tự nhiên, và phải giả
định rằng thế giới là tạo phẩm tài ba của đấng thiêng
liêng đó, nguyên nhân nguyên
thủy của vạn vật. Nhưng những người theo thuyết tin
nhiều thần linh thông tục, không chấp nhận ý tưởng của một sức mạnh thần
thánh thông minh vô hình, là đấng sáng tạo vạn vật, thay vào đó coi
mỗi phần của vũ trụ như một vị thần riêng biệt. Họ tưởng
tượng rằng những
đặc điểm hữu hình và nổi bật của tự nhiên chính là những vị
thần thực sự. Mặt trời, mặt trăng và những vì sao, đều là những
thần linh trong hệ thống của những
người này: Suối nước nguồn sông
là nơi những nữ thần trú
ngụ và cây cối là nơi những hamadryad sinh sống. Ngay cả những động
vật như khỉ, chó và mèo cũng thường trở nên thiêng liêng trong mắt những người theo
thuyết tin chỉ một Gót thường tục, và gây cho họ gây ấn tượng tôn kính. Và do đó, dù khuynh hướng tin vào quyền năng thông minh vô
hình trong tự nhiên của con người mạnh mẽ đến đâu, khuynh hướng tập trung chú ý
của họ vào những vật thể hữu hình, nhạy
cảm dễ thấy,
cũng mạnh mẽ không kém; và để dung hòa những khuynh hướng đối lập này,
họ được dẫn đến sự kết hợp quyền năng vô hình với một số vật thể hữu hình.
N 5. 3, Bea 49-50
Việc phân phối
những phạm vi riêng biệt
cho những vị thần khác nhau cũng có khuynh hướng khiến
một số ẩn dụ, cả về vật chất lẫn đạo đức, đi vào những
hệ thống của tôn giáo tin-nhiều-gót thông tục. Thầnchiến tranh đương nhiên sẽ được mô tả là hung dữ, tàn nhẫn và bốc đồng: Thầnthi ca là thanh lịch, lịch
sự và đáng yêu: Thầnthương
mại, đặc biệt là trong thời kỳ đầu, là kẻ trộm cắp và
lừa dối. Tôi nhìn nhận rằng những ẩn dụ, được cho là trong Homer và những nhà thần thoại khác, thường rất gượng ép, đến nỗi những
người có lý trí có khuynh hướng hoàn toàn bác bỏ chúng và coi chúng chỉ là sản
phẩm của tưởng tượng và tự phụ của những nhà phê bình và bình luận. Nhưng những câu chuyện ẩn dụ đó
thực sự có chỗ đứng trong thần thoại ngoại giáo, là điều không thể
phủ nhận ngay cả khi ít suy ngẫm nhất. Cupid con trai của thần Venus; Muses
là những con gái của Ký ức; Prometheus, người anh
khôn ngoan và Epimetheus người
em dại
dột; Hygieia hay nữ thần sức
khỏe có nguồn gốc từ Æsculapius hay thần y học: Ai lại không nhìn
thấy, trong những trường hợp này và trong nhiều trường hợp khác, những dấu vết hiển nhiên của câu chuyện ẩn
dụ? Khi một vị thần được cho là chủ trì bất kỳ tình cảm, sự kiện hay hệ thống
hành động nào, hầu như không thể tránh khỏi việc cung cấp cho vị này một phả hệ, những thuộc tính và phiêu
lưu, phù hợp với quyền năng và ảnh hưởng được cho là của vị này; và tiếp tục sự
giống nhau và so sánh đó, vốn
tự nhiên rất dễ chịu và với suy nghĩ của một người.
N 5. 4, Bea 50
Quả thực, những ẩn
dụ hoàn toàn toàn hảo, chúng ta không nên mong đợi chúng như những sản phẩm của ngu
muội và mê tín; không có tác phẩm nào của thiên tài đòi hỏi một bàn tay khéo
léo hơn, hoặc hiếm khi được thực hiện thành công hơn. Rằng Sợ hãi và Khủng bố là những đứa con của Mars là chính đáng;[34] nhưng tại sao mẹ là Venus? [35]Rằng Harmony
là con gái của Venus là bình thường;
nhưng tại sao cha là Mars [36] ? Rằng Ngủ là anh của ThầnChết thì phù hợp; nhưng tại
sao lại mô tả Thần Ngủ
như là người say
mê một trong những nữ thần
Duyên dáng [37]? Vì những người sáng tạo và diễn giải thần thoại thời cổ thường mắc
phải những lỗi hiển nhiên và rõ ràng
như vậy, nên chúng ta không nên mong đợi
thần thoại của họ chứa đựng những ẩn dụ phức tạp, được trau chuốt kỹ lưỡng, bất
chấp cố gắng của một số người nhằm diễn giải những câu chuyện của họ theo cách
chi tiết và tinh vi như vậy.
N 5. 5, Bea 50
Lucretius [38] rõ ràng đã bị cuốn
hút bởi những phẩm chất ẩn dụ hấp dẫn có trong thần thoại ngoại giáo. Ông bắt
đầu bằng đề cập đến Venus, không chỉ như
một vị thần của tôn giáo phổ thông
nhưng còn như hiện thân tượng trưng của sức mạnh sinh sản sinh động, đổi mới và
làm đẹp vũ trụ. Tuy nhiên, ông sớm bị dẫn đi lạc bởi những đòi hỏi của thần
thoại, rơi vào những mâu thuẫn khi ông kêu gọi nhân vật ngụ ngôn này để xoa dịu thịnh nộ của
người tình của nàng, Mars. Ý
niệm này, bắt nguồn từ những huyền thoại truyền thống của tôn giáo phổ
biến hơn là ngụ ngôn, trái ngược với lập trường triết học của Lucretius với tư
cách là một người theo thuyết
Epicurus – một thế giới quan không cho phép chấp nhận sự can thiệp của
thần thánh theo nghĩa đen như vậy.
N 5. 6, Bea 50
Những vị thần của
giới quần chúng bình dân, ít học đều không ưu việt hơn con người là mấy. Khi cá nhân cảm nhận sự tôn kính hay biết ơn mạnh mẽ với
một anh hùng hay ân nhân của công chúng, thì việc nâng người đó lên địa vị của một vị
thần dường như là điều tự nhiên, cho theo cách này, làm đầy vòm trời với liên tiếp những thầnmới từ hàng ngũ loài người. Hầu hết những vị thần trong những nền văn hóa
thời cổ đều đã giả định từng là những con người, đạt được địa vị thần
thánh của họ nhờ sự ngưỡng mộ và kính yêu của mọi người. Theo
thời gian, lịch sử thực sự của những
phiêu lưu của họ đã được truyền thống nhào
nặn, và được những điều kỳ diệu nâng cao, trở thành
một nguồn truyện ẩn dụ phong phú; đặc biệt là qua bàn tay của những nhà thơ,
nhà ẩn dụ và giáo sĩ, những người liên tiếp cải thiện sự ngạc nhiên và kinh
ngạc của đám đông ngu muội,
tạo ra mảnh đất màu mỡ cho huyền thoại. Quá trình này đặc biệt được
khuếch đại khi những câu chuyện được truyền qua tay những nhà thơ, nhà ngụ ngôn
và giáo sĩ, những người
liên tục cải thiện trên sự ngạc nhiên và kinh ngạc của đám đông thiếu học thức.
