Lịch Sử Tự Nhiên Của Tôn Giáo
(The Natural History of Religion)
David Hume
Tiết
III.
Tiếp tục cùng đề tài
N 3.1, Bea 40
Chúng ta được đặt
vào thế giới này, như trong một “đại
hý trường”, ở đó những nguồn gốc và những nguyên nhân thực
của mọi biến cố đều hoàn toàn bị che giấu khỏi chúng ta; chúng ta cũng không có đủ khôn
ngoan để thấy trước hay đủ sức mạnh để ngăn chặn những bất hạnh này vốn chúng ta liên tục
bị chúng đe dọa. Chúng ta luôn bị treo lơ lửng giữa sự sống và cái chết, sức khỏe
và bệnh tật, dư thừa và thiếu thốn; vốn
đã phân phối giữa những loài người bởi những nguyên
nhân bí mật và chưa biết, hoạt động của chúng thường bất ngờ và luôn không thể giải thích
được. Khi đó, nguyên nhân chưa biết này trở thành đối tượng thường
trực của hy vọng và hãi của chúng ta; và trong khi những cảm xúc được giữ
trong tình trạng báo động liên tục bởi một chờ đợi lo lắng về
những biến cố, thì trí tưởng tượng cũng được dùng một cách tương tự trong việc hình
thành những ý tưởng về những sức mạnh đó mà chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào.
Liệu con người có thể mổ
xẻ thiên nhiên, theo triết lý có thể xảy ra nhất, ít
nhất là dễ hiểu nhất, rằng những nguyên nhân này không gì khác ngoài sự đan dệt và cấu trúc cụ thể
của chính những bộ phận nhỏ bé
của cơ thể họ và của những vật thể bên ngoài; và rằng, bằng một guồng máy đều đặn và liên
tục, tất cả những biến cố được tạo ra, vốn họ rất quan tâm về chúng. Nhưng triết lý này vượt quá sự
thấu hiểu của đám đông ngu muội, những người
chỉ có thể hình dung những nguyên nhân chưa biết trong một cách tổng quát và mù mờ; dù trí tưởng
tượng của họ, thường xuyên được cùng một chủ thể đem dùng, phải vất vả để hình thành một
số ý tưởng cụ thể và khác biệt về chúng. Họ càng xem xét bản thân những nguyên
nhân này và sự bất trắc trong hoạt động của chúng,
thì họ càng ít hài lòng với những tìm kiếm của họ; và, dù
không sẵn lòng, cuối cùng họ cũng phải từ bỏ một nỗ lực gian nan như vậy, nếu không
phải vì một khuynh hướng trong bản chất con người, dẫn đến một hệ thống, mang
lại cho họ một số sự hài lòng nào đó.
N 3.2, Bea 40-1
Có một khuynh hướng
phổ quát giữa loài người là quan niệm mọi sinh vật đều giống như chính họ, và chuyển sang mọi
đối tượng những phẩm tính đó vốn họ quen thuộc thân
thiện và mật
thiết biết rõ chúng. Chúng ta tìm thấy những khuôn mặt người
trên mặt trăng, những đoàn quân trong những đám mây; và bởi một khuynh hướng tự nhiên, nếu kinh nghiệm và suy ngẫm không điều chỉnh,
sẽ gán ác ý hay thiện ý, cho mọi sự vật việc vốn
làm tổn thương hay hài lòng chúng ta. Do đó mới có rất nhiều sự lập lại và cái đẹp của nhân cách hóa [1] trong thơ ca; ở đó cây cỏ, núi đồi và suối nước đều mang tính cách giống
con người, và những phần vô tri
của thiên nhiên có được tình cảm và cảm xúc như con người. Và mặc dù những hình tượng và biểu hiện thơ ca này không không đạt
được tin tưởng, nhưng ít nhất chúng có thể dùng để chứng minh một khuynh hướng
nhất định trong óc tưởng tượng, nếu không có nó thì chúng không thể là đẹp đẽ hay tự
nhiên. Thần sông hay hamadryad [2] cũng không phải lúc
nào cũng được coi như một nhân vật thơ mộng hay tưởng tượng đơn thuần; nhưng đôi khi có thể đi
vào tín ngưỡng thực sự của những kẻ thông tục ngu muội; trong khi mỗi lùm cây hay cánh đồng được
mô tả như sở hữu một thần linh hay quyền năng vô hình cụ thể, ngự
trị và bảo vệ nó. Không, những triết gia cũng không thể hoàn toàn
thoát khỏi sự yếu đuối tự nhiên này; nhưng thường gán cho vật chất vô tri sự
kinh hoàng về chân không, những
thiện cảm, ác cảm và những tình cảm khác của bản chất con người [3]. Sự phi lý cũng không hề
ít hơn, khi chúng ta ngước mắt nhìn lên cao; và, như thường
lệ, chuyển những cảm xúc và yếu
đuối của con người cho thần linh, mô tả ông ta như người ghen tị và trả thù,
thất thường và thiên vị, và tóm lại, như
một người độc ác và xuẩn ngốc, về mọi mặt ngoại trừ có
quyền năng và uy lực vượt trội của ông
ta. Vì vậy, không có gì ngạc nhiên khi loài người, bị
đặt trong tình trạng hoàn toàn không biết gì về nguyên nhân, và đồng thời quá lo
lắng về vận mệnh tương lai của mình, nên
ngay lập tức nhìn
nhận một phụ thuộc vào những quyền năng vô hình, vốn sở hữu tình cảm và
trí thông minh. Những nguyên nhân chưa biết liên tục dùng
tư tưởng của chúng, luôn xuất hiện trong cùng một khía cạnh, đều được coi là
cùng loại hay cùng loài. Cẳng
bao lâu, chúng ta gán cho chúng suy nghĩ, lý
trí và cảm xúc, đôi khi ngay cả bốn
chân tay và hình dáng của con người, để làm cho họ gần hơn với giống như chúng ta.
