(Language and Thought)
Noam Chomsky
Có một số những giáo điều về ngôn ngữ tôi nghĩ chúng đang
bị phủ nhận một cách hệ thống, và tôi nên nói thêm, chúng được ngay cả những
nhà ngôn ngữ học duy trì, không chỉ công chúng nói chung. Những giáo điều này
có lẽ rơi vào trong những gì tôi nghĩ là đang bị những nghiên cứu gần đây làm
suy yếu. Đây là một cái nhìn thiểu số và tôi không nói thay cho giới chuyên
môn.
... Thí dụ, một giả định tổng quát về ngôn ngữ, gần như một
giáo điều trong triết học, kiến thức thông thường, ngôn ngữ học và tâm lý học,
rằng ngôn ngữ thì chủ yếu là một phương tiện của truyền
thông giao tiếp và rằng nó đã tiến hóa như một phương tiện truyền thông. Có
lẽ, điều đó hoàn toàn sai. [1]
Có vẻ như những ngôn ngữ đã phát triển và hình thành với
mục đích như một phương thức để tạo nên và nói ra những suy nghĩ. Về cơ bản, đó
là một hệ thống của tư tưởng. Nó có thể được dùng để truyền thông về mọi sự
việc người ta làm, cũng giống đúng như quí vị có thể truyền thông bằng kiểu
tóc, phong thái đi đứng của quí vị, và nhiều sự việc khác. Đúng, ngôn ngữ có thể
được dùng để truyền thông, nhưng có vẻ như điều đó không là phần của mục đích
hình thành của nó. Thiết kế của nó có vẻ là khác biệt hoàn toàn, và trong thực
tế, nó còn có vẻ làm suy yếu ngay cả chính sự truyền thông. Nếu quí vị nhìn kỹ
lưỡng vào cấu trúc của ngôn ngữ, quí vị sẽ thấy trường hợp này đến trường hợp
khác, chính trong lõi của sự thiết kế ngôn ngữ, ở đó có những mâu thuẫn giữa những
gì sẽ là hiệu dụng cho truyền thông và những gì là hiệu dụng cho thiết kế sinh
học cụ thể của ngôn ngữ. Trong mọi trường hợp đã biết, hiệu dụng về truyền
thông bị hy sinh; nó chỉ không là một cân nhắc. Tôi nghĩ đó là một kết luận có
ý nghĩa rất sâu rộng. Để thiết lập nó, quí vị phải nhìn vào những công trình kỹ
thuật chuyên môn; nó không là loại sự việc quí vị có thể có thể giải thích
trong hai phút khai triển. Nhưng nó thì không quá phức tạp; nó không là vật lý
quantum. Giải
thích trong nửa giờ
là đủ, và tôi nghĩ rằng nó có một hệ quả rất sâu rộng.
Một tin tưởng tổng quát khác về ngôn ngữ, lại nữa, gần
như một giáo điều trong tất cả những lĩnh vực liên quan – triết học, ngôn ngữ học,
v.v. – là những thành tố có ý nghĩa tối thiểu trong ngôn ngữ, những gì loại
như những từ, có thể tách lấy/chọn ra/chỉ vào, hay xác định những đối tượng
trong thé giới ngoài não thức, như những thực thể tồn tại độc lập với nhận thức
hay suy nghĩ của mỗi cá nhân. Thí dụ, từ “sông” được cho là để chỉ sông
Charles, v.v. – một vùng sông nước cụ thể một nhà vật lý có thể xác định được.
