Friday, June 2, 2017

Harari – Người-Gót: một Lịch sử Ngắn gọn của Ngày mai (16)

Người-gót: một Lịch sử Ngắn gọn của Ngày mai
Homo Deus: A Brief History of Tomorrow
Yuval Noah Harari







Một Xác suất 87 Phần trăm

Khi bắt đầu chương này, chúng ta đã xác định một số những đe dọa thực tiễn với chủ nghĩa tự do. Thứ nhất là con người có thể trở nên vô dụng về quân sự và kinh tế. Đây chỉ là một điều có thể xảy ra, dĩ nhiên, không phải là một tiên tri. Những khó khăn kỹ thuật hoặc những chống đối chính trị có thể làm chậm sự xâm lăng algorithm vào thị trường nhân công. Ngoài ra, vì phần lớn não thức con người vẫn là vùng đất chưa thám hiểm, chúng ta thực sự không biết có những tài năng con người tiềm ẩn nào có thể khám phá được, và những công việc mới lạ nào họ có thể tạo ra để thay thế những nghề nghiệp mất đi. Thế nhưng, sự việc đó có thể là không đủ để cứu chủ nghĩa tự do. Vì chủ nghĩa tự do không chỉ tin vào giá trị của con người – nó cũng tin vào chủ nghĩa cá nhân. Mối đe dọa thứ hai chủ nghĩa tự do phải đương đầu là trong tương lai, trong khi hệ thống vẫn có thể cần những con người, nó sẽ không cần những cá nhân. Con người sẽ tiếp tục sáng tác nhạc, dạy vật lý và đầu tư tiền bạc, nhưng hệ thống sẽ hiểu được những con người này tốt hơn họ hiểu bản thân họ, và sẽ làm hầu hết những quyết định quan trọng cho họ. Do đó, hệ thống sẽ tước đoạt thẩm quyền và tự do của những cá nhân.

Tin tưởng nhân bản tự do trong chủ nghĩa cá nhân được thành lập trên ba giả định quan trọng mà chúng ta đã thảo luận trước đó trong quyển sách:

1. Tôi là một ‘không-phân chia’ (in-dividual = cá nhân) – đó là nói rằng: Tôi có một bản chất duy nhất vốn không thể chia được vào thành bất kỳ những phần hoặc những hệ thống con nào. Đúng, cái lõi bên trong này được bọc trong nhiều lớp bên ngoài. Nhưng nếu tôi làm những cố gắng để bóc những lớp vỏ bọc ngoài này, tôi sẽ tìm thấy sâu thẳm tự trong bản thân mình một tiếng nói bên trong rõ ràng và duy nhất, vốn là tự ngã đích thực của tôi.

2. Tự ngã đích thực của tôi thì hoàn toàn tự do.

3. Theo đến từ hai giả định đầu tiên rằng tôi có thể biết những điều về bản thân mình mà không ai khác có thể tìm ra được. Vì chỉ mình tôi mới vào được không gian tự do bên trong của tôi, và chỉ mình tôi mới có thể nghe thấy tiếng thì thầm của tự ngã đích thực của tôi. Đây là lý do khiến chủ nghĩa tự do ban cho cá nhân nhiều quyền như thế. Tôi không thể tin cậy bất cứ một ai khác để làm những lựa chọn cho tôi, vì không ai nào khác có thể biết tôi thực sự là ai, tôi cảm thấy thế nào và tôi muốn gì. Đây là tại sao những người bỏ phiếu biết giỏi nhất, tại sao người mua luôn luôn đúng và tại sao cái đẹp thì ở mắt người nhìn.

Tuy nhiên, khoa học sự sống thách đố cả ba giả định. Theo khoa học sự sống:

1. Những sinh vật là những algorithm, và con người không phải là những cá nhân (không-phân chia) – họ là ‘những phân chia’, nghĩa là con người là một tập hợp của nhiều algorithm khác biệt, thiếu một tiếng nói bên trong hoặc một tự ngã duy nhất.

2. Những algorithm tạo thành một con người không tự do. Họ được hình thành bởi những gene và những áp lực môi trường, và đưa ra quyết định hoặc là tất định hoặc ngẫu nhiên – nhưng không phải tự do.

3. Nó dẫn đến, sau đó, rằng một algorithm ở ngoài (tôi) về mặt lý thuyết có thể biết tôi rành rẽ và toàn vẹn hơn nhiều so với tôi từng bao giờ có thể biết bản thân mình. Một algorithm nếu nó theo dõi từng hệ thống vốn gồm cơ thể của tôi và bộ óc của tôi, tất có thể biết tôi là ai, tôi cảm thấy thế nào và tôi muốn những gì. Một khi được phát triển, một algorithm như vậy có thể thay thế những người bỏ phiếu, những người mua hàng, và những người nhìn. Khi đó, algorithm sẽ biết giỏi nhất, algorithm sẽ luôn luôn đúng, và cái đẹp sẽ ở trong những tính toán của algorithm.

Trong suốt thế kỷ XIX và XX, sự tin tưởng vào chủ nghĩa cá nhân dù sao đi nữa vẫn có ý nghĩa thực tiễn tốt đẹp, vì không có algorithm nào bên ngoài nào thực sự có thể giám sát tôi một cách hiệu quả. Những nhà nước và những thị trường có thể đã muốn làm đúng như thế đó, nhưng chúng thiếu những công nghệ cần thiết. Những cơ quan điệp vụ như KGB và FBI chỉ có một hiểu biết mơ hồ về sinh hóa, bộ gene và bộ óc của tôi, và thậm chí nếu những điệp viên nghe trộm được mọi cuộc gọi điện thoại của tôi và ghi lại được tất cả những gặp gỡ ngẫu nhiên của tôi trên đường phố, họ không có khả năng, nhất là tốc độ, như của computer [1] để phân tích tất cả những dữ liệu này. Do đó, với điều kiện công nghệ của thế kỷ XX, những người theo chủ nghĩa tự do đã đúng khi cho rằng không ai có thể biết về tôi tốt hơn chính tôi tự biết bản thân. Do đó con người có một lý do rất vững để tự coi mình như một hệ thống tự trị, và làm theo những tiếng nói bên trong chính họ, chứ không phải là những mệnh lệnh của Ông Anh Lớn.