N 3.3, Bea 41-2
Theo tỷ lệ với quá trình sinh sống của bất kỳ con người nào bị
ngẫu nhiên chi phối, chúng ta luôn thấy, rằng người này càng tăng thêm mê tín; điều này
đặc biệt có thể thấy ở những người đánh
bạc và những thủy thủ, mặc dù trong số tất cả loài người, họ là những người ít có khả
năng suy nghĩ thận trọng nhất, nhưng lại có những lo lắng phù phiếm và mê tín nhiều nhất. Những vị
gót, Coriolanus nói trong Dionysius [2] nói rằng những thần linh có một
ảnh hưởng đến mọi biến
cố; nhưng trên hết là trong chiến tranh; nơi những gì xảy ra thì rất không chắc
chắn. Toàn bộ đời sống của con người, đặc biệt là
trước khi có thể chế của
trật tự và chính quyền tốt, đều có thể gặp phải những tai nạn ngẫu
nhiên; điều tự nhiên là sự mê tín sẽ chiếm ưu thế ở mọi nơi trong những thời man rợ, và đặt
con người vào điều tra thành tâm
nhất về những quyền lực vô hình, những thế lực quyết định hạnh phúc hay đau khổ
của họ. Không biết gì về thiên văn học và giải phẫu thực vật và động vật, và
quá ít hiếu kỳ để quan sát sự điều chỉnh đáng ngưỡng phục của những nguyên nhân cuối
cùng; họ vẫn không nhân ra được một đấng sáng tạo đầu tiên và tối cao, và với tinh thần toàn hảo vô hạn đó, người duy nhất,
bằng ý chí toàn năng của mình, đã ban tặng trật tự cho toàn bộ khuôn khổ của tự
nhiên. Một ý tưởng tuyệt vời như vậy là quá lớn với những khái niệm hạn hẹp của
họ, những người không thể quan sát được cái đẹp của công trình cũng như không thể
lĩnh hội được sự vĩ đại của tác giả
của nó. Họ cho rằng những thần linh của họ, dù có quyền
năng và vô hình đến đâu, cũng chẳng là gì ngoài một loài sinh vật người, có lẽ
được nuôi dưỡng giữa loài người, và vẫn giữ lại mọi cảm xúc và ham muốn con
người, cùng với những tay
chân và cơ quan nội tạng. Những sinh vật
giới hạn như vậy, dù là những
chủ nhân của số phận con người, nhưng mỗi trong số họ không có khả năng
mở rộng ảnh hưởng của mình
đến khắp nơi, phải được nhân lên rất nhiều để đáp ứng cho sự đa dạng của những sự
kiện xảy ra trên toàn bộ bề mặt của tự nhiên.. Do đó, mọi nơi đều có
một đám đông những vị gót địa phương; và do đó tôn giáo tin nhiều gót đã thịnh hành, và vẫn còn thịnh hành, trong
phần lớn của loài người chưa được giáo dục [3]
N 3.4, Bea 42
Bất kỳ tình cảm nào
của con người đều có thể dẫn chúng ta đến khái niệm về quyền năng thông minh,
vô hình; hy vọng cũng như sợ hãi, lòng
biết ơn cũng như đau khổ: Nhưng nếu chúng ta xem xét trái tim mình hay
quan sát những gì diễn ra xung quanh mình, chúng ta sẽ thấy rằng con người
thường quỳ xuống trước đau buồn hơn là trước
những cảm xúc dễ chịu. Sự thịnh vượng có thể dễ
dàng được coi là những gì chúng ta đáng được hưởng, và ít câu hỏi được đặt ra về nguyên nhân hoặc
tác giả của nó. Nó tạo ra sự vui vẻ, hoạt động và sự nhanh nhẹn và tận hưởng
sống động mọi thú vui xã hội và nhục dục: Và trong trạng thái tinh thần này,
con người ít có thời gian rảnh rỗi hoặc khuynh hướng nghĩ đến những vùng vô
hình chưa biết. Mặt khác, mọi tai nạn thảm khốc đều báo động chúng ta và khiến
chúng ta thắc mắc về những nguyên lý từ đó nó nảy sinh:: Những lo lắng nảy sinh
liên quan đến tương lai: Và não thức, chìm đắm trong sự thiếu tự tin, sợ hãi và
u sầu, đã dùng đến mọi phương pháp để xoa dịu những quyền năng thông minh bí
mật đó, phải viện đến mọi phương pháp xoa dịu những quyền năng thông minh bí
mật đó, những người mà vận mệnh của chúng ta được cho là hoàn toàn phụ thuộc
vào chúng.
N 3.5, Bea 42-3
Không đề tài nào
thông thường hơn với tất cả những thần linh phổ thông, hơn là phô bày
những ưu thế của đau khổ, trong việc đem
con người đến một
ý thức đúng đắn về tôn giáo; bằng chế ngự lòng kiêu hãnh và tập trung vào hưởng thụ thú vui trần tục, thể xác của họ, những sự việc mà trong thời kỳ
thịnh vượng khiến họ quên mất sự hướng dẫn và cai quản của thần thánh với thế giới. Đề
tài này cũng không chỉ giới hạn trong những tôn giáo hiện đại. Người xưa cũng
đã dùng nó. Một nhà sử học Greece [4] nói rằng vận may chưa bao giờ hào phóng, với không đố kỵ, ban tặng cho loài người một hạnh phúc trọn vẹn; nhưng với tất cả những
món quà của nó, nó luôn kèm theo một số hoàn cảnh tai hại nào đó, nhằm trừng
phạt con người vào
trong một tôn kính những vị gót, những thần linh, trong một quá trình liên tục của thịnh vượng, họ có khuynh hướng bỏ bê
và quên lãng
.
N 3.6, Bea 43
Độ tuổi hay giai đoạn nào của cuộc đời thì nghiện ngập với mê tín nhất? Đó là
giai đoạn đánh dấu bằng sự yếu đuối và nhút nhát lớn nhất. . Và giới tính
nào? Câu trả lời tuân theo cùng một lý lẽ: đó là những người dễ bị tổn thương
và do dự nhất. Strabo
[5] [4] nói rằng những người đứng đầu và
là những tấm
gương của mọi loại của
mê tín đều là những
phụ nữ. Những người này truyền cảm hứng cho những người đàn ông tham dự vào những hoạt động sùng đạo, cầu
nguyện và tuân thủ nghiêm ngặt những nghi thức và những ngày lễ tôn giáo.
Thật hiếm khi gặp một người sống tách biệt với phụ nữ, và lại nghiện ngập những thực hành như vậy. Và vì lý do
này, không gì không có khả năng xảy ra hơn là câu chuyện về một nhóm đàn ông
trong số những người Getes
[5],
những người thực hành chế độ độc thân, và mặc dù là những người cuồng tín tôn
giáo nhất. Một phương pháp lý luận, sẽ dẫn chúng ta đến một ý niệm không hay về lòng sùng đạo của những nhà tu; chẳng phải chúng
ta đã biết qua một kinh nghiệm, có lẽ không phổ biến lắm vào thời của Strabo,
rằng người ta có thể sống độc thân và thề giữ mình trong sạch, nhưng vẫn duy
trì những quan hệ gần gũi nhất và sự đồng cảm trọn vẹn nhất với phụ nữ, phái yếu nhút nhát
và ngoan đạo đó sao.
------------------------------------------------------------
N 3.3n2, Bea 41
1.
