Monday, April 15, 2024

Chomsky – Ngôn Ngữ và Tư Tưởng

NGÔN NGỮ VÀ TƯ TƯỞNG

(Language and Thought)

 

Noam Chomsky

 

 



 Thay lời giới thiệu

 

Có một số những giáo điều về ngôn ngữ tôi nghĩ chúng đang bị phủ nhận một cách hệ thống, và tôi nên nói thêm, chúng được ngay cả những nhà ngôn ngữ học duy trì, không chỉ công chúng nói chung. Những giáo điều này có lẽ rơi vào trong những gì tôi nghĩ là đang bị những nghiên cứu gần đây làm suy yếu. Đây là một cái nhìn thiểu số và tôi không nói thay cho giới chuyên môn.

 

... Thí dụ, một giả định tổng quát về ngôn ngữ, gần như một giáo điều trong triết học, kiến thức thông thường, ngôn ngữ học và tâm lý học, rằng ngôn ngữ thì chủ yếu là một phương tiện của truyền thông giao tiếp và rằng nó đã tiến hóa như một phương tiện truyền thông. Có lẽ, điều đó hoàn toàn sai. [1]

 

Có vẻ như những ngôn ngữ đã phát triển và hình thành với mục đích như một phương thức để tạo nên và nói ra những suy nghĩ. Về cơ bản, đó là một hệ thống của tư tưởng. Nó có thể được dùng để truyền thông về mọi sự việc người ta làm, cũng giống đúng như quí vị có thể truyền thông bằng kiểu tóc, phong thái đi đứng của quí vị, và nhiều sự việc khác. Đúng, ngôn ngữ có thể được dùng để truyền thông, nhưng có vẻ như điều đó không là phần của mục đích hình thành của nó. Thiết kế của nó có vẻ là khác biệt hoàn toàn, và trong thực tế, nó còn có vẻ làm suy yếu ngay cả chính sự truyền thông. Nếu quí vị nhìn kỹ lưỡng vào cấu trúc của ngôn ngữ, quí vị sẽ thấy trường hợp này đến trường hợp khác, chính trong lõi của sự thiết kế ngôn ngữ, ở đó có những mâu thuẫn giữa những gì sẽ là hiệu dụng cho truyền thông và những gì là hiệu dụng cho thiết kế sinh học cụ thể của ngôn ngữ. Trong mọi trường hợp đã biết, hiệu dụng về truyền thông bị hy sinh; nó chỉ không là một cân nhắc. Tôi nghĩ đó là một kết luận có ý nghĩa rất sâu rộng. Để thiết lập nó, quí vị phải nhìn vào những công trình kỹ thuật chuyên môn; nó không là loại sự việc quí vị có thể có thể giải thích trong hai phút khai triển. Nhưng nó thì không quá phức tạp; nó không là vật lý quantum. Giải thích trong nửa giờ là đủ, và tôi nghĩ rằng nó có một hệ quả rất sâu rộng.

 

Một tin tưởng tổng quát khác về ngôn ngữ, lại nữa, gần như một giáo điều trong tất cả những lĩnh vực liên quan – triết học, ngôn ngữ học, v.v. – là những thành tố có ý nghĩa tối thiểu trong ngôn ngữ, những gì loại như những từ, có thể tách lấy/chọn ra/chỉ vào, hay xác định những đối tượng trong thé giới ngoài não thức, như những thực thể tồn tại độc lập với nhận thức hay suy nghĩ của mỗi cá nhân. Thí dụ, từ “sông” được cho là để chỉ sông Charles, v.v. – một vùng sông nước cụ thể một nhà vật lý có thể xác định được. Tuy nhiên, điều đó hóa ra là đúng cho những hệ thống động vật. Hệ thống truyền thông của động vật có những biểu tượng có vẻ như có một tương quan 1-1 với những sự kiện độc lập với não thức. Thí dụ, một số tiếng kêu cụ thể nào đó của một con khỉ sẽ có liên quan với tiếng lá cây lay động, hay với tiếng chân rình rập của người đi săn đang đến gần, hay giống như kêu “tôi đói”, báo hiệu sự thay đổi nội tiết tố nào đó (trạng thái sinh lý). Nhưng điều này không đúng với ngôn ngữ loài người. Những yếu tố ngôn ngữ con người không có thuộc tính đó. [2]

 