Tuy nhiên, điều đó hóa ra là đúng cho những hệ thống động vật. Hệ thống truyền
thông của động vật có những biểu tượng có vẻ như có một tương quan 1-1 với những
sự kiện độc lập với não thức. Thí dụ, một số tiếng kêu cụ thể nào đó của một
con khỉ sẽ có liên quan với tiếng lá cây lay động, hay với tiếng chân rình rập
của người đi săn đang đến gần, hay giống như kêu “tôi đói”, báo hiệu sự thay đổi
nội tiết tố nào đó (trạng thái sinh lý). Nhưng điều này không đúng với ngôn ngữ
loài người. Những yếu tố ngôn ngữ con người không có thuộc tính đó. [2]
Thực ra, Aristotle đã hiểu điều này, và những thế kỷ 17
và 18, cũng đã hiểu, với nghiên cứu đáng chú ý về nó. Những thực thể chúng ta dựng
lên trong nói viết, diễn đạt và diễn giải của chúng ta, phần lớn là những đối
tượng tâm lý, hay một phần tâm lý.[3] Có
nhiều cách trong đó chúng là những phương thức vốn chúng ta giải thích những hiện
tượng, nhưng chúng không chọn ra hay xác định những thực thể trong thế giới vốn
một nhà khoa học tự nhiên có thể xác định nhưng không cần nhìn vào trong não thức
chúng ta. Sự việc này cho chúng ta biết rất nhiều về bản chất của ngôn ngữ và về
bản chất của chính chúng ta. Ngôn ngữ là thuộc tính nền tảng của con người; điều
này đã được Darwin và một truyền thống lâu đời trước ông hiểu rõ. Nó rất khác với
cách nó thường được hiểu. Tôi nghĩ đó là một trong những kết luận có ý nghĩa
quan trọng rất phổ thông. Cho phép tôi nhấn mạnh một lần nữa rằng quan điểm này
chỉ có một thiểu số chủ trương; những nhà ngôn ngữ học đồng ý với nó thì rất
ít. Tuy nhiên, tôi dự đoán rằng với thời gian, một số những nhà ngôn ngữ học
khác có thể sẽ tiếp nhận những ý tưởng này.
(Noam Chomsky – Language and Thought
https://www.youtube.com/watch?v=KEmpRtj34xg)
NỘI DUNG
GIỚI THIỆU
MỞ ĐẦU
NGÔN NGỮ VÀ TƯ TƯỞNG
THẢO LUẬN
Eric Wanner (Người Điều Hành)
Akeel Bilgrami
George Miller
James H. Schwartz
KẾT LUẬN
Noam Chomsky
Ruth Nanda Anshen
GHI CHÚ TIỂU SỬ
LỜI NÓI ĐẦU
Vì ngôn ngữ là một phần không thể thiếu trong đời sống của chúng ta nên
tôi cảm thấy buộc phải nói ít lời sau đây;
Nếu có một quan tâm duy nhất nào phân biệt những học giả hiện nay trong
tất cả những ngành học, thì đó là một sự tập trung chú ý vào ngôn ngữ, nhưng
chỉ trong mỗi ngành chuyên môn cô lập. Tôi tin rằng một số những hiểu lầm tệ
hại nhất hiện nay của chúng ta là do sự sao lãng tổng quát với ngôn ngữ như một
dụng cụ của tư tưởng.
Ngôn ngữ thì hết sức thu hút rất đáng chú ý và mang ý nghĩa quan trọng
để có thể phó mặc cho những nhà ngữ văn cổ, hay những người theo thuyết giản
lược thời nay – giản lược hóa quá mức những hiện tượng phức tạp, đặc biệt là
ngôn ngữ, bằng giải thích chỉ qua những phương pháp duy lý hay phân tích, nhưng
không xem xét những chiều sâu của cảm xúc hay tâm lý. Vì có một thống nhất nảy
sinh từ hai giả định. Một là liên hệ giữa tâm lý con người và tiếng nói thì
tinh tế và phức tạp hơn nhiều so với những gì người ta nhìn nhận. Hai là ngôn
ngữ, mặc dù nó chỉ là một trong những cách thức qua đó chúng ta truyền thông
với nhau, truyền tải không chỉ tư tưởng nhưng cũng cả cảm xúc, do đó, một phân
tích ngôn ngữ duy lý sẽ không giải thích được nó, cũng như một phân thích hóa
học về một hoa hồng sẽ không giải thích được hoa hồng.
