(The Architecture Of Language)
Noam Chomsky
Điều đó rất lạ
lùng. Không có gì trong thế giới sinh học để nêu lên rằng một bất cứ gì giống
như cấu trúc hoàn hảo trong ý hướng này là một điều có thể có. Tuy nhiên, có
một số lý do để giả định rằng ngôn ngữ thì rất ngạc nhiên gần với hoàn hảo
trong ý hướng bất thường gợi chú ý thắc mắc đó; nghĩa là, nó là một giải pháp
gần như tối ưu cho những điều kiện về mức độ dễ đọc hiểu, hay đôi khi được gọi
là “những điều kiện output tối thiểu”.[1] Nếu sự
việc đó quay ra là đúng thực, ngay cả chỉ một phần, thì nó là cực kỳ đáng ngạc
nhiên, và ở mức độ đó, cực kỳ thu hút đáng lưu ý.
Cũng hết sức thu hút chú ý để cố gắng xác định và điều
tra những không hoàn hảo thấy bên ngoài. Chương
trình Tối giản thì dựa trên giả định rằng đó cũng là một câu hỏi có ý nghĩa
quan trọng (cần được xem xét và thảo luận kỹ lưỡng). Khi đó, chúng ta có loại
trực giác sau đây để thăm dò.
Thứ nhất, chúng ta đặt câu hỏi trên
những giả định về ngôn ngữ, xem xét chúng chặt chẽ kỹ lưỡng để xem có phải
chúng thì hợp lý chính đáng về thực nghiệm hay không, hay chúng chỉ là một loại
phương pháp tiện lợi kỹ thuật che khuất đi những khoảng trống trong hiểu biết.
Thứ hai: khi nào có bất cứ gì đi lêch ra ngoài với hoàn hảo, với tính tự nhiên
của khái niệm [2] , trong việc đáp ứng chỉ những điều
kiện về mức độ dễ đọc hiểu, chúng ta nêu lên một dấu hỏi – và hỏi liệu sự sai
lệch đó có hợp lý hay không. Trong mỗi trường hợp, khi một giả định nhìn có vẻ
như nó không cần thiết về mặt khái niệm (với những điều kiện về mức độ dễ đọc
hiểu đã biết), những gì chúng ta làm là để cố gắng cho thấy rằng ít nhất có một
giải thích cũng tốt của những sự kiện thực nghiệm, nếu người ta không làm giả
định đó. Tham vọng hơn, chúng ta có thể cố gắng cho thấy rằng ngay cả có một
giải thích còn tốt hơn, nếu chúng ta bỏ đi giả định; đó là, chúng ta có một
giải thích sâu hơn và xa rộng hơn với phạm vi thực nghiệm lớn hơn, nếu loại bỏ
kỹ thuật thêm vào này và chúng ta giữ theo với sự sắp xếp cấu trúc hoàn hảo
hơn. Đó là chương trình.[3]
Theo đuổi chương trình, chúng ta đối mặt
với những vấn đề loại như sau. Trước hết, việc phải làm thứ nhất là quí vị phải
cho thấy rằng, trái với những gì đã luôn luôn từng tin tưởng, không có những
cấp độ về ngôn ngữ nào ngoài chính những cấp độ mặt giao tiếp – những biểu đạt
ngữ âm và ngữ nghĩa. [4] Sẽ không có bất kỳ cấp độ nào khác vì
những cấp độ khác đều không được thúc đẩy bởi những điều kiện về mức độ dễ đọc
hiểu. Vì vậy, những gì quí vị muốn cho thấy là chúng ở đó chỉ như một phương sách kỹ thuật để che đậy những khoảng trống của
hiểu biết. Khi quí vị loại bỏ chúng, quí vị có những giải thích tốt hơn: không
có gì giống như cấu trúc bề mặt hay bề sâu theo nghĩa chuyên môn, và mọi sự vật
việc đã được giải thích theo quan điểm của những cấp độ đó đã bị hiểu sai và mô
tả sai. Nó được phân giải đúng theo quan điểm của những mặt giao tiếp. Đó là
một công việc rất lớn. Tìm hiểu chuyên môn hơn, sự việc đó có nghĩa là quí vị
phải cho thấy rằng Nguyên Tắc Chiếu là sai, [5] rằng thuyết Thay Đổi Trong Hình Thức
Của Một Từ và thuyết Ràng buộc không áp dụng ở cấu trúc-s [6] như vẫn luôn được giả định [7], và tương tự cho vô số những sự việc khác (không nói ở đây). [8]
Vấn đề thứ hai vốn quí vị phải giải
quyết là cố gắng để cho thấy rằng một đơn vị ngữ nghĩa, vốn là một tập hợp của
những thuộc tính, gọi là những “đặc điểm”, không chứa những đặc điểm nào khác
hơn những đặc điểm được diễn giải ở mặt giao tiếp và không có phần tử nào được
đưa theo vào. Vì vậy, không có những “chỉ số” (những dấu hiệu chỉ định, tham
chiếu) , không có cấu trúc cụm từ theo thuyết thanh-X – tất cả những thứ đó đều
phải bỏ [9]. Chúng ta phải cho thấy rằng khi chúng
ta buông bỏ thuyết thanh ngang-X [10] , những chỉ số và những phương sách
tương tự khác, chúng ta tìm những giải pháp vốn chúng không chỉ cũng tốt thế,
nhưng còn tốt hơn rất nhiều. Đó là việc phải làm thứ hai.
