Người-gót: một Lịch
sử Ngắn gọn của Ngày mai
Homo Deus: A Brief History of Tomorrow
Yuval Noah Harari,
3
Trong
thực tế, những mạng sống người US thì
có giá trị hơn nhiều. Rất nhiều tiền của đã đầu tư vào giáo dục, y tế và bảo hiểm
an ninh xã hội cho người US trung bình hơn cho người Afghanistan trung bình. Giết
chết một công dân US tạo ra một làn sóng phản đối quốc tế lớn hơn nhiều so với
giết chết một công dân Afghanistan. Tuy nhiên, thông thường đã chấp nhận rằng
điều này thì không gì hơn là một hậu quả bất công của cán cân địa chính trị của
quyền lực. Afghanistan có thể có ít ảnh hưởng quyền lực hơn so với USA, nhưng sự
sống của một đứa trẻ vùng núi Tora Bora thì dù mỗi mảnh nhỏ nhất được xem cũng
thiêng liêng như sự sống của một đứa trẻ thành phố Beverly Hills.
Có lẽ chúng ta cần những kinh nghiệm chủ quan để suy nghĩ về bản thân mình? Một con vật lang thang trên đồng cỏ và tính toán những cơ may của nó để tồn tại và sinh sản phải trình bày lại những hành động và quyết định của nó với chính nó, và đôi khi thông tin chúng với những động vật khác. Khi não cố gắng để tạo ra một mô hình của những quyết định riêng của chính nó, nó bị mắc kẹt trong một sự vòng vo lạc đề, lệch khỏi những lối chính, đến vô tận, và ‘úm ba la ra cái gì đây!’ Ra khỏi vòng quẩn quanh tít mù này, hữu thức bật ra.
Để khởi
dựng một cách mạng, con số đông thì không bao giờ đủ. Những cách mạng thường được
thực hiện bởi những mạng lưới nhỏ gồm những tay khuấy động, chứ không phải bởi
quần chúng. Nếu bạn muốn khởi động một cuộc cách mạng, đừng tự hỏi, “Có bao
nhiêu người ủng hộ ý tưởng của tôi?” Thay vào đó, hãy tự hỏi, “Có bao nhiêu
trong số những người ủng hộ tôi có khả năng hợp tác hiệu quả?” Cuộc cách mạng
Russia cuối cùng đã nổ ra không phải khi có 180 triệu nông dân đứng lên chống lại
Tsar của họ, nhưng khi một số ít những người cộng sản đã biết đặt mình ở đúng chỗ,
và vào đúng thời điểm. Năm 1917, ở một thời điểm khi những tầng lớp thượng lưu
và trung lưu Russia, với con số ít nhất khoảng 3 triệu người, đảng Cộng sản Russia
đã chỉ có đúng 23.000 đảng viên.[36] Những người cộng sản dẫu vậy, đã chiếm trọn quyền kiểm
soát toàn thể đế quốc Russia bao la, vì họ đã giỏi tự tổ chức. Khi uy quyền ở
Russia đã vuột khỏi những bàn tay suy yếu của Tsar bất lực, và những bàn tay cũng
rệu rã không kém của chính phủ lâm thời Kerensky, những người cộng sản đã sốt sắng
nắm lấy nó, giữ chặt dây cương quyền lực như một con bulldog ngoạm một miếng
xương với trọn hàm răng sắc nhọn của nó.
Ion
Iliescu đã được bầu làm tổng thống của Romania, trong khi những đồng chí của
ông đã trở thành những bộ trưởng, nhân viên quốc hội, giám đốc ngân hàng và những
triệu phú. Tầng lớp chọn lọc Romania mới điều khiển đất nước cho đến ngày nay
chủ yếu gồm những đảng viên cộng sản cũ và gia đình của họ. Quần chúng đã dám
liều ‘vươn cổ chịu chém’ ở Timişoara và Bucharest, đều đã nhận chỉ những miếng
thừa, những của vứt đi, vì họ không biết cách để hợp tác và cách để tạo ra một
tổ chức hiệu quả để chăm sóc những quyền lợi của chính họ.. [38]
Tia lửa con người loé sáng
Không
nghi ngờ gì rằng Homo sapiens là loài
vật mạnh nhất trên thế giới. Homo sapiens
cũng thích nghĩ rằng nó hưởng một địa vị tinh thần đạo đức siêu việt, và rằng mạng
sống con người thì giá trị hơn nhiều so với mạng sống của con lợn, con voi, hay
con chó sói. Điều này thì kém rõ ràng hơn. Có phải sức mạnh lớn lao làm nên lẽ
phải đạo đức? Có phải mạng người quý hơn mạng lợn đơn giản chỉ vì tập thể loài
người thì mạnh hơn tập thể loài lợn? Nước USA hùng mạnh hơn Afghanistan rất nhiều;
có phải điều này hàm ý rằng những mạng sống người USA có giá trị nội tại lớn
hơn của những người Afghanistan?
Ngược
lại, khi chúng ta cho những con cái của con người ưu quyền nhưng không cho những
con lợn con, chúng ta muốn tin rằng điều này phản ảnh một gì đó sâu xa hơn sự
phân bối quân bằng sinh thái của quyền lực. Chúng ta muốn tin rằng sự sống con
người thực sự siêu việt trong một số mức độ nền tảng nào đó. Chúng ta Sapiens thích nói với mình rằng chúng ta
hưởng một vài phẩm tính huyền diệu không chỉ giải thích cho sức mạnh bao la của
chúng ta, nhưng cũng đem cho địa vị ưu thắng của chúng ta sự biện minh về tinh
thần đạo đức. Tia lửa độc đáo này loé sáng trong con người là gì?
Câu
trả lời theo thuyết tin chỉ một gót
truyền thống là chỉ những Sapiens mới
có những linh hồn vĩnh cửu. Trong khi thể xác phân hủy và thối rữa, linh hồn
trên đường hướng tới sự cứu rỗi hay sự nguyền rủa, và sẽ kinh nghiệm một trong
hai, sung sướng đời đời trong cõi của gót, hay đau khổ đời đời trong hoả ngục.
Vì những con lợn và những thú vật khác đều không có linh hồn, chúng không tham
dự vào vở kịch vũ trụ này. Chúng sống chỉ một số năm, và sau đó chết, và chìm
vào hư vô. Do đó chúng ta nên quan tâm nhiều hơn về những linh hồn con người
vĩnh cửu thay vì những con lợn có đời sống ngắn ngủi.
Đây
không phải là truyện kể cổ tích lớp mẫu giáo, nhưng một huyền thoại cực kỳ mạnh
mẽ tiếp tục định hình những đời sống của hàng tỉ người và động vật trong những
năm đầu thế kỷ XXI. Niềm tin rằng con người có linh hồn vĩnh cửu, trong khi thú
vật chỉ là những thân xác phù du, là một trụ cột trung tâm của hệ thống pháp luật,
chính trị và kinh tế của chúng ta. Nó giải thích, lấy thí dụ, tại sao là hoàn
toàn không có gì phải nói để con người giết những con vật để ăn, hoặc thậm chí
chỉ để lấy đó làm vui.
Tuy
nhiên, những khám phá khoa học mới nhất của chúng ta thẳng thừng phủ nhận sự thật
của huyền thoại trong những tôn giáo tin chỉ một gót này. Đúng, những thí nghiệm
khảo cứu xác nhận tính chân thực của một phần của huyền thoại: đúng như những
tôn giáo tin chỉ một gót nói, những thú vật không có linh hồn. Tất cả những
nghiên cứu cẩn thận và xem xét chi ly kỹ lưỡng đều đã thất bại trong việc tìm
ra được bất kỳ một dấu vết nào của một linh hồn trong những con lợn, chuột hay
khỉ rhesus. Than ôi, cùng những những
thí nghiệm khảo cứu tương tự đã cũng phá huỷ nền móng phần hai và quan trọng
hơn nhiều của huyền thoại trong tôn giáo tin chỉ một gót, nói cụ thể, rằng con
người thực có một linh hồn. Những nhà
khoa học đã đặt Homo sapiens làm đối
tượng cho hàng chục ngàn những thí nghiệm khác thường, và nhìn vào mọi góc cạnh
trong cõi lòng chúng ta và mọi ngõ ngách trong bộ óc của chúng ta. Nhưng cho đến
nay họ đã vẫn không khám phá được tia lửa loé sáng huyền diệu nào. Bằng chứng
khoa học để cho rằng ngược lại với những con lợn, những Sapiens có những linh hồn, là con số không
Nếu
đó đã là tất cả, chúng ta cũng có thể lập luận rằng những nhà khoa học chỉ cần
tiếp tục tìm kiếm. Nếu họ đã không tìm thấy linh hồn nào cả, đó là vì họ đã
chưa nhìn cho đủ kỹ lưỡng. Tuy nhiên, ngành khoa học sự sống nghi ngờ sự là-có của linh hồn, không chỉ do thiếu bằng
chứng, nhưng đúng hơn vì chính ý tưởng về linh hồn thì mâu thuẫn với những
nguyên lý cơ bản nhất của tiến hóa. Mâu thuẫn này là nguyên nhân cho sự thù hận
không dằn được mà thuyết tiến hóa thổi vào giữa những người sùng mộ của những
tôn giáo tin chỉ một gót.
Ai là
người sợ hãi Charles Darwin?
Theo một thăm dò thống kê của Gallup năm 2012, chỉ có
15 phần trăm người USA nghĩ rằng Homo
sapiens đã tiến hóa qua chọn lọc tự nhiên mà thôi, hoàn toàn không có can
thiệp tất cả nào của Gót; 32 phần trăm cho rằng con người có thể đã tiến hóa từ
những dạng sống xuất hiện sớm hơn trước đó trong một quá trình kéo dài hàng triệu
năm, nhưng Gót đã sắp đặt toàn bộ màn trình diễn này; 46 phần trăm tin rằng Gót
đã tạo ra con người trong hình dạng hiện tại của họ, đâu đó trong vòng chỉ
10.000 năm qua, đúng như Sách Thánh Kitô nói. Ngồi ba năm trên ghế nhà trường bậc
cao đẳng, tuyệt đối không có tác động gì tới những quan điểm này. Cuộc khảo sát
cũng cho thấy trong số sinh viên tốt nghiệp Cử nhân, 46 phần trăm tin vào truyện kể sáng tạo của Sách Thánh Kitô, trong khi chỉ có 14 phần trăm nghĩ rằng
con người đã tiến hóa mà không cần bất kỳ sự giám sát nào của thần linh. Ngay cả
trong số người có bằng Cao học và Tiến sĩ, độ 25 phần trăm tin vào Sách Thánh
Kitô, trong khi chỉ có 29 phần trăm ghi nhận một mình chọn lọc tự nhiên với sự
sáng tạo của loài người chúng ta.[1]
Mặc dù những trường học rõ ràng làm rất tồi việc giảng
dạy thuyết tiến hóa, những người cuồng tín tôn giáo vẫn khăng khăng rằng nó
không nên được đem giảng dạy gì hết tất cả. Ngoài ra, họ đòi hỏi rằng trẻ em phải
được dạy thuyết ‘thiết kế thông minh’, theo đó tất cả những sinh vật đã được
sáng tạo bởi sự thiết kế của một thông minh siêu vệt nào đó (nghĩa là Gót). “Dạy chúng cả hai thuyết,”
những người cuồng tín nói, “và để những trẻ em tự quyết định lựa chọn.”
Tại sao thuyết tiến hóa khơi động những chống đối như
vậy, trong khi dường như không ai bận tâm về thuyết tương đối hay thuyết cơ học
quantum? Tại sao những nhà chính trị không đòi rằng trẻ em được tiếp xúc với những
lý thuyết lựa chọn thay thế khác về vật chất, năng lượng, không gian và thời
gian? Sau rốt, những ý tưởng của Darwin, ngay từ cái nhìn đầu tiên, xem dường
ít đe dọa hơn so với những kinh ngạc ghê gớm của Einstein và Werner Heisenberg.
Học thuyết về sự tiến hóa sinh vật dựa trên nguyên lý của ‘sự sống còn của loài
thích nghi nhất’ [2], vốn là một ý tưởng – không phải để nói là buồn tẻ, không có gì hứng
thú – rõ ràng và đơn giản. Ngược lại, lý thuyết tương đối và cơ học quantum cho
rằng bạn có thể xoay thời gian và không gian, rằng một gì đó có thể xuất hiện từ
không gì cả, và rằng một con mèo có thể vừa cả hai, còn sống và đã chết, cùng một
lúc. Điều này như gây một nhạo báng với cảm thức thông thường của chúng ta, thế
nhưng không ai tìm cách bảo vệ những học sinh ngây thơ tránh khỏi những ý tưởng
gây dư luận xôn xao này. Tại sao?
