(Language and Thought)
Noam Chomsky
Noam Chomsky
Hãy để tôi nhanh chóng nói rõ rằng tôi chỉ có ý định ngắn gọn nhắc đến
những chủ đề lớn và phức tạp vốn tựa đề của những nhận xét này đã nêu lên.
Những chủ đề có từ thời của những ý tưởng đã được ghi chép sớm nhất và đi sâu
vào cốt lõi ý nghĩa bản chất của con người chúng ta. Chúng đã thúc đẩy những
điều tra chi tiết và phức tạp, vốn đã gia tăng nhanh chóng trong những năm gần
đây. Những lĩnh vực nghiên cứu ngôn ngữ và tư tưởng dựa trên quan sát và kinh
nghiệm đã trở nên rất chuyên môn. Khi tôi còn là sinh viên ban cao học, cách
đây bốn mươi năm, việc học tất cả những lý thuyết quan trọng về ngôn ngữ học và
tâm lý học không là khó khăn lắm; những gì đã hiểu biết được khi đó chỉ là một
phần nhỏ của những gì được giảng dạy ngày nay. Cách đây không lâu, mọi giáo sư
trong khoa ngôn ngữ học của tôi đều có thể linh động tham dự vào những thảo
luận của việc bảo vệ luận án. Những ngày đó đã qua lâu rồi.
Chuyên môn hóa không là bằng chứng của tiến bộ. Nó thường có nghĩa là
tập trung vào những khía cạnh kỹ thuật hoặc chi tiết của một đề tài, thay thế
những hiểu biết sâu xa hơn để chuộng lấy những vận dụng kỹ thuật, ít quan trọng
hay tầm thường hơn. Theo tôi, ngày nay điều đó vẫn đúng, dù chỉ một phần. Những
câu hỏi truyền thống thôi không bị bỏ quên, hay bị coi là vô lý và vô nghĩa như
chúng trong thời kỳ hoàng kim của “khoa học về hành vi” và những nhánh khác
nhau của thuyết cấu trúc. Chúng đã lại được mở ra, và trong một số trường hợp,
được thăm dò nghiên cứu nghiêm chỉnh. Những câu hỏi mới đang được đặt ra vốn
cách đây vài năm không thể tưởng tượng được, và chúng dường như là những câu
hỏi đúng, mở đường cho những hiểu biết mới và những vấn đề đã không ngờ tới. Đã
có sự gia tăng nhanh chóng và đáng kể về số lượng những hiện tượng
có thể quan sát được đã hiểu rõ, vốn lý thuyết nào giải thích chúng phải có thể
giải đáp được.
Những đánh giá tương tự đã đem cho trong quá khứ, trong cái nhìn của tôi
đều không đúng. Ngày nay, chúng cũng nên được nhìn với một con mắt hoài nghi.
Ngay cả trong trường hợp của công trình đã được thực hiện hết sức cẩn thận và
phức tạp, tinh tế hoặc cấp tiến, điều có thể là hữu ích để nhắc lại những suy
nghĩ của Voltaire về siêu hình học: một vũ điệu với những bước thanh lịch,
nhưng cuối cùng quí vị chấm dứt ở nơi quí vị đã bắt đầu. Với tôi, khoảng cách
giữa thành công trong trong truyền thông quảng cáo nhằm nêu lên hình ảnh tích
cực với công chúng và thành tựu liên quan thực sự có được thường rất đáng chú
ý. Tôi nghĩ đến những tuyên bố với hứa hẹn to lớn vè những mô hình mạng lưới
thần kinh hay trí thông minh nhân tạo, hay về một “cuộc cách mạng nhận thức”. Tuy
nhiên, tôi nghĩ rằng có tiến bộ đáng kể với tác động ý nghĩa đáng kể trong
một số lĩnh vực nhất định
Tôi sẽ cố gắng phác họa quang cảnh theo như tôi nhìn thấy, nhấn mạnh
trước rằng đó là một quan điểm cá nhân và chắc chắn là một quan điểm của thiểu
số.