Lib. viiii.
N 3.3n3, Bea 42
2.
Những dòng sau đây
của Euripides có liên quan rất nhiều với
thảo luận hiện tại, và tôi không thể không trích dẫn chúng:
Ουκ
εστιν ουδεν πιςτον, ουτ ευδοξια,
Ουτ'
αν καλως πρασσοντα μη πραξειν κακως.
Φυρουσι
δ'αυθ'οι θεοι παλιν τε και προσω,
Ταραγμον
εντιθεντες, ως αγνωσια
Σεβωμεν
αυτους. Hecuba.
Không có gì an toàn trong thế giới; không vinh quang, không thịnh vượng.
những thần linh ném mọi sự sống vào hỗn loạn; trộn lẫn mọi sự vật việc với mặt
đối lập của nó; rằng tất cả chúng ta, từ sự thiếu hiểu biết và không chắc chắn
của mình, có thể thể hiện sự thờ phụng
và tôn kính lớn hơn với họ.
N 3.5n4, Bea 42
3.
Diod. Sic. lib.
iii.
N 3.6n5, Bea 43
4.
Lib. vii.
Tiết.IV.
Những vị gót không được coi như những sáng tạo hay những hình thành của thế giới
N 4.1, Bea 44
Điểm duy nhất của gót học, [6] trong đó chúng ta
sẽ tìm thấy một sự đồng thuận gần như phổ quát của loài người, đó là, có một quyền năng thông minh, vô hình
trong thế giới: Nhưng cho dù quyền năng này là tối cao hay phụ thuộc, dù chỉ
giới hạn trong một thực thể hay được phân phối giữa nhiều thực thể, những thuộc tính,
phẩm chất, quan hệ hay nguyên lý hành động nào phải được gán cho những thực thể
đó; liên quan đến tất cả những điểm này, có sự khác biệt lớn nhất trong những
hệ thống gót học phổ biến. Tổ tiên của chúng ta ở Châu Âu, trước khi kiến
thức và học thuật cổ điển
hồi sinh [7], cũng như chúng ta ngày nay, đã tin rằng có một Gót tối cao, tác giả
của Tự Nhiên, vị có quyền năng, dù trong
bản chất là vô hạn, không gì có thể thể kiểm soát được,
nhưng vẫn thường được thực hiện qua can thiệp của những thiên thần và những sứ giả, những người thực
hiện những mục đích thiêng liêng của ngài.
Nhưng họ cũng tin rằng toàn bộ thiên nhiên đều chứa đầy những quyền năng
vô hình khác; thần tiên, yêu tinh, elves, hồn
tinh; những sinh vật mạnh mẽ [8] và quyền lực hơn loài người, nhưng vẫn kém hơn nhiều so
với những thực thể siêu phàm
sống trong cõi thần thánh quanh ngai cao của Gót. Bây giờ,
giả sử rằng bất kỳ ai, trong những thời đại đó, đã phủ nhận sự là-có của Gót và
những thiên thần của Ngài; chẳng lẽ sự bất kính của người này xứng đáng bị gọi
là thuyết không tin có gót, mặc dù người này vẫn đồng ý, bằng một lý luận
thất thường kỳ lạ nào đó, rằng những câu chuyện phổ biến về yêu tinh và thần
tiên đều là chính đáng và có cơ sở vững chắc? Sự khác biệt, một
mặt, giữa một người như vậy và một người chân thực tin có gót thì vô cùng lớn thế,
hơn khác biệt giữa người này và người tuyệt đối loại bỏ mọi quyền năng thông minh vô hình. Và đây là một ngụy biện, đơn thuần từ sự giống nhau ngẫu
nhiên của những tên gọi, với không có bất kỳ một tương đồng ý nghĩa
nào, để xếp những ý kiến trái ngược nhau như vậy vào cùng một hàng ngũ tôn giáo.[9]
N 4.2, Bea 44
Bất kỳ ai suy ngẫm
kỹ về vấn đề này sẽ thấy rằng những vị gót của tất cả những
người tin nhiều gót đều không hay
gì hơn những yêu tinh hay tiên nữ trong văn hóa dân gian của tổ tiên chúng
ta. Họ không xứng đáng với
sự thờ phụng hay sùng
kính hơn. Những người “làm
như” tin
theo tôn giáo này thực chất thuộc
một hạng người không tin có gót và mê tín, và không nhìn nhận có hữu thể nào tương ứng với ý
tưởng của chúng ta về một vị gót
thực sự. Họ không nhìn
nhận bất kỳ nguyên tắc nền tảng nào đằng sau tư tưởng hay ý thức, bất kỳ
thẩm quyền tối cao nào cai quản vũ trụ, hay bất kỳ mục đích hay
thiết kế thiêng liêng nào trong tiến
trình sáng tạo thế giới.
N 4.3, Bea 45
Người Tàu, khi [6] những cầu nguyện của họ không được đáp lại, họ sẽ đánh đập thần tượng của họ.
Những thần linh của người Laplanders là bất kỳ hòn đá lớn nào họ
gặp có hình thù to lớn lạ thường [7] . Những nhà thần thoại Ai Cập, để giải thích
cho việc tôn thờ loài
vật, đã nói rằng những vị gót, trước đây bị truy đuổi
bởi bạo lực của những người trần
gian, vốn là kẻ thù của họ, đã buộc phải tự cải trang dưới dạng những con thú [8]. Caunii, một quốc gia ở Tiểu Á, nhất định không chấp
nhận bất kỳ vị thần lạ nào giữa
đám họ,
thường xuyên, cứ vào một mùa nhất định, tự tập hợp với
đầy đủ vũ khí, đánh vào không khí bằng giáo và theo cách đó tiến về những biên giới của họ; để, như họ đã nói, trục xuất những thần linh ngoại lai [9] . Một số quốc gia German nói với Cæsar rằng
ngay cả những thần linh bất tử cũng không thể sánh được với người
Suevi [10] . [10]
N 4.4, Bea 45
Nhiều bất hạnh,
Dione nói trong Homer với Venus bị Diomede làm bị thương, nhiều bất hạnh, con
gái của ta, có những vị gót đã giáng xuống con người: Và bất hạnh, để đáp lại, con người đã giáng xuống
những vị gót [11] . Chúng ta chỉ cần mở bất kỳ tác giả cổ điển nào để gặp những hình ảnh
xúc phạm bất kính này về những thần
linh; và Longinus [12] với lý trí nhận xét rằng những ý tưởng như vậy về bản chất thần thánh,
nếu hiểu theo nghĩa đen, chứa đựng một thuyết không tin có gót thực sự. [11]
N 4.5, Bea 45
Một số người viết [13] đã ngạc nhiên khi thấy sự bất
kính với tôn giáo của Aristophanes không chỉ được dung thứ nhưng còn được thể hiện công khai trên sân
khấu và thậm chí còn được những
người Athens hoan nghênh.