Những ai trong chúng ta là những người yêu những lời nói, những người
vốn một câu nói tế nhị, hay câu văn đẹp, ngay lập tức sẽ mang đến phản ứng với
cảm xúc, biết rằng những lời nói đều chỉ là một phương tiện qua đó chúng ta bày
tỏ tiếng lòng than khóc, lời chào mừng, sự khám phá và sự đồng ý của chúng ta
với những gì xảy ra với chúng ta từ bên trong, lẫn những gì xảy ra với chúng ta
từ bên ngoài. Giống như tất cả những người tình, chúng ta thêm thắt thật nhiều
vào những gì chúng ta yêu. Chúng ta không yêu chỉ vì để yêu, nhưng yêu vì chính
đời sống. Tôi sẽ kể cho quí vị một câu chuyện ngắn:
Dày vò bởi đói khát tinh thần, một người lữ hành vốn là một nhà tiên tri
lang thang trong sa mạc u ám, khi một thiên thần hiện ra với ông ở một ngã tư
và kêu lên, “Hãy đứng lên, hỡi nhà tiên tri, hãy đi khắp đất liền và biển cả,
và thắp sáng trái tim của mọi người với một Lời”“. (Pushkin, nhà thơ Nga
đã viết như vậy). Và như vậy. Mẫu mực về trí tuệ khôn ngoan của người Greece
thời cổ, Heraclitus, đã nói “Đừng nghe tôi, nhưng hãy nghe Lời”. [4]
Bản thân tư tưởng phải đi kèm với một hiểu biết phê bình về quan hệ giữa
biểu đạt ngôn ngữ với trực giác sâu xa hơn và bền bỉ nhất của con người. Chính
nhờ sức mạnh khơi động của ngôn ngữ (khơi động những phản ứng hay cảm xúc mạnh
mẽ, tạo tranh luận hay suy nghĩ mãnh liệt) vốn nắm giữ thấu hiểu, lay
động thách thức và chuyển hóa khiến những sinh vật người trở thành con người
(nâng con người vượt lên trên sự hiện hữu đơn thuần, tạo điều kiện cho những
suy nghĩ phức tạp, chiều sâu cảm xúc và phát triển văn hóa). Vì không có gì con
người có thể thành là như vậy, nếu không có ý nghĩa này, dù ngôn ngữ được thốt
ra lời, hay trong im lặng. Bằng cách này, ngôn ngữ như sức mạnh của những phổ
quát [5] được trao
cho chúng ta để chúng ta phải vượt thắng môi trường của chúng ta, để chúng ta
có thể có được một thế giới. Do đó, chúng ta bị đẩy vào một trạng thái trôi
chảy và linh hoạt phổ quát vì chúng ta gắn sức mạnh vội vàng và không ngưng nghỉ
của sự hiện hữu cá nhân chúng ta với sức mạnh chậm chạp và to lớn hơn của ngôn
ngữ. Và cho sự việc này chỉ có một nguồn duy nhất, đó là chính bản chất của não
thức.
Nếu những lời được phát sinh từ một nguồn gốc khác với não thức; chẳng
hạn như từ quê hương của một người, đất nước của một người, thì chúng sẽ sinh
ra và chết đi với nguồn gốc đó. Như thế, chúng ta sẽ có ấn tượng sai lầm về sự
trường tồn của chúng, bị lừa vào trong một ảo tưởng.
Vấn đề của món quà kỳ diệu này vốn nó khiến chúng ta có khả năng để
thông tin hay bày tỏ ý tưởng với người khác, tiết lộ cho người khác những bí
mật ẩn giấu của con người chúng ta, khơi gợi những thuộc tính tâm lý của não
thức và trái tim khi cầu khẩn, bày tỏ những u buồn của chúng ta, trong đau
thương hay tuyệt vọng, trong lời van xin, qua dụng cụ độc đáo này, ngôn ngữ
được giao phó cho truyền thống viết hay nói, đánh bại sự ngấu nghiến của thời
gian. Đây là vấn đề liên quan đến chúng ta, đang đè nặng não thức và trái tim
của chúng ta. Đó là ngôn ngữ, toàn cảnh và sống động, phát ra âm thanh nóng
bỏng và rung động từ miệng người; nó là ngôn ngữ đã cắt đứt với mọi thực tiễn,
mọi áp dụng tức thời vốn đã dạy chúng ta rằng những lời là những biểu tượng tối
thượng của những ý tưởng và rằng quyền lực của sự sống hay cái chết nằm ở lưỡi.
Lời nói là sức mạnh. Và nó là sức mạnh chính xác vì nó đánh thức những
sức mạnh tiềm ẩn và bí mật của đời sống. Công việc của nó là khơi dậy những sức
mạnh cho đến nay vẫn còn ẩn giấu hay trì trệ nhưng chỉ chờ đợi lời triệu tập đó
để đưa chúng ra ánh sáng, vén lộ cho thấy chúng, nuôi dưỡng thúc đẩy lối vào
của chúng trong hiện hữu và trong thời gian. Đó là sức mạnh vốn ngay từ buổi
đầu của văn minh, con người đã gán cho lời nói.