Một điểm khởi đầu cơ bản là khuôn khổ Gottlob Frege đã xây dựng đúng một
trăm năm trước, nó đã chứng tỏ là một mô hình cho nhiều những gì theo sau. Giả
định cơ bản của Frege là “loài người có được một kho tàng tư tưởng chung vốn
được truyền tải qua những thế hệ”, một gì vốn “không thể dễ dàng bị phủ nhận;”
Nếu đã không là vậy, “một khoa học thông thường sẽ là không thể có được” [2]. Những tư
tưởng chung này được diễn đạt trong một ngôn ngữ có chung của công chúng, gồm
những dấu hiệu chung. Một dấu hiệu có hai phương diện. Đầu tiên, nó chỉ định
một đối tượng trong thế giới, biểu hiên, hay ám chỉ của nó; trong một “ngôn ngữ
hoàn hảo về lôgích”, vốn sẽ là đúng cho mọi diễn đạt “được xây dựng với không
khuyết điểm”. Thứ hai, một dấu hiệu có một “ý nghĩa” chỉ định, định nghĩa sự
vật việc nó biểu thị hay đại diện , và được tất cả những người thành thạo dùng
ngôn ngữ nắm vững thấu hiểu; để hiểu một diễn đạt là để biết ý nghĩa của nó
trong ngôn ngữ có chung. Ngoài ra, mỗi người có thể có một hình ảnh tâm lý
riêng gắn liền với giác quan khách quan. Ký hiệu, giác quan và sự vật việc nói
đến, chỉ về, nhắc tới, ... là những thực thể bên ngoài, nằm ngoài não thức/bộ
óc. Chúng ta có thể tương tự bắt chước Frege, giả định rằng chúng ta nhìn mặt
trăng qua một kính thiên văn. Chúng ta có thể nghĩ hình ảnh thật của mặt trăng
chiếu bên trong kính thiên văn, một đối tượng chung với tất cả những người quan
sát, tương tự với giác quan; hình ảnh trên võng mạc cá nhân thì tương tự với
hình ảnh trong tâm lý mỗi người [3]
Bức tranh cơ bản đã được chấp nhận rộng rãi. Ý tưởng rằng một dấu hiệu
chọn ra một đối tượng trong thế giới vốn nó nhắc đến “rõ ràng có nghĩa lý”,
Gareth Evans nhận xét trong một trong những nghiên cứu quan trọng nhất gần đây
về cách những từ ngữ liên quan đến những sự vật việc trong thế giới [4]. Ý tưởng
này đôi khi bị hoài nghi, thí dụ như Peter Strawson, người đã báo trước 40 năm
trước đây, về “huyền thoại về cái tên riêng hợp lý”, [5] và những
tin tưởng tương tự về những từ như “cái này”, “cái kia” và những đại từ như “ông/anh
ấy” và “bà/cô ấy”. [6] Trong tác
phẩm gần đây nhất, Akeel Bilgrami phát triển một cách giải thích dựa trên ý
tưởng của mọi người với một sự phụ thuộc hẹp hơn nhiều trên những đối tượng bên
ngoài và ngôn ngữ có chung của công chúng. Nhưng những lo ngại như vậy rất hiếm
và có thể là đi chưa đủ xa.
Bức tranh theo Frege có những vấn đề kỹ thuật đã khởi hứng cho một số
lớn công trình nghiên cứu sâu xa, nhưng điều đáng ghi nhận rằng không nguyên
tắc nào của nó là hiển nhiên. Những vấn đề nảy sinh quá phức tạp và sâu rộng để
hy vọng có thể xem xét lại một cách đầy đủ. Hãy cho tôi chỉ đơn giản nói về một
vài hoài nghi.
Giả định cơ bản rằng có một kho chứa chung của những suy nghĩ chắc chắn
có thể bị phủ nhận. Trong thực tế, hơn một thế kỷ trước, nó đã từng bị thuyết
về những ý tưởng [7] phủ nhận.
Những người theo thuyết này biện luận rằng giải thích cụm từ “John has a
thought / John có một suy nghĩ” (hoặc mong muốn, ý định, v.v). trên loại suy
của “John has a diamond / John có một viên kim cương” là một sai lầm.Trong
trường hợp trước, nhà soạn từ điển bách khoa du Marsais và sau này là Thomas
Reid đã lập luận, rằng diễn đạt này chỉ có nghĩa là “John nghĩ” (mong muốn,
v.v). và không đem cho cơ sở nào để khẳng định rằng có “những suy nghĩ” để John
có liên quan với chúng. Nói rằng mọi người có những suy nghĩ tương tự là nói
rằng họ suy nghĩ giống như nhau, có lẽ quá giống nhau khiến chúng ta ngay cả
nói rằng họ có cùng suy nghĩ, như chúng ta nói rằng hai người sống cùng một
nơi. Nhưng từ sự việc này, chúng ta không thể chuyển sang nói rằng có những suy
nghĩ để họ cùng có chung hay một kho chứa của những suy nghĩ loại như vậy.
Những triết gia đã bị đánh lừa bởi “ngữ pháp mặt ngoài” [8] của một “cách
diễn đạt gây hiểu lầm một cách hệ thống” [9], khi dùng
những từ ngữ được đem vào khi nghiên cứu giải quyết “ngôn ngữ thông thường” này
được hồi sinh 150 năm sau. Ý tưởng rằng những suy nghĩ có thể có được như những
thực thể vật chất, chẳng hạn như những viên kim cương, cần phải có biện minh.
Theo ý kiến của tôi, lập luận này vững chắc đến đâu thì cũng phải hỏi lại.
Hãy xem xét giả định thứ hai: những suy nghĩ có chung sẻ được diễn tả
bằng một “ngôn ngữ chung của công chúng”. Một vài dạng của ý tưởng này thì được
giả định trong hầu hết triết học ngôn ngữ và ngữ nghĩa học triết học. Nhiều
người, như Michael Dummett, một học giả hàng đầu về Frege, tin rằng rằng quí vị
và tôi không chỉ có cùng một ngôn ngữ chung, nhưng rằng ngôn ngữ này, tiếng Anh
– tồn tại “độc lập với bất kỳ người nói cụ thể nào”. Mỗi người trong chúng ta
chỉ có sự hiểu biết một phần và có phần nào không chính xác về ngôn ngữ. Tuy
nhiên, ý tưởng này thì hoàn toàn xa lạ với nghiên cứu thực nghiệm về ngôn ngữ,
và chưa ai đã từng giải thích nó nghĩa là gì. Lấy thí dụ, chúng ta quyết định,
chẳng hạn, liệu từ “không quan tâm/ disinterested” trong ngôn
ngữ vốn tôi biết một phần được phát âm như ở Boston hay Oxford hay không, hay
nó có nghĩa là “lãnh đạm / uninterested”, như hầu hết những người nói đều tin (một cách vô tình, chúng ta được
bảo thế), hay “không thiên vị”, như một
số nhân vật số nhân vật tên tuổi chuyên môn nhất định khăng khăng? Với nghiên
cứu ngôn ngữ thực nghiệm, những câu hỏi này là vô nghĩa.