Việc phải làm
thứ ba là cho thấy rằng không có những liên hệ cấu trúc nào khác ngoài những gì
đã bị những điều kiện về mức độ dễ đọc hiểu ép buộc bởi (gồm những thuộc tính
như tính kề, cấu trúc-theta, phạm vi tại LF), [11] hoặc
nếu không, vốn được dưa vào theo một cách tự nhiên nào đó bởi tiến trình dẫn
xuất của chính nó. Lấy thí dụ , hãy nói, c-command / lệnh-c, [12] Lệnh-C
là thuộc tính vốn quí vị có khi hợp nhất hai cấu trúc và một trong chúng sau đó
thì có quan hệ với những mảnh của cấu trúc kia; quí vị biết đó là cái nào theo
những điều kiện-output vì cái được nhắm làm mục tiêu thì không còn trông thấy
nữa, vì vậy cái còn lại là lệnh-c (sự việc này sẽ không có ý nghĩa gì với những
người không biết tôi đang nói về cái gì). Quí vị có thể định nghĩa lệnh-c theo
những thuật ngữ đó và do đó, nó là một quan hệ hợp pháp. Những quan hệ lân cận
với ‘từ làm đầu’ [13] cũng là
quan hệ chính đáng chứ có lẽ không có gì khác. Sự việc đó có nghĩa là không có
chi phối, cũng không có chi phối thích hợp [14], không có lý
thuyết ràng buộc bên trong ngôn ngữ và không có tác động qua lại nào khác. Cho
đến chừng mức rằng ngôn ngữ thì hoàn hảo, tất cả những sự việc này phải được bỏ
đi (cần phải loại bỏ những cấu trúc ngôn ngữ hoặc khuôn khổ lý thuyết này để có
thể để đi đến sự hiểu biết hoàn hảo hoặc chính xác hơn về ngôn ngữ)
Những ai đã quen
thuộc với những tài liệu chuyên môn (bây giờ, tôi e rằng tôi đang thu hẹp đối
tượng những người nghe, nhưng tôi không biết phải tiếp tục thế nào khác) đều
biết rằng có rất nhiều bằng chứng thực nghiệm ủng hộ kết luận ngược lại về mọi
vấn đề vốn tôi đã nhắc đến. Hơn nữa, giả định cốt lõi của công trình có thành
quả cao gần đây – và những thành tích rất đáng ngưỡng phục của nó – là rằng mọi
điều tôi vừa nói đều sai; nghĩa là, những ngôn ngữ rất không hoàn hảo trong tất
cả những phương diện này như quí vị thực sự mong đợi – chúng có những chỉ số và
những lớp thanh-ngang, những cấu trúc-d, những cấu trúc-s và tất cả những loại
quan hệ, và v.v. Vì vậy, nó không phải là công việc nhỏ để chứng minh điều
ngược lại. Tuy nhiên, tôi nghĩ điều ngược lại cũng có thể là đúng.
Bây giờ có những
gì xem có vẻ là những thực không hoàn hảo và chúng là những gì đáng lưu ý. Một
điểm không hoàn hảo đáng kể trong ngôn ngữ loài người là thuộc tính của sự
chuyển vị vốn xem có vẻ phổ quát, nhìn khá phức tạp và chưa bao giờ được xây
dựng vào trong những hệ thống ký hiệu vốn đã cấu trúc cho những cách dùng đặc
biệt, vố chúng đôi khi gọi là ngôn ngữ hình thức. Những gì tôi muốn nói ở đây
là một sự kiện phổ biến (trong những ngôn ngữ và nội dung khác nhau) rằng những
cụm từ được diễn giải như thể chúng ở một vị trí khác trong cấu trúc vốn đôi
khi những từ đó đôi khi thực sự được nghe phát âm. Đó là một thuộc tính phổ
quát trong ngôn ngữ và nó có những hệ quả to lớn đối cho những diễn giải của âm
thanh và ý nghĩa. Lấy thí dụ: lấy câu “the book seems to have been stolen / quyển
sách dường như đã bị đánh cắp”. Quan hệ giữa “book/ quyển sách” và “steal/ ăn
cắp” là gì? [15] Quí vị
hiểu rằng đó là cùng một quan hệ như trong “John stole the book /John
đã ăn cắp quyển sách”, nơi có quan hệ lân cận, tự nhiên giữa “ăn cắp” và “quyển
sách” nhưng không có quan hệ đó trong “the book seems to have been stolen / quyển
sách dường như đã bị đánh cắp”. Thuộc tính chuyển vị này là thuộc tính tổng
quát của ngôn ngữ [16]. Nó dường như
là một sự không hoàn hảo: quí vị không xây dựng nó thành những hệ thống hoàn
hảo vốn quí vị cấu trúc cho những mục đích đặc biệt nhưng nó lại phổ thông, ở
đâu cũng có, trong ngôn ngữ tự nhiên. Thuộc tính trước hết phải được giải thích
và thứ hai là được nắm bắt bằng cách nào đó.