Tuy nhiên, công nghệ thế kỷ XXI có thể cho những algorithm bên ngoài có khả năng để biết về tôi giỏi hơn chính tôi biết về tự thân mình, và một khi điều này xảy ra, tin tưởng vào chủ nghĩa cá nhân sẽ sụp đổ và thẩm quyền sẽ chuyển từ những con người cá nhân sang những mạng lưới algorithm. Mọi người sẽ thôi không còn thấy mình như những hữu thể tự trị, sinh sống cuộc đời mình theo như những ước muốn của họ, nhưng thay vào đó trở nên quen với việc nhìn thấy mình như một kết hợp của những cơ chế sinh hóa vốn nó được một mạng lưới những algorithm điện tử liên tục theo dõi và hướng dẫn. Để điều này xảy ra, không cần phải có một algorithm bên ngoài biết tôi thật toàn hảo, và không bao giờ phạm bất kỳ sai lầm nào; nhưng điều là đủ để một algorithm bên ngoài sẽ biết tôi tốt hơn chính tôi biết bản thân, và sẽ phạm ít sai lầm hơn tôi. Sau đó tin tưởng và trông cậy vào algorithm này để làm những quyết định và lựa chọn trong cuộc sống của tôi sẽ là điều có nghĩa lý.

Chúng ta đã vượt qua đường phân ranh này nếu chỉ nhìn vào những gì liên quan với y học. Trong bệnh viện, chúng ta thôi không còn là những cá nhân. Bạn nghĩ ai là người sẽ làm những quyết định trọng nhất về cơ thể và sức khỏe của bạn trong suốt đời bạn? Có xác xuất rất cao xảy ra rằng những quyết định này sẽ được những algorithm computer, loại như Watson của IBM thực hiện. Và điều này không nhất thiết phải là tin buồn. Những người bệnh tiểu đường đã mang theo những dụng cụ cảm ứng [2] tự động kiểm tra mức đường của họ nhiều lần trong ngày, báo động cho họ bất cứ khi nào nó vượt qua ngưỡng cửa nguy hiểm. Trong năm 2014 những nhà nghiên cứu tại Đại học Yale đã công bố thử nghiệm thành công đầu tiên của một “tụy tạng nhân tạo” được một chiếc iPhone kiểm soát. Năm mươi hai người bệnh tiểu đường đã tham gia vào thí nghiệm. Mỗi người bệnh có một thiết bị cảm ứng nhỏ và một máy bơm nhỏ được cấy vào dạ dày của mình. Những máy bơm được kết nối với những ống nhỏ của insulin và glucagon, hai thứ hormone cùng điều chỉnh lượng đường trong máu. Những thiết bị cảm ứng liên tục đo mức độ đường, truyền dữ liệu đến một chiếc iPhone. IPhone là nơi có một app phân tích những thông tin, và bất cứ khi nào cần thiết ra lệnh cho những máy bơm để chúng bơm vào những lượng insulin hay glucagon được đo lường – tất cả không cần sự can thiệp nào của con người [3]

Nhiều người khác, những người bị những bệnh không nghiêm trọng, đã bắt đầu dùng thiết bị cảm ứng đeo trên người và computer để theo dõi sức khỏe và hoạt động của họ. Những thiết bị – được kết hợp với một bất cứ gì, từ smartphone hay đồng hồ đeo tay đến những băng quấn cổ tay hay quần áo lót – ghi chép những dữ liệu đo lường những đặc điểm sinh học nhiều loại, như huyết áp. Dữ liệu sau đó được đưa vào những program computer phức tạp, chúng ‘khuyên’ bạn thay đổi chế độ ăn uống và thói quen hàng ngày của bạn nên thế nào, để vui hưởng sức khỏe tốt hơn, và đời sống lâu dài hơn.[4] Google, cùng với công ty dược phẩm khổng lồ Novartis, đang phát triển một kính gắn trên giác mạc để trông chừng nồng độ glucose trong máu mỗi vài giây, bằng cách thử nghiệm xem nước mắt có chứa gì.[5] Pixie Scientific bán những ‘tã thông minh’ phân tích phân của em bé để tìm manh mối về tình trạng sức khỏe của em bé. Microsoft đã đưa ra Băng đeo tay Microsoft trong tháng chục năm 2014 – một chiếc băng thông minh, trong số điển hình có thể kể như theo dõi nhịp tim đập của bạn, bạn ngủ có ngon giấc không, và bạn đi bộ được bao nhiêu bước mỗi ngày. Một app được gọi là Deadline (Đến hạn) đi một bước xa hơn, bảo cho bạn biết cứ với những thói quen hiện tại của bạn, bạn còn sống được bao nhiêu năm nữa.

Một số người dùng những ứng dụng này mà không suy nghĩ gì nhiều về điều đó, nhưng với những người khác điều này đã là một hệ ý thức, nếu không phải là một tôn giáo. Phong trào ‘Tự ngã Đo đạc [6] biện luận rằng tự ngã thì không là gì cả, nhưng là những mẫu thức toán học. Những mẫu thức này rất phức tạp khiến não thức con người không có cơ may nào để hiểu được chúng. Vì vậy, nếu bạn muốn theo lời câu ngạn ngữ xưa rằng ‘hãy tự biết mình’ [7], bạn không nên phí thời giờ của bạn trong triết học, thiền định hay phân tâm học, nhưng bạn nên thu thập những dữ liệu đo lường những đặc điểm sinh học [8] một cách hệ thống, và để cho những algorithm phân tích chúng cho bạn, và cho bạn biết bạn ai, và bạn nên làm những gì. Khẩu hiệu của phong trào là “Tự biết mình qua những con số”.[9]

Năm 2000, ca sĩ người Israel, Shlomi Shavan đã chinh phục những chương trình phát thanh địa phương với ‘Arik’, bài hát thành công ‘tới mức’ [10] của mình. Đó là về một anh chàng bị ám ảnh về Arik, người tình cũ của người bạn gái của mình. Anh đòi biết trong việc ăn nằm với nhau, ai ‘cừ’ hơn – anh ta, hay Arik? Cô bạn gái trốn tránh câu hỏi, nói rằng với mỗi người thì mỗi khác biệt. Những chàng trai này không hài lòng và đòi hỏi: “Nói chuyện với những số đo đi, nàng ơi!” Tốt, chính xác cho chàng trai loại như vậy, một công ty gọi là Bedpost bán những băng tay đo lường những đặc điểm sinh học, bạn có thể đeo nó đương khi làm chuyện chăn gối. Chiếc băng đeo tay này thu thập những dữ liệu như nhịp tim, mức độ mồ hôi, quan hệ tình dục kéo dài bao lâu, cực đỉnh khoái lạc kéo dài bao lâu, và số lượng calori bạn đã đốt cháy. Những dữ liệu được đưa vào một computer để phân tích thông tin và xếp hạng hiệu suất của bạn với những con số chính xác. Không có cực đỉnh khoái lạc làm giả tạo nữa, và ‘Chuyện đó với bạn thì thế nào?’ [11]

Những người có kinh nghiệm bản thân qua sự hoà giải (bên trong) không ngừng của những thiết bị này có thể bắt đầu thấy chính họ như một kết hợp gồm những hệ thống sinh hóa hơn là như những cá nhân, và những quyết định của họ sẽ ngày càng phản ảnh những đòi hỏi trái ngược nhau của những hệ thống. khác biệt [12]. Giả sử bạn có hai giờ được tự do làm gì tùy ý một tuần , và bạn không chắc liệu nên dùng chúng để chơi chess hay tennis. Một người bạn thân có thể hỏi: “Lòng dạ của bạn nói gì với bạn?” “Tốt,” bạn trả lời, ‘cứ như lòng dạ tôi quan tâm, rõ ràng là chơi tennis tốt hơn. Nó cũng tốt hơn cho mức cholesterol và huyết áp của tôi. Nhưng những (hình chụp) scan fMRI của tôi cho biết tôi cần tăng cường vỏ não trái trước trán của tôi. Trong gia đình tôi, bệnh mất trí nhớ thì khá phổ biến, và chú tôi đã vướng nó rất sớm. Những nghiên cứu mới nhất cho thấy rằng chơi chess hàng tuần có thể giúp trì hoãn sự khởi đầu của bệnh mất trí nhớ’.