Những gì được gọi là “ngôn ngữ” hay “phương ngữ” trong cách dùng thông
thường là những hỗn hợp phức tạp được xác định bởi những yếu tố như ranh giới
địa lý, đại dương, thể chế chính trị, v.v., với quy phạm tối nghĩa. – những
phương diện về mục đích. Và không có cấu trúc lý thuyết nào có thể thay thế chúng,
hay không có khoảng trống giải thích nào vốn một cấu trúc có thể lấp đầy nếu nó
được nghĩ ra. Đúng là Peter và Mary có thể nói giống nhau, trong khi không ai
trong họ nói giống Đặng Tiểu Bình. Tương tự như vậy, họ có thể trông giống nhau
và sống gần nhau, mặc dù không ai trong họ trông giống hoặc sống gần Đặng. Từ
những sự kiện này, chúng ta không kết luận rằng có những hình dạng chung mà mọi
người có chung chia sẻ hoặc thế giới được chia thành những khu vực khách quan,
ngay cả như những lý tưởng hóa, hoặc những ngôn ngữ và những cộng đồng vốn
những ngôn ngữ này thuộc về.
Hỏi xem Peter có nói cùng ngôn ngữ như Mary hay không thì giống như hỏi
có phải Boston thì gần New York nhưng không gần London, hay có phải John thì
gần nhà không, ngoại trừ rằng chiều hướng do sở thích và hoàn cảnh mang lại thì
đa dạng và phức tạp hơn nhiều. Trong đời sống bình thường con người, chúng ta
thấy có đủ loại của thay đổi những cộng đồng và kỳ vọng, rất khác nhau giữa
những cá nhân và những nhóm và không có “trả lời đúng” về phần sẻ nên lựa chọn
chúng như thế nào. Mọi người cũng đi vào trong những liên hệ quyền lực và tôn
trọng hay nhượng bộ khác nhau và luôn thay đổi. Vấn đề không phải là sự mơ hồ
nhưng là sự thiếu cụ thể một cách vô vọng, thiếu những chi tiết hay thông tin rõ
ràng.. Đó không là vấn đề trừu tượng hóa từ sự đa dạng, cũng như trường hợp “gần
Boston” hay “trông giống”; đúng hơn, không có một cách tổng quát nào để trừu
tượng hóa, dù chúng ta có thể làm được, với những quan tâm đặc biệt đem cho,
như khi chúng ta nói rằng ngôn ngữ ở miền nam Sweden từng là tiếng Denmark
nhưng đã trở thành tiếng Sweden vài năm sau đó, nhưng không thay đổi, như một
kết quả của chinh phục quân sự. Những khái niệm không chính thức như tiếng
Sweden v/s tiếng Denmark, những chuẩn mực và quy ước, hay việc dùng sai ngôn
ngữ nói tổng quát không có vấn đề gì trong điều kiện dùng thông thường, chẳng
hạn như “gần New York” hay “trông giống Mary”. Nhưng khó có thể mong đợi rằng
chúng có thể đóng góp vào những cố gắng nhằm có được sự hiểu biết về mặt lý
thuyết. Theo quan điểm của tôi, một phần đáng kể của nghiên cứu nghiêm ngặt
nhất về ý nghĩa và chủ ý chắc chắn dựa vào những khái niệm này và và phải được
xem xét nghiêm chỉnh.
Đã thường giả định rằng những khái niệm loại như vậy phải được viện dẫn
để giải thích cho việc “tuân theo-quy tắc” và cho thực tế của sự truyền đạt
thông tin. Do đó, việc tuân theo-quy tắc chỉ có thể được gán cho khi có những
tiêu chuẩn phổ thông của sự “chính xác đem dùng hay việc áp dụng những điều
kiện của sự đồng thuận chung trong thực hành ngôn ngữ, một hình thức
chung của đời sống”, [10] một thực
hành trong một ngôn ngữ cộng đồng có chung, như Strawson · nêu lên quan điểm
của Wittgenstein trong bài giảng Woodbridge năm 1983 của ông. Có lẽ, người ta
thắc mắc rằng đây là một học thuyết về “triết học ngôn ngữ thông thường”, vì
ngôn ngữ thông thường có một lộ trình hoàn toàn khác. Nếu cháu gái tôi nói “I
brang the book / Cháu đã mang quyển sách đến”, Chúng ta
sẽ không ngần ngại nói rằng cháu tôi tuân theo quy tắc tương tự (thì của động
từ như “sing”) “sing-sang-sung”, mặc dù không tuân theo với “thỏa thuận chung”.
Đúng là ngôn ngữ bên trong của cháu có thể thay đổi, đã thay thế “ brang
“ bằng “brought”. Nếu không, cháu sẽ nói. một ngôn ngữ vốn khác với của
tôi về một của nhiều phương diện khác, và nói “chính xác” trong chừng mức từ
ngữ này có nghĩa là bất cứ một gì. Những câu hỏi về ý nghĩa thường được coi là
sâu xa hơn, nhưng việc biện luận về sự khác biệt này là cần thiết; trong thực
tế, chúng nhìn có vẻ mơ hồ hơn nhưng không có khác biệt trong những phương diện
khác nhau.