Lý thuyết tương đối không làm cho một ai tức giận, vì
nó không mâu thuẫn với bất kỳ những tin tưởng trân quí nào chúng ta hằng ôm giữ
cả. Hầu hết mọi người không quan tâm một mảy may nào, cho dù không gian và thời
gian là tuyệt đối hay tương đối. Nếu bạn nghĩ rằng có thể uốn cong không gian
và thời gian, hay lắm, hãy tự nhiên. Cứ làm đi và uốn cong chúng. Tôi có gì phải
bận tâm? Ngược lại, Darwin đã tước đi mất linh hồn của con người. Nếu bạn thực
sự hiểu thuyết tiến hóa, bạn biết rằng không có linh hồn. Đây là một ý tưởng
kinh hãi không chỉ với những người Kitô và Muslim sùng đạo, nhưng còn với nhiều
người thế tục, những người không ôm giữ bất kỳ tín điều tôn giáo rõ ràng nào,
nhưng vẫn muốn tin rằng mỗi con người có một bản thể cá nhân vĩnh cửu vốn không
thay đổi trong suốt cuộc đời, và có thể tồn tại không suy chuyển ngay cả sau
cái chết.
Nghĩa đen của từ “cá nhân” là ‘một gì đó mà không thể
phân chia được’ [3]. Rằng tôi là một “không-phân chia được” hàm ý rằng bản ngã thực của tôi
là một thực thể toàn bộ và toàn diện chứ không phải là một kết hợp của những phần
riêng biệt. Bản chất không thể phân chia này được viện dẫn là tồn tại từ khoảnh
khắc này sang khoảnh khắc sau mà không bị mất bớt, hoặc nhận thêm bất cứ gì. Cơ
thể và bộ óc của tôi khứng chịu một tiến trình liên tục của thay đổi, khi những
nơrôn bật động, những kích thích tố chảy, và những bắp thịt co dãn. Những tính
cách cá nhân [4], những mong muốn, và những quan hệ của tôi, không bao giờ đứng yên, và
có thể thay đổi sau nhiều năm, và hoàn toàn thay đổi sau nhiều mười năm. Nhưng
ngầm bên dưới nó, tôi thì tất cả vẫn là cùng một con người, từ khi sinh ra cho
đến chết – và có thể tiếp tục hiện hữu nguyên vẹn ngay cả sau cái chết.
Thật không may, thuyết tiến hóa bác bỏ ý tưởng rằng bản
ngã thực của tôi là một gì đó không phân chia được, không biến đổi, và có khả
năng vĩnh cửu. Theo thuyết tiến hóa, tất cả những thực thể sinh học – từ những
con voi và những cây sồi, tới những tế bào và những molecule DNA – đều được những
phần nhỏ hơn và đơn giản hơn hợp thành, vốn chúng không ngừng kết hợp và phân
tách. Những con voi và những tế bào đều đã tiến hoá dần dần, như một kết quả của
những kết hợp mới và những phân hoá mới. Một gì đó không thể phân chia hoặc
không thay đổi thì không thể đi đến thành hiện hữu qua chọn lọc tự nhiên.
Con mắt của con người, lấy thí dụ, là một hệ thống hết
sức phức tạp làm bởi rất nhiều phần nhỏ hơn, như thấu kính, giác mạc và võng mạc.
Con mắt đã không bật ra từ hư không hoàn chỉnh với tất cả những thành phần này.
Thay vào đó, nó đã tiến hóa từng bước nhỏ qua hàng triệu năm. Mắt chúng ta thì
rất tương tự như mắt của người Homo
erectus, người đã sống 1 triệu năm trước. Nó thì có phần nào ít tương tự
hơn với mắt của Australopithecus, sống
5 triệu năm trước. Nó rất khác biệt với mắt của Dryolestes, người sống 150 triệu năm trước. Và có vẻ như không có
gì chung với những sinh vật đơn bào đã cư ngụ trong trái đất của chúng ta hàng
trăm triệu năm trước đây.
Tuy nhiên, ngay cả những sinh vật đơn bào cũng có những
cơ cấu cực nhỏ bên trong tế bào [5] cho những vi sinh vật khả năng để phân biệt ánh sáng với bóng tối, và
chuyển động hướng tới một này hay một khác. Con đường dẫn từ những cảm biến cổ
xưa giống như vậy đi đến con mắt người thì dài và quanh co, nhưng nếu bạn có
hàng trăm triệu năm dành riêng ra để thực hiện, bạn chắc chắn có thể đi trọn tất
cả con đường, từng bước một. Bạn có thể làm việc đó vì mắt bao gồm nhiều những
bộ phận khác biệt. Nếu mỗi vài thế hệ có một đột biến nhỏ, thay đổi hơi một
chút một trong những bộ phận này – nói thí dụ, giác mạc trở nên cong hơn một
chút – sau khi hàng triệu thế hệ những thay đổi này có thể thành kết quả trong
một con mắt người. Nếu mắt là một thực thể toàn diện, không có bất kỳ bộ phận
nào, nó đã có thể không bao giờ tiến hoá bởi sự chọn lọc tự nhiên.
Đó là lý do thuyết tiến hóa không thể chấp nhận ý tưởng
về những linh hồn, ít nhất là nếu khi nói “linh hồn”, chúng ta muốn nói với
nghĩa là một gì đó không phân chia được, không biến đổi, và bản chất có khả
năng vĩnh cửu. Một thực thể loại giống như vậy không thể nào có thể là kết quả
của một quá trình tiến hóa từng bước. Chọn lọc tự nhiên có thể làm nên một con
mắt người, vì mắt có những phần. Nhưng linh hồn không có những phần. Nếu linh hồn
Sapiens tiến hóa từng bước từ linh hồn Erectus, những bước này
đích xác đã là gì? Có phải một vài phần của linh hồn thì đã tiến hóa trong Sapiens
hơn trong Erectus? Nhưng linh hồn không có những phần.
Bạn có thể tranh luận rằng những linh hồn con người đã
không tiến hóa, nhưng đã hiện ra một ngày nào đó rạng rỡ trong viên mãn huy
hoàng của chúng. Nhưng chính xác lúc nào là ngày huy hoàng đó? Khi
chúng ta nhìn thật chi ly kỹ lưỡng vào sự tiến hóa của loài người, đó là quá
khó khăn, phải ngượng ngùng bối rối vì không tìm thấy nó. Mỗi con người từng hiện
hữu đều sinh ra đời như kết quả của tinh trùng nam thụ tinh với một trứng nữ.
Hãy tưởng tượng nghĩ đến của em bé đầu tiên có một linh hồn. Rằng em bé đó rất
giống mẹ và cha của em, ngoại trừ việc em có một linh hồn vốn cha mẹ em không
có. Sự hiểu biết sinh học của chúng ta chắc chắn có thể giải thích sự ra đời của
một em bé có giác mạc thì cong một chút nhiều hơn giác mạc của cha mẹ em. Một đột
biến nhẹ trong một gene duy nhất có thể giải thích cho điều đó. Nhưng sinh học
không thể giải thích sự ra đời của một em bé sở hữu một linh hồn vĩnh cửu từ
cha mẹ là những người không có, ngay cả nếu có dù chỉ một mảnh nhỏ của một linh
hồn. Có phải một đột biến duy nhất, hay thậm chí có nhiều đột biến, đủ để đem
cho một con vật một bản chất an toàn vững chắc chống lại tất cả những thay đổi,
bao gồm ngay cả cái chết?
Do đó sự hiện hữu của những linh hồn thì chắc
chắn không thể chấp nhận được với thuyết tiến hóa. Tiến hóa có nghĩa là thay đổi,
và là không có khả năng để tạo ra những thực thể vĩnh cửu. Từ một viễn tượng tiến
hóa, điều gần nhất chúng ta có với một bản thể con người là DNA của chúng ta,
và phân tử DNA là cỗ xe của những đột biến chứ không phải là chỗ ngồi của một
vĩnh cửu. Điều này làm khiếp hãi đông đảo nhiều người, những người thà rằng
thích bác bỏ thuyết tiến hóa, thay vì phải buông bỏ những linh hồn của họ.
Tại sao
Thị trường Chứng khoán không có Ý thức
Một truyện kể khác được dùng để biện minh cho tính ưu
việt của con người nói rằng trong tất cả những loài động vật trên trái đất, chỉ
Homo sapiens có một não thức, nghĩa là
có lý trí, suy nghĩ, tình cảm, và
trí nhớ, do có khả năng tự ý thức và kinh nghiệm về mình và thế giới quanh mình
[6]. Não thức là một gì đó rất khác biệt với linh hồn. Não thức không phải
là một thực thể vĩnh cửu huyền bí. Cũng không phải là một cơ quan như mắt hay
óc. Thay vào đó, não thức là một dòng chảy của những kinh nghiệm chủ quan, chẳng
hạn như đau đớn, vui sướng, giận dữ và yêu thương. Những kinh nghiệm tâm lý này
đều được làm bằng những cảm giác, những cảm xúc và những suy nghĩ, chúng đều
liên kết lẫn với nhau, chúng loé sáng trong một khoảnh khắc ngắn ngủi, và ngay
lập tức biến mất. Sau đó, những kinh nghiệm khác thình lình nháy sáng và đột mất
biến, phát sinh chỉ một khoảnh khắc và qua đi mất hết. (Khi suy nghiệm về điều
đó, chúng ta thường cố gắng sắp xếp những kinh nghiệm thành những loại riêng biệt
như: cảm giác, cảm xúc và suy nghĩ, nhưng trong thực tế chúng đều tất cả trộn lẫn
với nhau.) Sự thu tập cực kỳ phấn khích và không kiểm soát được này của những
kinh nghiệm tạo hợp thành dòng chảy của hữu thức. Không giống như linh hồn bất
diệt, não thức có nhiều phần, nó liên tục thay đổi không ngừng, và không có lý
do nào để nghĩ rằng nó thì vĩnh cửu.
Linh hồn là một truyện kể khiến một số người chấp
nhận, trong khi những người khác phủ nhận. Nhưng dòng chảy của hữu thức, ngược
lại, là thực tại cụ thể, chúng ta trực tiếp chứng kiến từng khoảnh khắc. Đó là
điều chắc chắn nhất trên thế giới. Bạn không thể nghi ngờ sự hiện hữu của nó.
Ngay cả khi chúng ta bị nghi ngờ chiếm trọn, và tự hỏi: “Có phải những kinh
nghiệm chủ quan thực sự hiện hữu?”, Chúng ta có thể chắc chắn rằng chúng ta
đang trải nghiệm nghi ngờ.
Những kinh nghiệm hữu thức tạo thành dòng chảy của hữu
thức thì đích xác là gì? Mỗi kinh nghiệm chủ quan có hai đặc điểm cơ bản: cảm
giác và ham muốn. Những robot và những computer không có ý thức vì mặc dù chúng
có vô số khả năng, chúng không cảm thấy gì và không thèm muốn gì. Một robot có
thể có một sensor năng lượng gửi dấu hiệu cho CPU – đơn vị tiến hành trung tâm [7] – của nó khi pin sắp hết. Sau đó robot có thể di chuyển hướng tới một ổ
cắm điện, tự cắm vào ổ điên và sạc pin. Tuy nhiên, trong suốt tiến trình này
robot không có cảm nghiệm bất cứ gì. Ngược lại, một người nếu cạn kiệt năng lượng
tất cảm thấy đói và thèm muốn để ngưng chặn cảm giác khó chịu này. Đó là tại
sao chúng ta nói rằng con người là những sinh vật hữu thức và những robot thì
không, và tại sao đó là một tội ác để người ta làm việc đến khi họ quị ngã vì
đói và kiệt sức, trong khi để những robot làm việc đến khi chúng cạn pin, không
mang đến hổ thẹn đạo đức.
Thế còn về những động vật? Có phải chúng có ý thức?
Chúng có kinh nghiệm chủ quan? Liệu có ổn không để buộc một con ngựa làm việc
cho đến khi nó quị ngã vì kiệt sức? Như đã ghi nhận trước đó, khoa học sự sống
hiện nay cho rằng tất cả những động vật loài có vú và loài chim, và ít nhất là
một số loài bò sát và loài cá, đều có những cảm giác và những cảm xúc. Tuy
nhiên, hầu hết những lý thuyết cập nhật nhất cũng chủ trương rằng những cảm
giác và cảm xúc là những algorithm tiến hành-dữ liệu sinh hóa. Vì chúng ta biết
rằng những robot và những computer, chúng tiến hành những dữ liệu với không có
bất kỳ kinh nghiệm chủ quan nào, có thể những động vật hoạt động cũng giống như
thế? Thật vậy, chúng ta biết rằng ngay cả ở người, nhiều mạch não về cảm giác
và cảm xúc có thể tiến hành-dữ liệu và khởi động những hành động hoàn toàn vô
thức. Vì vậy, có lẽ đằng sau tất cả những cảm giác và cảm xúc của chúng ta gán
cho động vật – đói, sợ hãi, yêu và trung thành – chỉ có những algorithm vô thức
rình rập chứ không phải những kinh nghiệm chủ quan?[8]
Lý thuyết này được người đánh dấu giai đoạn mở đầu triết
học của thời mới ngày nay, René Descartes duy trì. Trong thế kỷ XVII, Descartes
đã chủ trương rằng chỉ có con người biết cảm nhận và thèm muốn, trong khi tất cả
những loài động vật khác là những cỗ máy tự động, không ý thức [9], tương tự như một robot hay một máy bán hàng tự động. Khi một người đá
một con chó, con chó không kinh nghiệm gì cả. Con chó co rúm lại và sủa một
cách tự động, giống như một máy bán hàng tự động kêu lịch xịch, làm một cốc cà
phê, mà không cảm thấy hay mong muốn bất cứ một gì.