Ngôn ngữ là một tiến trình của sự giải phóng khỏi thuyết duy lý về khái
niệm, lôgích hay nói viết, diễn đạt truyền thông. Ngôn ngữ không chỉ diễn đạt,
kết nối và suy diễn, nó cũng hình dung, và việc nắm giữ ngôn ngữ bằng trực giác
là hành động và chức năng cơ bản của sức mạnh duy nhất vốn được gọi là lý trí.
Vì khi đó chúng ta có thể chuyển từ việc chấp nhận dữ liệu một cách thụ động
sang một cái nhìn sâu xa mới mẻ, mang tính xây dựng và tự phát về vũ trụ. Do
đó, ngôn ngữ trở nên không thể thiếu không chỉ với việc xây dựng thế giới tư
tưởng, nhưng còn với việc xây dựng thế giới nhận thức, cả hai đều tạo thành
liên hệ cuối cùng của sự hiệp thông có thể hiểu được, tinh thần và đạo đức,
giữa tất cả chúng ta. Ngôn ngữ là một năng lượng, một hoạt động, không chỉ là
truyền đạt thông tin hay bày tỏ ý tưởng và thể hiện bản thân nhưng còn là sự
định hướng trong vũ trụ. Đó là tinh thần làm nên thể xác. Sự câm lặng mãnh
liệt, sự cô lập tuyệt vọng vốn chúng ta trải qua cuối cùng cũng được thể hiện
qua ngôn ngữ. Và chính việc tạo ra những chân trời truyền đạt thông tin, hay
bày tỏ ý tưởng ngày càng mở rộng của con người đang dần bao trùm toàn thể loài
người vốn chúng ta được kêu gọi bởi một nhu cầu nội tại vô tận để nuôi dưỡng và
tôn vinh – viễn tượng về truyền đạt thông tin hay bày tỏ ý tưởng qua kết nối
thâm sâu hay chia sẻ kinh nghiệm cá nhân. Chúng ta không cần tìm kiếm lời; lời
thì được ban cho trong chúng ta.
Và cuối cùng, chúng ta nhớ, như Wilhelm von Humboldt, triết gia ngôn ngữ
vĩ đại, đã nói, “Chúng ta là con người không phải vì chúng ta có ngôn ngữ nhưng
vì chúng ta là ngôn ngữ”.
Ruth Nanda Anshen
[1] Nguyên văn – “That language is
primarily a means of communication, and that it evolved as a means of
communication. Probably, that”s totally false”.
(a) “evolved”:
ngôn ngữ, giống như những sinh vật sinh học, đã trải qua một tiến trình thay
đổi và thích ứng dần dần theo thời gian, dẫn đến sự phát triển và đa dạng hóa
thành nhiều hình thức và cấu trúc khác nhau. Có thể hiểu, ngôn ngữ, giống như
những sinh vật sống, đã phát triển qua chọn lọc tự nhiên, chịu ảnh hưởng của
những yếu tố sinh học, nhận thức, xã hội hoặc văn hóa, dẫn đến hình thức và
chức năng hiện tại.
(b) “communication”:
giao tiếp truyền thông – nói về tiến trình truyền tải thông tin, ý tưởng, suy
nghĩ hoặc cảm xúc giữa những cá nhân hoặc nhóm qua việc dùng những biểu tượng,
dấu hiệu, ngôn ngữ hoặc hành vi. Nó gồm nhiều hình thức tác động hỗ tương khác
nhau, như giao tiếp bằng lời nói và không-lời nói, khiến cho việc trao đổi ý
nghĩa – truyền đạt và hiểu thông tin, ý tưởng hoặc khái niệm. – giữa những cá
nhân được dễ dàng tiện lợi.
[2] Noam Chomsky có một lập trường
rất phức tạp tinh tế – dựa trên quan điểm đặc biệt của chính ông – về câu hỏi
liệu những động vật có ngôn ngữ hay không. Mặc dù thừa nhận sự phức tạp của hệ
thống truyền thông giao tiếp ở động vật nhưng ông vẫn duy trì sự phân biệt rõ
ràng giữa chúng và ngôn ngữ của con người. Chomsky chỉ ra sự khác biệt đáng kể
về độ phức tạp, cấu trúc và khả năng phát sinh (khả năng tạo ra vô số hạn của
những câu và \diễn đạt mới bằng cách chỉ dự trên một tập hợp hữu hạn của những
từ và qui luật) giữa hệ thống truyền thông giao tiếp của động vật và ngôn ngữ
của con người. Trong phỏng vấn On the Myth of Ape Language (Về huyền thoại về ngôn ngữ của loài vượn), Chomsky gợi ý rằng gán gọi việc truyền thông giao tiếp của chimpanzee
như ngôn ngữ sẽ là nhục mạ óc thông minh của chúng. Ông ví nó giống như việc
con người bắt chước điệu nhảy lắc lư của loài ong và giải thích nó như sự
truyền thông giao tiếp của con người.