Chúng ta có thể lưu ý học thuyết vốn gán cho việc tuân theo-quy tắc
trong ngôn ngữ, hay những trạng thái và tiến trình tâm lý tổng quát, thì đòi
hỏi tính có thể nhận hiểu được với ý thức. Quy định về từ ngữ này – chỉ đơn
thuần là một định nghĩa, – đi ngược lại với cách dùng thông thường và không có
chỗ trong nghiên cứu về ngôn ngữ và tư tưởng trong phương thức của khoa học, và
rơi vào những tuyệt vọng, không thể giải quyết. Học thuyết này trở nên chỉ bí
ẩn hơn khi được một khái niệm không thể giải thích được (và có vẻ như khó hiểu)
bổ xung, của “phương pháp nghiên cứu giải quyết trên nguyên tắc”, như trong
những cố gắng gần đây của John Searle nhằm tránh những vấn đề hiển nhiên đã
từng được nêu ra. Những vấn đề này đã được thảo luận ở nơi khác; tôi sẽ không
bàn về chúng ở đây. [11]
Về phần truyền đạt thông tin, nó không đòi hỏi những ý nghĩa có chung
của mọi người, cũng như không đòi hỏi “những phát âm có chung của mọi người”.
Chúng ta cũng không cần phải giả định rằng “những ý nghĩa” (hay những “âm thanh”)
của một người tham gia phải được người kia có thể tìm ra. Truyền đạt thông tin
hay bày tỏ ý tưởng là một vấn đề – ít hay nhiều hơn – , việc tìm kiếm một ước
tính hợp lý khách quan về một gì đó dựa trên dựa trên hoàn cảnh hoặc dữ liệu
hiện có về những gì người kia nói và nghĩ trong đầu. Một suy đoán hợp lý là
chúng ta ngầm giả định rằng người kia giống hệt chúng ta, sau đó đưa vào những
sửa đổi khi cần thiết, phần lớn là phản xạ, vượt ra ngoài mức độ của ý thức.
Việc làm có thể là dễ dàng, khó khăn hay không thể thực hiện được và hiếm khi
cần phải có quyết định chính xác để giao tiếp có được mục đích trước mắt. Hóa
ra thực sự có một gì đó giống như “ý nghĩa được cùng chia sẻ công khai”, vì
những thuộc tính bẩm sinh có tính giới hạn cao của khả năng ngôn ngữ cho phép
rất ít biến thái; đó sẽ là một khám phá thực nghiệm thích thú đáng chú ý (và
không gây ngạc nhiên), nhưng không có đòi hỏi về khái niệm rằng bất cứ gì thuộc
loại này là đúng.
Ý tưởng cơ bản thứ ba của Frege là gì, rằng một dấu hiệu chọn một đối
tượng trong thế giới,
trong một cách thức được ý nghĩa của nó xác định? Trước tiên hãy lưu ý rằng
những ý tưởng này không là một phần của cách dùng thông thường; Vì lý do đó,
Frege đã phải tạo ra những thuật ngữ chuyên môn kỹ thuật. Sự kiện đó không
không làm suy yếu giá trị của những ý tưởng của ông; lý thuyết về nói viết,
diễn đạt truyền thông hiếm khi tuân theo “khoa học dân gian”. Tuy nhiên, nó đặt
ra câu hỏi về tính phù hợp của những đổi mới kỹ thuật này. Đúng là người ta
dùng những từ để chỉ những sự vật việc và nói về chúng, nhưng sẽ là một bước
nhảy vọt để kết luận rằng những từ đó chỉ về / nói đến / trỏ vào những sự vật
việc này.
Giả sử tôi nói với quí vị , “Hôm nọ, tôi có một buổi phỏng vấn ở đài
phát thanh BBC, và bị sốc trước sự đi xuống của thành phố”. Một người nào đó
quan sát trao đổi có thể nói một cách chính xác rằng tôi đang nói đến và bàn về
sự hư hỏng của London, mặc dù tôi đã không dùng bất kỳ từ nào để chỉ ra London
bằng dựa vào ý nghĩa của nó (ngược lại, nếu tôi nói “London có hay không nằm
trên sông Thames”. Tôi có thể đang đưa ra một điều về lôgích chứ không hề nhắc
đến chính thành phố London). Thêm nữa, có đối tượng nào là London vốn tôi đang
nhắc đến không? Nếu vậy thì đó là một điều rất muốn tìm biết. Thế nên, chúng ta
cho phép rằng trong một số trường hợp, London có thể bị phá hủy hoàn toàn và
được xây dựng lại ở một nơi khác, về sau 1000 năm nữa, nó vẫn là London. Tương
tự. Charles Dickens mô tả Washington như “Thành phố của những ý định vĩ đại”,
nêu bật những khát vọng lớn lao nhưng việc thực hiện chưa đầy đủ. Ông lưu ý “những
con đường rộng rãi, không bắt đầu từ đâu và không dẫn đến đâu cả; những con
đường dài hàng dặm chỉ cần nhà, đường và dân cư; những công trình công cộng đòi
hỏi một công chúng để là trọn vẹn, và những trang trí dành cho những những đại
lộ nhưng thiếu những đại lộ để tô điểm” – tuy nhiên, bất chấp những thiếu sót
này – nó vẫn là Washington. Chúng ta có thể coi London, với có hay không nhìn
theo dân số của nó: từ một điểm nhìn, nó vẫn cũng là một thành phố nếu như dân
chúng ở đó rời bỏ nó; từ một điểm nhìn, khác, chúng ta có thể nói rằng London
đã có cảm giác khó khăn hơn qua những năm thời Thatcher, một nhận xét về cách
mọi người hành động và sinh sống. Nhắc đến London, chúng ta có thể nói về một
địa điểm, những người đôi khi sống ở đó, không khí bên trên (nhưng không quá
cao), những tòa nhà, tổ chức, v.v., trong nhiều những kết hợp khác nhau. Một
lần xuất hiện duy nhất của từ ngữ này có thể phục vụ tất cả những chức năng này
cùng một lúc, như khi tôi nói rằng London quá bất hạnh, xấu xí và ô nhiễm đến
mức nó cần phải bị phá hủy và xây dựng lại, cách đó 100 dặm. Không đối tượng
nào trong thế giới có thể có tập hợp gồm những thuộc tính này.