N 5. 7, Bea 50-1
Những họa sĩ và nhà điêu khắc cũng tham
dự vào chia sẻ lời lãi từ những bí ẩn thiêng liêng; và trang bị cho con người những đại diện
hợp lý về thần thánh của họ, những hình ảnh biểu tượng có thể hiểu được về những vị thần của họ, những người mà họ khoác lên mình hình dáng con
người, đã tạo ra gia tăng lớn lao cho lòng sùng kính của công chúng và xác định
đối tượng của nó. Có lẽ chính vì thiếu những nghệ thuật này trong những thời hoang sơ và man rợ khiến con người đã thần
thánh hóa thực vật, động vật và ngay cả vật chất thô sơ, vô tổ chức; và thay vì không có
đối tượng thờ cúng hợp lý, họ đã gắn thần thánh vào những hình dạng vụng về như
vậy. Có lẽ bất kỳ bức tượng nào những
nghệ nhân vùng đất Syria, trong thời kỳ đầu, có thể tạo thành hình tượng chính xác hơn
hoặc lý tưởng hơn của Apollo, thì viên đá hình nón tượng trưng cho Heliogabalus (một vị thần
mặt trời được tôn thờ trong khu vực), chưa bao giờ trở thành đối tượng của sự
tôn thờ sâu xa như vậy và được coi là đại diện của thần mặt trời [39].
N 5. 8, Bea 51
Stilpo bị hội đồng Areopagus trục xuất vì khẳng định rằng Minerva trong thành phố thì không là thần linh;
nhưng là tác phẩm của Phidias, nhà điêu khắc [40]. Chúng ta phải mong đợi lý trí ở mức độ nào trong tin tưởng tôn giáo
của những người ít học, thông tục trong những quốc gia khác; khi người Athen và người Areopagite có thể giữ trong đầu những khái niệm thô thiển như
vậy?
N 5. 9, Bea 51
Sau đó, những nguyên lý
tổng quát của tôn giáo tin nhiều gót
này, đã
hình thành trong bản chất con người, và rất ít hay không phụ thuộc gì vào sự bất thường và ngẫu
nhiên. Vì những nguyên nhân, vốn ban cho hạnh phúc hay giáng xuống đau khổ, trong tổng
quát, được biết rất ít và rất không chắc chắn, nên quan tâm lo
lắng của chúng ta cố gắng để
đạt được một ý tưởng xác định về chúng; và không thấy một cách nhanh chóng nào phù hợp hơn là biểu tượng hóa chúng, diễn đạt gián
tiếp bằng hình ảnh, như những tác nhân tự nguyện thông
minh, giống như chúng ta; chỉ vượt trội hơn một chút về quyền năng và trí tuệ. Ảnh
hưởng giới hạn của những tác nhân này, và sự gần gũi quá lớn của chúng với sự
yếu đuối của con người, đưa đến sự phân phối và phân chia quyền năng khác nhau
của chúng; và do đó làm nảy sinh những
câu chuyện ẩn dụ. Cùng
những nguyên lý tương tự tự nhiên thần thánh hóa những con người có sống chết, vượt trội về sức
mạnh, lòng can đảm hay sự hiểu biết và tạo ra sự tôn thờ anh hùng; cùng với
lịch sử huyền thoại và truyền thống thần thoại, trong mọi hình thức không kềm đến cực đoan và khó hiểu của nó. Và một
tinnh thần thông minh vô hình như
một đối tượng quá tinh tế để có thể hiểu được một cách thường tục, nên
con người tự nhiên gắn nó với một số
biểu tượng nhạy cảm nào đó; chẳng hạn
như những phần đập vào chú ý của thiên nhiên, hay
những bức tượng, hình ảnh và tranh vẽ, vốn một thời đại già dặn tinh tế hơn hình thành những thần linh của nó.
N 5. 10, Bea 51
Hầu hết tất cả
những người thờ linh tượng, dù ở độ tuổi hay quốc gia nào, đều đồng tình với
những nguyên lý và khái niệm tổng quát này; và ngay cả những đặc điểm và địa phận cụ thể mà họ
gán cho những thần linh của mình cũng không quá khác biệt [41]. Những nhà lữ hành và chinh phục Hellas và Rôma, không gặp nhiều khó khăn, đã tìm thấy những thần linh
riêng của họ ở mọi nơi; và nói: Đây là Mercury, kia là Venus; Mars này, Neptune kia ; những thần linh kỳ lạ có thể được gọi bằng bất cứ danh hiệu nào. Theo Tacitus [42] nữ thần Hertha của tổ tiên người Saxon của chúng ta dường
như không ai khác, chính là Mater Tellus của người Rôma ; và phỏng đoán của ông rõ ràng là phải. [43]
Tiết VI.
Nguồn gốc của Ý
tưởng Tin-Một-Gót từ Ý
tưởng Tin-Nhiều-Gót.
N 6. 1, Bea 52
Học thuyết về một vị
thần tối cao, tác giả của tự nhiên, rất cổ xưa, đã tự lan truyền khắp
những quốc gia lớn và đông dân, và trong số đó đã được mọi tầng
lớp và hoàn cảnh của con người đón nhận: Nhưng bất kỳ ai nghĩ rằng sự lan truyền rộng rãi của tin tưởng vào một vị thần tối cao là do sức
mạnh của những lập luận thuyết phục, hay nền tảng lôgích của nó,
sẽ cho thấy chính người này
không biết nhiều ngay cả về sự thiếu hiểu biết và ngu dại của dân chúng thường,
cũng như những thành kiến không thể nào chữa được của họ trong việc ưa chuộng những mê tín cụ thể
của họ. Ngay đến tận ngày nay, và ở châu Âu, hãy hỏi bất kỳ người
thông tục nào rằng tại sao người
này lại tin vào một đấng sáng tạo toàn năng của thế
giới; người này sẽ không bao giờ đề cập đến cái đẹp của những nguyên nhân cuối cùng vốn người này hoàn toàn
không biết: người này sẽ không đưa tay ra và mời bạn chiêm ngưỡng sự
mềm mại và đa dạng của những khớp ngón tay người này, chúng uốn cong cùng theo một hướng, sự
đối trọng vốn chúng nhận từ ngón cái, sự mềm mại và những phần thịt ở bên trong bàn
tay của người này, cùng với tất cả những trường
hợp khác, khiến bộ phận đó phù hợp với mục đích vốn nó đã được định sẵn để đem dùng. Người này đã quen với những
sự việc này từ lâu rồi; và người này nhìn chúng với thờ ơ và vô tâm. Người này
sẽ kể cho bạn nghe về một
cái chết đột ngột và bất ngờ của một người như vậy: Cái ngã và vết bầm tím
của một người khác: Nạn hạn hán quá mức của mùa này: Cái lạnh và những cơn mưa của mùa khác. Những sự việc này, người này gán cho hoạt động trực tiếp
tức thời của sự hướng dẫn và cai quản những sự kiện của
Gót với thế giới và những sự kiện trong đó. Và những sự kiện
như vậy, với những nhà lý luận giỏi, là những khó khăn chính trong việc nhìn nhận một trí thông
minh tối cao, như với người này là những lập luận duy nhất cho điều đó.
N 6. 2, Bea 52-3
Nhiều người tin chỉ
một Gót , ngay cả những người nhiệt thành và tinh tế nhất, đã phủ nhận một sự
hướng dẫn và cai quản cụ thể của Gót với thế giới và
những sự kiện trong đó, và đã khẳng định rằng Trí tuệ Trị vì Tối Cao hay nguyên lý đầu tiên của vạn vật, có những quy luật tổng quát
cố định, theo đó thiên nhiên được cai
quản, cho những quy luật này tiến hành tự do và không gián đoạn, và không hề làm xáo
trộn trật tự cố định, ở mọi thời
gian, của những sự kiện theo những ý định cụ thể. Họ nói rằng
từ liên hệ tốt đẹp và việc tuân giữ nghiêm ngặt những quy luật đã thiết lập,
chúng ta rút ra luận chứng chính cho tin
tưởng của tin chỉ một Gót; và từ cùng những nguyên lý
tương tự khiến đều có thể trả lời những phản
đối chính chống lại nó. Nhưng nhìn tổng quát loài người hiểu điều này rất ít,
đến nỗi bất cứ khi nào họ quan sát thấy bất kỳ ai gán mọi sự kiện cho những
nguyên nhân tự nhiên và loại bỏ sự can thiệp cụ thể của một vị thần, thì họ có
khuynh hướng nghi ngờ người đó về hình thức cực đoan nhất của hoài nghi hay thiếu tin tưởng tôn giáo. Một chút triết lý, Bacon nói, sẽ khiến con người thành những người không tin có gót: Một phần lớn sẽ hòa giải họ với tôn giáo. Đối với con người, do những thành kiến mê tín được dạy dỗ, đặt trọng
tâm vào sai chỗ; khi điều đó làm họ thất bại, và qua một chút suy ngẫm, họ tìm
ra rằng tiến trình tự nhiên là đều đặn và đồng nhất, toàn bộ tin tưởng tôn giáo
của họ lung lay và rơi vào
tình trạng hủy hoại. Nhưng khi được dạy, bằng cách suy ngẫm nhiều hơn,
rằng chính sự đều đặn và đồng nhất này là bằng chứng mạnh mẽ nhất về sự thiết
kế và trí thông minh tối cao, họ quay trở lại với tin tưởng mà họ đã từ bỏ; và
giờ đây họ có thể thiết lập nó trên một nền tảng vững chắc và bền vững hơn.