Thực ra, Aristotle đã hiểu điều này, và những thế kỷ 17 và 18, cũng đã hiểu, với nghiên cứu đáng chú ý về nó. Những thực thể chúng ta dựng lên trong nói viết, diễn đạt và diễn giải của chúng ta, phần lớn là những đối tượng tâm lý, hay một phần tâm lý.[3] Có nhiều cách trong đó chúng là những phương thức vốn chúng ta giải thích những hiện tượng, nhưng chúng không chọn ra hay xác định những thực thể trong thế giới vốn một nhà khoa học tự nhiên có thể xác định nhưng không cần nhìn vào trong não thức chúng ta. Sự việc này cho chúng ta biết rất nhiều về bản chất của ngôn ngữ và về bản chất của chính chúng ta. Ngôn ngữ là thuộc tính nền tảng của con người; điều này đã được Darwin và một truyền thống lâu đời trước ông hiểu rõ. Nó rất khác với cách nó thường được hiểu. Tôi nghĩ đó là một trong những kết luận có ý nghĩa quan trọng rất phổ thông. Cho phép tôi nhấn mạnh một lần nữa rằng quan điểm này chỉ có một thiểu số chủ trương; những nhà ngôn ngữ học đồng ý với nó thì rất ít. Tuy nhiên, tôi dự đoán rằng với thời gian, một số những nhà ngôn ngữ học khác có thể sẽ tiếp nhận những ý tưởng này.

 

(Noam Chomsky – Language and Thought

https://www.youtube.com/watch?v=KEmpRtj34xg)

 

 

NỘI DUNG

GIỚI THIỆU

MỞ ĐẦU

NGÔN NGỮ VÀ TƯ TƯỞNG

THẢO LUẬN

Eric Wanner (Người Điều Hành)

Akeel Bilgrami

George Miller

James H. Schwartz

KẾT LUẬN

Noam Chomsky

Ruth Nanda Anshen

GHI CHÚ TIỂU SỬ

 

 


 

LỜI NÓI ĐẦU

 

Vì ngôn ngữ là một phần không thể thiếu trong đời sống của chúng ta nên tôi cảm thấy buộc phải nói ít lời sau đây;

 

Nếu có một quan tâm duy nhất nào phân biệt những học giả hiện nay trong tất cả những ngành học, thì đó là một sự tập trung chú ý vào ngôn ngữ, nhưng chỉ trong mỗi ngành chuyên môn cô lập. Tôi tin rằng một số những hiểu lầm tệ hại nhất hiện nay của chúng ta là do sự sao lãng tổng quát với ngôn ngữ như một dụng cụ của tư tưởng.

 

Ngôn ngữ thì hết sức thu hút rất đáng chú ý và mang ý nghĩa quan trọng để có thể phó mặc cho những nhà ngữ văn cổ, hay những người theo thuyết giản lược thời nay – giản lược hóa quá mức những hiện tượng phức tạp, đặc biệt là ngôn ngữ, bằng giải thích chỉ qua những phương pháp duy lý hay phân tích, nhưng không xem xét những chiều sâu của cảm xúc hay tâm lý. Vì có một thống nhất nảy sinh từ hai giả định. Một là liên hệ giữa tâm lý con người và tiếng nói thì tinh tế và phức tạp hơn nhiều so với những gì người ta nhìn nhận. Hai là ngôn ngữ, mặc dù nó chỉ là một trong những cách thức qua đó chúng ta truyền thông với nhau, truyền tải không chỉ tư tưởng nhưng cũng cả cảm xúc, do đó, một phân tích ngôn ngữ duy lý sẽ không giải thích được nó, cũng như một phân thích hóa học về một hoa hồng sẽ không giải thích được hoa hồng.

 

Những ai trong chúng ta là những người yêu những lời nói, những người vốn một câu nói tế nhị, hay câu văn đẹp, ngay lập tức sẽ mang đến phản ứng với cảm xúc, biết rằng những lời nói đều chỉ là một phương tiện qua đó chúng ta bày tỏ tiếng lòng than khóc, lời chào mừng, sự khám phá và sự đồng ý của chúng ta với những gì xảy ra với chúng ta từ bên trong, lẫn những gì xảy ra với chúng ta từ bên ngoài. Giống như tất cả những người tình, chúng ta thêm thắt thật nhiều vào những gì chúng ta yêu. Chúng ta không yêu chỉ vì để yêu, nhưng yêu vì chính đời sống. Tôi sẽ kể cho quí vị một câu chuyện ngắn:

 

Dày vò bởi đói khát tinh thần, một người lữ hành vốn là một nhà tiên tri lang thang trong sa mạc u ám, khi một thiên thần hiện ra với ông ở một ngã tư và kêu lên, “Hãy đứng lên, hỡi nhà tiên tri, hãy đi khắp đất liền và biển cả, và thắp sáng trái tim của mọi người với một Lời”“. (Pushkin, nhà thơ Nga đã viết như vậy). Và như vậy. Mẫu mực về trí tuệ khôn ngoan của người Greece thời cổ, Heraclitus, đã nói “Đừng nghe tôi, nhưng hãy nghe Lời”. [4]

 

Bản thân tư tưởng phải đi kèm với một hiểu biết phê bình về quan hệ giữa biểu đạt ngôn ngữ với trực giác sâu xa hơn và bền bỉ nhất của con người. Chính nhờ sức mạnh khơi động của ngôn ngữ (khơi động những phản ứng hay cảm xúc mạnh mẽ, tạo tranh luận hay suy nghĩ mãnh liệt) vốn nắm giữ thấu hiểu, lay động thách thức và chuyển hóa khiến những sinh vật người trở thành con người (nâng con người vượt lên trên sự hiện hữu đơn thuần, tạo điều kiện cho những suy nghĩ phức tạp, chiều sâu cảm xúc và phát triển văn hóa). Vì không có gì con người có thể thành là như vậy, nếu không có ý nghĩa này, dù ngôn ngữ được thốt ra lời, hay trong im lặng. Bằng cách này, ngôn ngữ như sức mạnh của những phổ quát [5] được trao cho chúng ta để chúng ta phải vượt thắng môi trường của chúng ta, để chúng ta có thể có được một thế giới. Do đó, chúng ta bị đẩy vào một trạng thái trôi chảy và linh hoạt phổ quát vì chúng ta gắn sức mạnh vội vàng và không ngưng nghỉ của sự hiện hữu cá nhân chúng ta với sức mạnh chậm chạp và to lớn hơn của ngôn ngữ. Và cho sự việc này chỉ có một nguồn duy nhất, đó là chính bản chất của não thức.

 

Nếu những lời được phát sinh từ một nguồn gốc khác với não thức; chẳng hạn như từ quê hương của một người, đất nước của một người, thì chúng sẽ sinh ra và chết đi với nguồn gốc đó. Như thế, chúng ta sẽ có ấn tượng sai lầm về sự trường tồn của chúng, bị lừa vào trong một ảo tưởng.

 

Vấn đề của món quà kỳ diệu này vốn nó khiến chúng ta có khả năng để thông tin hay bày tỏ ý tưởng với người khác, tiết lộ cho người khác những bí mật ẩn giấu của con người chúng ta, khơi gợi những thuộc tính tâm lý của não thức và trái tim khi cầu khẩn, bày tỏ những u buồn của chúng ta, trong đau thương hay tuyệt vọng, trong lời van xin, qua dụng cụ độc đáo này, ngôn ngữ được giao phó cho truyền thống viết hay nói, đánh bại sự ngấu nghiến của thời gian. Đây là vấn đề liên quan đến chúng ta, đang đè nặng não thức và trái tim của chúng ta. Đó là ngôn ngữ, toàn cảnh và sống động, phát ra âm thanh nóng bỏng và rung động từ miệng người; nó là ngôn ngữ đã cắt đứt với mọi thực tiễn, mọi áp dụng tức thời vốn đã dạy chúng ta rằng những lời là những biểu tượng tối thượng của những ý tưởng và rằng quyền lực của sự sống hay cái chết nằm ở lưỡi.

 

Lời nói là sức mạnh. Và nó là sức mạnh chính xác vì nó đánh thức những sức mạnh tiềm ẩn và bí mật của đời sống. Công việc của nó là khơi dậy những sức mạnh cho đến nay vẫn còn ẩn giấu hay trì trệ nhưng chỉ chờ đợi lời triệu tập đó để đưa chúng ra ánh sáng, vén lộ cho thấy chúng, nuôi dưỡng thúc đẩy lối vào của chúng trong hiện hữu và trong thời gian. Đó là sức mạnh vốn ngay từ buổi đầu của văn minh, con người đã gán cho lời nói.