Những từ như London, dùng để nói về thế giới thực tại, nhưng không có, cũng không
tin là những sự vật việc trong thế giới với những thuộc tính của những phương
thức tham khảo – (ám chỉ, nói
đến, kể đến, nhắc đến) – phức tạp
vốn gói gọn trong tên một thành phố; để giả định như vậy sẽ nhanh chóng dẫn đến
nghịch lý cực độ. [12] Hơn nữa,
chúng ta cũng thấy những tương tự ở bất cứ chỗ nào chúng ta tìm hiểu vào trong
những thuộc tính về từ vựng. Giả sử tôi nói, “quyển sách vốn John viết trong
đầu, nặng 5 pound”. Quyển sách vốn tôi đang nói đến thì vừa trừu tượng vừa cụ
thể, nhưng không là một sự vật nào trong thế giới. Nói tổng quát, một biểu thức
ngôn ngữ đem cho một góc nhìn phức tạp để từ đó nghĩ về , nói về và viện dẫn
đến những sự vật việc hay những gì chúng ta coi là sự vật việc; kết luận chỉ
trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta chuyển từ trường hợp đơn giản nhất – những tên
riêng và danh từ chung – sang những từ có cấu trúc quan hệ vốn có và cấu trúc
phức tạp hơn. Những từ điển chi tiết nhất chỉ
đem cho những gợi ý đơn thuần về ý nghĩa của từ (hoặc về âm thanh của chúng),
cũng như những ngữ pháp truyền thống phức tạp nhất chỉ đem cho những gợi ý về
hình thức và ý nghĩa của những cấu trúc phức tạp – những gợi ý có thể phù hợp
với trí thông minh của con người, vốn có sự hiểu biết và cấu trúc cần thiết, ở
mức độ lớn độc lập với kinh nghiệm. Ngôn ngữ được lưu trữ bên trong của tôi,
một tài sản cá nhân, đem cho những quan điểm và cách thức như vậy để tôi thể
hiện những suy nghĩ của tôi bằng cách dùng chúng; của quí vị cũng vậy, và trong
chừng mực chúng giống nhau và chúng ta giống nhau ở những phương diện khác,
chúng ta có thể – ít nhiều một cách tốt đẹp – truyền đạt thông tin hay bày tỏ ý
tưởng.
Đặc tính phổ biến của “sự nghèo nàn của những tác nhân kích thích” thì
nổi bật ngay cả trong trường hợp những mục từ vựng đơn giản. Những thuộc tính
ngữ nghĩa của chúng được trình bày rõ ràng và phức tạp và được biết đến một
cách chi tiết, vượt xa mọi kinh nghiệm liên quan và phần lớn độc lập với những
biến thể của kinh nghiệm và những cấu trúc thần kinh cụ thể trên một phạm vi
rộng. Kết luận đó cũng trở nên chắc chắn hơn khi chúng ta chuyển sang ý nghĩa
của những cấu trúc gồm nhiều từ. Lấy một thí dụ rất đơn giản, hãy xem xét cách
chúng ta diễn giải “những cụm từ bị thiếu”, như trong những cặp diễn đạt “John
ate an apple / John đã ăn một quả táo”, “ John ate, / John đã ăn”, cụm từ sau
được hiểu là John đã ăn một gì đó hay một gì khác; ở đây chúng ta áp dụng quy
tắc tự nhiên rằng nếu một biểu thức diễn đạt thì bị “thiếu”, Chúng ta sẽ hiểu
nó là “một gì đó hay một gì khác”.
Hãy xem xét câu tiếp theo, “John is too stubborn to talk to Bill / John
thì quá bướng bỉnh để nói chuyện với Bill”, có nghĩa rằng John, vì bướng bỉnh,
sẽ không nói chuyện với Bill. Giả sử chúng ta bỏ “Bill”, để lại chỉ “John. is
too stubborn to talk to / John thì quá bướng bỉnh để nói chuyện với”. Áp dụng
quy tắc tự nhiên (tức là tương tự với trường hợp trước), chúng ta kết luận rằng
câu này có nghĩa là John, là người bướng bỉnh, sẽ không nói chuyện với người
này hay người khác. Nhưng nó không thế; đúng hơn, nó có nghĩa là mọi người sẽ
không nói chuyện với John (vì tính bướng bỉnh của John). John được (người ta)
nói chuyện với, chứ không phải John làm công việc nói chuyện, và một người
không xác định làm công việc nói chuyện / đang nói chuyện, chứ không phải được
nói với; cách giải thích của trường hợp trước đã bị đảo ngược ở đây.