Một dân chúng cực kỳ mê tín và bảo vệ tôn giáo nhà nước của họ một cách quyết
liệt đến nỗi, cùng thời đó, họ đã kết án tử hình Socrates vì cho rằng ông không
tin tưởng vào những vị gót của Athens.. Nhưng
những nhà văn này không cho rằng những hình ảnh quen thuộc, lố bịch, mà những
vị gót được nhà thơ hài hước đó miêu tả, thay vì có vẻ vô đạo, đã chính là ánh sáng
chân thực vốn trong đó người xưa hình dung về những
vị gót của họ. Còn
hành vi nào có thể tội lỗi và xấu xa hơn hành vi của Jupiter trong Amphitrion? Thế
nhưng, vở kịch đó, mô tả những chiến công hào hùng của ông, được cho là rất thú
vị với ông, khiến nó luôn được chính quyền cho trình diễn ở Rome, khi đất nước
bị bệnh dịch, nạn đói hoặc bất kỳ tai họa chung nào đe dọa.[14] . Người Rome tin rằng, giống như bất kỳ kẻ phóng đãng già nua nào, Jupiter sẽ rất hài lòng khi nghe kể lại những câu chuyện về
những kỳ công với sự dũng mãnh và khí lực cường tráng
của ông trước đây, và không có đề tài nào thích ứng hơn với sự kiêu căng, tự cao tự đại
của ông.
N 4.6, Bea 45-6
Xenophon cho biết, những người Lacedaemon (Sparta) [15] , trong thời chiến, luôn luôn
nộp những thỉnh nguyện của họ rất sớm vào buổi sáng, dành
làm trước những kẻ thù của họ, và
bằng cách là những người khẩn cầu đầu tiên, họ hy vọng được lợi thế là
những vị gót sẽ thiên vị họ. Chúng ta có thể
biết từ Seneca [16] , rằng những người hay
đi lễ bái trong những đền thờ, thường tìm thuyết
phục người giữ đền hay người giữ nhà thờ,
để được ngồi gần hình tượng của thần
linh. Vị trí này cho phép những lời tụng đọc kinh và cầu xin của họ có nhiều khả năng được vị thần lắng nghe và đáp lại hơn. Người Tyrian, khi bị Alexander bao vây, đã
quàng dây xích vào tượng Hercules để ngăn vị thần này không đào ngũ sang bên kẻ thù [17] . Augustus, sau
hai lần bão phá hủy hạm đội của ông, đã cấm không được rước Neptune cùng những vị gót khác;
và tưởng tượng rằng mình đã trả thù đủ bằng cách đó [18] . Cuối cùng, sau cái chết của Germanicus, dân chúng vô cùng tức giận
những vị gót đến nỗi họ ném đá vào những tượng của họ trong đền thờ và công
khai từ bỏ lòng trung thành của họ với những vị gót. [19] .
N 4.7, Bea 46
Việc gán nguồn gốc
và cơ cấu của vũ trụ cho những hữu
thể bất
toàn =này không bao giờ nằm trong tưởng tượng của bất kỳ người theo tôn giáo
tin nhiều gót hay thờ linh tượng
nào. Hesiod, người có những tác phẩm của ông, cùng với những tác
phẩm của Homer, chứa đựng những tín ngưỡng và thực
hành tôn giáo được chấp nhận chính thức của những văn hóa ngoài-Kitô [20] ; Tôi nói rằng, Hesiod giả
định những thần linh và con người đều như nhau, có nguồn gốc từ những quyền năng
vô danh của tự nhiên [21] . Và trong suốt toàn bộ tường thuật về sáng tạo thần linh trong thần thoại của những tác giả đó, Pandora là trường hợp duy nhất của sự sáng tạo hay sự sinh sản tự nguyện; và người nữ ấy cũng được những
thần linh hình thành chỉ từ sự oán
giận Prometheus, người đã cung cấp cho loài người ngọn
lửa đánh cắp từ những vùng trời [22] . Quả thực, những nhà thần thoại thời cổ dường như đã chấp nhận ý tưởng
về sự sinh ra hơn là ý tưởng về sự sáng tạo hay hình thành; và từ đó giải thích
được nguồn gốc của vũ trụ này.[12]
N 4.8, Bea 46
Ovid, người sống trong thời đại uyên bác và đã được những triết gia hướng dẫn
về những nguyên lý tạo ra hay hình thành thế giới thần thánh; nhận thấy rằng ý
tưởng như vậy sẽ không phù hợp với thần thoại phổ biến vốn ông ông đang trình bày. Kết quả là, trong một một cách nào đó, ông bỏ lại vấn
đề mơ hồ và tách biệt với hệ thống của ông. Quisquis fuit ille Deorum [23] ? Ông nói rằng bất kỳ
vị thần linh nào đã xua tan sự hỗn loạn và đưa trật tự vào trong vũ trụ.
Đó không thể là Saturn, ông
biết, không là
Jupiter, không là Neptune, không là bất kỳ vị thần linh truyền thống nào
của của giới
ngoại đạo. Hiểu biết của
ông về thần linh học đã không đưa ra một trả lời, vì vậy ông cũng cố tình để
câu hỏi bỏ ngỏ, không giải quyết.
N 4.9, Bea 46-7
Diodorus Siculus [24] , bắt đầu tác phẩm của ông
bằng một liệt kê những ý kiến hợp lý nhất liên quan đến nguồn gốc của thế giới,
nhưng không nhắc đến một vị thần hay một thế lực chỉ đạo thông minh nào đằng
sau sự sáng tạo. Sự vắng mặt này rất đáng chú ý, đặc biệt là vì rõ ràng từ
những tác phẩm của ông rằng ông có khuynh hướng thiên về mê tín hơn là hoàn
toàn không-tôn giáo. Và trong một đoạn văn khác [25] , khi nói về Ichthyophagi, một dân tộc ở India, ông nói
rằng, có quá nhiều khó khăn trong việc giải thích nguồn gốc của họ, chúng ta
phải kết luận họ là những
thổ dân, không có bất kỳ khởi
đầu nào cho sự sinh thành
của họ, họ sinh sản truyền giống từ vĩnh viễn vô thủy vô chung, như một số nhà tư tưởng thời cổ khi nghiên cứu về nguồn gốc của thiên
nhiên đã nhận xét đúng. Nhưng trong những đề tài như thế này, nhà sử học cho
biết thêm, vốn vượt quá mọi khả năng của con người, rất có thể những người nói viết nhiều nhất lại biết
ít nhất; đạt đến một vẻ ngoài giả tạo của sự thật,
nhưng lại quá xa vời với sự thật thực tại và vấn đề đích
thực.