Bạn đã có thể đã thấy nhiều những thí dụ cực đoan hơn của sự hoà giải bên ngoài [13] ở những khu lão khoa của những bệnh viện. Tư tưởng nhân bản mang ảo tưởng về tuổi già như một thời kỳ của trí tuệ và nhận thức thực tại. Một người già lý tưởng tuy có thể bệnh hoạn cơ thể và yếu nhược, nhưng não thức của người ấy thì nhanh nhẹn và sắc bén, và người ấy có tám mươi năm của hiểu biết sâu xa để phân phát. Ông ta biết chính xác những gì là những gì, và luôn luôn có những lời khuyên hay cho đám cháu nội ngoại và những người khách khác. Những người trên 80 tuổi của thế kỷ XXI không luôn luôn giống như thế. Nhờ sự hiểu biết ngày càng tăng của chúng ta về sinh học con người, y học giúp chúng ta sống đủ lâu để não thức của chúng ta và ‘tự ngã đích thực’ của chúng ta phân huỷ và tan biến [14]. Xảy ra hết sức thường xuyên, những gì còn lại là một kết tập của những hệ thống sinh học rối loạn chức năng được một tập hợp gồm những màn hình, computer và máy bơm điều hành để giữ cho tiếp tục kéo dài.

Ở một mức độ sâu hơn, khi những công nghệ di truyền học được hợp nhất vào trong cuộc sống hàng ngày, và khi mọi người phát triển những quan hệ ngày càng thân mật với DNA của họ, tự ngã đơn nhất có thể mờ loãng hơn nữa, và những tiếng nói bên trong đích thực có thể hòa tan vào trong một đám đông ồn ào của những gene. Khi tôi đang phải chạm mặt với những đilemma và những quyết định khó khăn, tôi có thể ngừng tìm kiếm giọng nói bên trong của tôi, và thay vào đó tham khảo ý kiến ​​hội đồng di truyền bên trong của tôi.

Ngày 14 tháng năm 2013, nữ tài tử điện ảnh Angelina Jolie đã đăng một bài báo trên tờ New York Times về quyết định có một giải phẫu của cô để cắt bỏ cả hai vú. Jolie đã sống nhiều năm trong bóng tối của bệnh cancer vú, vì mẹ và bà ngoại của cô, cả hai người đều chết vì bệnh này ở tuổi tương đối còn trẻ. Jolie đã có một khám nghiệm di truyền cho chính mình, nó đã cho thấy rằng cô đang mang một đột biến nguy hiểm của gene BRCA1. Theo những thống kê gần đây, những phụ nữ mang đột biến này có một xác suất 87 phần trăm sẽ phát triển bệnh cancer vú. Mặc dù vào thời điểm đó Jolie đã không bị cancer, cô quyết định ra tay trước căn bệnh đáng sợ và có một giải phẫu đôi cắt bỏ cả hai vú. Trong bài viết Jolie giải thích rằng ‘tôi quyết định không giữ câu chuyện của tôi trong bí mật riêng tư, vì có rất nhiều phụ nữ không biết rằng họ có thể sống dưới bóng tối của bệnh cancer. Hy vọng của tôi rằng họ cũng thế, sẽ có thể để có gene được khám nghiệm, và nếu họ có nguy cơ cao, họ cũng sẽ biết rằng họ có những chọn lựa mạnh mẽ. [15]

Quyết định nên có hay không một giải phẫu vú là một lựa chọn khó khăn và có thể gây chết người. Ngoài những khó chịu, nguy hiểm và chi phí tốn kém của giải phẫu và những phương pháp điều trị theo sau của nó, quyết định này có thể có những ảnh hưởng sâu rộng đến sức khỏe, hình ảnh thân thể, hạnh phúc và quan hệ tình cảm của một người. Sự lựa chọn của Jolie, và sự can đảm cô đã cho thấy trong việc công khai nó, đã gây một khuấy động lớn trong dư luận , và dành cho cô sự ca ngợi và ngưỡng mộ quốc tế. Đặc biệt, nhiều người hy vọng rằng dư luận công khai sẽ nâng cao sự nhận thức về y học di truyền và những lợi ích trong tiềm năng của nó.

Từ góc độ lịch sử, là điều thú vị để ghi nhận vai trò quyết định quan trọng của những algorithm đã đóng trong trường hợp này. Khi Jolie đã phải làm một quyết định quan trọng như thế về đời sống của cô, cô đã không leo lên một đỉnh núi trông ra biển, nhìn mặt trời lặn, chìm dần vào những con sóng, và cố gắng để tiếp xúc với những cảm xúc sâu thẳm nhất của cô. Thay vào đó, cô thích nghe những gene của cô hơn, chúng có tiếng nói thể hiện không phải trong những cảm xúc nhưng trong những con số. Jolie không hề cảm thấy đau đớn, hay khó chịu nào. Những cảm xúc của cô nói với cô: “Hãy thanh thản đi, mọi sự việc thì hoàn toàn êm xuôi.” Nhưng những algorithm computer được những y sĩ của cô sử dụng, chúng kể một câu chuyện khác: “Cô không cảm thấy có bất kỳ gì sai, nhưng có một quả bom nổ chậm đang tíc tắc đếm giờ trong DNA của cô. Hãy làm một gì đó về nó, – bây giờ!”