Lý thuyết này đã được chấp nhận rộng rãi trong thời
Descartes. Những y sĩ và học giả thế kỷ XVII đã mổ những con chó sống và quan
sát sự hoạt động những cơ quan trong cơ thể chúng, mà không có một trong hai,
thuốc mê lẫn ngại ngùng. Họ không nhìn thấy bất cứ gì sai với việc đó, giống
đúng như chúng ta không nhìn thấy có bất cứ gì sai trong việc mở nắp của một
máy bán hàng tự động, và quan sát những bánh răng cưa và băng dây chuyền đang
quay của nó. Trong những năm đầu thế kỷ XXI, vẫn có rất nhiều người đã cho rằng
những động vật không có ý thức, hoặc ít nhất, chúng có một loại ý thức.rất khác
biệt và thấp kém hơn.
Để quyết định xem động vật có não thức hữu thức tương
tự như của riêng chúng ta, đầu tiên chúng ta phải có được một sự hiểu biết tốt
hơn về những não thức vận hành thế nào, và những vai trò của chúng. Đây là những
câu hỏi vô cùng khó khăn, nhưng vẫn rất đáng để dành thời gian cho chúng, vì
não thức sẽ là ‘người hùng’ trong nhiều chương tiếp theo. Chúng ta sẽ không thể
nắm giữ được những quan hệ mật thiết đầy đủ của những công nghệ mới lạ, như trí
tuệ nhân tạo, nếu chúng ta không biết những não thức là gì. Do đó, hãy tạm thời
để qua một bên câu hỏi cụ thể về não thức của động vật, và xem xét kỹ lưỡng xem
khoa học biết gì về não thức và ý thức nói chung. Chúng ta sẽ tập trung vào những
thí dụ lấy từ những nghiên cứu về ý thức con người – đó là dễ tiếp cận hơn đối
với chúng ta – và sau đó trở lại với những động vật, và hỏi xem những gì là
đúng thực với con người, có cũng là đúng thực với với những họ hàng xa gần có
lông và có cánh của chúng ta hay không.
Nói bộc trực, khoa học biết ít về não thức và hữu thức,
rất ít đến phải ngạc nhiên. Lý thuyết chính thống hiện nay cho rằng ý thức được
tạo thành bởi những phản ứng điện hoá học trong óc, và rằng những kinh nghiệm
tinh thần hoàn thành một số chức năng thiết yếu của tiến hành-dữ liệu.[10] Tuy nhiên, không ai có được một bất kỳ ý tưởng nào về một đám rối bòng
bong gồm những phản ứng sinh hóa và dòng điện trong óc, chúng tạo những kinh
nghiệm chủ quan về đau đớn, giận dữ hay thương yêu như thế nào. Có lẽ chúng ta
sẽ có một lời giải thích vững chắc trong mười hay năm mươi năm tới. Nhưng hiện
nay đang năm 2016, chúng ta không có lời giải thích nào như vậy, và chúng ta tốt
hơn nên nói rõ ràng về điều đó.
Dùng fMRI để rà quét, cấy ghép những đầu điện cực và
những dụng cụ cơ điện tinh vi khác, những nhà khoa học đã xác định chắc chắn được
những tương quan và ngay cả những liên kết nhân quả giữa những dòng điện trong
não và những kinh nghiệm chủ quan khác nhau. Chỉ bằng cách nhìn vào hoạt động của
não, những nhà khoa học có thể biết có phải bạn đang tỉnh, mơ, hay ngủ sâu. Họ
có thể bật chiếu thật nhanh một hình ảnh trước mắt của bạn, đúng tại ngưỡng cửa
của sự nhận thức hữu thức, và xác định (không hỏi bạn) không biết bạn đã trở
thành nhận biết được hình ảnh hay không. Họ thậm chí xoay sở để liên kết được
những nơrôn não riêng rẽ với nội dung tâm lý cụ thể, tìm thấy rằng, lấy thí dụ,
một nơrôn (đặt tên là) “Bill Clinton” và một nơrôn (đặt tên là) “Homer
Simpson”. Khi nơrôn Bill Clinton bật lên hoạt động, cá nhân này đang nghĩ về
người tổng thống thứ 42 của USA; cho cá nhân đó thấy một hình ảnh của nhân vật
Homer Simpson, và những nơrôn gọi cùng tên bật lên khởi động.
Nói rộng hơn, những nhà khoa học biết rằng nếu một cơn
bão điện nổi lên trong một vùng não nhất định, bạn có lẽ có tình cảm tức giận.
Nếu cơn bão này giảm đi, và một vùng khác sáng lên – bạn đang có kinh nghiệm về
thương yêu. Thật vậy, những nhà khoa học thậm chí có thể đưa vào những tình cảm
tức giận hay thương yêu bằng cách dùng điện để kích thích những nơrôn đúng
(tương ứng của chúng). Nhưng hết sức quái lạ không hiểu nổi là làm thế nào sự
chuyển động của những electron từ chỗ này sang chỗ khác lại chuyển vào thành một
hình ảnh chủ quan của Bill Clinton, hay một tình cảm chủ quan của tức giận hay
thương yêu?
Giải thích phổ biến nhất chỉ ra rằng bộ óc là một hệ
thống hết sức phức tạp, với hơn 80 tỉ nơrôn kết nối vào thành những mạng lưới
chi li phức tạp khó hiểu. Khi hàng tỉ nơrôn gửi qua lại hàng tỉ tín hiệu điện,
những kinh nghiệm chủ quan xuất hiện. Mặc dù việc gửi và nhận của mỗi tín hiệu
điện là một hiện tượng sinh hóa đơn giản, tác động qua lại giữa những tín hiệu
này tạo ra một gì đó hết sức phức tạp hơn nhiều – dòng chảy của hữu thức. Chúng
ta quan sát những động lực tương tự trong nhiều lĩnh vực khác. Sự chuyển động của
một chiếc xe duy nhất là một hành động đơn giản, nhưng khi hàng triệu chiếc xe
di chuyển và tác động qua lại đồng thời, nghẽn xe cộ lưu thông xuất hiện. Việc
mua và bán một cổ phần duy nhất thì đơn giản, nhưng khi hàng triệu người mua
bán cổ phần, mua và bán hàng triệu cổ phần chứng khoán cùng một lượt, hoạt động
đó có thể dẫn đến những khủng hoảng kinh tế làm kinh ngạc ngay cả những nhà
chuyên môn.
Tuy nhiên, giải thích này không giải thích gì cả. Nó
hoàn toàn chỉ đủ để xác định rằng vấn đề thì rất phức tạp. Nó không cung cấp bất
kỳ một cái nhìn sâu xa thấu đáo nào vào trong vấn đề một loại hiện tượng (hàng
tỷ những tín hiệu điện di chuyển từ đây đến kia) tạo ra một loại hiện tượng
khác rất khác biệt (kinh nghiệm chủ quan của tức giận hay yêu thương) như thế
nào. So sánh tương tự với những tiến trình phức tạp khác như nghẽn xe cộ lưu
thông và những cuộc khủng hoảng kinh tế là thiếu sót. Những gì tạo ra xe cộ bị
nghẽn lưu thông? Nếu bạn theo dõi chỉ một chiếc xe duy nhất, bạn sẽ không bao
giờ hiểu được nó. Sự tắc nghẽn là kết quả từ những tác động qua lại giữa nhiều
ô tô. Xe A ảnh hưởng đến chuyển dịch của xe B, vốn nó chắn đường của xe C, và
tiếp lục như vậy. Tuy nhiên, nếu bạn có bản đồ di chuyển của tất cả những chiếc
xe liên quan, và mỗi xe tác động xe khác thế nào, bạn sẽ có được một giải thích
đầy đủ của sự tắc nghẽn lưu thông. Sẽ là điều vô nghĩa để hỏi, “Nhưng làm thế
nào để tất cả những chuyển động này tạo ra tắc nghẽn lưu thông?” Vì “tắc nghẽn
lưu thông” chỉ đơn giản là một thuật ngữ trừu tượng con người chúng ta đã quyết
định dùng để chỉ kết tập đặc biệt này của những sự kiện xảy ra.
Ngược lại, “tức giận” không phải là một thuật ngữ trừu
tượng mà chúng ta đã quyết định để dùng như một cách viết tắt cho hàng tỉ những
tín hiệu điện chạy trong óc. Tức giận là một kinh nghiệm trải qua, cực kỳ cụ thể
mà mọi người đã quen thuộc với nó, rất lâu trước khi họ biết gì về điện. Khi
tôi nói, “Tôi tức giận!” Tôi trỏ vào một cảm giác rất rõ ràng và thực như có thể
chạm vào được. Nếu bạn mô tả một phản ứng hóa học trong một nơrôn có kết quả
trong một tín hiệu điện như thế nào, và hàng tỉ những phản ứng tương tự dẫn đến
thêm hàng tỉ những tín hiệu khác nữa như thế nào, nó vẫn còn là có giá trị để hỏi,
“Nhưng làm thế nào để hàng tỉ những sự kiện này chúng đến với nhau để tạo ra cảm
giác tức giận chắc thực của tôi?”
Khi hàng ngàn những chiếc xe né tránh nhau, lăn bánh
chậm chạp từng vòng một, trên đường qua lại của chúng ở London, chúng ta gọi đó
là một tắc nghẽn lưu thông, nhưng nó không tạo ra một vài hữu thức thật lớn nào
đó thuộc thành phố London, bay lượn cao trên công trường Piccadilly, và nói với
bản thân, “Ồ, tôi cảm thấy bị nghẽn!” Khi hàng triệu người bán hàng tỉ cổ phần,
chúng ta gọi đó là một cuộc khủng hoảng kinh tế, nhưng không có tinh thần thuộc
thị trường chứng khoán Wall Street lớn nào càu nhàu, “Chết tiệt, tôi cảm thấy
tôi đang trong khủng hoảng.” Khi hàng nghìn tỉ của những molecule nước kết
thành một khối trên bầu trời, chúng ta gọi đó là một đám mây, nhưng không ‘hữu
thức mây’ nào xuất hiện thông báo: “tôi cảm thấy mưa.” Thế là thế nào, sau đó,
rằng khi hàng tỉ những tín hiệu điện di chuyển vòng quanh nội bên trong óc tôi,
một não thức nổi lên cảm thấy “tôi tức giận!”? Cho đến năm 2016, chúng ta hoàn
toàn không có lấy được một ý tưởng nào để hiểu.
Do đó nếu thảo luận này đã để cho bạn lại với mù mờ lẫn
lộn và rối rắm khó hiểu, bạn đang trong một khối rất đông đảo những người giống
như bạn. Những nhà khoa học giỏi nhất cũng thế, có một chặng đường dài để đi đến
khai mở ra được bí ẩn của não thức và hữu thức. Một trong những điều tuyệt vời
về khoa học là khi những nhà khoa học không biết một gì đó, họ có thể thử tất cả
đủ mọi loại những lý thuyết và những cục diện, tình thế, nhưng cuối cùng họ có
thể chỉ thú nhận sự thiếu hiểu biết của họ.
Phương
trình của Sự sống
Những nhà khoa học không biết một thu tập của những
tín hiệu não điện tạo ra những kinh nghiệm chủ quan như thế nào. Thậm chí một
điều cốt yếu quan trọng hơn, là họ không biết những gì có thể là lợi thế về tiến
hóa của một hiện tượng như vậy. Đây là khoảng trống lớn nhất trong sự hiểu biết
của chúng ta về sự sống. Con người có hai bàn chân, vì trong hàng triệu những
thế hệ, bàn chân đã cho tổ tiên chúng ta khả năng để đuổi theo những con thỏ và
chạy thoát những con sư tử. Con người có mắt, vì trong vô số những hàng nghìn
năm đôi mắt đã cho phép những người trước chúng ta để xem con thỏ chạy hướng
nào, và con sư tử đang từ đâu đến. Nhưng tại sao con người có những kinh nghiệm
chủ quan về đói và sợ hãi?
Trước đây không lâu, những nhà sinh học đã đưa ra một
trả lời rất đơn giản. Những kinh nghiệm chủ quan là thiết yếu cho sự sống còn của
chúng ta, vì nếu chúng ta không cảm thấy đói hoặc sợ, chúng ta sẽ không bõ công
phiền hà để đuổi theo thỏ và chạy trốn sư tử. Khi nhìn thấy một con sư tử, tại
sao một người chạy trốn? Vâng, người ấy sợ quá, thế nên người ấy bỏ chạy. Những
kinh nghiệm chủ quan đã giải thích những hành động của con người. Tuy nhiên,
ngày nay những nhà khoa học cung cấp một giải thích chi tiết hơn nhiều. Khi một
người nhìn thấy một con sư tử, những tín hiệu điện di chuyển từ mắt đến óc. Những
tín hiệu đến nơi kích thích một số nơrôn nhất định, chúng phản ứng bằng cách bắn
ra nhiều những tín hiệu hơn. Những tín hiệu này kích thích những nơrôn khác chạy
xuống theo dòng phản ứng, vốn đến lượt của chúng, chúng lại bắn đi thêm những
tín hiệu. Nếu đủ số của những nơrôn đúng, bắn đi với tốc độ đủ nhanh, những mệnh
lệnh được gửi đến những tuyến thượng thận làm ngập cơ thể với adrenaline, tim
được hướng dẫn để đập nhanh hơn, trong khi nơrôn ở trung tâm chuyển động gửi
tín hiệu xuống đến những bắp thịt chân, khiến chúng bắt đầu co và dãn, và người
đó chạy xa thoát con sư tử.