N 6. 3, Bea 53
Những xáo trộn hoặc
biến động dữ dội trong thế giới tự nhiên, những rối loạn, những điều kỳ diệu,
những phép lạ, dù trái ngược nhất với kế hoạch của một người quản lý khôn
ngoan, vẫn gây ấn tượng với loài người bằng những tình cảm tôn giáo mạnh mẽ
nhất; nguyên nhân của những biến
cố khi
đó dường như là điều chưa được biết đến và khó giải thích nhất. Sự điên
rồ, cuồng nộ, thịnh nộ và trí tưởng tượng bùng cháy, mặc dù chúng nhận chìm con người
xuống gần bằng với mức độ của loài thú, nhưng vì một lý do tương tự, thường đã giả định là những khuynh hướng
duy nhất trong đó chúng ta có thể giao tiếp trực tiếp với Gót Tối cao.
N 6. 4, Bea 53
Do đó, về tổng thể,
chúng ta có thể kết luận rằng, trong những xã hội đã chấp nhận thuyết tin chỉ
một Gót, dân chúng thường (được gọi là “người thông tục”) vẫn tiếp tục
dựa tin tưởng tôn giáo của họ vào những ý tưởng phi lý và mê tín. Tin tưởng của họ vào thuyết tin
chỉ một Gót không phải là kết quả của lý luận lôgích hay lập luận, nhưng đúng hơn là xuất
phát từ suy nghĩ phù hợp hơn với khuynh hướng tự nhiên và khả năng trí tuệ của
họ. Phương pháp nghiên cứu giải quyết này để hiểu thế giới ít liên quan đến
phân tích chi tiết nhưng liên quan nhiều hơn đến bản năng, truyền thống và suy nghĩ tình cảm hay trực giác.
N 6. 5, Bea 53-4
Điều có thể sẵn sàng xảy ra, trong
một quốc gia thờ linh tượng, rằng
mặc dù con người nhìn nhận sự là-có của nhiều những vị thần có quyền
năng và phạm vi cụ thể, giới hạn, nhưng vẫn có một Gót duy nhất mà họ lấy làm
đối tượng cho sự thờ phụng và tôn kính trong một cách thức đặc biệt. Hoặc họ có thể giả định, rằng trong sự phân phối quyền năng và cương vực giữa những vị thần, quốc
gia của họ đã là đối tượng cai quản của vị thần cụ thể đó; hay giản lược những vật thể trên trời xuống thành mô hình của
những sự vật dưới trần, chúng có thể đại diện cho một vị thần như một ông hoàng hay một quan tòa tối cao
của những thầncòn lại, những
vị này, mặc dù có cùng bản chất, cai trị những vị
thần khác này bằng một uy quyền, giống như uy quyền một vị vua
trần gian với thần dân và chư hầu của vị vua này. Do đó, cho dù vị thần này được coi là người hộ trì đặc biệt của họ hay
là vị vua chung của thiên đường, những người sùng bái vị này sẽ cố gắng, bằng
mọi cách, luồn lách tìm vào ưu ái của vị này; không tiếc công sức lấy lòng vị này, nghĩ rằng,
giống như họ, vị này thích được ca ngợi và
nịnh hót. Không có ca ngợi hay cường điệu nào quá lớn lao, phải gạt bỏ, trong những phát biểu của họ
với vị này. Khi sợ hãi hay đau khổ của con người trở nên cấp thúc hơn, họ vẫn phát
minh ra những kiểu tâng bốc mới; và ngay cả người vượt trội người đi trước trong việc tôn cao
danh hiệu thần thánh của họ, chắc chắn cũng sẽ bị người đến sau vượt qua trong
những ca ngợi mới hơn và khoa trương hơn. Cứ thế họ đã tiến hành; cho đến
cuối cùng, họ đi đến tự thân khái niệm của vô hạn [44], vượt qua đó không thể tiến triển xa hơn nữa. Thật may mắn nếu, trong cố gắng vượt
qua điểm này và biểu tượng một giản
dị tuyệt vời, họ không sa vào sự bí ẩn không thể giải thích được, qua đó hủy hoại bản chất thông minh của vị
thần của họ, vốn chỉ trên một mình bản chất
duy nhất đó, có thể
tạo thành cơ sở cho bất kỳ tôn thờ hoặc sùng bái hợp lý nào. Trong khi họ tự giới hạn mình trong khái niệm về một
hữu thể toàn hảo, đấng sáng tạo ra thế giới, họ trùng hợp, một cách tình cờ, với những nguyên lý của lý trí và triết học chân chính; mặc
dù họ được
dẫn đến khái niệm đó, không bằng lý trí, vốn phần lớn là họ không có khả năng, nhưng bằng sự tâng bốc và sợ hãi của sự mê tín thông tục nhất.
N 6. 6, Bea 54
Chúng ta thường
thấy, giữa những quốc gia man rợ, và ngay cả đôi khi giữa những quốc gia văn
minh, một khi tất cả những đức tính và phẩm chất của con người của những người
cai trị tùy tiện đã được tung
hô ca ngợi ở mức độ cao nhất, những triều thần có thể
nâng những nhân vật này, thậm chí trái với lý trí, lên địa vị của những vị thần , trình bày họ với
mọi người như những vị thần xứng đáng được tôn thờ. Vậy thì, tự nhiên hơn biết
bao, khi một vị thần hữu hạn, lúc đầu chỉ được cho là tác giả trực tiếp của
những điều tốt lành và bất hạnh trong đời
sống, cuối cùng lại được coi là đấng sáng tạo và điều chỉnh tối cao của
vũ trụ?
N 6. 7, Bea 54
Ngay cả trong những
trường hợp mà ý tưởng về một vị thần tối cao đã được thiết lập tốt, thì về mặt
lý thuyết, tin tưởng này sẽ làm giảm sự tôn thờ những vị thần hoặc những thần
thánh thấp, nhỏ hơn. Tuy nhiên, khi một quốc gia chấp nhận tin tưởng vào một vị
thần hộ trì thấp, nhỏ thấp hơn, thánh hoặc thiên thần, lòng sùng kính của họ với
những nhân vật này dần tăng lên, cuối cùng làm lu mờ sự tôn thờ dành cho vị
thần tối cao. Thí dụ, trước khi đạo Phản thể giới hạn những tập tục như vậy, Đức
Mẹ Đồng Trinh Maria đã chuyển từ việc chỉ được coi là
một người phụ nữ đức hạnh sang được cho là có nhiều quyền năng thiêng liêng,
thực sự chiếm đoạt một số thuộc
tính của Đấng toàn năng. Ở Rusia , dân chúng (được gọi là người
Muscovite) thường cầu khẩn cả Gót và Thánh Nicholas trong những cầu nguyện và
thỉnh cầu của họ, coi trọng cả hai như nhau. [45]
N 6. 8, Bea 54
Vì vậy, vị thần ,
vì tình yêu, đã biến mình thành một con bò đực để bắt cóc Europa, và bị thúc
đẩy bởi tham vọng, đã lật đổ cha mình là Saturn, đã được coi là Optimus
Maximus, vị thần tối cao của những người ngoại đạo (người Rôma). Tương tự như vậy,
Gót của Abraham, Isaac và Jacob, ban đầu là một vị thần bộ lạc, đã trở thành
Jehovah, vị thần duy nhất, toàn năng của người Jew. Những thí dụ này cho thấy
cách những vị thần , thường có những đặc điểm và câu chuyện giống con người,
phát triển thành những nhân vật có sức mạnh tối thượng và được tôn kính trong
văn hóa tương ứng của họ. Những gì bắt đầu như một vị thần địa phương hoặc cá
nhân hơn thường vươn lên đến địa vị tối cao, dần dần vượt qua những vị thần
hoặc nhân vật thờ phụng nhỏ hơn.