N 4.10, Bea 47
Một tình cảm kỳ lạ
trong mắt chúng ta, được một người theo tôn giáo nhiệt thành và tự nhận là như
vậy chấp nhận! [26] ! Nhưng đó chỉ là do
ngẫu nhiên rằng câu hỏi liên quan đến nguồn gốc của thế giới đã từng được đưa vào những
hệ thống tôn giáo thời cổ,
hay được những nhà gót học giải quyết. Chỉ những triết gia mới tuyên bố
đưa ra những hệ thống giải thích thuộc loại này; và cũng đã khá muộn trước khi
những người này nghĩ rằng họ phải nhờ đến một trí tuệ hay một thông minh tối cao, như
là nguyên nhân đầu tiên của tất cả. Vào thời đó, việc
giải thích về nguồn gốc của mọi thứ mà không có thần linh không hề bị coi là
phàm tục, đến mức Thales, Anaximenes, Heraclitus và những người khác, những
người chấp nhận hệ thống vũ trụ luận đó, đã vượt qua mà không bị nghi ngờ;
trong khi Anaxagoras, chắc chắn là người tin có gót đầu tiên trong số những
triết gia, có lẽ trớ trêu thay, lại là người bị buộc vào tội không tin có
gót [27]
N 4.11, Bea 47-8
Sextus Empiricus [28] cho chúng ta biết rằng Epicurus, khi còn là một
đứa trẻ, đọc với thầy của mình những câu thơ này của Hesiod ,
Thực thể lớn tuổi nhất, Hỗn mang đầu tiên nảy sinh;
Trái
đất tiếp theo, trải rộng, chỗ ngồi của tất cả: [13]
Học giả trẻ này lần đầu tiên cho thấy có óc hiếu kỳ thiên tài của ông,
bằng việc hỏi, Và hỗn loạn từ đâu ra? Nhưng người thầy của ông đã nói
rằng ông phải nhờ đến những nhà triết học để giải quyết những câu hỏi như vậy.
Và từ gợi ý này, Epicurus đã rời bỏ môn ngữ văn và tất cả
những nghiên cứu khác, để dấn thân vào khoa
học đó, nơi mà chỉ nhờ đó ông mong đợi được hài lòng với những
đề tài cao cả này.
N 4.12, Bea 48
Những người bình
thường không bao giờ có khả năng đẩy những nghiên cứu của họ đi xa như vậy, hay
bắt nguồn từ việc lý luận những
hệ thống tôn giáo của họ; chúng ta thấy rằng khi những nhà triết học và
thần thoại học hiếm khi tìm ra thâm nhập sâu xa đến vậy. Và ngay cả những triết
gia, những người thảo luận về những đề tài như vậy, cũng sẵn sàng đồng ý với lý
thuyết thô thiển nhất, và nhìn nhận nguồn gốc chung của những thần linh và con
người là từ bóng đêm và sự hỗn loạn; từ lửa, nước, không khí, hay bất cứ thứ gì
họ xác lập là nguyên tố thống trị
của vũ trụ. [14]
N 4.13, Bea 48
Cũng không phải chỉ
ở nguồn gốc đầu tiên của họ mà những thần linh được cho là phụ thuộc vào
sức mạnh của tự nhiên. Trong suốt thời gian tồn tại của họ, họ phải chịu sự thống
trị của số phận hay định mệnh. Hãy nghĩ đến quyền năng cần
thiết, Agrippa nói với người dân Rôma, quyền năng đó mà ngay cả những thần linh cũng phải phục tùng [29] .
Và Pliny người trẻ tuổi [30] , đồng ý với cách suy nghĩ này, nói với chúng ta rằng giữa bóng tối,
kinh hoàng và hỗn loạn xảy ra sau lần
phun lửa đầu tiên của Vesuvius, một số người đã kết luận rằng
toàn bộ thiên nhiên sẽ bị tàn phá, và rằng những thần linh và con người diệt
vong trong một đống đổ nát chung.
N 4.14, Bea 48
Thật là một sự dễ dãi lớn lao, nếu chúng
ta tôn vinh một hệ thống thần học không hoàn hảo như vậy bằng cái tên tôn
giáo, và đặt nó ngang hàng với những hệ thống sau này, vốn được xây dựng
trên những nguyên lý công bằng hơn và cao cả hơn.
Phần tôi, tôi khó có thể nhìn những nguyên lý
ngay cả của Marcus Aurelius, Plutarch và một số nhà Khắc kỷ và những người theo Plato khác, mặc dù tinh tế
hơn nhiều so với sự mê tín ngoại đạo, là
xứng đáng với danh hiệu tin có gót. Vì nếu thần thoại học của những người
ngoài-tôn giáo, có thể được so sánh với hệ thống những hữu thể tinh thần thời cổ của châu Âu, ngoại
trừ Gót và những thiên thần, thay vào đó tập trung vào những tiên nữ và
những thần tinh; thì riết lý của
những nhà tư tưởng này cũng có thể được mô tả tương tự như bỏ qua một vị gót và
chỉ nhìn nhận những sinh vật giống như những thiên thần và tiên nữ.
------------------------------------------------------------
N 4.3n6, Bea 45
5.
Pere le Comte.
N 4.3n7, Bãi 45
6.
Regnard, Voïage de
Laponie.
N 4.3n8, Bea 45
7.
Diod. Sic. lib. i. Lucian.
de Sacrificiis. Ovid alludes to the same tradition, Metam. li.v. l. 321. So
also Manilius, lib. iv..
N 4.3n9, Bea 45
8.
Herodot. lib.i.
N 4.3n6, Bea 45
9.
Cæs. Comment. de
bello Gallico, lib. iv.
N 4.4n11, Bea 45
10.
Lib. ix. 382.
N 4.4n12, Bea 45
11.
Cap. ix.
N 4.5n13, Bea 45
12.
Pere Brumoy, Theatre
des Grecs; & Fontenelle, Histoire des Oracles.
N 4.5n14, Bea 45
13.
Arnob. lib. vii.
N 4.6n15, Bea 45
14.
De Laced. Rep.
N 4.6n16, Bea 46
15.
Epist. xli.
N 4.6n17, Bea 46
16.
Quint. Curtius.
lib. iv. cap. 3. Diod. Sic. lib. xvii.
N 4.6n18, Bea 46
17.
Suet. in vita Aug.
cap. 16.
N 4.6n19, Bea 46
18.
Id. in vita Cal.
cap. 5.