 

Ngôn ngữ là một tiến trình của sự giải phóng khỏi thuyết duy lý về khái niệm, lôgích hay nói viết, diễn đạt truyền thông. Ngôn ngữ không chỉ diễn đạt, kết nối và suy diễn, nó cũng hình dung, và việc nắm giữ ngôn ngữ bằng trực giác là hành động và chức năng cơ bản của sức mạnh duy nhất vốn được gọi là lý trí. Vì khi đó chúng ta có thể chuyển từ việc chấp nhận dữ liệu một cách thụ động sang một cái nhìn sâu xa mới mẻ, mang tính xây dựng và tự phát về vũ trụ. Do đó, ngôn ngữ trở nên không thể thiếu không chỉ với việc xây dựng thế giới tư tưởng, nhưng còn với việc xây dựng thế giới nhận thức, cả hai đều tạo thành liên hệ cuối cùng của sự hiệp thông có thể hiểu được, tinh thần và đạo đức, giữa tất cả chúng ta. Ngôn ngữ là một năng lượng, một hoạt động, không chỉ là truyền đạt thông tin hay bày tỏ ý tưởng và thể hiện bản thân nhưng còn là sự định hướng trong vũ trụ. Đó là tinh thần làm nên thể xác. Sự câm lặng mãnh liệt, sự cô lập tuyệt vọng vốn chúng ta trải qua cuối cùng cũng được thể hiện qua ngôn ngữ. Và chính việc tạo ra những chân trời truyền đạt thông tin, hay bày tỏ ý tưởng ngày càng mở rộng của con người đang dần bao trùm toàn thể loài người vốn chúng ta được kêu gọi bởi một nhu cầu nội tại vô tận để nuôi dưỡng và tôn vinh – viễn tượng về truyền đạt thông tin hay bày tỏ ý tưởng qua kết nối thâm sâu hay chia sẻ kinh nghiệm cá nhân. Chúng ta không cần tìm kiếm lời; lời thì được ban cho trong chúng ta.

 

Và cuối cùng, chúng ta nhớ, như Wilhelm von Humboldt, triết gia ngôn ngữ vĩ đại, đã nói, “Chúng ta là con người không phải vì chúng ta có ngôn ngữ nhưng vì chúng ta là ngôn ngữ”.

 

Ruth Nanda Anshen




Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất

(Apr/2024)

(Còn tiếp ... )

http://chuyendaudau.blogspot.com/

http://chuyendaudau.wordpress.com



[1] Nguyên văn – “That language is primarily a means of communication, and that it evolved as a means of communication. Probably, that”s totally false”.

(a) “evolved”: ngôn ngữ, giống như những sinh vật sinh học, đã trải qua một tiến trình thay đổi và thích ứng dần dần theo thời gian, dẫn đến sự phát triển và đa dạng hóa thành nhiều hình thức và cấu trúc khác nhau. Có thể hiểu, ngôn ngữ, giống như những sinh vật sống, đã phát triển qua chọn lọc tự nhiên, chịu ảnh hưởng của những yếu tố sinh học, nhận thức, xã hội hoặc văn hóa, dẫn đến hình thức và chức năng hiện tại.

(b) “communication”: giao tiếp truyền thông – nói về tiến trình truyền tải thông tin, ý tưởng, suy nghĩ hoặc cảm xúc giữa những cá nhân hoặc nhóm qua việc dùng những biểu tượng, dấu hiệu, ngôn ngữ hoặc hành vi. Nó gồm nhiều hình thức tác động hỗ tương khác nhau, như giao tiếp bằng lời nói và không-lời nói, khiến cho việc trao đổi ý nghĩa – truyền đạt và hiểu thông tin, ý tưởng hoặc khái niệm. – giữa những cá nhân được dễ dàng tiện lợi.