N 6. 9, Bea 54
Những người Jacobins, những người phủ nhận khái niệm “vô nhiễm nguyên tội” [46], đã từng rất không hài lòng với học thuyết của họ, mặc dù những lý do
chính trị đã khiến nhà thờ Rôma không lên án nó. Cordeliers
đã bỏ chạy với tất cả sự nổi tiếng. Nhưng vào thế kỷ 15,
như chúng ta học được từ Boulainvilliers [47], một người Ý Cordelier khẳng định
rằng, trong ba ngày, khi Gót Kitô được an táng, sự
hợp nhất ngôi vị đã bị giải thể, và rằng
bản chất con người của Ngài không phải là đối tượng thích hợp để tôn thờ
trong thời kỳ đó. Nếu không có nghệ
thuật của “cầu cơ bói toán”, người ta có thể
báo trước, rằng một báng bổ thông tục và vô đạo đến vậy sẽ không thể bị dân chúng nguyền rủa. Đó là
dịp những người theo thuyết Jacobins bị xúc phạm nặng nề ;
những người bây giờ đã nhận được một số đền bù cho những bất hạnh của họ trong
cuộc chiến tranh về sự “thụ thai vô nhiễm”.
N 6. 10, Bea 55
Thay vì từ bỏ
khuynh hướng nịnh nọt này, những người theo tôn giáo, ở mọi thời đại, đã dấn
thân vào những điều phi lý và mâu thuẫn lớn nhất.
N 6. 11, Bea 55
Homer, trong một đoạn văn, gọi Oceanus và Tethys là cha mẹ nguyên thủy của vạn vật, phù hợp với thần
thoại và truyền thống đã được thiết lập của người Hellas : Tuy
nhiên, trong những đoạn văn khác, ông không thể không khen ngợi Jupiter, vị thần trị vì, với danh hiệu tráng lệ đó; và theo
đó gọi vị này là cha của những thầnvà loài người. Ông quên rằng mọi đền
thờ, mọi không gian công cộng đều đầy rẫy những tổ tiên, chú bác,
anh chị em của thần Jupiter này;
vị trong thực tế, không là gì khác hơn những chỉ là kẻ giết cha và tiếm quyền mới nổi. Một mâu thuẫn tương tự có thể thấy
trong Hesiod
; và càng ít có thể bào chữa được, vì ý định được tuyên bố của ông là
cung cấp một phả hệ thực sự của những vị thần. [48]
N 6. 12, Bea 55
Nếu có một tôn giáo nào đó (và chúng ta
có thể nghi ngờ Islam về sự bất nhất này) đôi khi vẽ Thần linh bằng những màu
sắc siêu phàm nhất, như là đấng sáng tạo ra trời và đất; đôi khi hạ thấp vị này xuống gần ngang
hàng với những tạo vật con người về sức mạnh và khả năng; đồng thời nó gán cho vị này những tật nguyền, tình
cảm và thiên vị thích hợp, thuộc loại đạo đức: Tôn giáo đó, sau khi tuyệt chủng, cũng sẽ được
trích dẫn như một thí dụ của
những mâu thuẫn đó, phát sinh từ những khái niệm thô thiển, thông tục, tự nhiên của con người, phản lại với khuynh hướng
liên tục của họ về xu nịnh và cường điệu. Thực sự, không có gì có thể chứng minh mạnh mẽ
hơn về nguồn gốc thiêng liêng của bất kỳ tôn giáo nào hơn là tìm ra (và may mắn thay, đây là trường hợp
của đạo Kitô) rằng nó không có những
mâu thuẫn vốn có trong bản chất con người. [49]
Tiết VII.
Xác
Nhận Học Thuyết Này.
N 7. 1, Bea 56
Có vẻ chắc chắn
rằng, mặc dù những khái niệm ban đầu của những người thông
tục trình
bày Thần thánh như một hữu thể hữu hạn
và coi vị này chỉ như nguyên nhân cụ
thể của sức khỏe hay bệnh tật, sự sung túc hay khan hiếm,
thành công hay bất hạnh; Tuy nhiên, họ cảm thấy buộc phải chấp nhận những ý
tưởng huy hoàng lộng lẫy hơn về thần thánh khi những ý tưởng này được trình
bày với họ, vì sợ rằng sẽ liều
lĩnh hoặc bất kính nếu từ chối những quan niệm cao cả
như vậy. Liệu bạn có nói rằng vị thần của bạn
là hữu hạn và bị giới hạn trong sự toàn hảo của Ngài; có thể bị khuất phục bởi
một quyền năng lớn hơn; phải chịu những tình cảm, đau đớn và bệnh tật của con người; có
sự bắt đầu và có thể có sự kết thúc? Điều này họ không dám khẳng định; nhưng
nghĩ rằng cách an toàn nhất là tuân theo những lời khen ngợi cao hơn, họ cố
gắng, bằng sự say mê và tận tâm một cách giả tạo, để lấy lòng vị này. Để xác nhận điều này, chúng ta có thể nhận thấy rằng sự đồng ý của
những người thường tục, trong trường hợp này, chỉ đơn thuần là bằng lời nói, và
rằng họ không có khả năng lĩnh hội được những phẩm chất cao siêu mà dường như
họ gán cho Thần linh. Ý tưởng thực sự của họ về vị này, bất chấp ngôn ngữ
khoa trương của họ, vẫn nghèo nàn và phù phiếm hơn bao giờ hết.