Trong ngữ pháp
phát sinh ban đầu, đã được giả định rằng thuộc tính được nắm bắt bởi một tiến
trình hoạt động [17] chuyển
vị trí cụm từ, từ vị trí diễn giải của nó, sang vị trí vốn nó được phát âm.
Tiến trình hoạt động đó là một sự biến đổi ngữ pháp. Mọi lý thuyết về ngôn ngữ
đều có một số cách nắm bắt thuộc tính chuyển vị; vì vậy tất cả chúng đều
có sự biến đổi hay một số tương đương hoặc những khái niệm tương tự thấy trong
những lý thuyết hoặc khuôn khổ cấu trúc khác [18].[19].
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ hai
(Mar/2024)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] [Lấy một trường hợp thí dụ, đòi hỏi rằng một
thành phần trong một câu thì được chủ đề hóa (tức là nhận sự tập trung chú ý):
“fish / cá” như trong “fish I like /cá tôi thích”. Trong những điều kiện của
giả thuyết “VP-internal Subject/ VP – Chủ thể nội bộ” (xem bên dưới), cả “cá” và
“tôi” đều bắt nguồn từ bên trong VP và cả hai đều được rút ra khỏi VP. “Fish /Cá”
thì lấy ra để nó thì được tập trung chú ý (nhận tập trung chú ý). Việc lấy ra
của “I/tôi” ở đây chúng ta không cần phải bận tâm.] – bare output
conditions: những điều kiện tối thiểu cơ bản về output – điều kiện tối
thiểu hay thiết yếu mà những biểu thức ngôn ngữ phải đáp ứng để được coi là hợp
ngữ pháp hay có ý nghĩa.
[2] Đi lệch khỏi trạng thái vốn những khái niệm
hay lý thuyết ngôn ngữ phù hợp với hiểu biết trực giác của chúng ta về ngôn ngữ
[3] “That's the program / Đó là chương trình”
chỉ Chương trình Tối giản (The Minimalist Program,1995) của Chomsky, chương
trình đưa ra một khung cấu trúc cho sự tìm hiểu ngôn ngữ. Nó gồm việc xem xét chi
tiết chặt chẽ những giả định về ngôn ngữ, đặt câu hỏi về sự khác biệt so với
tính tự nhiên của khái niệm và chứng minh rằng những giải thích đơn giản hơn
nhưng bỏ đi những giả định không cần thiết vẫn có thể giải thích dữ liệu thực
nghiệm một cách hiệu quả. Chương trình Tối giản nhằm mục đích đơn giản hóa sự
hiểu biết của chúng ta về ngôn ngữ bằng tập trung vào những yếu tố cơ bản và
thiết yếu nhất, đồng thời loại bỏ sự phức tạp không cần thiết. Thay vì dựa vào
nhiều quy tắc và đặc điểm, nó tìm cách xác định một tập hợp nhỏ những nguyên
tắc cơ bản có thể giải thích được sự đa dạng của ngôn ngữ. Bằng đó, nó nhằm mục
đích khám phá những đặc tính cốt lõi của ngôn ngữ và cách chúng được tiến hành
trong não thức con người. Về cơ bản, chương trình cố gắng tìm ra sự giải thích
đơn giản nhất cho sự phức tạp của ngôn ngữ. Thêm nữa, Chương trình Tối giản góp
phần xây dựng khái niệm Ngữ pháp phổ quát bằng đưa ra những cấu trúc và nguyên
tắc ngôn ngữ bẩm sinh vốn tất cả những ngôn ngữ đều có chung. Nó xây dựng trên
nền tảng của Ngữ pháp phát sinh và Ngữ pháp phổ quát, giới thiệu những khái
niệm mới như “bare output conditions = điều kiện tối thiểu hay thiết yếu
mà những biểu thức ngôn ngữ phải đáp ứng để được coi là có ngữ pháp hay có ý
nghĩa” và “economy principle / ý tưởng cho rằng những cấu trúc ngôn ngữ
hướng tới sự đơn giản và hiệu quả, đồng thời tránh sự phức tạp không cần
thiết.” để hoàn thiện hơn nữa lý thuyết ngôn ngữ. Do đó, Chương trình Tối giản
cung cấp một khuôn khổ toàn diện để hiểu những nguyên tắc cơ bản làm cơ sở cho
cấu trúc ngôn ngữ, nâng cao hiểu biết của chúng ta về bản chất ngôn ngữ của con
người.