Để minh họa trong một trường hợp tế nhị hơn một chút, hãy xem xét câu “Jones
was too angry to run the meeting / Jones đã quá tức giận để điều hành buổi họp”.
Ai được hiểu là người điều hành buổi họp? Có hai cách giải thích: “Chủ từ thầm
lặng” của “điều hành” có thể hiểu là Jones, nghĩa là Jones sẽ không điều hành
buổi họp vì tức giận; trong trường hợp này chúng ta nói rằng chủ thể thầm lặng
được “điều khiển” bởi Jones. hay có thể coi là không xác định trong tham chiếu,
nghĩa là (giả sử) chúng ta không thể điều hành buổi họp vì sự tức giận của
Jones (so sánh với câu “the crowd was too angry to run the meeting / đám đông
quá tức giận để điều hành buổi họp” ) . Giả sử chúng ta thay thế “buổi họp”
bằng một câu hỏi, thì chúng ta sẽ có: “which meeting was Jones too angry to
run? / buổi họp nào vốn Jones đã quá tức giận để điều hành?” Bây giờ sự mơ hồ
đã được giải quyết; Jones từ chối điều hành buổi họp (so sánh “buổi họp nào vốn
đám đông đã quá tức giận để bỏ chạy”, giải thích ngược lại bằng trực giác có
nghĩa là đám đông lẽ ra phải điều hành buổi họp, không giống như “buổi họp nào
vốn đám đông quá tức giận đến mức chúng ta không thể chạy?” – không có “chủ từ
thầm lặng” đòi hỏi phải giải thích).
Những lý lẽ đều được hiểu rất rõ trong những trường hợp loại như thế
này. Điểm quan trọng là tất cả những sự việc này đều được biết với không có
kinh nghiệm và không gồm những tiến trình tính toán và những nguyên tắc vốn ý
thức hoàn toàn không nghiên cứu giải quyết được, áp dụng cho một loat rộng lớn
những hiện tượng trong những ngôn ngữ đa dạng về loại hình. Ngay cả những hiện
tượng liên quan đã thoát ngoài sự chú ý cho đến mãi gần đây, có lẽ vì những sự
kiện được biết “bằng trực giác”, như phần của bản chất chúng ta, không cần kinh
nghiệm. Việc tìm hiểu nghiêm chỉnh bắt đầu khi chúng ta sẵn sàng để ngạc nhiên
trước những hiện tượng đơn giản của tự nhiên, chẳng hạn như việc một quả táo
rơi xuống từ trên cây, hay tại sao một cụm từ có ý nghĩa như vậy. Nếu chúng ta
hài lòng với “giải thích” rằng mọi sự vật việc rơi vào vị trí tự nhiên của
chúng, hay kiến thức của chúng ta về thể dạng và ý nghĩa là kết quả của kinh
nghiệm, hay có lẽ là do sự tiến hóa trong tự nhiên, thì chúng ta có thể chắc
chắn rằng chính những hiện tượng đó sẽ vẫn không được chú ý nhìn thấy, chứ chưa
nói đến có được hiểu biết nào về những gì nằm sau chúng.
Sự hiểu biết như thế của chúng ta về những vấn đề này dường như không
được tăng thêm bởi việc viện dẫn những tư tưởng vốn chúng ta nắm được , những
phát âm hay những ý nghĩa có chung, những ngôn ngữ thông thường vốn chúng ta
biết một phần, hay một liên hệ của ám chỉ / nói đến /nhắc đến giữa những từ và
những sự vật việc, và một cách thức sửa chữa nó. Một phương pháp nghiên cứu
giải quyết theo thuyết “nội tại” [13] vốn tránh
những khái niệm mơ hồ như vậy, có vẻ như đem cho một cơ sở tương xứng cho sự
nghiên cứu của ngôn ngữ và cách dùng của nó, của những tác động lẫn nhau của chúng ta
với người khác và môi trường bên ngoài. Nó không đem cho rào cản chống lại
thuyết hoài nghi, nhưng không có lý do để nó sẽ như vậy. Mặc dù tôi sẽ không
nói chi tiết về vấn đề này ở đây, nhưng tôi không biết có bất kỳ lập luận nào
(không phải là lập luận – kiểu vòng tròn) chống lại một “ thuyết nội tại “ toàn
diện của phái Descartes, vốn nghi ngờ sự hiện hữu của những sự vật bên ngoài.
Trong góc nhìn hoài nghi này, những khái niệm (thông thường) sẽ không là “của
những sự vật việc” bên ngoài”, và không nảy sinh qua kinh nghiệm hay tiến hóa.
Với tôi, đề nghị này dường như không được quan tâm, nhưng cũng không là có thể
bác bỏ hay khó hiểu theo nghĩa đen.