Trớ trêu thay, chúng ta ghi chép tiến trình này càng
chi tiết hơn, trở thành càng khó khăn hơn để giải thích những tình cảm hữu thức.
Chúng ta càng hiểu bộ óc thêm nhiều hơn, não thức dường như càng trở thành dư
thừa. Nếu toàn bộ hệ thống làm việc bằng những tín hiệu điện chạy từ đây đến
kia, chúng ta cần quái gì để cũng phải cảm
thấy sợ hãi? Nếu một chuỗi những phản ứng điện hoá học dẫn chạy từ những
nơrôn trong mắt suốt tới những chuyển động của những bắp thịt chân, tại sao lại
thêm những kinh nghiệm chủ quan vào chuỗi (tác động) này? Chúng làm gì? Vô số
những quân bài domino có thể đổ xuống một loạt, quân này nối tiếp quân kia,
không cần bất cứ kinh nghiệm chủ quan nào. Tại sao những nơrôn cần những xúc động
tình cảm để kích thích lẫn nhau, hoặc để bảo tuyến thượng thận hãy bắt đầu bơm?
Thật vậy, 99 phần trăm của những hoạt động của cơ thể, gồm chuyển động bắp thịt
và tiết hormon, đều diễn ra không cần đến những tình cảm hữu thức. Vậy tại sao
những nơrôn, những bắp thịt, và những tuyến nội tiết lại cần những tình cảm như
vậy trong 1 phần trăm còn lại của những trường hợp?
Bạn có thể biện luận rằng chúng ta cần một não thức vì
não thức giữ những ký ức, lập những chương trình, và tự động loé sáng những
hình ảnh và ý tưởng hoàn toàn mới. Nó không chỉ đáp ứng với những kích thích từ
bên ngoài. Lấy thí dụ, khi một người nhìn thấy một con sư tử, ông không tự động
phản ứng trước hình ảnh con vật ăn thịt người. Ông nhớ lại năm ngoái, một con
sư tử ăn thịt người dì của mình. Ông tưởng tượng ông sẽ cảm thấy thế nào nếu một
con sư tử xé ông ra những mảnh nhỏ. Ông suy ngẫm về số phận những đứa con sẽ mồ
côi của mình. Đó là tại sao ông chạy trốn. Thật vậy, nhiều những phản ứng dây
chuyền bắt đầu với sáng kiến riêng của não thức hơn là với bất kỳ kích thích trực
tiếp bên ngoài nào. Vì vậy, nhớ lại về một vài vụ sư tử tấn công trước đây có
thể đột ngột bật lên trong não thức một người, đặt người ấy suy nghĩ về sự nguy
hiểm những con sư tử đã gây ra. Sau đó người ấy gọi tất cả những người khác
trong bộ lạc với nhau, và họ nặn óc suy nghĩ tìm những cách thức mới để dọa cho
sư tử bỏ đi.
Nhưng khoan, hãy đợi một chút. Tất cả những kỷ niệm,
tưởng tượng và suy nghĩ này là những gì? Chúng tồn tại nơi nào? Theo lý thuyết
sinh học hiện nay, những ký ức, tưởng tượng và suy nghĩ của chúng ta không tồn
tại trong một vài lĩnh vực phi vật chất nào cao hơn. Thay vào đó, chúng cũng là
những đám núi tuyết lở của những tín hiệu điện do hàng tỉ nơrôn bắn đi. Do đó,
ngay cả khi chúng ta hình dung trong những ký ức, những tưởng tượng và những
suy nghĩ, vẫn còn lại với chúng ta một loạt những chuỗi phản ứng điện hoá học
chạy qua hàng tỉ nơrôn, kết thúc với hoạt động của những tuyến thượng thận và
những bắp thịt chân.
Ngay cả có phải là có một bước duy nhất trên hành
trình dài và quanh co này, giữa hành động của một nơrôn và phản ứng của nơrôn
tiếp theo, ở chỗ đó não thức can thiệp và quyết định xem liệu nơrôn thứ hai có
nên bắn đi hay không? Có bất kỳ một chuyển động vật chất nào, thậm chí của một
electron duy nhất, do kinh nghiệm chủ quan của sự sợ hãi gây nên, hơn là sự
chuyển động trước đó của một số electron khác gây nên? Nếu không có chuyển động
loại giống như vậy – và nếu mỗi electron chuyển dịch vì electron khác đã chuyển
dịch trước đó – tại sao chúng ta cần để kinh nghiệm với sợ hãi? Chúng ta chẳng
có đầu mối nào để mò ra lời đáp.
Những nhà triết học đã gói bí ẩn này trong một câu hỏi
gài bẫy ngầm: Những gì xảy ra trong não thức nhưng không xảy ra trong bộ óc? Nếu
không có gì xảy ra trong não thức, ngoại trừ những gì xảy ra trong mạng lưới
nơrôn khổng lồ của chúng ta – khi đó, tại sao chúng ta cần não thức? Nếu một gì
đó thực sự xảy ra trong não thức hơn thêm và bên trên những gì xảy ra trong mạng
lưới nơrôn – nó xảy ra ở chốn quái quỉ nào? Giả sử tôi hỏi bạn nhân vật Homer
Simpson nghĩ gì về Bill Clinton và vụ bê bối với cô Monica Lewinsky. Bạn có lẽ
không bao giờ nghĩ về điều này trước đó, vì vậy não thức của bạn bây giờ cần phải
hợp nhất hai kỷ niệm trước đó không có liên quan, có lẽ bằng cách nhớ lại hình ảnh
của anh chàng Homer uống bia khi xem tivi nghe tổng thống tai tiếng này nói
câu: “Tôi đã không có quan hệ tình dục nào với người đàn bà đó” của ông ta. Sự
nối kết ký ức này xảy ra ở đâu?
Một số nhà khoa học về bộ óc cho rằng nó xảy ra trong
“không gian hợp chung để làm việc”, được những tác động qua lại của nhiều
neuron tạo ra. [11] Tuy nhiên từ “không gian làm việc” chỉ là một ẩn dụ. thực tại đằng sau ẩn
dụ là gì? Chỗ nào những mảnh thông tin khác biệt thực sự gặp nhau và kết hợp?
Theo lý thuyết hiện nay, chắc chắn nó không diễn ra ở một vài “chiều thứ năm”
nào đó theo kiểu Plato. Thay vào đó, nó diễn ra, hãy nói, chỗ nào có hai nơrôn
trước đó chưa được nối, nay đột nhiên bắt đầu bắn những tín hiệu với nhau. Một
khớp nối neuron mới được thành hình giữa nơrôn Bill Clinton và nơrôn Homer
Simpson. Nhưng nếu như vậy, tại sao chúng ta cần kinh nghiệm hữu thức của ký ức
hơn thêm và bên trên sự kiện vật lý của hai nơrôn kết nối?
Chúng ta có thể đặt cùng một câu đố này theo những thuật
ngữ toán học. Giáo điều (những ‘tin chắc như đinh đóng cột’ của những nhà khoa
học) ngày nay chủ trương rằng những cơ cấu sinh vật đều là những algorithm, và
rằng những algorithm có thể được trình bày trong hình thức những công thức toán
học. Bạn có thể dùng những con số và ký hiệu toán để viết một chuỗi gồm những
bước vốn một máy bán hàng tự động cần để sửa soạn một tách trà, và một chuỗi gồm
những bước vốn một bộ óc thường có khi nó hoảng hốt thấy một con sư tử đến gần.
Nếu như vậy, và nếu những kinh nghiệm hữu thức thực hiện một số những chức năng
quan trọng, chúng phải có một biểu diễn bằng toán học. Vì chúng là một phần thiết
yếu của algorithm. Khi chúng ta viết algorithm của sự sợ hãi, và phá vỡ “sợ
hãi” xuống thành một loạt những tính toán chính xác, chúng ta có thể chỉ ra:
“Chỗ này, bước số 93 trong quá trình tính toán – đây là kinh nghiệm chủ quan của
sự sợ hãi”; nhưng có bất kỳ một algorithm nào trong lĩnh vực bao la của toán học
có chứa một kinh nghiệm chủ quan? Cho đến nay, chúng ta không biết có bất kỳ một
algorithm nào như vậy. Mặc dù hiểu biết rộng rãi chúng ta đã đạt được trong những
lĩnh vực của toán học và khoa học computer, không có những hệ thống tiến hành-dữ
liệu nào chúng ta đã tạo ra lại cần những kinh nghiệm chủ quan để hoạt động theo
qui định, và không một hệ thống nào cảm thấy đau đớn, vui sướng, tức giận hay
yêu thương.[12]
Có lẽ chúng ta cần những kinh nghiệm chủ quan để suy nghĩ về bản thân mình? Một con vật lang thang trên đồng cỏ và tính toán những cơ may của nó để tồn tại và sinh sản phải trình bày lại những hành động và quyết định của nó với chính nó, và đôi khi thông tin chúng với những động vật khác. Khi não cố gắng để tạo ra một mô hình của những quyết định riêng của chính nó, nó bị mắc kẹt trong một sự vòng vo lạc đề, lệch khỏi những lối chính, đến vô tận, và ‘úm ba la ra cái gì đây!’ Ra khỏi vòng quẩn quanh tít mù này, hữu thức bật ra.
Năm mươi năm trước đây, điều này có thể đã nghe xuôi
tai thuận hợp, nhưng năm 2016 thì không. Nhiều công ty lớn, chẳng hạn như
Google và Tesla, đang nghiên cứu kỹ thuật và sản xuất những xe ô tô tự lái,
chúng đã đang chạy trên đường phố của chúng ta. Những algorithm điều khiển xe tự
điều khiển này làm hàng triệu phép tính mỗi giây về những xe khác, những người
đi bộ, những đèn lưu thông và những ổ gà. Chiếc xe tự động dừng lại ở những đèn
đỏ, vượt qua những trở ngại, và giữ một khoảng cách an toàn với những loại xe
khác – tất cả đều thành công mà không cảm nhận bất kỳ một sợ hãi nào. Chiếc xe
cũng cần phải đưa chính nó vào tính toán và thông báo những dự định và mong muốn
của nó với những xe khác xung quanh, vì nếu nó quyết định lách sang bên phải,
làm như vậy sẽ ảnh hưởng đến ‘ứng xử’ của chúng. Chiếc xe làm tất cả như thế mà
không có bất kỳ vấn đề nào – và cũng không có bất kỳ ý thức nào. Chiếc xe tự
lái không phải là đặc biệt. Nhiều program trong computer khác cũng thực hiện những
gì được cho phép hay ấn định trong những hoạt động của chúng, nhưng không một
nào trong số chúng đã phát triển ý thức, và không một nào cảm thấy, hoặc mong
muốn bất cứ gì cả.[13]
Nếu chúng ta không thể giải thích não thức được, và nếu
chúng ta không biết nó có đáp ứng những chức năng nào không, tại sao không chỉ
đơn giản là loại bỏ nó? Lịch sử của khoa học thì đầy những khái niệm và lý thuyết
đã bị bỏ rơi. Lấy thí dụ, những nhà khoa học ở đầu thời nay là những người đã từng
cố gắng để giải thích sự chuyển động của ánh sáng, họ đã nêu lên sự hiện hữu của
một chất gọi là ether, đã được giả định
vẫn có đầy trong tất cả vũ trụ. Ánh sáng đã được cho là những sóng ether. Tuy
nhiên, những nhà khoa học thất bại, đã không tìm được bất kỳ bằng chứng thực
nghiệm nào cho sự hiện hữu của chất ether
đó, trong khi họ đã đưa ra giả thuyết thay thế khác và hay hơn về ánh sáng. Do
đó, họ đã đã ném ether vào thùng rác
của khoa học.
Tương tự như vậy, trong hàng nghìn năm con người đã
dùng Gót để giải thích vô số những hiện tượng tự nhiên. Điều gì gây sét đánh?
Gót!. Điều làm mưa rơi? Gót! Sự sống trên trái đất bắt đầu thế nào? Gót đã tạo
ra nó! [14] Trong vài thế kỷ vừa qua những nhà khoa học đã không tìm được bất kỳ một
bằng chứng thực nghiệm nào về sự hiện hữu của Gót, trong khi họ đã tìm thấy những
giải thích chi tiết hơn cho hiện tượng sét đánh, mưa rơi, và nguồn gốc của sự sống.
Do đó, với ngoại lệ của một vài lĩnh vực phụ, nhỏ của triết học, không có bài
viết nào loại cho đồng nghiệp duyệt xét trong bất kỳ tạp chí khoa học nào đã lấy
sự hiện hữu của Gót là luận cứ nghiêm chỉnh. Những nhà sử học không biện luận rằng
những nước Đồng minh thắng Thế chiến thứ Hai, vì Gót đã đứng về phía họ; những
nhà kinh tế không đổ lỗi cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1929 cho Gót; và những
nhà địa chất không gọi tên của Gót để giải thích những chuyển động của mảng kiến
tạo trên vỏ quả đất. [15]
Cùng một số phận tương tự cũng xảy ra với ‘linh’ hồn.