N 7. 2, Bea 56-7
Rằng Trí thông minh
nguyên thủy, theo lời của những giáo sĩ Magi (đạo Zoroastrian), là nguyên lý đầu tiên của vạn vật, tự khám phá trực tiếp chỉ bằng tinh thần và khả năng trí tuệ;
nhưng đã đặt mặt trời như
hình ảnh của Nó trong vũ trụ hữu hình; và khi
khối ánh sáng rực rỡ đó khuếch tán những tia sáng của nó trên trái đất và
bầu trời, thì đó là một bản sao mờ nhạt của vinh quang, vốn ngự trị trên những tầng
trời cao hơn. Nếu bạn muốn tránh
thoát khỏi sự bất bình của đấng thiêng liêng này, bạn phải cẩn thận
không bao giờ đặt chân trần xuống đất, không khạc nhổ vào lửa, cũng không đổ
nước vào lửa, ngay cả khi nó đang thiêu rụi cả một thành phố [50] . Ai có thể diễn tả được những toàn hảo của Đấng toàn năng?” người Muslim hỏi. Họ tuyên bố rằng ngay cả
những công trình cao quí nhất của Ngài cũng không đáng kể – đều
cũng chỉ là bụi bặm và rác rưởi
– nếu so sánh với sự vĩ đại vô hạn của Ngài. Sự hiểu biết của con người còn
lâu mới có thể thấu hiểu được sự toàn hảo vô hạn của Ngài. Họ tin rằng nụ cười
và sự ưu ái của Ngài mang lại hạnh phúc vĩnh cửu. Để bảo đảm sự ưu ái thiêng
liêng này cho con cái của họ, họ khuyên nên cắt bao quy đầu – cắt bỏ một mảnh
da nhỏ từ trẻ sơ sinh, không lớn hơn một nửa kích thước của một đồng xu. Tương
tự như vậy, Người đạo Catô Rôma nói: Hãy lấy hai mảnh vải nhỏ [51], hình vuông khoảng một inch hoặc một inch rưỡi, nối chúng lại ở những góc bằng hai sợi
dây hay miếng băng dài khoảng mười sáu inch, trùm chúng qua đầu bạn và làm cho một mảnh vải nằm
trên ngực bạn, và mảnh còn lại nằm trên lưng bạn, giữ chúng sát vào da bạn:
Không có một bí mật nào tốt hơn để giới thiệu tự thân với Đấng vô hạn, hữu thể tồn tại từ vô thủy đến vô chung. [52]
N 7. 3, Bea 57
Người Getes, thường được gọi là bất tử, từ tin tưởng vững chắc
của họ vào sự bất tử của hồn
người, là những người theo tôn giáo Tin một gót và nhất
thể chân chính. Họ khẳng định Zamolxis, vị thần của
họ, là vị thần thực sự duy nhất; và khẳng định sự tôn thờ của tất cả những quốc
gia khác chỉ hướng đến
những hư cấu và ảo tưởng. [53] Nhưng
những lời khẳng định lớn lao này có làm cho tin tưởng tôn giáo của họ trở nên
tinh tế hơn không? Cứ năm năm một lần, họ lại hiến tế một nạn nhân là con
người, gửi nạn nhân đó như một sứ giả đến vị thần của họ để thông báo cho vị
này về nhu cầu và mong muốn của họ. Và khi trời nổi
sấm sét, họ vô cùng tức
giận đến nỗi họ bắn tên vào nó, như thể để thách thức bầu trời, không sợ trận
chiến như thế là không cân sức. Ít nhất đó là
tường thuật mà Herodotus đưa ra về tôn giáo tin chỉ một Gót của những người Getes bất tử [54].
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Jan/2025)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1]
Theology: gót học: môn học chuyên môn về Gót (trong tôn giáo,
không phải “thần” trong những thần thoại).
1.
Trong
Hume, gót học chủ yếu xem xét những hệ thống gót học của đạo Kitô và đạo
Juda, tập trung vào những khái niệm một vị gót tối cao, những thiên thần, những
thuộc tính thiêng liêng và bản chất can thiệp của Gót vào thế giới. Những tác
phẩm của ông trong bối
cảnh trí thức thời đại của ông,
những thảo luận gót
học tập trung vào tôn giáo/tín ngưỡng/học thuyết tin chỉ một Gót của phương Tây. Do đó, trong
nội dung này,
theology có
nghĩa trực tiếp đơn giàn là gót học –
môn học chuyên môn
về
Gót của đạo Kitô, và tôi dịch nôm na là “gót học” cho dễ hiểu.
2.
Những trường gót học tập trung vào nghiên cứu những tôn
giáo Áp-ra-ham, đặc biệt là đạo Catô, gồm những học thuyết, đạo đức, văn bản
thiêng liêng, lịch sử nhà thờ, mục vụ, và so sánh tôn giáo. Những trường dạy
gót học này chuẩn bị cho sinh viên vể mục vụ – những hoạt động chuyên môn của
giáo sĩ như thuyết giáo, tư vấn và cung cấp hướng dẫn tinh thần cho một giáo
đoàn hoặc cộng đồng, – giảng dạy hay công tác liên tôn giáo, giải quyết những vấn
đề xung đột thường xuyên giữa đạo Catô và những tôn giáo khác. Những trường này
có nguồn gốc từ những trường tu viện và nhà thờ lớn trong thời Trung cổ, những
tổ chức này đã phát triển thành những trường đại học vào thế kỷ 12, với gót học
là ngành học trung tâm để đào tạo giáo sĩ. Ngày nay những trường đại học trở
nên thế tục hơn, môn gót học thành chủ yếu giảng dạy trong những chủng viện,
nơi tiếp tục nhiệm vụ đào tạo giáo sĩ cho đạo Catô.
Gần đây, Richard Dawkins, nhân khi nhân xét về ngành học
chuyên môn này, như hiện vẫn hoạt động trong những trường đại học ở Âu Mỹ, đã
chỉ trích ngành học này là “phí thì giờ” và “giả khoa học’, lập luận rằng nó “vô
bổ” không đóng góp gì vào kiến thức (khác quan) và lại còn cản trở suy nghĩ
phê phán. Những nhà tư tưởng khác như Christopher Hitchens, Daniel Dennett, Sam
Harris, A. C. Grayling và Steven Pinker có chung quan điểm, đều cho rằng gót học
không có bằng chứng thực nghiệm, nên thúc đẩy những tin tưởng phi lý, qua đó
làm suy yếu lý trí và tiến bộ khoa học của loài người
3.
Gót
học và Gót của những Tôn Giáo Abraham
Như thế,
có thể định ngĩa Gót
học (theology) là môn học nghiên cứu về Gót (God), và hiểu rằng môn học này tự nó không phân
tích những quan điểm trung
lập với mục đích đi đến một kiến thức khách quan (thí dụ – giả định
trước là có một Gót, bỏ qua câu hỏi nền tảng trong triết học tôn giáo, có gót
hay không?, . . ).
Tự thân,
gót học đã thành lập
như một
chương trình học tập trong những tu viện, học viện Kitô nhằm huấn luyện những –
thày chăn chiên (mục sư, tu sĩ) đạo
Kitô (Catô và Thệ phản), trang bị kiến thức và kỹ năng cần thiết
cho hoạt
động mục vụ chủ yếu của những giáo sĩ
Kitô, đào tạo cho họ thành những người giảng dạy chuyên nghiệp giáo lỹ chính thống
của Vatican.
Vì thế, theology thực sự chỉ là “gót
học” Kitô, thay
vì “gót học”, vốn từ này có thể mang một nghĩa rộng hơn (thần
sông thần núi, nhưng không thể gọi thần Kitô, phải là
Gót Kitô)
Trong
gót học của những tôn giáo Abraham (đạo Kitô, đạo Juda, đạo Islam), Gót được giảng dạy
và nhận hiểu là
một Đấng
Tối Cao, duy nhất, và siêu việt, hoàn toàn khác biệt với “thần linh”, “Gót”, “Trời” hay những khái niệm tương
tự nào khác trong
những nền văn hóa khác trên thế giới. Đấng Tối Cao này,
Gót mang bản
chất “sáng tạo từ hư không” (creatio ex
nihilo): Gót là nguyên nhân đầu tiên (uncaused cause), tạo toàn bộ
vũ trụ và mọi hiện hữu, “sáng thế” tất cả mọi sựu vật việc nhưng không dùng, dự,
tùy thuộc vào
bất kỳ vật chất, nguồn lực, hay điều kiện nào đã có trước đó. Thuật ngữ “Gót”
như thế phản
ảnh yếu tính của khái niệm
này,
bởi:
- Gót không phải là “thần
linh” (một thực thể bị ràng buộc bởi tự nhiên hay văn hóa).
- Gót cũng không phải
là “Gót”, “Trời”, hya daimon” (δαίμων). . một thuật ngữ dễ gây
nhầm lẫn hay mang tính nhân cách hóa không phù hợp.
- Gót không chỉ là một
thực thể có nhân cách nhưng là thực tại tối cao, vĩnh cửu, vượt lên mọi giới
hạn vật chất và quy luật tự nhiên. (toàn năng, toàn
trí và toàn thiện)
4.
a. Tính Chất Ex Nihilo của Gót Abraham và Sự Khác Biệt
với Thần Linh Phương Đông: Khái
niệm “sáng tạo từ hư không” (creatio ex nihilo) là những gì
đặc biệt, làm
khái niệm Gót
Abraham khác biệt hoàn toàn so với những khái niệm,
hình ảnh
thần linh trong
những thần
thoại, tín
ngưỡng, tôn giáo, tư tưởng khác. Thí
dụ, những thần
linh phương Đông, không
dược gán cho ex nihilo. Họ định hình hay tái cấu
trúc thế giới từ vật chất đã sẵn hiện
hữu. Như trong
đọa Hindu,
Brahma không sáng tạo từ hư không,
nhưng hoạt
động trong những chu kỳ tái sinh (samsara), tái tạo vũ trụ
trên những
yếu tố đã có sẵn.
b. Trong
tư tưởng phương Tây, có một tiến hóa của những khái niệm Theos (θεός), Daimon (δαίμων)
trong cổ Hellas, sang và God (Trung
Đông), minh
họa cho sự chuyển biến từ những vị gót của tín ngướng/tôn giáo tin có nhiều
gót, có dạng người, sang sự hiểu biết trừu tượng, tin chỉ có một gót của một thế
lực thần thánh siêu việt, duy nhất.