N 4.7n20, Bea 46
19.
Herodot. lib. ii.
Lucian. Jupiter confutatus, de luctu, Saturn.&c.
N 4.7n21, Bea 46
20.
Ως ομιθεν γεγαασι
θεοι θνητοι τ' ανθρωποι. Hes. Opera
& Dies, l. 108.
N 4.7n22, Bea 46
21.
Theog. l. 570.
N 4.8n23, Bea 46
22.
Metamorph. lib. i.
l. 32.
N 4.9n24, Bea 46
23.
Lib. i.
N 4.9n25, Bea 47
24.
Id. ibid.
N 4.10n26, Bea 47
25.
Cũng
chính tác giả này, người có thể giải thích nguồn gốc của thế giới mà không cần
đến một vị Thần, coi việc giải thích từ những nguyên nhân vật lý, những ngẫu
nhiên thường gặp trong đời sống, động đất, lũ lụt và bão tố là vô đạo đức; và
nhiệt tình quy những sự việc này cho thịnh nộ của Jupiter hay Neptune Một bằng chứng rõ ràng, từ đó ông đã rút ra những
ý tưởng về tôn giáo của mình. Xem lib. xv. tr. 364. Ex edit. Rhodomanni.
N 4.10n27
26.
See NOTE [ZZ].
N
4.10n27.1, Bea 47
Sẽ dễ dàng đưa ra lý do Thales, Anaximander, và
những triết gia đầu tiên, những người thực sự là những người không tin có gót,
lại có thể cùng hàng hay tuân giữ nghiêm ngặt những
tín ngưỡng và tập tục truyền thống được chấp nhận trong tôn giáo dân gian; và tại sao Anaxagoras và Socrates, mặc dù là
những người theo tôn giáo tin-có-gót thực sự, nhưng vào thời cổ, đương nhiên
phải bị coi là bất kính hay
vô lễ với tôn giáo hoặc thần thánh. Những sức mạnh mù quáng, không được
tự nhiên hướng dẫn, nếu chúng có thể tạo ra con người, cũng có thể tạo ra những
hữu thể Jupiter và Neptune, những sinh vật thông minh và mạnh mẽ nhất trong thế giới, sẽ là đối tượng thích hợp để
tôn thờ. Nhưng khi đã nhìn nhận một thông minh tối cao, nguyên nhân đầu tiên của tất cả, thì những sinh vật
thất thường này, nếu có tồn tại, phải tỏ ra trong hàng ngũ thấp hơn, và phụ thuộc, và do đó bị loại khỏi hàng ngũ thần thánh. Plato (de leg. lib. x.) cung cấp sự biện minh cho việc buộc tội nhắm vào
Anaxagoras, cụ thể là việc ông phủ nhận tính chất thần thánh của
những ngôi sao, hành tinh và những vật thể đã được tạo ra khác.
N
4.11n28, Bea 47
27.
Adversus Mathem. lib. ix.
N
4.13n29, Bea 48
28.
Dionys. Halic. lib.
vi.
N
4.13n30, Bea 48
29.
Epist. lib. vi.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Jan/2025)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1]
prosopopœia
[2]
Hamadryad : Trong
thần thoại Greece, là
loài tiên
nữ sống trong cây
(hay hồn cây). Sự sống của hamadryad gắn liền với sự sống của cây, nếu cây chết, hamadryad của cây cũng chết.
[3]
Hume phê phán ý tưởng horror vacui (sự “kinh hoàng về chân không” của Aristotle) và những
ý tưởng tương tự, lưu ý rằng ngay cả những nhà triết học cũng nhân cách hóa vật
chất vô tri với những đặc điểm như “thiện cảm” và “ác cảm”,
phản ảnh khuynh
hướng của con người là phóng chiếu
những cảm xúc lên thiên nhiên.
[4]
Strabo (64
TCN – 24): nhà địa lý, triết gia và
sử gia Greece thời cổ,
nổi tiếng nhất với Geographica, một mô tả gồm 17 tập về thế giới được biết trong thời ông. Tác phẩm của
Strabo cung cấp những hiểu biết giá trị về địa lý, văn hóa và lịch sử của nhiều
khu vực, gồm Châu Âu, Châu Á và Châu Phi, trong Đế quốc Rôma.
[5]
Người Getae: một
dân tộc thời cổ, sống
ở khu vực bắc sông Danube, gần Romania và Bulgaria ngày nay. Họ có quan hệ họ
hàng gần với người Thracia và nổi tiếng với văn hóa chiến binh của họ. Người
Getae có quan hệ với văn hóa Greece và Rome và thường được nhắc đến trong những bản văn cổ, đặc biệt là về những thực hành tôn giáo và ý thức về liên hệ chặt chẽ của họ với thần linh.
[6]
Theology: gót học: môn học chuyên môn về Gót (trong tôn giáo,
không phải “thần” trong những thần thoại).
1.
Trong
Hume, gót học chủ yếu xem xét những hệ thống gót học của đạo Kitô và đạo
Juda, tập trung vào những khái niệm một vị gót tối cao, những thiên thần, những
thuộc tính thiêng liêng và bản chất can thiệp của Gót vào thế giới. Những tác
phẩm của ông trong bối
cảnh trí thức thời đại của ông,
những thảo luận gót
học tập trung vào tôn giáo/tín ngưỡng/học thuyết tin chỉ một gót của phương Tây. Do đó, trong
nội dung này,
theology có
nghĩa trực tiếp đơn giàn là gót học –
môn học chuyên môn
về
Gót của đạo Kitô, và tôi dịch nôm na là “gót học” cho dễ hiểu.
2.
Những trường gót học tập trung vào nghiên cứu những tôn
giáo Áp-ra-ham, đặc biệt là đạo Catô, gồm những học thuyết, đạo đức, văn bản
thiêng liêng, lịch sử nhà thờ, mục vụ, và so sánh tôn giáo. Những trường dạy
gót học này chuẩn bị cho sinh viên vể mục vụ – những hoạt động chuyên môn của
giáo sĩ như thuyết giáo, tư vấn và cung cấp hướng dẫn tinh thần cho một giáo
đoàn hoặc cộng đồng, – giảng dạy hay công tác liên tôn giáo, giải quyết những vấn
đề xung đột thường xuyên giữa đạo Catô và những tôn giáo khác. Những trường này
có nguồn gốc từ những trường tu viện và nhà thờ lớn trong thời Trung cổ, những
tổ chức này đã phát triển thành những trường đại học vào thế kỷ 12, với gót học
là ngành học trung tâm để đào tạo giáo sĩ. Ngày nay những trường đại học trở
nên thế tục hơn, môn gót học thành chủ yếu giảng dạy trong những chủng viện,
nơi tiếp tục nhiệm vụ đào tạo giáo sĩ cho đạo Catô.