[4] “levels”: ở đây để chỉ những
giai đoạn lý thuyết hoặc những trình
bày khác nhau đã được thừa nhận trong lý
thuyết ngôn ngữ truyền
thống để giải thích những phương diện khác nhau của những cấu trúc và những
tiến trình dùng hiểu ngôn ngữ. Những cấp độ này thường gồm: (a) Phonetic Level / Cấp độ ngữ âm: Sự thể hiện âm
thanh lời nói theo những đặc tính vật lý của chúng, chẳng hạn như đặc điểm phát
âm và âm thanh. (b) Phonological Level / Cấp độ âm vị học: Sự thể hiện trừu tượng của âm
thanh lời nói theo những đặc điểm riêng biệt và cách tổ chức của chúng thành những
âm vị và quy tắc âm vị. (c) Morphological Level: / Cấp
độ hình thái: Việc phân tích cấu trúc từ, bao gồm những hình vị và sự kết hợp
của chúng để tạo thành từ. (d)
Syntactic Level / Cấp độ cú pháp: Phân tích cấu trúc
câu, bao gồm cấu trúc cụm từ và quan hệ ngữ pháp giữa những từ. (e) Semantic Level / Cấp độ ngữ nghĩa: Sự thể hiện ý
nghĩa trong ngôn ngữ, gồm việc giải thích những từ, cụm từ và câu.
Chomsky
cho rằng những cấp độ ngôn ngữ truyền thống
này có thể không cần thiết hoặc không biện minh được, và việc
phân tích ngôn ngữ có thể được thực hiện đầy đủ chỉ ở hai cấp độ ở những mặt
giao tiếp của ngữ âm và ngữ nghĩa. Ông lập luận rằng
sự tồn tại của những cấp độ bổddax thêm vào này
có thể được thúc đẩy nhiều hơn bởi sự thuận tiện về phương sách kỹ thuật cho tiện lợi hơn
là bởi sự cần thiết thực sự của ngôn ngữ. Vì vậy, nhiệm vụ là chứng minh rằng
những hiện tượng ngôn ngữ có thể được giải thích và hiểu rõ hơn mà không cần
dựa vào những cấp độ phân tích truyền thống này..
[5] [The Projection Principle / Nguyên tắc Chiếu: như Chomsky (1981) phát biểu rằng những cấu trúc ở những mức
độ ngôn ngữ khác nhau (như cấu trúc LF, D – và S) bắt nguồn từ những từ trong
vốn từ vựng của chúng ta, bảo đảm chúng ăn khớp với những mẫu thức mong đợi của
những từ đó.
Để đưa ra một số
thí dụ về thuộc tính phân-loại-phụ của những đơn vị ngữ nghĩa:
Động từ
“hit/đánh” đòi hỏi cụm danh từ (NP) làm đối tượng trực tiếp trong câu.
Động từ
“ die / chết” không có bất kỳ đối tượng nào.
Động từ
“ give / cho” cần có cả NP và cụm giới từ (PP).
Nguyên tắc này đã được tăng cường
với yêu cầu thêm vào là một mệnh đề phải có một chủ ngữ và dạng sửa đổi của nó
gọi là “Nguyên tắc chiếu mở rộng” (EPP). Xem Chomsky (1982). Sau đó, yêu cầu
thêm vào này được gọi là EPP. Bây giờ, trong khái niệm tối giản của ngữ pháp,
loại bỏ những cấu trúc mô tả D và S, và không cho phép những cấu trúc mô tả LF
mang lại sự vô nghĩa, không có chỗ cho nguyên tắc chiếu ban đầu (Chomsky 1995b:
Chương 3). Đối với yêu cầu tăng cường (EPP), giờ đây nó được nắm bắt theo một
cách khác: phần đầu I của Cụm từ biến tố (IP) có đặc điểm “mạnh” là phải có một
chủ ngữ. Xem Chomsky (1995b:232) để biết thêm chi tiết chuyên môn.]
[6] s-structure: cấu trúc mặt ngoài:
Chỉ cấu lớp cấu trúc ngoài mặt của một câu, trình bày dạng cú pháp trực tiếp
của nó, trước khi có bất kỳ biến đổi hay chuyển dịch nào xảy ra.
[7] [Binding theory/Thuyết Ràng buộc liên quan đến việc ràng buộc những antecedents / từ
đứng trước cho những anaphors / tử dùng thay cho từ đứng trước (“himself /chính
anh ấy”, “each other /với nhau”, v.v.), chỉ định những cụm danh từ (NPs) nào
trong câu không thể là từ đứng trước của đại từ (“he / anh ấy”, “them /họ”, v.v.)
và bảo đảm rằng những những diễn đạt-r (“John”, “The nice fashion”, v.v.) vẫn không
có những từ đứng trước nói trên trong một mệnh đề.