Khái
niệm về một Gót
tối cao đạo Kitô, Juda và Islam (ba tôn giáo Abraham), là duy nhất
đặc biệt và
không giống với bất kỳ một gì khác. – Gót của Abraham/Abrahim
– tạo
vũ trụ từ hư không (ex nihilo). Hoàn
taonf khác với khái niệm có từ trước về những gót trong những hệ thống thần
linh khác,
Gót của Abraham được giải thích không như một thực thể hình thành từ óc tưởng tượng con người, nhưng như
nguyên nhân đầu tiên và cứu cánh cuối
cùng của
mọi hiện hữu, hiểu như của con người, và tất cả sự vật việc trong vũ
trụ của nó.
Trong
đạo Kitô, Gót (được gọi là Gót Cha) là Đấng sáng tạo từ hư không, một học thuyết
nền tảng khẳng định rằng Người đã tạo ra vũ trụ chỉ bằng mệnh lệnh của Người. Trong
đạo Juda, Yahweh hay Hashem cũng được công nhận là Đấng sáng tạo duy nhất. Trong
khi Torah đề cập đến tohu vavohu (hỗn loạn vô hình) trong Sáng thế ký
1:2, nhiều cách giải thích khẳng định rằng ngay cả trạng thái nguyên thủy này
cũng được Gót tạo ra, phù hợp với sự sáng tạo từ hư không. Trong đạo Islam,
Allah cũng được tôn kính như Đấng sáng tạo, người có sức mạnh và ý chí vô song
cai quản cả nguồn gốc và sự duy trì của sự hiện hữu. Trong những truyền thống
này, Gót của Abraham là siêu việt, vĩnh cửu và Vị này tác
thành sự sáng thế
hoàn
toàn độc lập, vì từ không-gì (hư không)
Quan điểm về Gót này hoàn toàn trái ngược với những vị
gót của những hệ thống tin nhiều gót, những gót thường bị giới hạn, phụ thuộc
hay là một phần của trật tự tự nhiên, chỉ định hình những vật chất đã hiện hữu
từ trước. Tương tự như vậy, những truyền thống không tin có gót thường gán sự
sáng tạo (vũ trụ) cho những sức mạnh không/khác/trên con người hay những chu kỳ
tự nhiên nhưng không liên quan đến một vị gót cá nhân nào. Ngay cả khi những vị
gót hiện hữu trong những tôn giáo khác, họ vẫn chịu những giới hạn, hay ràng
buộc giống như con người, hoạt động trong khuôn khổ của tự nhiên dù có thể vượt
trên tự nhiên (siêu nhiên) nhưng không ngoài tự nhiên. Gót của Abraham hoàn
toàn khác biệt, vượt ngoài mọi giới hạn và quan niệm của con người. Sự nhận
biết về Gót này, đến từ sự “vén lên cho thấy” huyền bí (mặc khải) của Gót – cụ
thể là qua kinh thánh, những nhà tiên tri và cũng qua chiêm nghiệm thế giới tự
nhiên (trật tự, cái đẹp và phức tạp của vũ trụ như chứng minh cho sự hiện hữu
của một Gót Sáng Tạo – “người thợ làm đồng hồ” ) – khái niệm Gót này làm thành
tính độc đáo và trong gót học, nâng tôn giáo Abraham lên cao, trên những tôn
giáo, tín ngưỡng khác, đem cho những tín đồ một cái nhìn cực đoan, thuần tình
cảm (tin tưởng tôn giáo, lòng tin) về thế giới, trong đó mọi hiện
hữu hoàn toàn phụ thuộc vào một Gót duy nhất, một gót không-nhân văn nào, nhưng
là một gì siêu việt hằng có, ở trong vũ trụ nhưng đến từ ngoài vũ trụ này.
[2]
thời kỳ Phục hưng, thời kỳ có kiến
thức và học thuật cổ điển được tái khám phá ở châu Âu. Nó đánh dấu sự quan
tâm mới với văn học, triết học và nghệ thuật, dẫn đến sự thay đổi trong những mô hình trí thức và văn hóa.
[4]
Ở đây, Hume biện luận rằng – khác biệt giữa một người tin
vào những thần tiên, yêu ma, quỉ quái, và một người không tin có gót,
thì ít hơn giữa một người như thế và một người tin chỉ một Gót chân
thực, thê nên, người tin vào những thần tiên, yêu ma, quỉ quái, . . chẳng qua
chỉ là người không tin có gót mê tín.
[5]
[ N 4. 3n6, Bea 45 Pere le Comte. ]
[6]
[ N 4. 3n7, Bea 45 Regnard, Voïage de Laponie.
[7]
[ N 4. 3n8, Bea 45 Diod. Sic. lib. i. Lucian. de Sacrificiis. Ovid alludes to the same
tradition,
Metam. li. v. l. 321. So also Manilius, lib. iv.]
[8] [ N 4. 3n9, Bea 45 Herodot. lib. i. ]
[9] [ N 4. 3n6, Bea 45 Cæs. Comment. de bello Gallico, lib. iv. ]
Suevi (Suebi): Bộ tộc German cổ xưa, nổi tiếng là những chiến binh dũng mãnh.
[10]
[N 4. 4n11, Bea 45 Lib. ix. 382. ]
[11]
[N 4. 4n12, Bea 45 Cap. ix. ]
[12]
Trong Iliad của Homer (Quyển 5), Diomede, một anh hùng Greece, đã làm Venus bị thương
trong trận chiến. Venus, gót nữ của tình
yêu và sắc đẹp, cố gắng can thiệp để bảo vệ con trai mình là Aeneas. Tuy nhiên,
với giúp đỡ của gót nữ Athena, Diomede đã thành công trong việc làm Venus bị
thương, khiến bà rất đau
đớn và buộc cô phải rút lui cạy về ẩn
náu với người mẹ,
Dione.
[13]
[N 4. 5n13, Bea 45 Pere Brumoy, Theatre des Grecs; & Fontenelle, Histoire des
Oracles. ]
[14]
[N 4. 5n14, Bea 45 Arnob. lib. vii. ]
[15]
[N 4. 6n15, Bea 45 De Laced. Rep. ]
[16]
[N 4. 6n16, Bea 46 Epist. xli. ]
[17]
[N 4. 6n17, Bea 46 Quint. Curtius. lib. iv. cap. 3. Diod. Sic. lib. xvii. ]
[18]
[N 4. 6n18, Bea 46 Suet. in vita Aug. cap. 16. ]
[19]
[N 4. 6n19, Bea 46 Id. in vita Cal. cap. 5. ]
[20]
[N 4. 7n20, Bea 46 Herodot. lib. ii. Lucian. Jupiter confutatus, de luctu,
Saturn. &c. ]
[21]
[N 4. 7n21, Bea 46 Ως
ομιθεν γεγαασι θεοι θνητοι τ' ανθρωποι. Hes. Opera &
Dies, l. 108. ]
[22]
[N 4. 7n22, Bea 46 Theog. l. 570. ]
[23]
Những vị gót đã
tạo ra Pandora vì tức giận với Prometheus đã đánh cắp lửa và thách thức Zeus. Sự
sáng tạo Pandora đóng vai trò là hình phạt, tháo mở phóng sinh tất cả những đau
khổ cho loài người, như để
chống lại “lửa” như món
quà bị lấy trộm và khẳng định lại quyền lực
thần thánh. Pandora là một con
người, mặc dù nàng được những vị gót tạo ra. Trong thần thoại Hellas, Pandora
là người phụ nữ đầu tiên, được Hephaestus (thần thợ rèn) tạo ra theo yêu cầu của
Zeus. Nàng được ban tặng nhiều món quà từ những vị gót, gồm sắc đẹp, sự quyến
rũ và óc tò mò. Pandora được biết đến nhiều nhất với việc mở một chiếc lọ (thường
bị nhầm là “chiếc hộp”), làm thoát ra ra ngoài thế giới mọi điều xấu xa vốn đã bị
giam giữ trong đó. Pandora hoảng hốt đóng lại, nhưng chỉ giữ lại được hy vọng ,
cuối cùng còn trong lọ. Vì vậy, Pandora được coi là người nữ đầu tiên trong thần
thoại do những vị gót tạo ra.