Trong
liên hệ này, chúng ta có thể lưu ý đến đề nghị, thỉnh
thoảng nêu lên, rằng vấn
đề của việc giải thích cho việc dùng
và tiếp thu ngôn ngữ thì làm đơn giản được hay giải quyết được, nếu chúng ta giả định rằng những
tiến trình này, cách nào
đó, đều “dựa trên ý nghĩa”, ý tưởng là ngữ nghĩa thì mềm mỏng/dễ
uốn nắn, mơ hồ/không chính xác hay không xác định rõ ràng, (chúng) phản ảnh những tin tưởng và những nhận thức, những mục tiêu và
những quan tâm, những thực hành cộng đồng, v.v. Thế nên, những phương pháp “dựa trên-ngữ nghĩa” sẽ không dẫn
đến “những khủng hoảng” gây ra bởi
khoảng cách giữa bản chất có cấu trúc, được quản lý theo quy tắc và chính xác
của cú pháp cũng như tính biến đổi và những thay đổi liên tục trong kinh nghiệm cá nhân và cấu trúc
thần kinh; Những đề nghị của Gerald Edelman là một thí
dụ gần đây.
Những
phỏng đoán như
vậy không thể đứng vững được trước cái nhìn
thoáng qua nhất về
những thuộc tính ngữ nghĩa đơn giản, vốn đặt ra tất cả cùng những vấn đề như những cấu trúc
cú pháp phức tạp: chúng đều là được quy tắc-điều chỉnh, được phân định rõ rệt, và cố định trong độc
lập tương đối của kinh nghiệm và những
phương diện được biết của
cấu trúc thần kinh. Thêm nữa, vấn
đề còn bị trình bày sai lệch nghiêm trọng. Khoảng cách giữa những gì được biết
về ngôn ngữ và về khoa học bộ óc hay kinh nghiệm thì đủ thực,
không thể phủ nhận, nhưng
nó thì không là
một “khủng hoảng” hay “sự bối rối” cho tâm lý học nhận thức, như đôi khi
đã gán buộc. Đúng hơn, đó là một vấn đề điển
hình của sự thống nhất trong khoa học: lý thuyết giải thích thành công ở một
mức độ không thể được tích hợp với những mức độ khác, có lẽ vì những mức độ
khác phải được tính toán lại về
cơ bản. Trước đây vài năm không lâu, người
ta thường tin rằng hiểu biết của ngôn ngữ
thì nhiều nhắt đến từ dẫn nhập đơn giản dựa trên kinh nghiệm
rộng rãi hay ngay cả rèn luyện dạy dỗ. Vào thời đó, những ngôn ngữ hiện ra khác lẫn nhau như những khác biệt triệt để
trong cấu trúc thần kinh đối với những con mắt chuyên môn được đào tạo ngày nay. Nhận thức
này là điển hình cho bất kỳ hệ thống phức tạp nào trước khi những nguyên tắc và
chức năng cơ bản của nó được hiểu đầy đủ. Ngoài ra, tin tưởng rằng một phương
pháp nghiên cứu giải quyết dựa trên ngữ nghĩa là một thay thế cho một phương
pháp nghiên cứu giải quyết dựa trên cú pháp, đã dựa trên hiểu lầm quá sai lạc
về tài liệu học thuật, khiến một phê bình vắn tắt khó có thể đưa ra (ở đây). Về
cơ bản, quan điểm này bỏ qua liên hệ giữa cú pháp và ngữ nghĩa trong lý thuyết
ngôn ngữ học, trong đó cả hai phương diện đều quan trọng và không thể tách biệt
thành những giải pháp thay thế riêng biệt.
Nhớ lại rằng Frege đã nói về một “ngôn ngữ hoàn hảo về lôgích”, một ngôn
ngữ sẽ cho phép tạo ra “một khoa học phổ thông”. Dummett lập luận rằng ông coi
ngôn ngữ tự nhiên không chỉ không hoàn hảo, nhưng ngay cả còn “không
mạch lạc trên nguyên
tắc”. Nếu vậy, dự án cụ thể của ông sẽ không
bị ảnh hưởng bởi bất kỳ cân nhắc nào trong số này. Nhưng chúng ta có thể hỏi nó
có liên quan gì đến việc tìm hiểu ngôn ngữ và tư tưởng hay không. Có lẽ rất ít, nhưng những suy nghĩ thẳng thắn của Voltaire có thể là không hoàn toàn
bất công, nhưng thích hợp với trường hợp hiện tại.
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Apr/2024)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1]
Dich từ Chomsky, Noam. Language
and thought. Wakefield, RI & London: Moyer Bell, 1993.
(The Frick
Collection – Anshen Transdisciplinary – Lectureships in Art, Science and The
Philosophy of Culture – Monograph Three)
Những chú thích trong ngoặc vuông [... ] từ nguyên
bản. Những chú thích khác, với những sai lầm nếu có, là của tôi, sẽ tìm chữa
sau.
[2] kiến thức tập thể tạo thành nền tảng của
nghiên cứu và thảo luận khoa học, cho phép giao tiếp và hợp tác giữa những nhà
khoa học và nhà nghiên cứu.
[3]
Lý thuyết về ý nghĩa và tham chiếu
của Frege được trình bày trong “Über Sinn und Bedeutung” (“Về ý nghĩa và
tham chiếu”), 1892. Bài viết này là một văn bản nền tảng của triết học ngôn ngữ. Lý thuyết của
Frege phân biệt hai phương diện chính của ngôn ngữ:
(a) tham chiếu (Bedeutung): Đối tượng
hay thực
thể thực sự trong
thế giới vốn một
dấu hiệu (từ hay biểu
thức) nói tới/ nhắc đến /trỏ
vào.