Dĩ nhiên, những tình cảm và cá tính độc đáo của Jolie cũng đã đóng một phần quan trọng nữa. Nếu một người phụ nữ khác với một cá tính khác biệt đã tìm biết được cô cũng mang cùng những đột biến di truyền đó, cô ấy cũng đã có thể quyết định không là đối tượng của một giải phẫu. Tuy nhiên – và ở đây chúng ta bước vào vùng tối sáng lẫn lộn của lúc hoàng hôn – nếu người phụ nữ khác đó đã tìm biết cô đã có mang sẵn không chỉ đột biến BRCA1 nguy hiểm, nhưng cũng còn một đột biến khác trong gene ABCD3 (hãy tạm tưởng tượng), nó làm suy yếu một khu vực não chịu trách nhiệm cho việc đánh giá những xác suất, do đó gây cho mọi người đi đến đánh giá những nguy hiểm thấp hơn? Sẽ xảy ra điều gì nếu một nhà thống kê chỉ ra cho người phụ nữ này rằng mẹ, bà ngoại và một số những thân tộc khác của cô đều đã chết trẻ vì họ đã đánh giá những nguy cơ sức khỏe khác biệt thấp hơn, và đều thất bại không có lấy được những biện pháp phòng ngừa nào?

Trong tất cả những gì có thể xảy ra, bạn cũng thế, sẽ làm những quyết định quan trọng về sức khỏe của bạn theo cùng một cách như Angelina Jolie. Bạn sẽ làm một khám nghiệm di truyền, một khám nghiệm máu hoặc một fMRI; một algorithm sẽ phân tích những kết quả của bạn dựa trên cơ sở của những cơ sở cấu trúc dữ liệu [16] rất lớn; và sau đó bạn sẽ chấp nhận đề nghị của algorithm. Đây không phải là một màn kịch tận thế. Những algorithm sẽ không nổi loạn và bắt chúng ta làm nô lệ. Thay vào đó, trong việc đưa ra những quyết định cho chúng ta những algorithm sẽ rất giỏi, khiến có là điên rồ mới không theo những lời khuyên của chúng.

Vai chính đầu tiên của Angelina Jolie đã là trong phim hành động khoa học giả tưởng Cyborg 2, 1993 . Cô đóng vai Casella Reese, một cyborg được Pinwwheel Robotics xây dựng vào năm 2074 cho những hoạt động gián điệp và ám sát giữ những công ty thương mại lớn. Casella đã được program để có những cảm xúc con người, để trà trộn tài tình hơn vào xã hội loài người, trong khi theo đuổi những nhiệm vụ của cô. Khi Casella khám phá rằng công ty Pinwwheel Robotics không chỉ điều khiển cô, nhưng cũng có ý định ‘chấm dứt’ cô, Casella chạy trốn và chiến đấu cho sự sống và tự do của mình. Cyborg 2 là một tưởng tượng (trong khuôn khổ tư tưởng nhân bản) tự do về một cá nhân chiến đấu cho quyền tự do và quyền giữ riêng tư chống lại những công ty thế giới như những con bạch tuộc có những cánh tay khổng lồ.

Trong đời sống thật của mình, Jolie đã chuộng sự hy sinh quyền tự chủ và quyền giữ riêng tư cho sức khỏe hơn. Một mong muốn tương tự như thế để giữ cho sức khỏe con người được tốt hơn cũng có thể khiến hầu hết chúng ta tự nguyện tháo gỡ những rào cản bảo vệ những không gian riêng tư của chúng ta, và cho phép những guồng máy chính quyền và những tập đoàn nhiều quốc gia được thâm nhập vào những hang hốc sâu thẳm thầm kín nhất của chúng ta. Lấy thí dụ, sự cho phép Google đọc những email và theo dõi những hoạt động của chúng ta sẽ khiến Google có thể báo trước – cho chúng ta về những bệnh dịch mới ‘lên men’ trước khi chúng được nhưng cơ quan y tế công cộng nhận biết – là điều có thể làm được

Sở Y tế Quốc gia UK (UHS) biết rằng có một dịch cúm lớn đã bùng nổ ở London bằng cách nào? Bằng cách phân tích những báo cáo của hàng ngàn y sĩ trong hàng trăm phòng khám bệnh. Và làm thế nào để tất cả những y sĩ này có được những thông báo? Vâng, khi Mary một buổi sáng tỉnh dậy, cảm thấy trong mình hơi khó ở, cô không đi thẳng đến y sĩ của cô. Cô chờ một vài giờ, hoặc thậm chí một hoặc hai ngày, hy vọng rằng một tách trà pha với mật ong chẳng hạn sẽ làm được việc. Khi sự việc thấy không được tốt hơn, cô mới gọi và hẹn với y sĩ, đến những phòng khám và mô tả những triệu chứng. Người y sĩ đánh máy dữ liệu thông tin này vào computer, và hy vọng một ai đó trong trụ sở NHS trung ương phân tích dữ liệu này cùng với những tường trình được gửi về từ hàng ngàn y sĩ khác, để có thể kết luận bệnh rằng dịch cúm đang xảy đến. Tất cả điều này phải mất rất nhiều thời giờ.

Google có thể làm điều đó chỉ trong vài phút. Tất cả những gì nó cần làm là theo dõi những từ ngữ những người thành phố London đánh máy trong email của họ và trong những program chuyên tìm kiếm của Google, và đối chiếu những từ ngữ này với một cơ sở cấu trúc dữ liệu của những triệu chứng bệnh. Giả sử trong một ngày trung bình từ ‘nhức đầu’, ‘sốt’, ‘buồn nôn’ và ‘hắt hơi’ xuất hiện 100.000 lần trong email London và những program chuyên tìm kiếm. Nếu hôm nay algorithm của Google nhận thấy chúng xuất hiện 300.000 lần, sau đó ‘trúng rồi!’ Chúng ta có một dịch cúm. Không cần phải đợi cho đến khi Mary đi khám bệnh. Vào buổi sáng đầu tiên cô thức dậy và cảm thấy một chút không khỏe, và trước khi đi làm cô gửi một đồng nghiệp một email: “Tôi bị nhức đầu, nhưng tôi sẽ tới sở.” Đó là tất cả những gì Google cần.

Tuy nhiên, để Google làm được việc kỳ diệu của nó, Mary phải cho phép Google không chỉ để đọc những tin nhắn của cô, nhưng cũng còn để chia sẻ thông tin (về sức khoả cá nhân cô) với những cơ quan y tế. Nếu Angelina Jolie đã sẵn sàng hy sinh sự riêng tư của mình để nâng cao nhận thức về bệnh cancer vú, tại sao Mary lại không nên làm cho một sự hy sinh tương tự để chống lại bệnh dịch?