Hume nhấn mạnh Pandora là thí dụ duy nhất về sự sáng tạo
có chủ đích trong Theogony của Hesiod, đối lập với Eve trong Kinh thánh.
Trong khi Eve là một phần của kế hoạch thiêng liêng trong đạo Kitô, thì sự sáng
tạo của Pandora là một hành động từ bất bình của những vị thần. Hume nhấn mạnh
rằng thần thoại Hellas tập trung vào sự sinh sản tự nhiên hơn là sự sáng tạo có
chủ đích.
[24]
[N 4. 8n23, Bea 46 Metamorph. lib. i. l. 32. ]
[25]
[N 4. 9n24, Bea 46 Lib. i. ]
[26]
[N 4. 9n25, Bea 47 Id. ibid. ]
[27]
[ N 4. 10n26, Bea 47 Cũng chính tác giả này, người có thể giải thích
nguồn gốc của thế giới mà không cần đến một vị Thần, coi việc giải thích từ
những nguyên nhân vật lý, những ngẫu nhiên thường gặp trong đời sống, động đất,
lũ lụt và bão tố là vô đạo đức; và nhiệt tình quy những sự việc này cho thịnh
nộ của Jupiter hay Neptune Một bằng chứng rõ ràng, từ đó ông đã rút ra những
ý tưởng về tôn giáo của mình. Xem lib. xv. tr. 364. Ex edit. Rhodomanni. ]
[28]
[ N 4. 10n27 See NOTE [ZZ]. ]
[N 4. 10n27. 1, Bea 47
Sẽ dễ dàng đưa ra lý do Thales, Anaximander, và
những triết gia đầu tiên, những người thực sự là những người không tin có gót,
lại có thể cùng hàng hay tuân giữ nghiêm ngặt những
tín ngưỡng và tập tục truyền thống được chấp nhận trong tôn giáo dân gian; và tại sao Anaxagoras và Socrates, mặc dù là
những người theo tôn giáo tin chỉ một Gót thực sự, nhưng vào thời cổ, đương
nhiên phải bị coi là bất kính hay
vô lễ với tôn giáo hoặc thần thánh. Những sức mạnh mù quáng, không được
tự nhiên hướng dẫn, nếu chúng có thể tạo ra con người, cũng có thể tạo ra những
hữu thể Jupiter và Neptune, những sinh vật thông minh và mạnh mẽ nhất trong thế giới, sẽ là đối tượng thích hợp để
tôn thờ. Nhưng khi đã nhìn nhận một thông minh tối cao, nguyên nhân đầu tiên của tất cả, thì những sinh vật
thất thường này, nếu có tồn tại, phải tỏ ra trong hàng ngũ thấp hơn, và phụ thuộc, và do đó bị loại khỏi hàng ngũ thần thánh. Plato (de leg. lib. x. ) cung cấp sự biện minh cho việc buộc tội nhắm vào
Anaxagoras, cụ thể là việc ông phủ nhận tính chất thần thánh của
những ngôi sao, hành tinh và những vật thể đã được tạo ra khác.
[29]
[ N 4. 11n28, Bea 47 Adversus Mathem. lib. ix.]
[30]
Trong Theogony của Hesiod, Hỗn mang (Chaos) được coi là thực thể
nguyên thủy hoặc trạng thái hiện hữu đầu
tiên, trước khi Trái đất (Gaia) và những nguyên tố khác của vũ trụ được hình thành.
[31]
Trong bối cảnh triết học và vũ trụ học Hellas thời cổ, “đêm, hỗn loạn, lửa, nước
hoặc không khí” chỉ những yếu tố hoặc lực nguyên thủy vốn những nhà tư tưởng thời
ban đầu tin rằng đã tạo ra vũ trụ và những thực thể của nó. Những khái niệm này
gắn liền với nhiều thuyết vũ trụ học thời kỳ đầu:
(a) Hỗn loạn (Chaos): Trong thần thoại Hellas
thời kỳ đầu, Hỗn loạn là trạng thái hư vô hoặc hư vô nguyên thủy đầu tiên mà từ
đó mọi sự vật việc xuất hiện. Nó thường được coi là điểm khởi đầu của sự sáng tạo.
(b) Đêm (Nyx): Trong một số thần thoại, Đêm
(Nyx) được coi là một trong những vị gót nguyên thủy đầu tiên, từ đó những thực
thể và lực khác xuất hiện, bao gồm nhiều khía cạnh của vũ trụ.
(c) Lửa: Lửa, đặc biệt là trong triết lý của
Heraclitus, được coi là một trong những yếu tố chính, tượng trưng cho sự thay đổi
và chuyển đổi trong vũ trụ.
(d) Nước: Thales, một trong những triết gia
tiền Socrates, nổi tiếng với đề xuất rằng nước là chất cơ bản mà từ đó mọi sự vật
xuất hiện.
(e) Không khí: Anaximenes, một triết gia
Hellas thời cổ khác, tin rằng không khí là chất cơ bản của vũ trụ, từ đó tất cả
những nguyên tố khác bắt nguồn.
Những
nguyên tố này là nền tảng cho nhiều thuyết vũ trụ hoặc lý thuyết về nguồn gốc của
thế giới trong tư tưởng Hellas thời cổ.
[32]
[ N 4. 13n29, Bea 48 Dionys. Halic. lib.
vi. ]
[33]
[ N 4. 13n30, Bea 48 Epist. lib. vi. ]
[34]
Fear (Phobos) và Terror (Deimos)
[35]
[N 5. 4n31, Bea 50 Hesiod.
Theog. l. 935. ]
[36] [N 5. 4n32, Bea 50 Id. ibid. & Plut. in vita Pelop. ]
[37] [N 5. 4n33, Bea 50 Illiad.
xiv. 267. ]
[38]
Lucretius (341–270 BC),
trong De
Rerum Natura,
[39] [N 5. 7n34, Bea 51 Herodian. lib. v.
Jupiter Ammon được Curtius mô tả là một vị thần cùng loại, lib. iv. cap. 7.
Người Ả Rập và người Persia cũng tôn thờ những viên đá vô hình không có hình
dạng như vị thần của họ. Arnob. lib. vi. Sự điên rồ của họ vượt xa người Egypt.
]
[40] [N 5. 8n35, Bea 51 Diod. Lært. lib.
ii. ]
[41] [N 5. 10n36, Bea 51 See Cæsar of the religion of the Gauls, De bello Gallico, lib. xi. ]
[42] [N 5. 10n37, Bea 51 De moribus Germ. ]
[43]
Mater Tellus: nữ
thần Trái đất của Rôma, còn được gọi là Mẹ Đất. Bà gắn liền với sự phì
nhiêu, đất đai và những khía cạnh nuôi dưỡng của thiên nhiên. Ở trên, Hume cho thấy những văn hóa khác nhau
thường gán những vai trò hoặc thuộc tính tương tự cho những vị gót của họ, ngay cả khi họ có tên khác
nhau. Thí dụ, nữ thần Hertha của người Saxon được so sánh với Mater
Tellus của Rôma, cho thấy họ thực hiện những chức năng tương tự trong hệ thống
tín ngưỡng tương ứng của họ.