[2] Noam Chomsky có một lập trường rất phức tạp tinh tế – dựa trên quan điểm đặc biệt của chính ông – về câu hỏi liệu những động vật có ngôn ngữ hay không. Mặc dù thừa nhận sự phức tạp của hệ thống truyền thông giao tiếp ở động vật nhưng ông vẫn duy trì sự phân biệt rõ ràng giữa chúng và ngôn ngữ của con người. Chomsky chỉ ra sự khác biệt đáng kể về độ phức tạp, cấu trúc và khả năng phát sinh (khả năng tạo ra vô số hạn của những câu và \diễn đạt mới bằng cách chỉ dự trên một tập hợp hữu hạn của những từ và qui luật) giữa hệ thống truyền thông giao tiếp của động vật và ngôn ngữ của con người. Trong phỏng vấn On the Myth of Ape Language (Về huyền thoại về ngôn ngữ của loài vượn), Chomsky gợi ý rằng gán gọi việc truyền thông giao tiếp của chimpanzee như ngôn ngữ sẽ là nhục mạ óc thông minh của chúng. Ông ví nó giống như việc con người bắt chước điệu nhảy lắc lư của loài ong và giải thích nó như sự truyền thông giao tiếp của con người.

Chomsky luôn phản đối quan điểm cho rằng ngôn ngữ có thể tiến hóa từ sự truyền thông giao tiếp của động vật. Ông lập luận rằng ngôn ngữ đại diện cho một sự phát triển tiến hóa độc đáo riêng của con người, khác biệt với bất kỳ phương thức truyền thông giao tiếp nào khác của động vật. Mặc dù Chomsky thừa nhận sự phức tạp của hệ thống truyền thông giao tiếp ở động vật nhưng ông tránh phân loại chúng là “ngôn ngữ” giống như ngôn ngữ của con người. Thay vào đó, ông nhấn mạnh bản chất khác thường của ngôn ngữ con người, nhưng ông không khẳng định dứt khoát rằng những động vật không có bất kỳ một hình thức ngôn ngữ nào.

Ở một chỗ khác – Trong hội nghị – Thách thức của Gallilean: Cấu trúc và sự tiến hóa của ngôn ngữ – ở Thư viện Quốc gia Pháp (Noam Chomsky – Thought, Meaning, and Reference ((Conférence de Noam CHOMSKY à la BnF), thấy ông giải thích rõ thêm:

Câu hỏi: Ông mô tả ngôn ngữ của tư tưởng Ông đã nói về ngôn ngữ của tư tưởng, và ông nói rằng những biểu tượng – (những mô hình tinh thần, biểu tượng hoặc cấu trúc nhận thức đại diện hoặc mô tả những khái niệm, đối tượng hoặc trạng thái trong não thức) – diễn giải theo ngữ nghĩa trong não thức, hoặc một gì đó tương tự thế. Đồng thời, ông phủ nhận rằng những ý niệm của con người thì hoặc chỉ về, hoặc nói đến, hoặc ngầm chỉ bất cứ sự vật việc gì trong thế giới bên ngoài (= ông chống lại ý kiến ​​cho rằng những ý niệm của con người tương ứng trực tiếp hoặc đại diện cho những vật thể, thực thể hoặc hiện tượng trong thế giới bên ngoài. Thay vào đó, ông nêu lên rằng những khái niệm này không có một quan hệ đơn giản trực tiếp, một với một (1:1) với những sự vật việc bên ngoài não thức. Chúng không chỉ đơn giản là nhãn hiệu cho những đối tượng trong thế giới thực, nhưng thay vào đó được định hình bởi những tiến trình nhận thức bên trong và bối cảnh vốn chúng được đem dùng).Vì vậy, câu hỏi của tôi là, chính xác thì ông có ý gì khi nói “diễn giải theo ngữ nghĩa”? khi nói về ngôn ngữ của suy nghĩ? Giải thích về mặt ngữ nghĩa? với ngôn ngữ của suy nghĩ. Nó có nghĩa là gì? Nó có liên quan gì đến hệ thống cảm giác–vận động không?