Đây không phải là một ý tưởng lý thuyết. Năm 2008 Google thực sự đã phát khởi Google Flu Trends, theo dõi dịch cúm bằng cách theo dõi những tìm kiếm (qua những program) của Google. Dịch vụ này vẫn đang được phát triển, và do những hạn chế phải tôn trọng riêng tư cá nhân, nó chỉ theo dõi những từ tìm kiếm và bị buộc tránh đọc những email riêng. Nhưng nó đã có khả năng rung chuông báo động bệnh mười ngày sớm hơn những cơ quan truyền thống chuyên trách y tế công cộng. [17]

Một dự án nhiều tham vọng hơn được gọi là Google Baseline Study. Google dự định sẽ xây dựng một cơ sở cấu trúc dữ liệu khổng lồ về sức khỏe con người, thiết lập hồ sơ của ‘sức khỏe toàn hảo’. Hy vọng điều này sẽ làm nó có thể xác định được ngay cả những sai lệch nhỏ nhất với ​​đường biểu diễn cơ sở, qua đó báo trước cho mọi người những vấn đề sức khỏe đang nảy mầm như cancer, khi chúng có thể được bóp chết từ trong trứng nước. Baseline Study ăn khớp với toàn bộ một dòng những sản phẩm được gọi là Google Fit. Những sản phẩm này sẽ được đưa vào những gì mang mặc được như quần áo, vòng tay, giày dép và kính mắt, và sẽ thu thập một dòng chảy không bao giờ dứt của những dữ liệu thống kê sinh học. Ý tưởng là để Google Fit cung cấp cho Baseline Study những dữ liệu nó cần có. [18]

Tuy nhiên, có những công ty giống như Google muốn đi còn sâu nhiều hơn những gì mang mặc được. Thị trường về thử nghiệm DNA hiện đang phát triển nhảy vọt. Một trong những dẫn đầu của nó là ‘23andMe’, một công ty tư nhân được Anne Wojcicki thành lập, vợ cũ của Sergey Brin, người đồng sáng lập Google. Tên gọi ‘23andMe’ trỏ về 23 cặp nhiễm sắc thể (trong mỗi tế bào) chứa bộ genome của chúng ta, thông điệp là những nhiễm sắc thể của tôi có một quan hệ rất đặc biệt với tôi. Bất cứ ai có thể hiểu được những gì những nhiễm sắc thể đang nói, người ấy có thể bảo cho bạn biết những điều về bản thân bạn mà ngay cả bạn không bao giờ ngờ là có thể có.

Nếu bạn muốn biết chúng nói gì, chỉ phải trả $ 99 cho 23andMe, và họ sẽ gửi cho bạn một gói nhỏ với một ống xilanh ngắn nhỏ, loại để đựng chất lỏng. Bạn nhổ nước dãi vào ống, đóng kín và gửi nó tới Mountain View, California. Ỏ đó, DNA trong nước dãi của bạn được đọc, và bạn nhận được những kết quả trực tuyến. Bạn nhận được một danh sách những nguy cơ có thể xảy ra về sức khỏe mà bạn phải chạm mặt, và khuynh hướng di truyền của bạn trong hơn chín mươi đặc điểm và điều kiện khác biệt, từ hói đầu đến mù lòa. ‘hãy tự biết mình’ chưa bao giờ dễ dàng hơn hoặc rẻ hơn. Vì nó thì tất cả dựa trên thống kê, kích thước của cơ sở cấu trúc dữ liệu của công ty là chìa khóa để đưa ra những tiên đoán chính xác. Do đó công ty đầu tiên nào xây dựng được một cơ sở cấu trúc dữ liệu về thông tin di truyền khổng lồ sẽ cung cấp cho khách hàng với những tiên đoán tốt nhất, và có khả năng sẽ dành thị trường. Những công ty công nghệ sinh học USA đang ngày càng lo ngại rằng những luật bảo về quyền riêng tư nghiêm ngặt ở USA, kết hợp với sự coi thường của người Tàu với quyền riêng tư cá nhân, có thể đặt trọn thị trường về di truyền trên khay, giao gọn nó cho những công tyTàu..

Nếu chúng ta hiểu được liên hệ giữa những ý tưởng hay kinh nghiệm, và nếu chúng ta đem cho Google và những công ty cạnh tranh của nó được tự do lui tới những thiết bị đo lường đặc điểm sinh học của chúng ta, tới những hình chụp scan DNA của chúng ta và những hồ sơ y tế của chúng ta, chúng ta sẽ nhận được một dịch vụ y tế hiểu-biết-tất-cả về sức khỏe, vốn sẽ không chỉ chống những bệnh dịch, nhưng cũng sẽ che chắn chúng ta với những bệnh cancer, đau tim và bệnh Alzheimer. Tuy nhiên, với một cơ sở cấu trúc dữ liệu như vậy trong tay, Google có thể làm hơn thế rất nhiều. Hãy tưởng tượng một hệ thống, trong những lời của bài hát nổi tiếng của ban Police, vốn canh chừng mỗi hơi thở của bạn, mỗi bước di chuyển bạn thực hiện, và mỗi gắn bó bạn phá vỡ. Một hệ thống vốn giám sát cả trương mục nhà băng lẫn nhịp tim của bạn, mức lượng đường trong máu của bạn và những phiêu lưu tình dục thầm kín của bạn. Nó chắc chắn sẽ hiểu biết bạn giỏi hơn chính bạn tự biết mình rất nhiều. Những tự lừa dối và tự ảo tưởng vốn giam bẫy người ta trong những quan hệ tình cảm tệ hại, nghề nghiệp sai lầm và những thói quen tai hại sẽ không đánh lừa được Google. Không giống như tự ngã thuật kể điều khiển chúng ta ngày nay, Google sẽ không đưa ra những quyết định trên cơ sở của những câu chuyện được xào nấu mà thành, và sẽ không bị lừa bởi những đường nhận thức đi tắt, và quy luật “cao điểm – kết thúc”. Google sẽ thực sự nhớ từng bước chúng ta đã bước, và mỗi bàn tay chúng ta đã bắt tay.

Nhiều người sẽ vui sướng để chuyển giao phần lớn những tiến trình quyết định của họ vào tay của một hệ thống như vậy, hoặc ít nhất là tham khảo ý kiến ​​với nó bất cứ khi nào người ta phải đối đầu với những lựa chọn quan trọng. Google sẽ khuyến dụ chúng ta để xem phim nào, đi đâu vào những ngày nghỉ, và học gì ở trường đại học, nhận công việc nào được đề nghị giao cho, và thậm chí cả người nào để hẹn hò hay kết hôn. “Nghe này, Google,” Tôi sẽ nói, “cả John và Paul đều đang tán tỉnh tôi. Tôi thích cả hai, nhưng theo những cách khác biệt, và thật là khó để tôi quyết định chọn lựa. Với tất cả mọi điều bạn biết, bạn khuyên tôi phải làm gì?”