Trong hàng nghìn năm người ta đã tin rằng tất cả những hành động và quyết định
của chúng ta bắt nguồn từ những linh hồn của chúng ta. Tuy nhiên, trong sự vắng
mặt của bất kỳ bằng chứng hỗ trợ nào, và với sự có mặt của những lý thuyết thay
thế nhiều chi tiết hơn, khoa học sự sống đã ném những linh hồn xuống cống. Như
những cá nhân, nhiều nhà sinh học và những y sĩ có thể vẫn tiếp tục tin vào những
linh hồn. Tuy nhiên, họ không bao giờ viết về chúng trong những tạp chí khoa học
chuyên ngành hay phổ thông đứng đắn.
Có lẽ não thức nên cùng nắm tay những linh hồn, Gót và
ether vào trong thùng rác của khoa học? Sau rốt, không có ai đã từng nhìn thấy
những kinh nghiệm đau đớn, hay thương yêu qua một kính hiển vi, và chúng ta có
một giải thích rất chi tiết sinh hóa học cho đau đớn và yêu thương khiến không
còn chỗ nào cho những kinh nghiệm chủ quan. Tuy nhiên, có một sự khác biệt quan
trọng giữa não thức và linh hồn (cũng như giữa não thức và Gót). Trong khi sự tồn
tại của linh hồn vĩnh cửu là thuần phỏng đoán, kinh nghiệm của đau đớn là một
thực tại trực tiếp và rất hữu hình. Khi tôi đạp lên vào một cái đinh, tôi có thể
có 100 phần trăm chắc chắn rằng tôi cảm thấy đau (thậm chí nếu đến lúc đó, tôi
vẫn thiếu một giải thích khoa học về nó). Ngược lại, tôi không thể chắc chắn rằng
nếu những vết thương trở nên bị nhiễm độc và tôi chết vì chứng hoại thư [16]
, linh hồn của tôi sẽ tiếp tục tồn tại. Đó là một chuyện rất thích thú và rất
an ủi mà tôi sẽ rất sung sướng để tin theo, nhưng tôi không có bằng chứng trực
tiếp nào cho tính xác thực của nó. Vì tất cả những nhà khoa học liên tục kinh
nghiệm những cảm giác chủ quan như đau và nghi ngờ, họ không thể phủ nhận sự hiện
hữu của chúng.
Một cách khác để bỏ rơi não thức và hữu thức là bằng
cách phủ nhận sự liên quan của chúng chứ không phải là sự hiện hữu của chúng. Một
số nhà triết học, khoa học – như Daniel Dennett và Stanislas Dehaene – biện luận
rằng tất cả những câu hỏi liên quan đều có thể trả lời được bằng cách nghiên cứu
những hoạt động của não, mà không cần bất kỳ trợ giúp nào từ những kinh nghiệm
chủ quan. Như thế, những nhà khoa học có thể an toàn xóa “tâm”, “hữu thức” và
“những kinh nghiệm chủ quan” khỏi ngữ vựng và những bài viết của họ. Tuy nhiên,
như chúng ta sẽ thấy trong những chương tiếp theo, toàn bộ hệ thống phức tạp gồm
những tin tưởng của chính trị và đạo đức ngày nay được xây dựng dựa trên những
kinh nghiệm chủ quan, và một số những đilemma đạo đức có thể được giải quyết bằng
cách nhắc dẫn chặt chẽ với những hoạt động của bộ óc. Lấy thí dụ, tra tấn hoặc
hiếp dâm có gì sai trái? Từ một quan điểm hoàn toàn về mặt hoạt động của hệ thần
kinh, khi một người bị tra tấn hoặc hãm hiếp, một số phản ứng sinh hóa học nào
đó xảy ra trong não, và nhiều tín hiệu điện của những loại khác biệt di chuyển
từ một đám nơrôn này sang một đám khác. Có gì có thể là sai trái với hoạt động
của hệ thần kinh như thế đó? Nhưng hầu hết mọi người ngày nay đều cảm thấy nhờm
tởm trong đạo đức trước sự tra tấn và hãm hiếp vì những kinh nghiệm chủ quan có
liên quan. Nếu bất kỳ nhà khoa học nào muốn biện luận rằng những kinh nghiệm chủ
quan là không liên quan, thách đố của họ là để giải thích tại sao tra tấn hoặc
hiếp dâm là sai mà không tham chiếu đến bất kỳ kinh nghiệm chủ quan nào.
Cuối cùng, một số nhà khoa học đành thừa nhận rằng hữu
thức là thực, và có thể thực sự có giá trị đạo đức và chính trị to lớn, nhưng
nó không đáp ứng chức năng sinh học nào hết tất cả. Hữu thức là sản phẩm-phụ,
không định có, vô dụng về phương diện sinh học của những tiến trình nhất định
nào đó trong não. Động cơ phản lực nổ vang ầm ầm, nhưng tiếng ầm ầm đó không đẩy
máy bay về phía trước. Con người không cần carbon dioxide, nhưng mọi và mỗi hơi
thở làm đầy không khí với nhiều carbon dioxide hơn. Tương tự như vậy, hữu thức
có thể là một loại ô nhiễm tinh thần, bộ óc đã sản xuất từ sự bắn đi hay phóng
tới của mạng lưới thần kinh phức tạp. Nó không làm bất cứ gì cả. Nó thì chỉ có
đó. Nếu điều này là đúng, nó hàm ý rằng tất cả những đau đớn và vui sướng đã được
hàng tỉ sinh vật trong hàng triệu năm có kinh nghiệm, đều chỉ là những ô nhiễm
tinh thần. Điều này chắc chắn là một ý tưởng đáng suy nghĩ, Ngay cả nếu nó
không là sự thật. Nhưng ngạc nhiên hết sức để nhận ra rằng, ở thời điểm năm
2016, đây là lý thuyết hay nhất về hữu thức mà khoa học thời nay có để cung cấp
cho chúng ta.
Có lẽ ngành khoa học sự sống nhìn vấn đề từ góc độ
sai. Họ tin rằng sự sống thì tất cả là về tiến hành-dữ liệu, và rằng những sinh
vật là những bộ máy để làm những phép tính và những quyết định. Tuy nhiên, suy
diễn từ so sánh tương tự này giữa những sinh vật và những algorithm có thể đánh
lừa chúng ta. Trong thế kỷ XIX, những nhà khoa học mô tả những bộ óc và những
não thức như thể chúng là những động cơ hơi nước. Tại sao lại động cơ hơi nước?
Vì đó là kỹ thuật dẫn đầu của thời đó, nó cung cấp năng lực cho xe hoả, tàu thuỷ,
và những nhà máy, vì vậy khi con người đã cố gắng để giải thích sự sống, họ giả
định rằng nó phải làm việc theo cùng những nguyên lý tương tự. Não thức và cơ
thể được làm bằng những ống dẫn tròn dài, những xylanh, van và píttông, chúng
nén và xả áp lực, do đó tạo những chuyển động và hành động. Suy nghĩ theo lối
như vậy đã có ảnh hưởng sâu xa ngay cả trong tâm lý học của Freud, đó là tại
sao nhiều thuật ngữ tâm lý của chúng ta là vẫn đầy với những khái niệm vay mượn
từ kỹ thuật cơ khí.
Hãy xem xét, lấy thí dụ, lập luận sau của Freud: “quân
đội gò ép xung lực tình dục làm nhiên liệu cho tính hung hăng gây hấn quân sự.
Quân đội tuyển những thanh niên đúng khi xung lực tình dục của họ ở đỉnh cao của
nó. Quân đội hạn chế những cơ hội có quan hệ tình dục và giải toả thực sự tất cả
những dồn nén đó của những quân nhân, hệ quả là chúng tích luỹ bên trong họ.
Quân đội sau đó chuyển hướng áp lực dồn nén này và cho phép nó được thoát xả dưới
hình thức hung hãn nhà binh” Đây chính là cách một động cơ hơi nước hoạt động.
Bạn dồn nhốt hơi nước sôi bên trong một hộp kín. Hơi nước tích tụ nhiều hơn và
áp lực tăng nhiều hơn, cho đến khi đột nhiên bạn mở một van, và cho áp lực
thoát ra theo một hướng đã định trước, khai thác nó để đẩy một xe lửa, hoặc một
khung cửi. Không chỉ trong quân đội, nhưng trong tất cả những lĩnh vực hoạt động,
chúng ta thường xuyên phàn nàn về những áp lực dâng cao trong chúng ta, và
chúng ta sợ rằng trừ khi chúng ta “cho một số hơi thoát ra”, chúng ta có thể nổ
tung.
Ở thế kỷ XXI, nghe có vẻ trẻ con để so sánh tâm lý con
người với một động cơ hơi nước. Ngày nay chúng ta biết về một công nghệ tinh xảo
hơn rất nhiều – máy computer – vì vậy chúng ta giải thích tâm lý con người như
thể nó là một computer tiến hành-dữ liệu hơn là một động cơ hơi nước điều chỉnh
áp lực. Nhưng so sánh tương tự mới này có thể quay ra là cũng ngây thơ đúng như
thế. Dầu sao chăng nữa, những computer không có não thức. Chúng không nài xin bất
cứ gì, Ngay cả khi chúng ‘vướng một lỗi’ [17], và Internet không cảm thấy đau ngay cả khi những chế độ độc tài cắt tất
cả quốc gia khỏi Web. Vì vậy, tại sao dùng những computer như một mô hình cho sự
tìm hiểu não thức?
Vâng, chúng ta có thực chắc chắn rằng những computer
không có những cảm giác hay những ham muốn? Và ngay cả nếu hiện nay chúng không
có một bất kỳ nào, có lẽ một khi chúng trở nên đủ phức tạp, chúng có thể phát
triển ý thức? Nếu điều đó có sẽ xảy ra, chúng ta có thể xác định được nó như thế
nào? Khi những computer thay thế tài xế xe buýt của chúng ta, thày giáo của
chúng ta và nhà tâm lý trị liệu của chúng ta, làm thế nào chúng ta có thể xác định
liệu chúng có tình cảm, hay liệu chúng chỉ là một tụ hợp của những algorithm không
có não thức?
Khi nói đến con người, ngày nay chúng ta có khả năng để
phân biệt giữa những kinh nghiệm tinh thần hữu thức và những hoạt động vô thức của
bộ óc. Mặc dù đối với sự hiểu biết về hữu thức chúng ta hãy còn xa vời, những
nhà khoa học đã thành công trong việc xác định một số những dấu hiệu nhận diện
của nó về điện hoá học. Để làm như vậy những nhà khoa học bắt đầu với giả định
rằng bất cứ khi nào con người tường trình rằng họ có ý thức về một gì đó, có thể
tin tưởng họ được. Dựa trên giả định này, những nhà khoa học sau đó có thể cô lập
những mẫu hình não cụ thể đặc biệt vốn xuất hiện mỗi khi người tường trình là đang
có ý thức, nhưng điều đó không bao giờ xuất hiện trong những trạng thái (của
người) bất tỉnh.
Điều này đã cho phép những nhà khoa học, lấy thí dụ, để
xác định một nạn nhân khi óc đột ngột bị mất máu, não không hoạt đông, người thành
như cây cỏ, có phải đã hoàn toàn mất ý thức, hay đã chỉ mất có sự kiểm soát cơ
thể và lời nói của mình. Nếu não của người bệnh hiện ra những dấu hiệu nhận diện
của ý thức, người bệnh có lẽ là vẫn có ý thức, mặc dù không thể chuyển động hoặc
nói chuyện. Thật vậy, mới đây những y sĩ đã tìm được cách để thông tin với những
người bệnh này dùng hình ảnh fMRI. Họ hỏi những người bệnh những câu hỏi loại
“có/không”, bảo họ tưởng tượng mình chơi tennis nếu câu trả lời là có, và hãy
hình dung vị trí của nhà họ nếu câu trả lời là không. Sau đó những y sĩ có thể
quan sát phần motor cortex sáng lên lên khi người bệnh tưởng tượng chơi quần vợt
(có nghĩa là “có”), trong khi “không”, được chỉ định bởi sự hoạt động của những
vùng não chịu trách nhiệm về spacial memory.[18]
Đây tất cả thì rất tốt cho con người, nhưng còn về những
computer? Vì những computer dựng trên silicon có cấu trúc rất khác biệt với những
mạng thần kinh dựng trên carbon của con người, những dấu hiệu nhận diện của ý
thức của con người có thể không liên quan với chúng. Chúng ta dường như bị mắc
kẹt trong một vòng luẩn quẩn. Bắt đầu với giả định rằng chúng ta có thể tin con
người khi họ bảo rằng họ có ý thức, chúng ta có thể xác định những dấu hiệu của
ý thức con người, và sau đó dùng những dấu hiệu này để “chứng minh” rằng con
người thì thực sự có ý thức. Nhưng nếu một trí tuệ nhân tạo tự tường trình rằng
nó có ý thức, chúng ta có chỉ nên tin nó không?