Chomsky luôn phản đối quan
điểm cho rằng ngôn ngữ có thể tiến hóa từ sự truyền thông giao tiếp của động
vật. Ông lập luận rằng ngôn ngữ đại diện cho một sự phát triển tiến hóa độc đáo
riêng của con người, khác biệt với bất kỳ phương thức truyền thông giao tiếp
nào khác của động vật. Mặc dù Chomsky thừa nhận sự phức tạp của hệ thống truyền
thông giao tiếp ở động vật nhưng ông tránh phân loại chúng là “ngôn ngữ” giống
như ngôn ngữ của con người. Thay vào đó, ông nhấn mạnh bản chất khác thường của
ngôn ngữ con người, nhưng ông không khẳng định dứt khoát rằng những động vật
không có bất kỳ một hình thức ngôn ngữ nào.
Ở một chỗ khác – Trong hội
nghị – Thách thức của Gallilean: Cấu trúc và sự tiến hóa của ngôn ngữ – ở Thư
viện Quốc gia Pháp (Noam Chomsky – Thought, Meaning, and Reference ((Conférence
de Noam CHOMSKY à la BnF), thấy ông giải thích rõ thêm:
Câu hỏi: Ông mô tả ngôn ngữ
của tư tưởng Ông đã nói về ngôn ngữ của tư tưởng, và ông nói rằng những biểu
tượng – (những mô hình tinh thần, biểu tượng hoặc cấu trúc nhận thức đại diện
hoặc mô tả những khái niệm, đối tượng hoặc trạng thái trong não thức) – diễn
giải theo ngữ nghĩa trong não thức, hoặc một gì đó tương tự thế. Đồng thời, ông
phủ nhận rằng những ý niệm của con người thì hoặc chỉ về, hoặc nói đến, hoặc
ngầm chỉ bất cứ sự vật việc gì trong thế giới bên ngoài (= ông chống lại ý kiến
cho rằng những ý niệm của con người tương ứng trực tiếp hoặc đại diện cho
những vật thể, thực thể hoặc hiện tượng trong thế giới bên ngoài. Thay vào đó,
ông nêu lên rằng những khái niệm này không có một quan hệ đơn giản trực tiếp,
một với một (1:1) với những sự vật việc bên ngoài não thức. Chúng không chỉ đơn
giản là nhãn hiệu cho những đối tượng trong thế giới thực, nhưng thay vào đó
được định hình bởi những tiến trình nhận thức bên trong và bối cảnh vốn chúng
được đem dùng).Vì vậy, câu hỏi của tôi là, chính xác thì ông có ý gì khi nói “diễn
giải theo ngữ nghĩa”? khi nói về ngôn ngữ của suy nghĩ? Giải thích về mặt ngữ
nghĩa? với ngôn ngữ của suy nghĩ. Nó có nghĩa là gì? Nó có liên quan gì đến hệ
thống cảm giác–vận động không?
Trả lời: Có, như thế, ngôn ngữ
tính toán bên trong, giống như bất kỳ hệ thống tính toán nào, bắt đầu bằng một
số nguyên tử tính toán nhất định nào đó – những đơn vị hoặc phần tử cơ bản,
được dùng trong tiến trình tính toán tâm lý (những tiến trình nhận thức não
dùng để hoạt động, kết hợp, và biến đổi những biểu tượng và khái niệm tinh thần
để tạo những suy nghĩ, để giải quyết vấn đề, đưa quyết định và hiểu ngôn ngữ.