Case theory / Thuyết Về Sự Thay Đổi Trong Hình Thức
Của Từ (the theory of Abstract Case) /
thuyết Về sự thay đổi trừu tượng trong hình thức của từ) về cơ bản có hai phương
diện:
(a) Gán Sự thay đổi trong hình thức của một từ (thay
đổi trừu tượng) cho những cụm danh từ với từ vựng nghĩa là những cụm danh từ có
nội dung ngữ âm; tuy nhiên xem Chomsky (1986), trong đó nêu lên rằng “đại từ/PRO”,
thiếu nội dung như vậy, nên có Thay đổi trong hình thức của một từ. “Đại Từ”
(“đại từ =từ đứng trước”) là những gì gọi là ‘chủ ngữ được hiểu’ trong cấu trúc
nguyên thể, như trong “John muốn [[đại từ] về nhà]”, trong đó phần ngoài dấu
ngoặc biểu thị mệnh đề nguyên thể.
(b) Thẩm định một chuỗi từ (câu) như không đúng ngữ
pháp vốn chứa một cụm danh từ với từ vựng không có Thay đổi trong hình thức của
một từ (được gọi là “lọc bỏ thay đổi trong hình thức của một từ”).
Những điều này lẽ ra phải áp dụng ở mức độ cấu trúc-S, nhưng trong Chương
trình Tối giản gần đây hơn loại bỏ cấu trúc-S, việc kiểm tra thay đổi trong
hình thức của một từ và gán tiền đề cho phép ẩn dụ, v.v., diễn ra ở nơi khác.
Nhiệm vụ của Thuyết ràng buộc phải được thực hiện ở mức độ LF. Việc gán thay
đổi trong hình thức của một từ không còn cần thiết nữa vì những NP đi vào kết
hợp chặt chẽ với cấu trúc cú pháp của câu đã biến đổi cho phù hợp bằng những
tính chất của Thay đổi trong hình thức của một từ; Lọc bỏ thay đổi trong
hình thức của một từ giờ có thể được xem như một điều kiện ở mặt giao tiếp
vốn đòi hỏi rằng việc kiểm tra thay đổi trong hình thức của một từ phải được
thực hiện trong tiến trình kết hợp chặt chẽ với cấu trúc cú pháp của câu. Xem
Chomsky (1995b: Chương 3) để biết thêm chi tiết.]
– lọc bỏ thay đổi trong hình thức
của một từ: là một nguyên tắc ngôn ngữ đánh giá ngữ pháp của câu dựa trên
sự hiện diện hay vắng mặt của việc tạo thay đổi trong hình thức của một từ
trên những cụm danh từ – lexical NP / cụm danh từ với từ vựng: dùng để
chỉ một cụm danh từ gồm một từ có nội dung, thường là một danh từ, mang ý nghĩa
và góp phần tạo nên ngữ nghĩa của câu. Ví dụ, trong câu “The cat is sleeping
/Con mèo đang ngủ”, “con mèo” là một NP từ vựng vì “con mèo” là một từ có nội
dung góp phần tạo nên ý nghĩa của câu. Tuy nhiên, trong câu “It is sleeping /Nó
đang ngủ”, “nó” không phải là một NP từ vựng vì “it” là một đại từ chỉ một danh
từ đã được đề cập trước đó và bản thân nó không mang nhiều nội dung từ vựng.
Case Theory/Thuyết Thay Đổi
Trong Hình Thức Của Một Từ: Thuyết này đề
cập đến việc gán và giải thích những thay đổi trong hình thức của một từ ngữ pháp
cụ thể (như danh từ, đối cách, sở hữu cách) cho danh từ, đại từ và cụm danh từ
trong câu. Nó xem xét cách những thay đổi trong hình thức của một từ này phản
ánh quan hệ cú pháp và ngữ nghĩa giữa những thành phần này trong cấu trúc câu.
Theory of Abstract Case/Thuyết Về Sự Thay Đổi Trừu Tượng
Trong Hình Thức Của Từ: Thuyết này xây
dựng dựa trên Thuyết về sự thay đổi trong hình thức của từ bằng xem xét không
chỉ những dấu hiệu về sự thay đổi trong hình thức của từ cụ thể mà còn cả những
đặc điểm về sự thay đổi trừu tượng trong hình thức của từ. Về sự thay đổi trừu
tượng trong hình thức của từ gồm một khái niệm rộng hơn về sự thay đổi trong
hình thức của từ có thể không phải lúc nào cũng biểu hiện về mặt hình thái
nhưng vẫn ảnh hưởng đến quan hệ cú pháp và ngữ nghĩa giữa những thành phần câu.
Nó mở rộng ra ngoài danh từ để gồm cách những đặc điểm về sự thay đổi trừu tượng
trong hình thức của từ tác động đến những quan hệ trong câu một cách rộng rãi
hơn.