Gần đây, Richard Dawkins, nhân khi nhân xét về ngành học
chuyên môn này, như hiện vẫn hoạt động trong những trường đại học ở Âu Mỹ, đã
chỉ trích ngành học này là “phí thì giờ” và “giả khoa học’, lập luận rằng nó
“vô bổ” không đóng góp gì vào kiến thức (khác quan) và lại còn cản trở suy
nghĩ phê phán. Những nhà tư tưởng khác như Christopher Hitchens, Daniel
Dennett, Sam Harris, A.C. Grayling và Steven Pinker có chung quan điểm, đều cho
rằng gót học không có bằng chứng thực nghiệm, nên thúc đẩy những tin tưởng phi
lý, qua đó làm suy yếu lý trí và tiến bộ khoa học của nhân loại
3.
Gót
Học và Gót của Những Tôn Giáo Abraham
Như thế,
có thể định ngĩa Gót
học (theology) là môn học nghiên cứu về Gót (God), và hiểu rằng môn học này tự nó không phân
tích những quan điểm trung
lập với mục đích đi đến một kiến thức khách quan (thí dụ – giả định
trước là có một Gót, bỏ qua câu hỏi nền tảng trong triết học tôn giáo, có gót
hay không?, ..).
Tự thân,
gót học đã thành lập
như một
chương trình học tập trong những tu viện, học viện Kitô nhằm huấn luyện những –
thày chăn chiên (mục sư, linh mục) đạo Kitô (Catô và Thệ phản), trang bị kiến
thức và kỹ năng cần thiết cho hoạt
động mục vụ chủ yếu của những giáo sĩ
Kitô, đào tạo cho họ thành những người giảng dạy chuyên nghiệp giáo lỹ chính thống
của Vatican.
Vì thế, theology thực sự chỉ là “gót
học” Kitô, thay
vì “thần học”, vốn từ này có thể mang một nghĩa rộng hơn (thần
sông thần núi, nhưng không thể gọi thần Kitô, phải là
Gót Kitô)
Trong
gót học của những tôn giáo Abraham (đạo Kitô, đạo Juda, đạo Islam), Gót được giảng dạy
và nhận hiểu là
một Đấng
Tối Cao, duy nhất, và siêu việt, hoàn toàn khác biệt với “thần linh”, “Thượng Đế”,
“Trời” hay
những khái niệm tương tự nào khác trong
những nền văn hóa khác trên thế giới. Đấng Tối Cao này,
Gót mang bản
chất “sáng tạo từ hư không” (creatio ex
nihilo): Gót là nguyên nhân đầu tiên (uncaused cause), tạo toàn bộ
vũ trụ và mọi hiện hữu, “sáng thế” tất cả mọi sựu vật việc nhưng không dùng, dự,
tùy thuộc vào
bất kỳ vật chất, nguồn lực, hay điều kiện nào đã có trước đó. Thuật ngữ “Gót” như thế
phản
ảnh yếu tính của khái niệm
này,
bởi:
- Gót không phải là
“thần linh” (một thực thể bị ràng buộc bởi tự nhiên hay văn hóa).
- Gót cũng không phải
là “Thượng Đế”, “Trời”, hya daimon” (δαίμων).... một thuật ngữ dễ gây
nhầm lẫn hay mang tính nhân cách hóa không phù hợp.
- Gót không chỉ là một
thực thể có nhân cách nhưng là thực tại tối cao, vĩnh cửu, vượt lên mọi giới
hạn vật chất và quy luật tự nhiên. (toàn năng,
toàn trí và toàn thiện)
4.
a. Tính Chất Ex Nihilo của Gót Abraham và Sự Khác Biệt
với Thần Linh Phương Đông: Khái
niệm “sáng tạo từ hư không” (creatio ex nihilo) là những gì
đặc biệt, làm
khái niệm Gót
Abraham khác biệt hoàn toàn so với những khái niệm,
hình ảnh
thần linh trong
những thần
thoại, tín
ngưỡng, tôn giáo, tư tưởng khác.
Thí dụ, những thần
linh phương Đông, không
dược gán cho ex nihilo. Họ định hình hay tái cấu
trúc thế giới từ vật chất đã sẵn hiện
hữu. Như trong
đọa Hindu,
Brahma không sáng tạo từ hư không,
nhưng hoạt
động trong những chu kỳ tái sinh (samsara), tái tạo vũ trụ
trên những
yếu tố đã có sẵn.
b.
Trong tư tưởng phương Tây, có một tiến hóa của những khái niệm Theos
(θεός), Daimon (δαίμων)
trong cổ Hellas, sang và God (Trung
Đông), minh
họa cho sự chuyển biến từ những vị gót của tín ngướng/tôn giáo tin có nhiều
gót, có dạng người, sang sự hiểu biết trừu tượng, tin chỉ có một gót của một thế
lực thần thánh siêu việt, duy nhất.
Khái
niệm về một Gót
tối cao đạo Kitô, Juda và Islam (ba tôn giáo Abraham), là duy nhất
đặc biệt và
không giống với bất kỳ một gì khác. – Gót của Abraham/Abrahim
– tạo
vũ trụ từ hư không (ex nihilo). Hoàn
taonf khác với khái niệm có từ trước về những gót trong những hệ thống thần
linh khác,
Gót của Abraham được giải thích không như một thực thể hình thành từ óc tưởng tượng con người, nhưng như
nguyên nhân đầu tiên và cứu cánh cuối
cùng của
mọi hiện hữu, hiểu như của con người, và tất cả sự vật việc trong vũ
trụ của nó.
Trong
đạo Kitô, Gót (được gọi là Gót Cha) là Đấng sáng tạo từ hư không, một học thuyết
nền tảng khẳng định rằng Người đã tạo ra vũ trụ chỉ bằng mệnh lệnh của Người.
Trong đạo Juda, Yahweh hay Hashem cũng được công nhận là Đấng sáng tạo duy nhất.