Nó tương tự như cách cômputơ xử lý dữ liệu bằng algorithm, nhưng trong bối cảnh
nhận thức của con người, nó liên quan đến những hoạt động thần kinh phức tạp
cho phép chúng ta suy nghĩ, lý luận và diễn giải thông tin. Tính toán trí tuệ
gồm những hoạt động như nhận thức, gợi lại trí nhớ, những chức năng và cơ chế
nhận thức cho phép con người hiểu, tạo ra và giải thích ngôn ngữ, và suy nghĩ trừu
tượng). Đây là những khái niệm hoặc cách biểu đạt đơn giản và cơ bản nhất vốn
não thức dùng để xây dựng những suy nghĩ và ý tưởng phức tạp hơn. Trong nội
dung của ngôn ngữ của tư tưởng, những phần tử cơ bản này có thể là những khái
niệm cơ bản như “sông”, “cây” hoặc “mong đợi”. Chúng là những khối xây dựng,
qua những tiến trình tính toán, kết hợp để tạo thành những cấu trúc và biểu
diễn phức tạp mang ý nghĩa.– . Những nguyên tử này có thể được phân tích nội bộ
trong những cách khác, nhưng từ phương diện của sự tính toán, chúng là những
nguyên tử. Điều này gồm những sự vật việc như “sông” hoặc “cây” hoặc “mong đợi”,
v.v. Hoạt động tính toán tạo những đối tượng có cấu trúc phức tạp từ những đối
tượng này. Những đối tượng có cấu trúc phức tạp đều có ý nghĩa.Thí dụ: khi ông
đặt câu hỏi “Những cậu bé đã đọc những cuốn sách nào?” nó sẽ có một ý nghĩa. Ý
nghĩa sẽ bắt nguồn từ việc ông có “cậu bé nào”, “cuốn sách nào”, “cậu bé đọc
cuốn sách nào”, có nghĩa cơ bản là “Những cuốn sách nào nhưng cậu bé đọc những
cuốn sách đó?” Đó là một suy nghĩ. Hoặc ít nhất là cơ sở cho một suy nghĩ. Để
biến nó thành một ý nghĩ trọn vẹn, ông phải đưa kiến thức của thế giới khác
vào, v.v., nhưng đó là khuôn khổ của một ý nghĩ, và ngôn ngữ đang xây dựng vô
số những kiến thức đó – đó là ngôn ngữ của ý nghĩ.
Để những suy nghĩ có những ý
nghĩa thì những nguyên tử cũng phải có những ý nghĩa. Vì chúng ta đã nói rằng
những nguyên tử không đề cập gì cả, đến nên không có quan hệ tượng trưng hay
thay mặt nào với một sự vật việc gì ở ngoài kia. Vì vậy, hãy xét về mặt ngữ
nghĩa: khi nói những sự vật ở thế giới bên ngoài có ý nghĩa – nghĩa là gì? Tất
cả sự việc này xuất phát từ ý nghĩa của những nguyên tử và những quan hệ cấu
trúc được hình thành từ tiến trình tính toán.
Ý nghĩa của những nguyên tử là
gì? Chà, bây giờ tôi chỉ đang nói về những từ đơn giản, những từ được dùng
trong hành động giới thiệu. Giới thiệu là một hành động, phải không? Vì vậy,
tôi có thể gọi gì đó ở đằng kia là sông Seine. Chính xác thì quan hệ giữa từ “sông”
hay “Seine” với tên và vật cụ thể ở đó là gì? Đó là câu hỏi của Heraclitus.
Nếu ông đi qua sông Seine sáng
nay và chiều nay, tại sao nó lại là cùng một dòng sông? Khi ông nhìn vào câu
hỏi đó, hóa ra nó có nhiều thuộc tính khó hiểu, chẳng hạn như những đặc điểm
tôi đã đề cập: những thay đổi căn bản trong đối tượng sẽ khiến nó thành cùng
một dòng sông, những thay đổi gần như không thể nhận ra được trong đối tượng,
giống như sự thay đổi làm đông cứng bề mặt và những hình thức dùng khác nhau.