Cho đến nay, chúng ta không có trả lời chấp nhận được cho
vấn đề này. Đã hàng nghìn năm trước đây, những nhà triết học nhận ra rằng không
có cách nào để chứng minh một cách thuyết phục cho kết luận rằng bất cứ một ai nào
khác ngoài bản thân mình có một não thức. Thật vậy, ngay cả trong trường hợp của
những người khác, chúng ta chỉ giả định rằng họ có ý thức – chúng ta không thể
biết đó như một điều chắc chắn. Có lẽ tôi là sinh vật duy nhất trong toàn thể
vũ trụ, là người cảm nhận được bất kỳ một gì, và tất cả những người và những động
vật khác đều chỉ là những robot không có não thức? Có lẽ tôi đang mơ, và tất cả
mỗi người tôi gặp chỉ là một nhân vật trong giấc mơ của tôi? Có lẽ tôi đang bị
mắc kẹt bên trong một thế giới của những ấn tượng không thực [19],
và tất cả nhưng sinh vật tôi nhìn thấy chỉ là những mô phỏng tương tự?
Theo tín điều khoa học hiện nay, tất cả mọi thứ tôi có
kinh nghiệm là kết quả của hoạt động điện trong óc của tôi, và do đó về mặt lý
thuyết, nó có thể có tính cách thực hiện được để mô phỏng tương tự tất cả một
thế giới không thực mà tôi không thể nào phân biệt với thế giới “thực”. Một số
nhà khoa học não [20]
tin rằng trong tương lai không xa, chúng ta thực sự sẽ làm những điều loại giống
như vậy. Vâng, có lẽ nó đã được thực hiện – với bạn? Đối với tất cả những bạn
đã biết, năm nay có thể là năm 2216, và bạn là một thiếu niên ngấy chán, đắm
mình trong một trò chơi “thế giới ấn tượng không thực” vốn mô phỏng thế giới thô
sơ và thú vị của những năm đầu thế kỷ XXI. Một khi bạn đơn giản đã chấp nhận chỉ
tính chất có thể xảy ra được của tấn tuồng này, toán học dẫn bạn đến một kết luận
rất đáng sợ: vì chỉ có một thế giới thực, trong khi đó số lượng của những thế
giới ấn tượng không thực có thể có được là vô hạn, xác suất xảy ra rằng bạn
đang sống trong một thế giới thực duy nhất thì hầu như là con số không.
Không một nào trong số những đột phá khoa học của
chúng ta đã tìm được cách để khắc phục ‘Vấn đề của những Não thức Khác’ nổi tiếng
này. [21]
Thí nghiệm tốt nhất mà những học giả cho đến nay đã đưa ra được gọi là Thử nghiệm
Turing, nhưng nó chỉ kiểm tra về những qui ước xã hội. Theo Thử nghiệm Turing,
để xác định một computer có một não thức hay không, bạn nên đồng thời ‘nói chuyện’
với cả hai, với một computer và với một người thực (sau một computer khác), nhưng
bạn không được biết ‘máy’ nào là người và máy nào chỉ là máy. Bạn có thể hỏi bất
kỳ câu hỏi nào bạn muốn, bạn có thể chơi trò chơi, tranh luận, và ngay cả tán tỉnh
họ. Dành thời gian nhiều như nếu bạn muốn. Sau đó, bạn đi đến phải quyết định đoán
xem một nào trong hai máy là computer, và một nào là con người. Nếu bạn không
thể quyết định, hoặc nếu bạn đoán sai, computer đã thành công được thử thách
Turing, và chúng ta nên đối xử với nó như thể nó thực sự có một não thức. Nhưng
đó sẽ không thực sự là một chứng minh, dĩ nhiên. Công nhận những não thức khác là
có, đó chỉ đơn thuần là một quy ước xã hội và pháp lý.
Thử nghiệm Turing [22] được Alan Turing, nhà toán học người England, phát
minh vào năm 1950, ông là một trong những cha đẻ của thời đại computer. Turing
cũng là một người đồng tính luyến ái trong một thời khi đồng tính luyến ái là không
hợp pháp trong xã hội Kitô England. Năm 1952 ông bị kết tội chỉ vì có hành vi đồng
tính luyến ái, và buộc phải chịu ‘chữa trị’ bằng hóa học để chuyển đổi hormone.
Hai năm sau đó, ông đã tự tử. Thử nghiệm Turing chỉ đơn giản là một bản sao của
một thử nghiệm nhàm chán vốn mỗi người đồng tính đã phải trải qua trong năm
1950 ở England: bạn có thể vượt qua thử thách này để cho thấy mình là một người
‘bình thường’ hay không? Turing đã biết từ kinh nghiệm cá nhân rằng bạn là người
thực sự thế nào thì không thành vấn đề quan trọng – chỉ những gì người khác
nghĩ về bạn mới là vấn đề quan trọng. Theo Turing, những computer trong tương
lai sẽ giống như những người đồng tính luyến ái năm 1950. Sẽ không thành vấn đề
cho dù những computer thực sự có ý thức hay không. Chỉ những gì mọi người sẽ nghĩ
về nó mới thành vấn đề.
Những kiếp
sống tuyệt vọng của những con Chuột thí nghiệm
Sau khi chúng ta đã làm quen với não thức – và với ít ỏi
như thế nào chúng ta thực sự biết về nó – chúng ta có thể trở lại câu hỏi liệu
những động vật khác có não thức không. Một số động vật như loài chó, chắc chắn
qua được một phiên bản được sửa đổi của Thử nghiệm Turing. Khi con người cố gắng
để xác định liệu một thực thể có ý thức hay không, những gì chúng ta thường tìm
kiếm không phải là năng khiếu toán học hoặc trí nhớ tốt, nhưng đúng hơn là khả
năng để tạo ra những quan hệ tình cảm với chúng ta. Đôi khi người ta phát triển
những gắn bó sâu xa với những sự vật đến mức gần như tôn thờ chúng, loại như với
vũ khí, xe ô tô và thậm chí cả những quần áo lót, nhưng những gắn bó này đều một
chiều, và không bao giờ phát triển thành những quan hệ. Sự kiện rằng những con
chó thì một phần nào có thể có những quan hệ tình cảm với con người đã thuyết
phục hầu hết những người chủ con chó rằng chúng không phải là những máy móc tự
động, không có não thức..
Điều này, tuy nhiên, sẽ không làm những người hoài
nghi thỏa mãn, những người chỉ ra rằng những cảm xúc là những algorithm, và rằng
không có algorithm nào được biết đến đòi hỏi phải có ý thức để hoạt động. Bất cứ
khi nào một con vật phô bày ứng xử tình cảm phức tạp, chúng ta không thể chứng
minh rằng đây không phải là kết quả của một số những algorithm nào đó rất phức
tạp nhưng không có ý thức. Lập luận này, dĩ nhiên, cũng có thể áp dụng được với
con người. Tất cả những gì một người nào đó làm – gồm tường trình về những trạng
thái cho là có ý thức – về lý thuyết, chúng có thể là việc làm của những algorithm
không ý thức.
Trong trường hợp của con người, tuy nhiên, chúng ta giả
định rằng bất cứ khi nào một ai đó tường trình rằng người đó thì có ý thức,
chúng ta có thể tin vào lời của họ về điều đó. Dựa trên giả định tối thiểu này,
ngày nay chúng ta có thể xác định những dấu hiệu của óc để nhận diện trạng thái
có ý thức, mà sau đó có thể được dùng một cách có hệ thống để phân biệt những
trạng thái ý thức và không ý thức ở con người. Tuy nhiên, vì óc của những động
vật cũng chia sẻ nhiều những tính năng với óc của con người, khi sự hiểu biết của
chúng ta sâu sắc hơn về những dấu hiệu của óc để nhận diện trạng thái ý thức,
chúng ta có thể có khả năng dùng chúng để xác định xem nếu và khi nào những động
vật khác có ý thức. Nếu một bộ óc chó cho thấy những mô thức tương tự như của một
bộ óc con người có ý thức, điều này sẽ cho bằng chứng mạnh mẽ rằng loài chó có
ý thức.
Những thí nghiệm khởi đầu trên những con khỉ và chuột
cho thấy ít nhất những óc của khỉ và chuột thực sự cho thấy những dấu hiệu của
óc để nhận diện trạng thái có ý thức. [23]
Tuy nhiên, do sự khác biệt giữa bộ óc của động vật và bộ óc con người, và cho rằng
chúng ta vẫn còn xa mới mở ra được hết tất cả những bí mật của ý thức, phát triển
những thí nghiệm có tính chất quyết định để làm hài lòng những người hoài nghi
có thể mất hàng mười năm. Ai nên thực hiện gánh nặng của chứng minh trong thời
gian đó? Chúng ta có coi những con chó là những bộ máy không não thức, cho đến
khi được chứng minh ngược lại, hay chúng ta đối xử với những con chó như những
sinh vật có ý thức, miễn là không ai nêu lên một số bằng chứng có thể thuyết phục
ngược lại?
Ngày 07 tháng 7 năm 2012, những nhà chuyên môn hàng đầu
trong những ngành sinh học nơrôn và khoa học não thức đã tụ tập tại Đại học
Cambridge, và đã ký bản Tuyên bố Cambridge về Hữu thức, nó nói rằng những bằng
chứng đã qui tụ để chỉ định rằng những động vật không phải con người đều có cấu
trúc giãi phẫu nơrôn, hóa học nơrôn và sinh lý nơrôn của những trạng thái có ý
thức, cùng với khả năng để trưng bày những hành vi có chủ ý. Hệ quả là, sức nặng
của bằng chứng cho thấy con người không phải là duy nhất sở hữu những lớp nền nơrôn
[24]
tạo ra ý thức. Những động vật không phải con người, bao gồm tất cả những loài động
vật có vú, chim và nhiều loài sinh vật khác, bao gồm cả bạch tuộc, cũng có những
lớp nền nơrôn này.[25]
Tuyên ngôn này đã dừng lại nửa chừng, không nói trọn rằng những loài vật khác
cũng có ý thức, vì chúng ta vẫn còn thiếu bằng chứng kết luận không thể chối
cãi. Nhưng nó đã chuyển gánh nặng chứng minh điều đó cho những ai là người suy nghĩ
khác với như thế.
Đáp ứng với những luồng gió đổi chiều của cộng đồng
khoa học, tháng 5 năm 2015 New Zealand trở thành quốc gia đầu tiên trên thế giới
công nhận về mặt pháp lý những động vật như những sinh vật có tri giác, khi quốc
hội New Zealand đã thông qua Luật Sửa đổi cho tốt hơn Phúc lợi Động vật. Đạo luật
quy định rằng bây giờ là bắt buộc để nhìn nhận những thú vật có tri giác, và như
thế chăm sóc đúng mức vào phúc lợi của chúng trong bối cảnh như chăn nuôi. Ở một
đất nước với số cừu nhiều hơn số với con người (30 triệu vs 4,5 triệu), đó là một
tuyên bố rất quan trọng. Tỉnh Quebec của Canada từ đó cũng đã thông qua một đạo
luật tương tự, và những nước khác có nhiều xác xuât sẽ làm theo.
Nhiều công ty thương mại cũng nhìn nhận những động vật
như những sinh vật có tri giác, mặc dù thật ngược đời, điều này thường đẩy nhiều
loài động vật vào những thử thí nghiệm khảo cứu khó chịu. Lấy thí dụ, những
công ty bào chế thuốc thường xuyên dùng những con chuột như đối tượng thí nghiệm
trong việc phát triển những thuốc chống bệnh trầm cảm. Theo một phương thức được
dùng rộng rãi, bạn lấy 100 con chuột (để mức độ thống kê được tin cậy) và đặt mỗi
con chuột bên trong một ống thủy tinh đầy nước. Những con chuột gắng gỏi lần trước,
rồi lần sau, và lần nữa,… để cố leo ra khỏi ống, nhưng không thành công. Sau mười
lăm phút, hầu hết chúng đều ngừng chuyển động. Chúng bập bềnh trong ống nước,
thờ ơ với môi trường quanh chúng.
Bây giờ bạn lấy 100 con chuột khác, ném chúng vào,
nhưng vớt chúng ra khỏi ống 14 phút sau, ngay trước khi chúng sắp tuyệt vọng. Bạn
để cho chúng khô ráo, cho chúng ăn, cho chúng nghỉ một chút -. Và sau đó ném
chúng vào lại ống nước. Lần thứ hai này, hầu hết những con chuột gắng gỏi trong
20 phút, trước khi chúng buông xuôi. Tại sao thêm 6 phút? Vì trí nhớ về hoạt động
chưa thất bại trong quá khứ đã bật lên để phóng thích trong óc một vài chất
sinh hóa nào đó cho những con chuột hy vọng, và trì hoãn sự ra đời của tuyệt vọng.
Nếu như chúng ta có thể cô lập chỉ riêng chất sinh hóa này, chúng ta có thể
dùng nó như một thuốc chống bệnh trầm cảm cho con người. Nhưng có vô số những hóa
chất tràn ngập não của một con chuột ở bất kỳ một thời điểm chỉ định nào trong
thí nghiệm đó. Làm thế nào chúng ta có thể xác định đúng chỉ một chất?