Trong khi Torah đề cập đến tohu vavohu (hỗn loạn vô hình) trong Sáng thế
ký 1:2, nhiều cách giải thích khẳng định rằng ngay cả trạng thái nguyên thủy
này cũng được Gót tạo ra, phù hợp với sự sáng tạo từ hư không. Trong đạo Islam,
Allah cũng được tôn kính như Đấng sáng tạo, người có sức mạnh và ý chí vô song
cai quản cả nguồn gốc và sự duy trì của sự hiện hữu. Trong những truyền thống
này, Gót của Abraham là siêu việt, vĩnh cửu và Vị này tác
thành sự sáng thế
hoàn
toàn độc lập, vì từ không-gì (hư không)
Quan điểm về Gót này hoàn toàn trái ngược với những vị
gót của những hệ thống tin nhiều gót, những gót thường bị giới hạn, phụ thuộc
hay là một phần của trật tự tự nhiên, chỉ định hình những vật chất đã hiện hữu
từ trước. Tương tự như vậy, những truyền thống không tin có gót thường gán sự
sáng tạo (vũ trụ) cho những sức mạnh không/khác/trên con người hay những chu kỳ
tự nhiên nhưng không liên quan đến một vị gót cá nhân nào. Ngay cả khi những vị
gót hiện hữu trong những tôn giáo khác, họ vẫn chịu những giới hạn, hay ràng
buộc giống như con người, hoạt động trong khuôn khổ của tự nhiên dù có thể vượt
trên tự nhiên (siêu nhiên) nhưng không ngoài tự nhiên. Gót của Abraham hoàn toàn
khác biệt, vượt ngoài mọi giới hạn và quan niệm của con người. Sự nhận biết về
Gót này, đến từ sự “vén lên cho thấy” thiêng liêng huyền bí (mặc khải) của Gót
– cụ thể là qua kinh thánh, những nhà tiên tri và cũng qua chiêm nghiệm thế
giới tự nhiên (trật tự, cái đẹp và phức tạp của vũ trụ như chứng minh cho sự
hiện hữu của một Gót Sáng Tạo – “người thợ làm đồng hồ” ) – khái niệm Gót này
làm thành tính độc đáo và trong gót học, nâng tôn giáo Abraham lên cao, trên
những tôn giáo, tín ngưỡng khác, đem cho những tín đồ một cái nhìn cực đoan,
thuần tình cảm (đức tin, lòng tin) về thế giới, trong đó mọi hiện
hữu hoàn toàn phụ thuộc vào một Gót duy nhất, một gót không-nhân văn nào, nhưng
là một gì siêu việt hằng có, ở trong vũ trụ nhưng đến từ ngoài vũ trụ này.
[7]
thời kỳ Phục hưng, thời kỳ có kiến
thức và học thuật cổ điển được tái khám phá ở châu Âu. Nó đánh dấu sự quan
tâm mới đối với văn học, triết học và nghệ thuật, dẫn đến sự thay đổi trong những mô hình trí thức và văn hóa.
[9]
Ở đây, Hume biện luận rằng – khác biệt giữa một người tin
vào những thần tiên, yêu ma, quỉ quái, và một người không tin có gót,
thì ít hơn giữa một người như thế và một người tin một gót chân
thực, thê nên, người tin vào những thần tiên, yêu ma, quỉ quái, .... chẳng qua
chỉ là người không tin có gót mê tín.
[10]
Suevi (Suebi): Bộ tộc German cổ xưa, nổi tiếng là những chiến binh dũng
mãnh.
[11]
Trong Iliad của Homer (Quyển 5), Diomede, một anh hùng Greece, đã làm Venus bị thương
trong trận chiến. Venus, gót nữ của tình
yêu và sắc đẹp, cố gắng can thiệp để bảo vệ con trai mình là Aeneas. Tuy nhiên,
với giúp đỡ của gót nữ Athena, Diomede đã thành công trong việc làm Venus bị
thương, khiến bà rất đau
đớn và buộc cô phải rút lui cạy về ẩn
náu với người mẹ,
Dione.
[12]
Những vị gót đã
tạo ra Pandora vì tức giận với Prometheus đã đánh cắp lửa và thách thức Zeus. Sự
sáng tạo Pandora đóng vai trò là hình phạt, tháo mở phóng sinh tất cả
những đau khổ cho nhân loại, như để chống lại món quà của
lửa và khẳng định lại quyền lực thần thánh. Pandora là một con người, mặc dù nàng được những vị gót
tạo ra. Trong thần thoại Hy Lạp, Pandora là người phụ nữ đầu tiên, được
Hephaestus (thần thợ rèn) tạo ra theo yêu cầu của Zeus. Nàng được ban tặng nhiều
món quà từ những vị gót, gồm sắc đẹp, sự quyến rũ và sự tò mò. Pandora được biết
đến nhiều nhất với việc mở một chiếc lọ (thường bị nhầm là "chiếc hộp"),
giải thoát mọi điều xấu xa bị giam giữ ttrong đó ra ngoài thế giới, hoảng hốt
chỉ giữ lại được hy vọng vẫn còn trong lọ. Vì vậy, Pandora được coi là người nữ
đầu tiên trong thần thoại do những vị gót tạo ra.
[13]
trong Theogony của Hesiod, trong đó Hỗn mang (Chaos) được coi là thực thể nguyên
thủy đầu tiên hoặc trạng thái tồn tại, trước khi Trái đất (Gaia) và những
nguyên tố khác của vũ trụ hình thành.
[14]
Trong bối cảnh triết học và vũ trụ học Hellas thời cổ, “đêm, hỗn loạn, lửa, nước
hoặc không khí” chỉ những yếu tố hoặc lực nguyên thủy vốn những nhà tư tưởng thời
ban đầu tin rằng đã tạo ra vũ trụ và những thực thể của nó. Những khái niệm này
gắn liền với nhiều thuyết vũ trụ học thời kỳ đầu:
(a) Hỗn loạn (Chaos): Trong thần thoại Hellas
thời kỳ đầu, Hỗn loạn là trạng thái hư vô hoặc hư vô nguyên thủy đầu tiên mà từ
đó mọi thứ xuất hiện. Nó thường được coi là điểm khởi đầu của sự sáng tạo.
(b) Đêm (Nyx): Trong một số thần thoại, Đêm
(Nyx) được coi là một trong những vị gót nguyên thủy đầu tiên, từ đó những thực
thể và lực khác xuất hiện, bao gồm nhiều khía cạnh của vũ trụ.
(c) Lửa: Lửa, đặc biệt là trong triết lý của
Heraclitus, được coi là một trong những yếu tố chính, tượng trưng cho sự thay đổi
và chuyển đổi trong vũ trụ.
(d) Nước: Thales, một trong những triết gia
tiền Socrates, nổi tiếng với đề xuất rằng nước là chất cơ bản mà từ đó mọi sự vật
xuất hiện.
(e) Không khí: Anaximenes, một triết gia
Hellas thời cổ khác, tin rằng không khí là chất cơ bản của vũ trụ, từ đó tất cả
những nguyên tố khác bắt nguồn.
Những
nguyên tố này là nền tảng cho nhiều thuyết vũ trụ hoặc lý thuyết về nguồn gốc của
thế giới trong tư tưởng Hellas thời cổ.