Những hình thức dùng khác nhau sẽ làm cho nó không là một dòng sông. Đây là một
điểm Aristotle đã chú ý. Aristotle đã thảo luận khái niệm “ngôi nhà” trong
những những từ ngữ về siêu hình học. Đến thế kỷ 17, sự việc này đã được diễn
giải lại theo những từ ngữ về nhận thức học, trong cách thức nó phải là như
vậy. Vì vậy, tôi sẽ làm việc đó. Lấy từ “ngôi nhà”. Trong trường hợp của
Aristotle, trong siêu hình học của ông, “ngôi nhà” gồm hai chiều: hình thức và
vật chất. Vật chất của ngôi nhà là gạch, đá, gỗ, vân vân. Hình thức của ngôi
nhà là ý định của người thiết kế, cách nó được dùng trong một cách nhất quán,
v.v. Nếu nhà thiết kế có ý định khác – có thể là một gara – thì đó là gara. Nó
có thể trông giống hệt một ngôi nhà, nhưng việc đó không thành vấn đề. Sự việc
quan trọng là ý định của người thiết kế và tính cách dùng nó. Việc đó có vẻ là
đúng với mọi sự vật việc, có nghĩa là phần ý nghĩa của những từ đơn giản nhất
đó, những từ dùng để chỉ, là cách chúng ta suy nghĩ về khái niệm. Sự việc này
khác biệt với loài vượn và khỉ hay bất kỳ loài động vật nào nhưng chúng ta
biết, nơi những yếu tố biểu tượng liên quan đến một số hiện tượng có thể nhận
dạng được về mặt vật lý. Thí dụ, một con khỉ phát ra tiếng kêu báo động khi
thấy đám lá cây chuyển động. Có một liên hệ giữa tiếng gọi đó và chuyển động
của những lá cây. Nếu ông nghĩ về một nhà vật lý đang cố gắng khám phá ý nghĩa
bằng cách chỉ nhìn vào biểu tượng và những gì được nói về, thì nhà vật lý đó có
thể tìm ra sự việc đó. Họ có thể thấy rằng bất cứ khi nào những lá cây di
chuyển theo một cách nhất định nào đó , ông sẽ nhận được một tiếng gọi báo động
loại như vậy. Đó là phổ quát cho những ngôn ngữ không-con người, những hệ thống
biểu tượng không-con người.
Với con người, sẽ không là thế Ông không
thể nhìn vào biểu tượng “con sông” và đối tượng ở đó và từ đó xác định khi nào
biểu tượng sẽ được dùng để chỉ vật thể đó. Ông phải biết có những gì đang diễn
ra trong đầu người nói. Đó là ý nghĩa cốt lõi. Khi ông gặp những khái niệm phức
tạp hơn như “mong đợi”, “muốn” hay “mong muốn”, thì bất kỳ khái niệm phức tạp
nào hơn sẽ càng trở nên xa vời hơn. Nhưng với những gì đơn giản, những gì được
dùng để chỉ, nó đã hoàn toàn khác với những động vật. Một lần nữa, nguồn gốc
tiến hóa của những khái niệm này thì hoàn toàn là một bí ẩn.
(Noam Chomsky – Thought, Meaning, and
Reference (Conférence de Noam CHOMSKY à la BnF)
[3] Mental, partially mental objects: Những thực thể hay khái niệm có những phương diện liên quan đến não thức
hay ý thức. Từ ngữ “tâm lý” gợi ý rằng những đối tượng này là-có / hiện hữu
trong lĩnh vực suy nghĩ, nhận thức hay diễn giải, cho thấy bản chất trừu tượng
hay tâm lý của chúng. “một phần-tâm lý” ngụ ý rằng trong khi những đối tượng
này có một số đặc điểm bị ảnh hưởng bởi những tiến trình tâm lý cá nhân, chúng
cũng có thể có những thuộc tính hay phẩm chất khác vượt ngoài những xem xét
thuần túy về mặt tâm lý. Nhìn chung, nó nhấn mạnh liên quan phức tạp giữa những
cấu trúc tinh thần và những phương diện khác của thực tại.
[4] “…. Arise
O Prophet! Work My will, / Thou that hast now perceived and heard./ On land and
sea thy charge fulfill / And burn Man”s heart with this My Word”.
(Alexander Pushkin The Prophet )
“Listen not to me but to the Logos (Word)” – Heraclitus dường như là người đầu tiên dùng từ logos
để chỉ trí thông minh duy lý của con người, nhưng cũng siêu phàm như của thần
thánh
[5] khả năng ngôn ngữ diễn đạt
những khái
niệm chung áp dụng cho nhiều trường hợp cụ thể, cho phép chúng ta vượt qua những
kinh nghiệm cá
nhân và truyền đạt những ý tưởng trừu tượng. Khả năng trừu tượng hóa và khái
quát hóa này rất cần thiết cho tư tưởng phức tạp, truyền đạt giao tiếp, tạo dựng kiến thức chung giữa con người.