Và Google sẽ trả lời: “Vâng, tôi biết bạn từ ngày bạn được sinh ra. Tôi đã đọc tất cả những email của bạn, ghi lại tất cả những nói chuyện qua phone của bạn, và biết những phim yêu thích của bạn, DNA của bạn và tất cả lịch sử ‘cõi lòng’ của bạn. Tôi có dữ liệu chính xác về mỗi cuộc hẹn hò bạn đã có, và nếu bạn muốn, tôi có thể trưng cho bạn thấy đồ thị nhịp tim bạn đập, huyết áp và lượng đường của bạn, từng giây phút một, bất cứ khi nào bạn có một hẹn hò với John hay Paul. Nếu cần thiết, tôi thậm chí có thể cung cấp cho bạn với thứ hạng toán học chính xác của tất cả những cuộc gặp gỡ tình dục bạn đã có với cả hai người. Và tự nhiên đủ, tôi biết họ cũng như tôi biết bạn. Dựa trên tất cả những thông tin này, trên những algorithm tuyệt vời của tôi, và trên những số liệu thống kê giá trị hàng chục năm, về hàng triệu những quan hệ nam nữ, tình ái – Tôi khuyên bạn nên đi với John, với 87 phần trăm xác suất bạn sẽ được hài lòng hơn với anh ta về lâu về dài.

“Thật vậy, tôi biết bạn rất rõ, khiến tôi cũng còn biết thêm rằng bạn không thích trả lời này. Paul thì đẹp trai hơn John nhiều, và vì bạn đặt quá nhiều ‘’trọng lượng’ vào hình dạng bên ngoài, bạn đã thầm mong tôi nói “Paul”. Hình dạng bên ngoài thì quan trọng, dĩ nhiên; nhưng không nhiều như bạn nghĩ. Những algorithm sinh hóa của bạn – chúng đã phát triển hàng chục ngàn năm trước ở những cánh đồng cỏ Africa – đem cho dáng vẻ bên ngoài một trọng lượng là 35 phần trăm trong sự đánh giá tổng thể của họ về những người bạn tình tương lai. Những algorithm của tôi – vốn dựa trên hầu hết những nghiên cứu mới nhất và thống kê cập nhật nhất – nói rằng ngoại hình chỉ có 14 phần trăm ảnh hưởng đến sự thành công lâu dài của những quan hệ lãng mạn. Vì vậy, mặc dù tôi đã đặt ngoại hình của Paul vào cân nhắc xem xét, tôi vẫn nói với bạn rằng bạn sẽ có được vị trí tốt hơn với John.[19]

Trong trao đổi cho những dịch vụ tư vấn thân tình như vậy, chúng ta sẽ chỉ phải bỏ ý tưởng rằng con người là những cá nhân, và rằng mỗi con người đều có một ý chí tự do xác định những gì là tốt, những gì là đẹp và những gì là ý nghĩa của đời sống. Con người sẽ không còn là những thực thể tự trị được dẫn đạo bởi những truyện kể do tự ngã thuật kể của họ bịa đặt ra. Thay vào đó, họ sẽ là những phần nội tại, không tách rời của một netwwork thế giới khổng lồ.

Chủ nghĩa tự do đã ‘thánh hóa’ tự ngã thuật kể, và cho nó được bỏ phiếu trong những phòng bầu phiếu, chọn lựa trong những siêu thị và trên thị trường hôn nhân. Trong nhiều thế kỷ việc này có ý nghĩa, vì mặc dù tự ngã thuật kể đã tin vào tất cả những loại hư cấu và những tưởng tượng, không có hệ thống thay thế nào biết rõ tôi hơn. Tuy nhiên, một khi chúng ta có một hệ thống thực sự biết tôi rõ ràng hơn, sẽ là điều liều lĩnh và dại dột để bỏ mặc thẩm quyền nằm trong tay của tự ngã thuật kể.

Những thói quen tự do như những bầu cử dân chủ sẽ trở nên lỗi thời, vì Google sẽ có thể đại diện ngay cả cho những chính kiến ​​riêng của tôi tốt hơn bản thân tôi. Khi tôi đứng trong phòng phiếu kín, sau màn che, chủ nghĩa tự do hướng dẫn tôi để tham khảo ý kiến của ​​tự ngã đích thực của tôi, và chọn bất cứ đảng phái nào hoặc ứng cử viên nào phản ảnh được những khát vọng sâu xa nhất của tôi. Tuy nhiên, khoa học sự sống cho thấy rằng khi tôi đứng đó sau bức màn, tôi không thực sự nhớ được tất cả mọi sự vật việc tôi đã cảm và nghĩ trong nhiều năm kể từ cuộc bầu cử trước. Hơn nữa, tôi đang bị một loạt những tuyên truyền, phù thủy chính trị và những ký ức ngẫu nhiên bắn phá, chúng cũng rất có thể bóp méo lựa chọn của tôi. Cũng như trong thí nghiệm nước lạnh của Kahneman, trong chính trị cũng thế, tự ngã thuật kể tuân theo quy luật “cao điểm – kết thúc”. Nó quên mất phần lớn những sự kiện, nhớ chỉ một vài những biến cố (thời sự) hàng đầu, và đem cho những diễn biến gần đây một trọng lượng hoàn toàn không cân xứng.

Trong bốn năm dài, tôi có thể nhiều lần phàn nàn về những chính sách của người làm Thủ tướng, nói với cả bản thân mình lẫn bất cứ ai sẵn sàng lắng nghe rằng ông ta sẽ là ‘người hủy hoại của chúng ta tất cả’ . Tuy nhiên, trong những tháng trước khi có bầu cử, chính phủ của ông đã giảm thuế và mạnh tay tiêu ngân quĩ quốc gia. Đảng cầm quyền đã thuê những tay chuyên môn viết văn bản trình bày chính sách cho công chúng giỏi nhất, để dẫn đường một vận động tuyển cử tuyệt vời, với một hỗn hợp trong đó cân bằng những đe dọa chính trị và những lời hứa xã hội vốn nói thẳng vào trung tâm sợ hãi trong não của tôi. Vào buổi sáng của ngày bỏ phiếu, tôi thức dậy với một cảm lạnh, tác động vào những tiến trình não thức của tôi, khiến tôi thích sự an toàn và ổn định hơn, trên tất cả những vấn đề khác. Và thì đấy! Tôi đã chọn con người sẽ ‘hủy hoại của chúng ta tất cả’ trở lại văn phòng thêm bốn năm nữa.

Tôi đã có thể cứu mình khỏi một số phận như vậy, nếu tôi đã đơn giản ủy quyền cho Google bỏ phiếu thay tôi. Google không phải đã ra đời chỉ mới ngày hôm qua, bạn biết đấy. Mặc dù nó không bỏ qua việc cắt giảm thuế gần đây và những lời hứa hẹn trong vận động bầu cử, nó cũng nhớ lại những gì đã xảy ra trong suốt bốn năm trước. Nó biết huyết áp của tôi đã ra sao mỗi lần tôi đọc tờ báo buổi sáng, và mức dopamine của tôi đã giảm mạnh đến đâu trong khi tôi xem tin tức trên tivi thời sự buổi tối. Google sẽ biết làm thế nào để sàng lọc những khẩu hiệu trống rỗng của những bình luận phù thuỷ chính trị. Google cũng sẽ biết rằng bệnh tật cũng làm cho những cử tri nghiêng nhiều hơn một chút sang ‘hữu phái’ so với thông thường, và sẽ bù đắp cho điều này. Do đó, Google sẽ có khả năng bỏ phiếu không theo trạng thái nhất thời của não thức tôi, và không theo như những thêm thắt lẫn tưởng tượng của tự ngã thuật kể, nhưng theo như những cảm xúc thực và lợi ích của kết hợp những algorithm sinh hóa được biết như là “tôi”.