(b) ý
nghĩa (Sinn): Cách thức qua
đó trình bày sự vật việc ám chỉ hoặc ý nghĩa truyền đạt vật tham chiếu/ám chỉ. Đây là phương thức
trình bày hay ngữ
cảnh cho phép người nói hiểu được sự vật
việc nói tới/
nhắc đến /trỏ vào là gì, có nghĩa gì.
Đóng góp của Frege là nhìn nhận rằng việc hiểu một từ ngữ không
chỉ gồm việc biết đối tượng nói tới/
nhắc đến /trỏ vào, nói về (tham chiếu), nhưng còn phải nắm bắt được ý nghĩa, đó là
ý nghĩa chung vốn cho
phép sự truyền thông giao tiếp. Ví dụ, từ ngữ “sao
Mai” và “sao Hôm” có những nghĩa
khác nhau, nhưng
nói tới/ nhắc đến /trỏ vào cùng
một thực thể
(Venus /Sao
Kim).
[4] reference.
[5] Khái
niệm “the myth of
the logically proper name / huyền thoại
về cái tên riêng hợp lý” – Trong Individuals: An
Essay in Descriptive Metaphysics (1959), Peter
Strawson thách thức ý tưởng rằng những tên riêng có quan hệ trực tiếp, số ít và
thuần túy nói, dẫn chỉ về những đối tượng nhưng chúng biểu thị. Theo Strawson,
ý tưởng này có tính huyền thoại vì những tên riêng không hoạt động tách biệt với nội dung
và ngôn ngữ trong đó chúng được dùng. Thay vào đó, ý nghĩa và dẫn chỉ của chúng
có thể khác nhau tùy thuộc vào những yếu tố như quy ước xã hội, ý định của người
nói và bối cảnh ngôn ngữ. Cốt yếu, Strawson lập luận chống lại ý niệm rằng những
tên riêng có một ý nghĩa cố định, khép kín, độc lập với việc dùng chúng trong
ngôn ngữ và xã hội.
[6] indexicals
and pronouns.
[7] thuyết về
những ý tưởng chỉ một khái niệm triết học thừa nhận sự là-có / hiện hữu
của những thực thể tinh thần trừu tượng, thường được gọi là “ý tưởng” hoặc “khái
niệm”, nhìn chúng như những đại diện cho những đối tượng và khái niệm trong thế
giới. Lý thuyết này cho rằng sự hiểu biết của chúng ta về thế giới được thực hiện
thông qua những biểu hiện tinh thần này. Một từ ngữ khác cho “lý thuyết về những
ý tưởng” là “lý thuyết về những thể dạng”, đặc biệt trong nội dung triết
học Plato. Trong Plato, những ý tưởng hay thể dạng là những thực thể trừu tượng,
bất biến, đóng vai trò là thực tại tối thượng đằng sau thế giới vật chất.
[8] “ngữ
pháp ngoài mặt” : chỉ cấu trúc thấy bên ngoài của ngôn ngữ, cách những câu được
xây dựng và hiểu ở một mức độ giả tạo nông cạn, nhưng không xem xét những ý
nghĩa sâu hơn hay nằm chìm bên trong.
[9] cụm từ hoặc
cấu trúc câu liên tục tạo hiểu lầm hay gây ấn tượng sai về ý nghĩa thực sự của
nó.
[10] “a shared
form of life / một hình thức chung của đời sống”: Khái niệm này bắt nguồn
từ Ludwig Wittgenstein, đặc biệt là ý tưởng của ông cho rằng ý nghĩa của từ ngữ
bắt nguồn từ cách dùng chúng trong “hình thức chung của đời sống” của những người
nói.
[11] Thí
nghiệm tưởng tượng nổi tiếng “Chinese Room / Phòng đọc tiếng Tàu” của
John Searle
[12] Chomsky thận
trọng nêu bật tính phức tạp của ngôn ngữ, cách tham khảo và thuộc tính của sự
vật trên thế giới. Giả định có có tương ứng trực tiếp một-một giữa ngôn ngữ và
thực tịa có thể dẫn đến những nghịch lý. Thí dụ, Nghịch lý Sorites phát sinh từ
những thay đổi dần dần về thuộc tính (như dần dần loại bỏ những hạt cát của một
đống cát – khi nào đống cát thành không là đống cát?)) và Nghịch lý Con tàu của
Theseus (Nếu chúng ta thay thế mọi bộ phận của một con tàu, nó có vẫn là con
tàu trước đó?)
[13] internalism – “thuyết nội tại” trong triết học và khoa học nhận thức, nhấn mạnh
trên những tiến tiến trình và cấu trúc
nhận thức bên trong não thức, trái ngược với những tác động hỗ tương với xã hội bên ngoài hoặc ảnh hưởng
của môi trường. Quan điểm này, thường được gọi là “Thuyết nội tại Descartes”, chịu ảnh hưởng của
René Descartes, tập trung trên những
tiến tiến trình tinh thần bên trong và kinh nghiệm chủ quan. Noam Chomsky là
triết gia hàng đầu
thời nay gắn bó với những phương pháp nghiên cứu giải quyết theo
thuyết nội tại, đặc biệt qua những thuyết về ngôn ngữ của ông, trong đó có khái
niệm “ngôn ngữ-I”
(I-language). Những người đóng góp đáng kể khác cho những ý tưởng của thuyết nội tại gồm Hilary Putnam
(công trình ban đầu) và
Jerry Fodor.