[44]
ý tưởng về toàn hảo vô hạn, vĩ đại vô biên, quyền năng vô
cùng
[45]
Thánh Nicholas: thánh trong đạo Chính thống Kitô, đặc biệt ở Nga. Hume
vùng như
một thí dụ
về cách những vị
thánh tôn giáo có
thể đạt được sự tôn kính cao, đôi
khi sánh ngang với sự tôn thờ một vị thần linh tối cao.
[46]
immaculate conception
[47]
[N 6. 9n38, Bea 54 Histoire abregée, p. 499. ]
[48]
Trong
đoạn trên, Hume nhắc dẫn thần thoại Hellas để làm nổi bật những mâu thuẫn trong
cách mô tả những vị gót. (a) Oceanus
và Tethys: Theo thần thoại Hellas, Oceanus và Tethys là những vị gót nguyên
thủy, thường được coi là cha mẹ ban đầu của mọi sự vật việc. Họ là con của
những vị gót nguyên thủy Uranus (Bầu trời) và Gaia (Trái đất). Oceanus nhân
cách hóa đại dương, và Tethys đại diện cho dòng sông bao quanh Trái đất. Trong
những truyền thống thần thoại ban đầu, họ được cho là những vị gót đầu tiên
sinh ra nhiều vị thần khác. (b) Jupiter
(Zeus trong thần thoại Hellas): thường được gọi là “cha của những vị gót và
loài người”. Ông là vua của những vị gót, cai trị cả thiên đàng và trái đất. Danh
hiệu “cha của những vị gót và loài người” đưa ông lên vị trí có quyền năng và
uy quyền tối cao. Mâu thuẫn mà Hume cho thấy nằm ở thực tế rằng trong khi
Oceanus và Tethys ban đầu được mô tả là cha mẹ ban đầu của mọi sự vật việc, thì
Zeus sau đó được gọi là cha của những vị gót và con người. Nhưng bản thân Zeus
được mô tả là có một gia đình, bao gồm anh chị em ruột, tổ tiên, chú bác và dì.
Thí dụ, cha mẹ của ông là Cronus và Rhea, và anh chị em ruột của ông bao gồm
Poseidon, Hades, Hera và những người khác. Điều này khiến Zeus trở thành “kẻ
mới nổi” so với những vị gót cũ hơn và ý tưởng rằng ông là “cha của những vị
gót và con người” trái ngược với truyền thống trước đó về Oceanus và Tethys là
tổ tiên. Giết cha và cướp ngôi: Sự trỗi dậy nắm quyền của Zeus được mô tả là
một trong những cướp ngôi – ông đã lật đổ cha mình là Cronus (giết cha, nghĩa
là ông đã giết cha mình) để trở thành vua của những vị gót. Điều này khiến danh
hiệu “cha của những vị gót và con người” của ông trở nên mỉa mai vì trên thực
tế, ông là kẻ cướp ngôi và là sản phẩm của một tranh chấp quyền lực gia đình dữ dội, chứ không phải là vị thần sáng tạo
ban đầu, hòa bình. (c) Hesiod
trong Theogony, cố gắng
cung cấp một phả hệ
của những vị gót. Hume cho thấy rằng, giống như Homer, Hesiod cũng đưa ra những
tuyên bố trái ngược nhau. Mục tiêu của Hesiod là cung cấp một phả hệ thực sự và
nhất quán của những vị gót, nhưng ông cũng đưa ra những điều không nhất quán,
chẳng hạn như sự trỗi dậy của Zeus như một vị thần tối cao bất chấp những vai
trò trước đó của Oceanus và Tethys.
[49]
Tuyên bố
của Hume về Islam (Mahometanism) cho thấy rằng Islam có thể được coi là không
nhất quán trong cách mô tả Gót (Allah) – vừa là
đấng sáng tạo cao cả vừa là một đấng có những phẩm chất giống con người như cảm
xúc và nhược điểm. Sự không nhất quán này phản ảnh khuynh hướng nhân cách hóa
thần thánh của con người. Tương tự như vậy, Kinh thánh Kitô chứa đựng những mâu thuẫn trong bản chất của Gót,
với những mô tả về cả thương xót và thịnh nộ, đôi khi có vẻ độc đoán hoặc
chuyên quyền. Hume coi những mâu thuẫn này không phải là sự vén lên cho thấy
huyền bí của Gót nhưng là kết quả của tâm lý con người. Những tôn giáo, bao gồm
đạo Kitô , được hình thành bởi những cảm xúc của con người như sợ hãi và hy
vọng, và nhu cầu giải thích những bí ẩn của đời sống. Tuy nhiên, quan điểm của Hume là đạo Kitô (và
những tôn giáo khác) có vẻ nhất quán về mặt logic trong cách cấu trúc những tin
tưởng, học thuyết và giáo lý đạo đức của chúng – bất chấp những mâu thuẫn nội tại – vì nó phù hợp
với một mô hình mà con người có xu hướng tạo ra trong những hệ thống tin tưởng.
Con người thường tìm kiếm sự mạch lạc và ý nghĩa khi đối mặt với sự không chắc
chắn, vì vậy những tôn giáo được định hình để cung cấp những câu chuyện thỏa
mãn về mặt cảm xúc và gắn kết về mặt xã hội, ngay cả khi chúng không hoàn toàn
hợp lý. Hume lập luận rằng sự nhất quán mà ông đề cập đến không phải là về
logic chặt chẽ, nhưng là về khuynh hướng của con người trong việc tạo ra những
hệ thống tin tưởng có vẻ mạch lạc và hợp lý trong bối cảnh của riêng chúng, ngay
cả khi những tin tưởng đó chứa đựng những mâu thuẫn. Đối với ông, sự mạch lạc
này là kết quả của tâm lý con người, chứ không phải là sự vén lên cho thấy
huyền bí của Gót.
[50]
[N 7. 2n39, Bea 56 Hyde de Relig. veterum Persarum . ]
[51]
[N 7. 2n40, Bea 56 Được gọi là
Scapulaire]
[52]
Scapular (theo nghĩa sùng đạo) bao gồm hai mảnh vải hình chữ nhật nhỏ được
nối bằng dây hoặc sợi chỉ, đeo qua vai, một mảnh nằm trên ngực và mảnh còn lại ở
sau lưng. Nó không phải là một loại trang phục đầy đủ mà là một vật phẩm sùng đạo
được mặc bên trong quần áo thông thường. Trong tu viện, scapular tu viện là một
mảnh vải lớn hơn, thường là một phần của trang phục của tu sĩ hoặc nữ tu, được
đeo qua vai như tạp dề dài hoặc áo choàng không tay.
[53]
The Magians: Tên gọi những
giáo sĩ Persia thời cổ, thường gắn liền với đạo Zoroastrian (Mazdayasnā) những người nắm giữ quyền
lực tinh thần và tin vào một vị gót tối cao. The Getes: Một dân tộc Thracia thời
cổ tin vào sự bất tử của hồn ngườivà tôn thờ một vị gót duy nhất, Zamolxis.
Zamolxis: Vị gót tối cao của Getes, gắn liền với sự bất tử và thế giới bên kia.
Hume kể lại
huyền thoại của những người Getes
để cho thấy rằng
những tín
ngưỡng tôn giáo lớn, như tin chỉ một Gót, và tin tưởng vào sự bất tử, không phải lúc nào cũng dẫn đến những hoạt động tinh tế hoặc đạo đức. Bất
chấp những tuyên bố cao cả của chúng, những nghi lễ của chúng liên quan đến bạo lực và mê tín, nhấn
mạnh rằng những ý
tưởng tôn giáo có thể liên quan nhiều hơn đến cảm xúc của con người và những phong tục xã hội hơn là lý trí hoặc đạo
đức.
[54]
[ N 7. 3n41 Lib. iv. ]