Binding Theory/Thuyết Ràng buộc: tập trung vào quan hệ giữa những đại từ (như
“himself,” “each other”/ “chính anh ấy”, “nhau”) và những tiền ngữ của chúng
trong một câu. Nó đi sâu vào những ràng buộc chi phối những quan hệ này, gồm cả
những cụm danh từ NPs) nào có thể hay không thể đóng vai trò là tiền đề cho đại
từ. Thuyết này giúp hiểu cách những đại từ đề cập đến những thực thể cụ thể
trong câu và những quy tắc ngữ pháp chi phối những ám chỉ, nói đến, nhắc đến
này.
[8] Chomsky tuyên bố rằng trong nghiên cứu ngôn ngữ học,
chỉ nên có hai lớp cấu trúc biểu đạt: ngữ âm và ngữ nghĩa. Chúng được gọi là
những lớp cấu trúc giao tiếp. Lớp cấu trúc ngữ âm giải quyết những âm thanh vật
lý của ngôn ngữ, trong khi lớp cấu trúc ngữ nghĩa giải quyết ý nghĩa. Chomsky
phản đối sự tồn tại của những lớp cấu trúc khác, chẳng hạn như cấu trúc ẩn sâu
hay cấu trúc ngoài mặt, vốn thường được dùng trong lý thuyết ngôn ngữ. Chomsky
nói rằng những lớp cấu trúc thêm vào này chỉ được đem vào như một cách để lấp
đầy những khoảng trống hiểu biết của chúng ta, nhưng chúng không cần thiết hay
không được chứng minh với nhu cầu về mức độ dễ đọc (tức là khả năng hiểu được
hệ thống ngôn ngữ).Thay vào đó, mọi sự việc có thể và nên được giải thích chỉ
dựa trên những lớp cấu trúc giao tiếp. Đây là một sự thay đổi đáng kể về quan
điểm và đòi hỏi phải đánh giá lại nhiều nguyên tắc và thuyết đã được thiết lập
trong ngôn ngữ học. Về bản chất, đây là lời kêu gọi một mô hình lý thuyết ngôn
ngữ hợp lý hơn, hiệu quả hơn, loại bỏ những lớp cấu trúc biểu đạt có thể thừa
thãi. Đây là một nhiệm vụ đầy thử thách nhưng Chomsky tin rằng nó sẽ dẫn tới
những thuyết giải thích tốt hơn.
[9] [Subscripting,
superscripting, coindexing / Chỉ số dưới, chỉ số trên / cùng-chỉ mục - là
những thành phần thiết yếu của thuyết Chi Phối Ràng Buộc / Government-Binding
(GB) một khung ngôn ngữ được Noam Chomsky phát triển. Trong lý thuyết GB, những
quan hệ kết buộc (anaphor-antecedent, v.v.), chẳng hạn như những quan hệ giữa
những anaphors (như đại từ phản thân) và từ đứng trước của chúng, được trình bày bằng việc dùng cosubscripting.
Điều này có nghĩa là những phần tử được liên kết với nhau, chẳng hạn như đại từ
và tiền ngữ của nó, được đánh dấu bằng chỉ số dưới để biểu thị quan hệ của
chúng. Ngược lại, những quan hệ không ràng buộc, giống như những quan hệ giữa
“nó” và một mệnh đề ngoại suy, và sự thỏa thuận giữa chủ ngữ (AGR), được thể
hiện bằng việc dùng cosuperscripting (chẳng hạn như giữa “it” và mệnh đề ngoại
suy: “đúng là John trung thực”). Trong bối cảnh này, những chỉ số được gắn vào
những thực thể ngôn ngữ trong quá trình phái sinh, đó là quá trình xây dựng cấu
trúc cú pháp của một câu. Để biết thêm chi tiết về những khái niệm này, hãy
tham khảo Chomsky (1981).
Một
“cụm từ” đã được xem như một đối tượng cú pháp cơ bản. Theo thuyết GB, tất cả những
điều sau đây trong ngữ pháp truyền thống đều là những về trường hợp của cụm từ:
mệnh đề chính, mệnh đề với liên từ và mệnh đề phụ, cụm từ và những từ đơn
(“John”, “he”). Ngoài ra, “PRO” (“PRO” thường được gọi là đại từ. Tuy nhiên,
điều quan trọng cần lưu ý là “PRO” không phải lúc nào cũng hoạt động giống như
một đại từ điển hình được thể hiện một cách công khai trong câu), thành phần
“nominal/danh nghĩa (dùng để chỉ bất cứ điều gì liên quan đến danh từ hoặc hoạt
động như danh từ trong cấu trúc của câu) được hiểu rõ, cũng là một ví dụ của
một cụm từ. Trong những giải thích trước của ngữ pháp phát sinh hiện đại, những
quy tắc cấu trúc cụm từ (quy tắc PS) nắm bắt cấu trúc bên trong của những cụm
từ. Một số giải thích của ngữ pháp phát sinh, chẳng hạn như Ngữ pháp chức năng
từ vựng (Lexical Functional Grammar (LFG),
vẫn làm như vậy. Những cố gắng đã được thực hiện để loại bỏ hoàn toàn những quy
tắc PS và phần còn lại của chúng trong mô hình GB đều ở dạng sơ đồ thanh-X.