Trả lời: Có, như thế, ngôn ngữ tính toán bên trong, giống như bất kỳ hệ thống tính toán nào, bắt đầu bằng một số nguyên tử tính toán nhất định nào đó – những đơn vị hoặc phần tử cơ bản, được dùng trong tiến trình tính toán tâm lý (những tiến trình nhận thức não dùng để hoạt động, kết hợp, và biến đổi những biểu tượng và khái niệm tinh thần để tạo những suy nghĩ, để giải quyết vấn đề, đưa quyết định và hiểu ngôn ngữ. Nó tương tự như cách cômputơ xử lý dữ liệu bằng algorithm, nhưng trong bối cảnh nhận thức của con người, nó liên quan đến những hoạt động thần kinh phức tạp cho phép chúng ta suy nghĩ, lý luận và diễn giải thông tin. Tính toán trí tuệ gồm những hoạt động như nhận thức, gợi lại trí nhớ, những chức năng và cơ chế nhận thức cho phép con người hiểu, tạo ra và giải thích ngôn ngữ, và suy nghĩ trừu tượng). Đây là những khái niệm hoặc cách biểu đạt đơn giản và cơ bản nhất vốn não thức dùng để xây dựng những suy nghĩ và ý tưởng phức tạp hơn. Trong nội dung của ngôn ngữ của tư tưởng, những phần tử cơ bản này có thể là những khái niệm cơ bản như “sông”, “cây” hoặc “mong đợi”. Chúng là những khối xây dựng, qua những tiến trình tính toán, kết hợp để tạo thành những cấu trúc và biểu diễn phức tạp mang ý nghĩa.– . Những nguyên tử này có thể được phân tích nội bộ trong những cách khác, nhưng từ phương diện của sự tính toán, chúng là những nguyên tử. Điều này gồm những sự vật việc như “sông” hoặc “cây” hoặc “mong đợi”, v.v. Hoạt động tính toán tạo những đối tượng có cấu trúc phức tạp từ những đối tượng này. Những đối tượng có cấu trúc phức tạp đều có ý nghĩa.Thí dụ: khi ông đặt câu hỏi “Những cậu bé đã đọc những cuốn sách nào?” nó sẽ có một ý nghĩa. Ý nghĩa sẽ bắt nguồn từ việc ông có “cậu bé nào”, “cuốn sách nào”, “cậu bé đọc cuốn sách nào”, có nghĩa cơ bản là “Những cuốn sách nào nhưng cậu bé đọc những cuốn sách đó?” Đó là một suy nghĩ. Hoặc ít nhất là cơ sở cho một suy nghĩ. Để biến nó thành một ý nghĩ trọn vẹn, ông phải đưa kiến ​​thức của thế giới khác vào, v.v., nhưng đó là khuôn khổ của một ý nghĩ, và ngôn ngữ đang xây dựng vô số những kiến ​​thức đó – đó là ngôn ngữ của ý nghĩ.

Để những suy nghĩ có những ý nghĩa thì những nguyên tử cũng phải có những ý nghĩa. Vì chúng ta đã nói rằng những nguyên tử không đề cập gì cả, đến nên không có quan hệ tượng trưng hay thay mặt nào với một sự vật việc gì ở ngoài kia. Vì vậy, hãy xét về mặt ngữ nghĩa: khi nói những sự vật ở thế giới bên ngoài có ý nghĩa – nghĩa là gì? Tất cả sự việc này xuất phát từ ý nghĩa của những nguyên tử và những quan hệ cấu trúc được hình thành từ tiến trình tính toán.

Ý nghĩa của những nguyên tử là gì? Chà, bây giờ tôi chỉ đang nói về những từ đơn giản, những từ được dùng trong hành động giới thiệu. Giới thiệu là một hành động, phải không? Vì vậy, tôi có thể gọi gì đó ở đằng kia là sông Seine. Chính xác thì quan hệ giữa từ “sông” hay “Seine” với tên và vật cụ thể ở đó là gì? Đó là câu hỏi của Heraclitus.