Với câu hỏi này, bạn lấy nhiều nhóm chuột hơn, những
con chuột chưa bao giờ tham dự thí nghiệm nào trước đó. Bạn tiêm cho mỗi nhóm một
hóa chất đặc biệt, mà bạn ngờ là thuốc chống trầm cảm đang hy vọng tìm thấy. Bạn
ném chuột xuống nước. Nếu những con chuột được tiêm hóa chất A, chỉ tranh đấu trong
mười lăm phút trước khi trở thành chán nản, bạn có thể xóa tên hóa chất A khỏi
danh sách của bạn. Nếu những con chuột được tiêm hoá chất B vùng vẫy khoảng 20
phút, bạn có thể nói với người CEO và những người có cổ phần công ty rằng bạn
có thể đã vừa trúng số độc đắc.
Bên trái: Một con chuột hy vọng đang tranh đấu để
thoát khỏi ống nước. Bên phải: Một con chuột nổi thờ ơ trong ống nước, mất hết
mọi hy vọng.
Những người hoài nghi có thể phản đối rằng tất cả mô tả
này đã ‘nhân hóa’ những con chuột một cách không cần thiết. Những con chuột
không kinh nhiệm hy vọng cũng không tuyệt vọng. Đôi khi những con chuột di chuyển
một cách nhanh chóng và đôi khi chúng đứng yên, nhưng chúng không bao giờ cảm
thấy bất cứ điều gì. Chúng chỉ được những algorithm không có ý thức điều khiển.
Tuy nhiên, nếu như vậy, tất cả những thí nghiệm này nhằm đến điều gì quan trọng?
Những thuốc điều trị những bệnh tâm thần là nhằm mục đích để tạo ra thay đổi
không chỉ trong hành vi của con người, nhưng trên hết là những tình cảm của con
người. Khi những người bệnh đi đến một y sĩ tâm thần và nói, “Bác sĩ, cho tôi một
gì đó mà sẽ nhấc tôi khỏi trầm cảm này,” họ không muốn một kích thích về cơ học
sẽ làm họ vật vã quay cuồng, trong khi vẫn cảm thấy buồn bã. Họ muốn cảm thấy
vui vẻ. Tiến hành những thí nghiệm trên những con chuột có thể giúp những công
ty phát triển một thuốc uống kỳ diệu loại như vậy, nếu và chỉ khi họ giả định trước
rằng hành vi của chuột được đi kèm với những tình cảm giống-người. Và quả thực,
đây là một giả định trước vốn phổ biến trong những phòng thí nghiệm nghiên cứu
bệnh tâm thần.[26]
Những
con Chimpnazee có ý thức về mình
Đưa lên cao trên ngôi thờ phụng sự ưu thắng con người,
một nỗ lực khác chấp nhận rằng những con chuột, chó và những động vật khác có ý
thức, nhưng cho rằng, không giống như con người, chúng thiếu sự tự ý thức. Chúng
có thể cảm thấy chán nản, hạnh phúc, đói, hoặc mãn nguyện, nhưng chúng không có
khái niệm về tự thân, và chúng không ý thức được rằng trầm cảm hoặc đói chúng cảm
thấy thuộc về một thực thể duy nhất gọi là “Ta”.
Ý tưởng này thì cũng phổ thông như nó thì cũng mờ đục,
không sáng tỏ. Rõ ràng, khi một con chó cảm thấy đói, nó ngoạm một miếng thịt
cho chính nó, chứ không cho con chó khác. Hãy để một con chó đánh hơi một gốc
cây có một con chó hàng xóm đã tiểu vào, ngay lập tức con chó sẽ biết có phải nó
ngửi nước tiểu của chính nó, hay của con chó giống Labrador hàng xóm dễ thương,
hay của một người nào đó khác. Loài chó phản ứng rất khác nhau với mùi của
riêng chúng, của những con chó có thể là bạn tình và những đối thủ tương lai. [27]
Như vậy, có phải điều đó có nghĩa là chúng thiếu sự tự ý thức?
Một giải thích tinh vi hơn của luận chứng nói rằng tự
ý thức có những mức độ khác biệt. Chỉ con người mới hiểu mình như một bản ngã
lâu dài còn mãi, có một quá khứ và một tương lai, có lẽ chỉ con người có thể
dùng ngôn ngữ để suy ngẫm những kinh nghiệm quá khứ và hành động tương lai của
họ. Những động vật khác tồn tại trong một hiện tại vĩnh cửu. Ngay cả khi chúng
dường như nhớ lại quá khứ, hoặc dự định tương lai, trong thực tế, chúng chỉ đang
phản ứng với những kích thích và những thôi thúc hiện tại. [28]
Lấy thí dụ, một con sóc đang giấu hạt, để dành cho mùa đông, nó không thực sự
nhớ cái đói đã cảm thấy trong mùa đông năm ngoái, nó cũng không nghĩ gì về
tương lai. Nó chỉ tuân theo một thôi thúc nhất thời, không biết gì về nguồn gốc
và mục đích của sự thôi thúc này. Đó là tại sao, ngay cả những con sóc non, những
con chưa từng sống qua một mùa đông, và do đó không thể ‘nhớ’ mùa đông, dẫu vậy
vẫn giấu những hạt trong mùa hè.
Tuy nhiên, tại sao ngôn ngữ sẽ là một điều kiện cần
thiết cho có được nhận thức về những biến cố của quá khứ hay tương lai là điều
không rõ ràng. Sự kiện rằng con người dùng ngôn ngữ để làm như vậy thì khó là một
bằng chứng. Con người cũng dùng ngôn ngữ để bày tỏ yêu thương hay sợ hãi của họ,
nhưng những động vật khác cũng rất có thể có kinh nghiệm và ngay cả cũng bày tỏ
yêu thương hay sợ hãi qua không-lời nói. Thật vậy, con người chính họ thường ý
thức về những sự kiện trong quá khứ và tương lai mà không nói chúng ra bằng lời.
Đặc biệt trong những trạng thái mơ, chúng ta có thể nhận thức được toàn bộ ‘thuật
kể’ nhưng tất cả im lặng không lời – vốn khi tỉnh dậy chúng ta xoay sở có khi đến
khổ sở để tìm lời mô tả.
Những thí nghiệm nhiều loại khác biệt cho thấy ít nhất
một số động vật – bao gồm cả những loài chim như vẹt và giẻ cùi hay quẹt mỏ [29]
– có nhớ lại nhưng biến cố cá nhân và có ý thức trù tính cho những sự việc có
thể xảy ra trong tương lai. [30]
Tuy nhiên, chứng minh điều này khỏi mức nghi ngờ là điều không thể nào được, vì
bất kể dù phức tạp đến thế nào nếu động vật trưng bày một hành vi, những người
hoài nghi luôn có thể cho rằng nó là kết quả của những algorithm vô thức trong óc
của nó, chứ không phải là từ những hình ảnh hữu thức trong não thức của nó.
Để minh họa cho vấn đề này xem xét trường hợp của
Santino, một chimpanzee đực của vườn thú Furuvik ở Sweden. Để xả bớt sự nhàm
chán trong chuông nhốt của nó, Santino đã phát triển một thú chơi hào hứng: ném
đá vào những khách đến thăm vườn thú. Trong tự nó, việc làm thì không có gì là
độc đáo. Những chimpanzee tức giân thường ném đá, que gậy và thậm chí cả phân.
Tuy nhiên, Santino đã trù tính những chuyển động của nó từ trước. Trong buổi
sáng sớm, rất lâu trước khi vườn thú mở cửa cho khách vào thăm, Santino đã nhặt
nhạnh những thứ để ném, và đã đặt chúng thành một đống, mà không trưng bày bất
kỳ dấu hiệu nào của tức giận. Những người hướng dẫn và những người khách sớm học
biết để dè chừng Santino, đặc biệt là khi nó đã đang đứng sẵn cạnh những cục đá
xếp thành đống của nó, do đó nó đã làm tăng thêm khó khăn trong việc tìm kiếm những
mục tiêu.
Tháng 5 năm 2010, Santino đã đáp ứng với một chiến lược
mới. Trong sáng sớm, nó đã lấy những kiện rơm từ góc chuồng khu nó ngủ và đặt
chúng gần với bức tường của chuồng nhốt, chỗ khách thường tụ tập đứng xem những
con chimpanzee. Sau đó nó nhặt những cục đá và đem giấu chúng dưới đống rơm.
Khoảng một giờ hay hơn sau đó, khi những khách đầu tiên đến gần, Santino giữ vẻ
lạnh lẽo của mình, cho thấy không có những dấu hiệu của bực dọc hoặc hung hãn.
Chỉ khi những nạn nhân của nó đã đều nằm trong tầm ném, Santino thình lình lấy
những cục đá từ chỗ giấu chúng, và ném tung vào những con người hoảng sợ, những
người sẽ hối hả chạy tung tán khắp mọi hướng. Trong mùa hè năm 2012 Santino đã tăng
tốc độ chạy đua vũ trang, giấu đá không chỉ dưới những đống rơm, mà còn trong những
bọng cây, những khu nhà xây, và bất kỳ những nơi nào thích hợp để giấu khác.
Tuy nhiên, ngay cả trường hợp Santino vẫn không thỏa
mãn những người hoài nghi. Làm thế nào chúng ta có thể chắc chắn rằng buổi sáng,
lúc 7 giờ, khi Santino đang bận rộn giấu đá chỗ này chỗ kia, nó cũng đang tưởng
tượng sẽ vui như thế nào lúc ném xước da những người đến thăm vào buổi trưa? Có
lẽ một vài algorithm đã thúc đẩy Santino, giống như một con sóc non giấu hạt
‘cho mùa đông’ mặc dù nó chưa bao giờ trải qua mùa đông? [31]
Tương tự như vậy, những người hoài nghi nói, một con chimpanzee
đực tấn công một đối thủ, vốn làm nó bị thương tuần trước, thì không thực sự là
sự trả thù xúc phạm cũ. Nó chỉ phản ứng với một cảm giác nhất thời của tức giận,
nguyên nhân của cảm giác đó thì ở ngoài nó. Khi một con voi mẹ nhìn thấy một
con sư tử đe dọa con voi con của mình, nó lao về phía trước và sẵn sàng liều mạng
của nó, không phải vì nó nhớ rằng đây là con voi con thương yêu hàng mấy tháng
mình đã nuôi dưỡng; đúng hơn, voi mẹ được thúc đẩy bởi một số cảm xúc thù địch kỳ
lạ, không thể nào hiểu nổi, đối với sư tử. Và khi một con chó nhảy cẫng vui sướng
khi chủ của nó về đến nhà, con chó không nhận thức đươc rằng người này đã cho
ăn và ôm ấp mình từ thơ ấu. Nó chỉ đơn giản là bị choáng ngợp bởi một ngây ngất
không thể giải thích.[32]
Chúng ta không thể chứng minh hay bác bỏ một bất kỳ nào
của những tuyên bố này, vì chúng thực sự là những biến thể của Vấn đề của những
Não thức Khác. Vì chúng ta không quen thuộc với bất kỳ algorithm nào đòi hỏi hữu
thức, bất cứ gì một con vật nào làm đều có thể được xem như sản phẩm của những
algorithm không có ý thức, hơn là của những kỷ niệm và trù tính có ý thức. Thế
nên, trong trường hợp của Santino cũng vậy, câu hỏi thực sự liên quan đến gánh
nặng phải chứng minh. Đâu là giải thích có nhiều phần có thể xảy ra nhất với hành
vi Santino? Chúng ta có nên giả định rằng nó thì có ý thức lập kế trù tính cho
tương lai, và bất cứ ai nếu không đồng ý nên cung cấp một số chứng minh ngược lại?
Hoặc là nó thuận lý hơn để nghĩ rằng con chimpanzee này được một algorithm
không có ý thức điều khiển, và tất cả những gì nó cảm nhận là một sự thôi thúc
bí ẩn đòi đặt những cục đá dưới những kiện rơm?
Và ngay cả nếu Santino không nhớ quá khứ và không tưởng
tượng được tương lai, có phải có nghĩa là nó thiếu tự ý thức? Dầu sao chăng nữa,
chúng ta gán ý thức tự giác cho con người ngay cả khi họ không bận rộn ghi nhớ
quá khứ hay mơ về tương lai. Lấy thí dụ, khi một bà mẹ nhìn thấy đứa con nhỏ chập
chững lạc bước xuống một con đường đang đầy xe qua lại, bà không đứng lại để
suy nghĩ về quá khứ hay tương lai nào cả. Cũng giống như con voi mẹ, bà cũng chỉ
chạy vọt tới để cứu đứa con của mình. Tại sao không nói về người mẹ ấy những gì
chúng ta nói về con voi mẹ, như cụ thể là “khi người mẹ vội vã để cứu đứa bé của
mình khỏi hiểm nguy đang đi tới, người mẹ ấy đã làm điều đó không có ý thức tự
giác. Bà chỉ đơn thuần do một thúc đẩy nhất thời đẩy tới? ”
Tương tự như vậy, hãy xem xét một cặp tình nhân trẻ
hôn nhau đắm đuối trong lần họ hẹn gặp đầu tiên, một người lính lao vào hỏa lực
nặng nề của địch, để cứu một đồng chí bị thương, hay một nghệ sĩ vẽ một kiệt
tác trong một ‘cơn điên mê loạn’ của cây cọ màu. Không ai trong số họ dừng lại
để chiêm ngưỡng quá khứ hay tương lai. Liệu đó có nghĩa là họ thiếu tự ý thức,
và rằng tình trạng của họ về hiện sống tỉnh thức thì thấp kém hơn so với một
nhà chính trị đang đưa ra một phát biểu khi tranh cử, huyên thuyên về những
thành tựu quá khứ và kế hoạch tương lai của mình?