Thuyết
thanh-X được đưa ra vào cuối những năm 60. Một điều quan trọng nó đã làm là nắm
bắt được cấu trúc bên trong tổng quát của tất cả những cụm từ (X’’) dưới dạng phần
đầu (X), phần xác định và phần bổ ngữ. Trong sơ đồ này, một cụm từ được xem là
hình chiếu tối đa của phần đầu của nó: ví dụ: cụm danh từ (NP)(“sự hủy diệt của
thành phố”) là hình chiếu tối đa của danh từ (N) (“destruction /
sự hủy diệt”); cụm động từ (VP) (“destroyed the city /
hủy diệt thành phố”) là hình chiếu tối đa của động từ (V) (“destroy / hủy diệt”), v.v.
những ngôn ngữ có phần đầu (ví dụ: tiếng Anh) có thứ tự đầu phần thêm vào và
những ngôn ngữ phần đầu (ví dụ: tiếng Hindi) có thứ tự phần đầu phần thêm vào. Cấu
trúc bên trong của bất kỳ cụm từ nào trong ngôn ngữ có phần đầu là:
[ X’’ SPEC [ X’ [ X HEAD] THÊM VÀO]]
Tổ
chức thanh-X (X-bar) có thể được xem như một khuôn mẫu do UG đưa ra. Đó là một hạn
chế mà những quy tắc PS phải đáp ứng trong một ngữ pháp có những quy tắc đó.
Xem Chomsky (1972b) để biết thêm chi tiết. Cũng xem thêm Chomsky (1995a) để biết
một thực hiện của ý tưởng rằng thuyết thanh-X có thể được loại bỏ.]
[10] X-bar theory : Thuyết thanh-X là một
lý thuyết ngôn ngữ đưa ra mô hình cấu trúc những cụm từ theo cú pháp ngôn ngữ
tự nhiên. Nó gợi ý rằng những cụm từ có cấu trúc phân cấp gồm nhiều lớp hay “bar
/ thanh”, với mỗi lớp biểu thị những mức độ trừu tượng khác nhau.
[11] [Adjacency
/ Sự liền kề: nói về đến sự gần gũi hoặc gần gũi của những yếu tố
ngôn ngữ trong một câu. Trong cú pháp, sự liền kề thường liên quan đến thứ tự
tuyến tính của những từ hoặc cụm từ và cách vị trí của chúng ảnh hưởng đến việc
giải thích ý nghĩa hoặc ngữ pháp.
Theta-structure/Cấu
trúc theta: Cấu trúc theta liên quan đến việc gán vai trò chủ
đề cho những cụm danh từ (NP) hoặc tương đương đi kèm với động từ và hoàn thành
ý nghĩa của nó (arguments) trong một câu. Vai trò chủ đề thể hiện những chức
năng khác nhau mà những danh từ hoặc những cụm danh từ thực hiện trong quan hệ
với động từ, chẳng hạn như “agent/tác
nhân”, “them/chủ đề” hoặc “recipient/vai nhận”.
Scope
at LF /Phạm vi tại LF: nói về đến việc tổ chức phân cấp
những diễn giải ngữ nghĩa trong một câu. LF là viết tắt của “Logical Form”, là
mức biểu diễn trong đó những thuộc tính ngữ nghĩa được chuyển thông tin sang
một định dạng hay trình bày cụ thể theo những quy tắc hoặc tiêu chuẩn được xác
định trước. Phạm vi của toán tử hoặc bộ định lượng nói về đến phạm vi những
phần tử mà nó có ảnh hưởng về mặt ngữ nghĩa.
C-command:
/Lệnh C: Lệnh C là thuộc tính cú pháp xác định quan hệ thứ
bậc giữa hai thành phần ngôn ngữ trong một câu. Một phần tử ra lệnh-c cho
phần tử khác nếu nó cao hơn trong cấu trúc cú pháp và có tiềm năng tác động đến
diễn giải hoặc phân phối phần tử kia.]
[12] [c-command / lệnh-c là một quan hệ
cấu trúc giữa hai thực thể trong một cấu hình phân cấp. Có nhiều hơn một định nghĩa
về quan hệ này trong tài liệu. Một định nghĩa như sau:
Một thực thể ac-ra lệnh cho một thực thể b iff mọi phép chiếu cực đại vốn chiếm ưu thế a đều chiếm ưu thế b. (An entity a c-commands an entity b iff every
maximal projection that dominates a dominates b.)
Trong cấu hình sau, V lệnh-c NP và PP
[ V’’ [ V’ V
NP] PP]
Theo một định nghĩa khác của lệnh-c, V
lệnh-c NP, nhưng không phải PP.