Nếu ông đi qua sông Seine sáng nay và chiều nay, tại sao nó lại là cùng một dòng sông? Khi ông nhìn vào câu hỏi đó, hóa ra nó có nhiều thuộc tính khó hiểu, chẳng hạn như những đặc điểm tôi đã đề cập: những thay đổi căn bản trong đối tượng sẽ khiến nó thành cùng một dòng sông, những thay đổi gần như không thể nhận ra được trong đối tượng, giống như sự thay đổi làm đông cứng bề mặt và những hình thức dùng khác nhau. Những hình thức dùng khác nhau sẽ làm cho nó không là một dòng sông. Đây là một điểm Aristotle đã chú ý. Aristotle đã thảo luận khái niệm “ngôi nhà” trong những những từ ngữ về siêu hình học. Đến thế kỷ 17, sự việc này đã được diễn giải lại theo những từ ngữ về nhận thức học, trong cách thức nó phải là như vậy. Vì vậy, tôi sẽ làm việc đó. Lấy từ “ngôi nhà”. Trong trường hợp của Aristotle, trong siêu hình học của ông, “ngôi nhà” gồm hai chiều: hình thức và vật chất. Vật chất của ngôi nhà là gạch, đá, gỗ, vân vân. Hình thức của ngôi nhà là ý định của người thiết kế, cách nó được dùng trong một cách nhất quán, v.v. Nếu nhà thiết kế có ý định khác – có thể là một gara – thì đó là gara. Nó có thể trông giống hệt một ngôi nhà, nhưng việc đó không thành vấn đề. Sự việc quan trọng là ý định của người thiết kế và tính cách dùng nó. Việc đó có vẻ là đúng với mọi sự vật việc, có nghĩa là phần ý nghĩa của những từ đơn giản nhất đó, những từ dùng để chỉ, là cách chúng ta suy nghĩ về khái niệm. Sự việc này khác biệt với loài vượn và khỉ hay bất kỳ loài động vật nào nhưng chúng ta biết, nơi những yếu tố biểu tượng liên quan đến một số hiện tượng có thể nhận dạng được về mặt vật lý. Thí dụ, một con khỉ phát ra tiếng kêu báo động khi thấy đám lá cây chuyển động. Có một liên hệ giữa tiếng gọi đó và chuyển động của những lá cây. Nếu ông nghĩ về một nhà vật lý đang cố gắng khám phá ý nghĩa bằng cách chỉ nhìn vào biểu tượng và những gì được nói về, thì nhà vật lý đó có thể tìm ra sự việc đó. Họ có thể thấy rằng bất cứ khi nào những lá cây di chuyển theo một cách nhất định nào đó , ông sẽ nhận được một tiếng gọi báo động loại như vậy. Đó là phổ quát cho những ngôn ngữ không-con người, những hệ thống biểu tượng không-con người.

Với con người, sẽ không là thế Ông không thể nhìn vào biểu tượng “con sông” và đối tượng ở đó và từ đó xác định khi nào biểu tượng sẽ được dùng để chỉ vật thể đó. Ông phải biết có những gì đang diễn ra trong đầu người nói. Đó là ý nghĩa cốt lõi. Khi ông gặp những khái niệm phức tạp hơn như “mong đợi”, “muốn” hay “mong muốn”, thì bất kỳ khái niệm phức tạp nào hơn sẽ càng trở nên xa vời hơn. Nhưng với những gì đơn giản, những gì được dùng để chỉ, nó đã hoàn toàn khác với những động vật. Một lần nữa, nguồn gốc tiến hóa của những khái niệm này thì hoàn toàn là một bí ẩn.

(Noam Chomsky – Thought, Meaning, and Reference (Conférence de Noam CHOMSKY à la BnF)

https://www.youtube.com/watch?v=1vfLKaLvDuk

[3] Mental, partially mental objects: Những thực thể hay khái niệm có những phương diện liên quan đến não thức hay ý thức. Từ ngữ “tâm lý” gợi ý rằng những đối tượng này là-có / hiện hữu trong lĩnh vực suy nghĩ, nhận thức hay diễn giải, cho thấy bản chất trừu tượng hay tâm lý của chúng. “một phần-tâm lý” ngụ ý rằng trong khi những đối tượng này có một số đặc điểm bị ảnh hưởng bởi những tiến trình tâm lý cá nhân, chúng cũng có thể có những thuộc tính hay phẩm chất khác vượt ngoài những xem xét thuần túy về mặt tâm lý. Nhìn chung, nó nhấn mạnh liên quan phức tạp giữa những cấu trúc tinh thần và những phương diện khác của thực tại.

[4] “…. Arise O Prophet! Work My will, / Thou that hast now perceived and heard./ On land and sea thy charge fulfill / And burn Man”s heart with this My Word”. (Alexander Pushkin The Prophet )

“Listen not to me but to the Logos (Word)” – Heraclitus dường như là người đầu tiên dùng từ logos để chỉ trí thông minh duy lý của con người, nhưng cũng siêu phàm như của thần thánh

[5] khả năng ngôn ngữ diễn đạt những khái niệm chung áp dụng cho nhiều trường hợp cụ thể, cho phép chúng ta vượt qua những kinh nghiệm cá nhân và truyền đạt những ý tưởng trừu tượng. Khả năng trừu tượng hóa và khái quát hóa này rất cần thiết cho tư tưởng phức tạp, truyền đạt giao tiếp, tạo dựng kiến thức chung giữa con người.