Đương nhiên, Google sẽ không luôn luôn đúng được ngay lần đầu. Dù sao chăng nữa, đây tất cả chỉ là những gì có thể xảy ra. Nhưng nếu Google làm đủ số những quyết định tốt, mọi người sẽ ban thẩm quyền thêm cho nó. Với thời gian trôi qua, những cơ sở cấu trúc dữ liệu sẽ tăng trưởng, những thống kê này sẽ ngày một chính xác hơn, những algorithm sẽ trở nên tốt hơn, và những quyết định sẽ càng được thêm tốt hơn. Hệ thống sẽ không bao giờ biết tôi đến mức hoàn hảo, nhưng sẽ không bao giờ có thể sai lầm. Nhưng không phải cần đến những điều đó. Chủ nghĩa nhân bản tự do sẽ sụp đổ vào ngày hệ thống biết tôi tốt hơn chính tôi biết chính mình. Vốn điều đó thì ít khó khăn hơn như nó xem dường thực thế, nếu chỉ nghe nói, vì rằng hầu hết mọi người đều không thực sự biết về bản thân họ được gì nhiều cho lắm.

Một nghiên cứu gần đây – được Facebook, đối thủ của Google, đặt làm – đã chỉ ra rằng algorithm Facebook ngày nay đã là một người phán đoán tốt hơn rồi, về những tính cách đặc biệt và những thói quen khuynh hướng cá nhân con người; thậm chí còn tốt hơn chính những bạn bè, cha mẹ, vợ hoặc chồng của người ta. Nghiên cứu đã được tiến hành với 86.220 người tình nguyện, những người có sổ tên Facebook và đã trả lời một bảng câu hỏi gồm 100-mục về cá tính. Algorithm của Facebook tiên đoán những câu trả lời của những người này dựa trên sự theo dõi những Likes của họ ttong Facebook – vốn những trang web, những hình ảnh và những clip video đều được ‘dán nhãn’ với Like như một nút bấm tuỳ chọn. Càng nhiều Like, những tiên đoán càng chính xác hơn. Những tiên đoán của algorithm được đem so sánh với của những đồng nghiệp, bạn bè, những thành viên gia đình và vợ hay chồng. Thật ngạc nhiên, algorithm đã cần một loạt chỉ gồm có 10 Likes để làm hay hơn những tiên đoán của những đồng nghiệp. Nó đã cần 70 Likes để làm hay hơn những người bạn, 150 Likes để làm hay hơn những thành viên gia đình, và 300 Likes để làm hay hơn người vợ hoặc chồng. Nói cách khác, nếu như xảy ra là bạn đã bấm 300 lần nút Likes trong sổ Facebook của bạn, algorithm Facebook có thể tiên đoán được những ý kiến ​​và những mong muốn của bạn, hay hơn so với chính chồng hoặc vợ của bạn!

Thật vậy, trong một số lĩnh vực, algorithm của Facebook đã làm hay hơn chính những con người. Những người tham gia được hỏi để đánh giá những điều, như mức độ dùng những chất gây say nghiện, hoặc kích thước của những mạng lưới xã hội của họ. Những phán đoán của họ thì kém chính xác hơn so với của algorithm. Nghiên cứu đã kết luận với tiên đoán sau đây (thực hiện bởi những tác giả con người của bài viết, không phải bởi algorithm Facebook): “Mọi người có thể buông bỏ những phán đoán tâm lý riêng của họ và hãy dựa vào những computer khi thực hiện những quyết định quan trọng trong đời sống, chẳng hạn như những lựa chọn về những hoạt động, đường tiến nghề nghiệp, hoặc ngay cả người tình lãng mạn. Những quyết định dựa trên dữ liệu (do algorithm computer thu tập và phân tích) như vậy sẽ làm cho đời sống của người ta tốt hơn lên là điều có thể được. [20]

Thêm một ghi nhận, tuy màu sắc đen tối hơn, vẫn cùng nghiên cứu nói trên, còn ngầm ý rằng trong những bầu cử tổng thống nước US sắp tới, Facebook có thể biết, không chỉ những ý kiến ​​chính trị của hàng chục triệu người US, nhưng cũng ai trong số đó là những người có thể thay đổi phiếu bầu quan trọng, và những phiếu bầu này có thể đong đưa thay đổi thế nào. Facebook có thể cho bạn biết rằng ở Oklahoma, cuộc đua giữa đảng Cộng hòa và đảng Dân chủ thì đặc biệt cân bằng, đang ngang ngửa, Facebook có thể xác định được 32.417 cử tri vẫn chưa quyết định phiếu bầu của họ, và Facebook có thể xác định mỗi ứng cử viên cần phải nói những gì để có thể đảo ngược thế cân bằng. Làm thế nào Facebook có thể có được những dữ liệu chính trị vô giá này? Chúng ta cung cấp chúng miễn phí cho nó.

Trong những ngày tưng bừng của chủ nghĩa đế quốc Europe, những kẻ xâm lược và những con buôn đã mua trọn những hòn đảo và những đất nước để đổi lấy những ngọc đá quí màu sắc đẹp đẽ rực rỡ. Trong thế kỷ XXI, dữ liệu thông tin cá nhân của chúng ta có lẽ là nguồn tài nguyên có giá trị nhất hầu hết con người vẫn phải đem cho, và chúng ta đang đem nó cho những công ty công nghệ khổng lồ để đổi lấy những dịch vụ email và những video buồn cười về con mèo.[21]


Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất



[1] Computing power: sức mạnh trong khả năng và tốc độ của computer
[2] tạm dịch sensors, trong y khoa - a device that responds to a physical stimulus (as heat, light, sound, pressure, magnetism, or a particular motion) and transmits a resulting impulse (as for measurement or operating a control)
[3] [Ido Efrati, ‘Researchers Conducted a Successful Experiment with an “Artificial Pancreas” Connected to an iPhone’ [in Hebrew], Haaretz, 17 June 2014, accessed 23 December 2014, http://www.haaretz.co.il/news/health/1.2350956. Moshe Phillip et al., ‘Nocturnal Glucose Control with an Artificial Pancreas at a Diabetes Camp’, New England Journal of Medicine 368:9 “(2013), 824–33; ‘Artificial Pancreas Controlled by iPhone Shows Promise in Diabetes Trial’, Today, 17 June 2014, accessed 22 December 2014, http://www.todayonline.com/world/artificial-pancreas-controlled-iphone-shows-promise-diabetes-trial?singlepage=true.]
[4] [Dormehl, The Formula, 7–16.]
[5] [Martha Mendoza, ‘Google Develops Contact Lens Glucose Monitor’, Yahoo News, 17 January 2014, accessed 12 August 2015, http://news.yahoo.com/google-develops-contact-lens-glucose-monitor-000147894.html; Mark Scott, ‘Novartis Joins with Google to Develop Contact Lens That Monitors Blood Sugar’, New York Times, 15 July 2014, accessed 12 August 2015, http://www.nytimes.com/2014/07/16/business/international/novartis-joins-with-google-to-develop-contact-lens-to-monitor-blood-sugar.html?_r=0; Rachel Barclay, ‘Google Scientists Create Contact Lens to Measure Blood Sugar Level in Tears’, Healthline, 23 January 2014, accessed 12 August 2015, http://www.healthline.com/health-news/diabetes-google-develops-glucose-monitoring-contact-lens-012314.]
[6] Quantified Self: Phong trào ‘Tự ngã Đo đạc’ hay ‘Tự ngã Bao nhiêu’ (‘quantificare’, từ Latin ‘quantus’ = ‘bao nhiêu’) có mục đích cân đo tất cả mọi phương diện của đời sống hàng ngày của chúng ta với trợ giúp của công nghệ kỹ thuật. Những dụng cụ, máy móc có thể mang, đeo, gắn vào người được để theo dõi hoạt động, cùng với những app giúp chúng ta ghi nhận, đo lường tất cả những bước đi, miếng ăn, giấc ngủ, hơi thở, tim đập, lượng máu,... của chúng ta; tất cả có thể đem lại một sự hiểu biết tốt hơn về chính chúng ta, bản chất chúng ta, và thậm chí còn đem lại nhiều lợi ích cho sức khoẻ chúng ta.
[7] “Know Thyself” khắc vào đá trên tường sân trước của đền thờ Apollo ở Delphi.
[8] biometrics hay biostatistics.
[9] [Quantified Self, http://quantifiedself.com/; Dormehl, The Formula, 11–16.]
[10] Hit song
[11] [Dormehl, The Formula, 91–5; Bedpost, http://bedposted.com.]
[12] [Dormehl, The Formula, 53–9.]
[13] Thuật ngữ ‘hoà giải bên trong/bên ngoài’ (internal/external mediation) trong thuyết ‘dục vọng bắt chước’ (mimetic desire) trình bày trong Mensonge romantique et vérité romanesque (1961) của René Girard. Chúng ta không thực sự biết tự mình muốn gì; những mong muốn hay dục vọng của chúng ta thường là bắt chước; chúng ta làm theo hay vay mượn những mong ước của những người khác. Chú ý phân biệt nhu cầu (ăn, làm tình) và dục vọng, mong muốn (muốn ăn phở, không ăn mì; muốn ăn nằm với bà này, không cô kia). Dục vọng khi đó được định nghĩa như một liên quan ba chiều giữa chủ thể, đối tượng và một hoà giải, yếu tố hoà giải, hay dàn xếp này đẩy mong muốn của chủ thể hướng đến đối tượng. Yếu tố, hay tác nhân hoà giải trung gian này có thể là bên trong hay bên ngoài chủ thể. Bên ngoài như Gót, thần, lãnh tụ, gương anh hùng đều được ý thức và được xã hội thúc đẩy, tăng cường. Bên trong như của những người đồng tuổi, cùng nhóm, hay những cá nhân tự thấy có một quyến rũ, lôi cuốn, cám dỗ bí mật, là một nội dung kém rõ ràng hơn. Yếu tố hoà giải càng gần với tự ngã bao nhiêu, một người càng cảm thấy khó thú nhận rằng mình đã chịu ảnh hưởng, rằng ước mong của mình thực đã là bắt chước.
[14] Những bệnh như quên trí nhớ, mất tự ngã,...như: Alzheimer: Dementia, Diffuse Lewy Body Disease. Vascular Dementia, Frontotemporal Dementia (FTD - Also known as Pick's Disease), Depression, Parkinson's Disease, Normal Pressure Hydrocephalus, Huntington's Disease, Creutzfeldt-Jakob Disease (CJD)
[15] [Angelina Jolie, ‘My Medical Choice’, New York Times, 14 May 2013, accessed 22 December 2014, http://www.nytimes.com/2013/05/14/opinion/my-medical-choice.html.]
[16] databases: những cơ sở cấu trúc dữ liệu
[17] [Google Flu Trends’, http://www.google.org/flutrends/about/how.html; Jeremy Ginsberg et al., ‘Detecting Influenza Epidemics Using Search Engine Query Data’, Nature 457:7232 (2008), 1012–14; Declan Butler, ‘When Google Got Flu Wrong’, Nature, 13 February 2013, accessed 22 December 2014, http://www.nature.com/news/when-google-got-flu-wrong-1.12413; Miguel Helft, ‘Google Uses Searches to Track Flu’s Spread’, New York Times, 11 November 2008, accessed 22 December 2014, http://msl1.mit.edu/furdlog/docs/nytimes/2008-11-11_nytimes_google_influenza.pdf; Samantha Cook et al., ‘Assessing Google Flu Trends Performance in the United States during the 2009 Influenza Virus A (H1N1) Pandemic’, PLOS ONE, 19 August 2011, accessed 22 December 2014, http://www.plosone.org/article/info%3Adoi%2F10.1371%2Fjournal.pone.0023610; Jeffrey Shaman et al., ‘Real-Time Influenza Forecasts during the 2012–2013 Season’, Nature, 23 April 2013, accessed 24 December 2014, http://www.nature.com/ncomms/2013/131203/ncomms3837/full/ncomms3837.html]
[18] [Alistair Barr, ‘Google’s New Moonshot Project: The Human Body’, Wall Street Journal, 24 July 2014, accessed 22 December 2014, http://www.wsj.com/articles/google-to-collect-data-to-define-healthy-human-1406246214; Nick Summers, ‘Google Announces Google Fit Platform Preview for Developers’, Next Web, 25 June 2014, accessed 22 December 2014, http://thenextweb.com/insider/2014/06/25/google-launches-google-fit-platform-preview-developers/.]
[19] [Dormehl, The Formula, 72–80.]
[20] [Wu Youyou, Michal Kosinski and David Stillwell, ‘Computer-Based Personality Judgements Are More Accurate Than Those Made by Humans’, PNAS 112:4 (2015), 1036–40.]
[21] funny cat videos