[13] Head = Trong ngôn
ngữ học, đặc biệt là cú pháp, thuật ngữ “head/đầu” dùng chỉ thành phần trung
tâm của một cụm từ hoặc mệnh đề xác định phạm trù cú pháp và thường mang nội
dung ngữ nghĩa chính của cụm từ hoặc mệnh đề đó. Ví dụ: trong cụm danh từ “ngôi
nhà lớn màu xanh”, danh từ “ngôi nhà” là từ làm đầu’ vì nó xác định phạm trù
tổng thể và ý nghĩa của cụm từ. Tương tự như vậy, trong cụm động từ “sẽ được
học”, động từ chính “học” là từ làm đầu’
[14] [ Chi phối và chi phối thích hợp là
những quan hệ cấu trúc giữa hai thực thể trong một cấu hình cây. Cái trước về
cơ bản là một khái niệm địa phương, đã đòi hỏi cho một loạt những trường hợp của
những trường hợp: Ràng buộc, Thay Đổi
Trong Hình Thức Của Một Từ:, v.v. Cái sau là đòi hỏi vốn dõi theo dấu vết của
những thành phần được di chuyển phải thỏa mãn.
Những định nghĩa :
-
Chi phối : a chi phối b iff (a) a commands-c b, (b) a là một đứng đầu và (c) mọi phép chiếu tối
đa chi phối b chi phối a. (Government: a governs b iff (a) a c-commands b, (b) a is a head, and (c) every maximal projection that dominates b dominates a.)
-
Chi phối thích hợp : a cai trị đúng cách b nếu (a) a cai trị b và a có từ vựng, hay (b) a liên kết thanh-A nội bộ b. (Proper
Government: a properly
governs b iff (a) a governs b and a is lexical, or (b) a locally
A-bar binds b.)
Để biết chi tiết, xem Chomsky (1981), Chomsky
(1986b), và Lasnik và Saito (1984), trong số những người khác. Trong Chương
trình tối giản, những khái niệm này không còn cần thiết nữa. những quan hệ nội
bộ cơ bản hơn, như chỉ định-đầu, thêm-vào-đầu (specifier-head,
head-complement), v.v., làm
cho khái niệm chi phối trở nên thừa. Ví dụ, khái niệm về một từ điều khiển
(governor) không cần phải tham gia vào những Thuyết Về Sự Thay Đổi Trừu Tượng
Trong Hình Thức Của Từ – và thuyết Theta; ảnh hưởng của chúng được nắm bắt
trong những điều khoản của những quan hệ trên. Đối với chi phối thích hợp có
liên quan, về cơ bản, nó làm giảm những điều kiện tiết kiệm thuộc nhiều loại
khác nhau. Xem Chomsky (1995b, đặc biệt là Chương 3 và 4) để biết chi tiết
chuyên môn.]
[15] [quan hệ giữa “ăn cắp” và “cuốn sách” là quan hệ động từ-vị ngữ quen
thuộc (một ví dụ về quan hệ “phần bổ sung” trong thuật ngữ lý thuyết thanh X),
rất nội bộ và theo một nghĩa nào đó là ngữ nghĩa. Ngược lại, không có quan hệ
ngữ nghĩa giữa “see” và “book” (so sánh quan hệ giữa “John” và “sleep” trong
“John sleep” là ngữ nghĩa); Ngoài ra, “cuốn sách” xảy ra ở một mệnh đề khác
(tức là mệnh đề chính) với mệnh đề mà nó nhận được sự giải thích ngữ nghĩa
(mệnh đề phụ).]
[16] [Để biết thêm những chi tiết mang tính kỹ thuật và khái niệm liên quan
đến đặc tính của sự chuyển dịch như một sự không hoàn hảo trong ngôn ngữ, hãy
xem Chomsky (1995b: Chapter Four, 1997).]
[17] ‘operation’ >
‘phép tính toán’ Chomsky thường dùng những từ trong toán học để nói về những hoạt động trong ngôn ngữ. Cả hai đều liên quan đến những thủ tục
hoặc kỹ thuật tác động về hệ thống để biến đổi những cấu trúc để đạt được những
kết quả cụ thể.
[18] ‘counterpart’
[19] [Lexical Functional Grammar (LFG) Ngữ pháp chức năng từ vựng,: Lấy thí dụ, tự nhận là một ngữ pháp (sáng tạo nhưng) không
mang tính chuyển đổi. Nó có những quy tắc PS, nhưng không có quy tắc chuyển đổi theo
nghĩa quen thuộc. Tuy nhiên, quan điểm của Chomsky là những phương sách kỹ thuật
mà những ngữ pháp không chuyển đổi như LFG và Ngữ pháp cấu trúc cụm từ tổng
quát (GPSG) sử dụng, thay cho những quy tắc chuyển đổi để giải thích những sự
kiện chuyển dịch, chẳng qua là tương đương với những quy tắc chuyển đổi. Để biết
chi tiết về LFG, xem Bresnan (1982); đối với GPSG, xem Gazdar et. al. (1985)]