Con ngựa tinh khôn
Trong năm 2010, những nhà khoa học đã tiến hành một
thí nghiệm khác thường nhưng cảm động về chuột. Họ nhốt một con chuột trong một
cái lồng nhỏ, đặt lồng bên trong một khoang lớn hơn nhiều, và để cho một con
chuột khác tự do đi lại trong khoang đó. Con chuột trong lồng đã phơi bày những
dấu hiệu của lo lắng và căng thẳng, khiến con chuột tự do cũng phơi bày những dấu
hiệu của lo lắng và căng thẳng. Trong hầu hết những trường hợp, con chuột tự do
đi đến giúp con đồng loại bị nhốt, và sau nhiều gắng thử, thường thành công
trong việc mở lồng và giải thoát con chuột bị tù. Những nhà nghiên cứu sau đó
đã lập lại thí nghiệm, lần này đặt thêm sôcôla trong khoang. Con chuột tự do
bây giờ đã phải lựa chọn giữa một trong hai, giải thoát người tù, hoặc ăn
sôcôla một mình. Nhiều con chuột thích làm việc giải thoát đồng loại trước đã,
và sau đó chia miếng ăn chocolate (mặc dù cũng có một số ít những con cư xử ích
kỷ hơn, cho thấy có lẽ rằng có một số con chuột thì ác hơn những con khác).
Những người hoài nghi đã bác bỏ những kết quả này, biện
luận rằng con chuột tự do đã giải thoát con bị tù không phải từ sự đồng cảm,
nhưng chỉ đơn giản là để ngăn chặn những dấu hiệu đau khổ gây khó chịu. Những
con chuột có động lực từ những cảm giác khó chịu chúng đã cảm nhận, và chúng đã
tìm cách không gì to lớn hơn là chấm dứt những cảm giác này. Có lẽ. Nhưng chúng
ta cũng có thể nói cùng một điều đúng y như thế về con người chúng ta. Khi tôi
cho tiền cho một người ăn xin, không phải là tôi đang phản ứng với những xúc động
khó chịu vốn hình ảnh người ăn xin đã gây thành tình cảm trong tôi? Có phải tôi
thực sự quan tâm đến người ăn xin không, hay tôi đơn giản là chỉ muốn cảm thấy
tốt hơn về chính mình?[33]
Về bản chất, con người chúng ta không có gì khác so với
những con chuột, chó, cá heo hay chimpanzee. Giống như chúng, chúng ta cũng
không có linh hồn. Giống chúng ta, chúng cũng có ý thức và một thế giới phức tạp
của những cảm giác và những cảm xúc. Dĩ nhiên, mỗi động vật có những nét độc
đáo và tài năng của riêng nó. Con người cũng thế, cũng có những tài năng đặc biệt
của mình. Chúng ta không nên ‘nhân hóa’ không cần thiết những động vật, tưởng
tượng rằng chúng chỉ là một phiên bản có lông thú của chính chúng ta. Đây không
chỉ là khoa học tồi, nhưng nó cũng ngăn cản chúng ta với sự hiểu biết và đánh
giá những loài động vật khác bằng những điều kiện của chúng.
Trong đầu những năm 1900, một con ngựa có tên ‘Hans
Tinh khôn’ đã trở thành một tên tuổi ở Germany. Dắt đi trình diễn qua những
thị trấn và làng quê của Germany, Hans đã phô trương một hiểu biết tiếng
Germany đáng chú ý, và một giỏi giang về toán học lại còn đáng chú ý hơn. Khi
được hỏi, “Hans, bốn lần ba là mấy?” Hans đập nhẹ móng chân của nó mười hai lần.
Khi được cho nhìn thấy một thông báo bằng chữ viết, ‘hai mươi trừ mười một là
gì?’ Hans đập móng chín lần, với sự chính xác đáng ca ngợi của người Prussia.
Năm 1904, hội đồng quản trị giáo dục Germany đã bổ nhiệm
một ủy ban khoa học đặc biệt, do một nhà tâm lý học đứng đầu, để tìm hiểu vấn đề.
Mười ba thành viên của ủy ban – trong đó gồm một giám đốc rạp xiếc và một y sĩ
thú y – đã tin rằng đây phải là một chuyện lừa đảo, nhưng mặc dù với những cố gắng
nhất của họ, họ không thể khám phá được bất kỳ gian lận hay dấu diếm về vấn đề
nào. Ngay cả khi Hans đã được tách ra khỏi người chủ của nó, và những người
hoàn toàn xa lạ đặt câu hỏi, Hans vẫn trả lời đúng hầu hết những câu hỏi.
Năm 1907, nhà tâm lý học Oskar Pfungst đã bắt đầu một
cuộc điều tra khác, cuối cùng đã phơi mở sự thật. Hóa ra là Hans có được trả lời
đúng bằng cách cẩn thận quan sát ngôn ngữ cơ thể và nét mặt của người đối thoại
với nó. Khi Hans được hỏi bốn lần ba là gì, từ kinh nghiệm quá khứ nó đã biết rằng
con người đã chờ đợi nó gõ móng chân một số lần nhất định nào đó. Nó bắt đầu gõ
móng chân, trong khi theo dõi con người chặt chẽ. Khi Hans gõ chân gần con số
chính xác, con người dần trở nên càng căng thẳng hơn, và khi Hans gõ đúng con số,
sự căng thẳng lên tới đỉnh. Hans biết cách nhận ra điều này như thế nào, qua tư
thế thân thể con người, và vẻ nhìn trên mặt người. Khi đó, nó ngừng gõ móng
chân, và xem căng thẳng đã được thay thế như thế nào, bằng sự ngạc nhiên hay tiếng
cười lớn hơn. Hans biết nó đã làm đúng.
Hans thường được đưa ra như một thí dụ về cách con người
‘nhân hóa’ sai lầm động vật, gán cho chúng những khả năng xa vời, vượt quá những
gì chúng thực sự có được. Tuy nhiên, trên thực tế, bài học thì đúng là sự ngược
lại. Truyện kể chứng minh rằng bằng cách ‘nhân hóa’ động vật, chúng ta thường
ước lượng khả năng nhận thức của động vật thấp hơn, và không biết đến những khả
năng độc đáo của những sinh vật khác. Về phương diện toán học, Hans thì khó
lòng để gọi là thần tình. Bất kỳ một đứa trẻ tám tuổi nào cũng có thể làm giỏi
hơn nhiều. Tuy nhiên, trong khả năng của nó để suy ra những cảm xúc và ý định từ
ngôn ngữ cơ thể, Hans là một thần tình thực sự. Nếu một người Tàu đã hỏi tôi bốn
lần ba là mấy bằng tiếng Quan thoại, không có cách nào tôi có thể đập chân tôi
đúng mười hai lần, nếu chỉ đơn giản bằng cách quan sát những nét mặt và ngôn ngữ
cơ thể. Hans tinh khôn đã có khả năng này vì loài ngựa bình thường truyền thông
với nhau qua ngôn ngữ cơ thể. Tuy nhiên, điều đáng chú ý về Hans, là nó có thể
dùng phương pháp này để đoán ra những cảm xúc và ý định không chỉ của những con
ngựa đồng loại, nhưng cũng của những con người không quen biết.
Con ngựa tinh khôn Hans trình diễn vào năm 1904.
Nếu những động vật rất thông minh, tại sao những con
ngựa không đóng cương con người vào những xe kéo, những con chuột không dùng
chúng ta để tiến hành những thí nghiệm, và những chú cá heo không buộc chúng phải
nhảy xuyên qua những vòng tròn? Homo sapiens chắc chắn có một số khả
năng độc đáo khiến nó có thể thống trị tất cả những loài động vật khác. Sau khi
bác bỏ những quan niệm thổi phồng rằng Homo sapiens tồn tại trên một
bình diện hoàn toàn khác với những động vật khác, hoặc cho rằng con người có một
số bản chất độc đáo như linh hồn hay ý thức, chúng ta có thể cuối cùng đã leo
xuống đến mức độ của thực tại, và xem xét những khả năng thể chất hoặc tinh thần
đặc biệt vốn đem cho loài người chúng ta góc cạnh sắc sảo của nó.
Hầu hết những nghiên cứu dẫn kể sự sản xuất công cụ và
trí thông minh như đặc biệt quan trọng đối với sự đi lên của loài người. Mặc dù
những loài động vật khác cũng sản xuất dụng cụ, có rất ít nghi ngờ rằng con người
vượt xa chúng trong lĩnh vực đó. Nhưng sự việc thì ít rõ ràng hơn một chút nhìn
về mặt trí thông minh. Cả một ngành công nghiệp hoàn toàn được dành vào việc
xác định và đo lường trí thông minh nhưng còn là một con đường rất xa mới đi đến
được một sự đồng thuận. May mắn, chúng ta không cần phải bước vào bãi mìn đó,
vì bất kể một người định nghĩa trí thông minh dù như thế nào, điều là hoàn toàn
rõ ràng rằng không phải trí thông minh, cũng không phải tạo những công cụ, tự
chúng có thể giải thích cho sự chinh phục thế giới của Sapiens. Theo hầu
hết những định nghĩa về trí thông minh, khoảng một triệu năm trước con người đã
là động vật thông minh nhất, cũng như là những người chế tạo dụng cụ vô địch trên
thế giới, nhưng họ vẫn là những sinh vật không đáng kể, không quan trọng, có ảnh
hưởng rất ít đến hệ sinh thái xung quanh. Họ rõ ràng còn thiếu một số đặc điểm then
chốt khác hơn là sự thông minh và chế tạo những công cụ.
Có lẽ loài người cuối cùng đã đi đến thống trị trái đất
không phải vì một số thành phần khó nắm bắt then chốt thứ ba, nhưng chỉ đơn giản
là do sự tiến hóa của trí tuệ thông minh cao hơn, và thậm chí cả khả năng chế tạo
công cụ tốt hơn? Không có vẻ là điều như vậy, vì khi chúng ta xem xét những ghi
chép lịch sử, chúng ta không thấy một tương quan trực tiếp giữa trí thông minh
và khả năng chế tạo công cụ của con người cá nhân và sức mạnh của loài người
chúng ta như một toàn thể. Hai mươi ngàn năm trước đây, những Sapiens trung bình có thể có trí thông
minh cao hơn và kỹ năng chế tạo công cụ tốt hơn so với Sapiens trung bình của ngày hôm nay. Những trường học và những công
ty tìm người làm ngày nay có thể thỉnh thoảng vẫn kiểm tra năng khiếu của chúng
ta, nhưng dù chúng ta làm tệ đến đâu, bảo hiểm xã hội của nhà nước vẫn luôn
luôn bảo đảm những nhu cầu cơ bản của chúng ta. Trong thời Đồ đá, chọn lọc tự
nhiên thử nghiệm bạn mỗi ngày trong mọi khoảnh khắc, và nếu bạn đã ‘trượt thẳng
cẳng’ bất kỳ nào trong số rất nhiều những thử nghiệm của nó, bạn chẳng tồn tại
được lâu, sẽ ‘ăn đất’ sớm!. Tuy nhiên, bất chấp khả năng chế tạo công cụ siêu
việt của tổ tiên thời đồ đá của chúng ta, và mặc dù não thức sắc sảo hơn và những
giác quan bén nhạy hơn của họ, 20.000 năm trước loài người thì yếu đuối hơn nhiều
so với hiện nay.
Trong suốt 20.000 năm đó, loài người chuyển từ săn voi
mammoth với những cây giáo đầu gắn đá nhọn đến thám hiểm hệ mặt trời với những
con tàu vũ trụ, không nhờ vào sự tiến hóa của bàn tay khéo léo hơn hoặc bộ óc lớn
hơn (ngày nay bộ óc của chúng ta dường như thực sự là nhỏ hơn). [34] Thay vào đó, yếu tố quyết định chủ yếu trong sự chinh phục thế giới của
chúng ta là khả năng để kết nối người này với nhiều những người khác của chúng
ta.[35] Con người ngày nay hoàn toàn thống trị trái đất này
không phải vì cá nhân con người thì thông minh hơn rất nhiều và ngón tay bàn
chân thì nhanh nhẹn hơn cá nhân những con chimpanzee hoặc chó sói, nhưng vì Homo sapiens là loài duy nhất trên trái
đất có khả năng hợp tác linh động với những số đông lớn. Thông minh và chế tạo
công cụ đã cũng rõ ràng là rất quan trọng. Nhưng nếu con người đã không học được
để hợp tác linh động với số đông lớn, bộ óc xảo quyệt và bàn tay khéo léo của
chúng ta vẫn sẽ đang đập những viên đá lửa thay vì những atom của uranium.
Nếu sự hợp tác là chìa khóa, tại sao những loài kiến
và ong không làm được bom hạt nhân trước chúng ta, mặc dù chúng đã biết hợp tác
đông đảo, hàng triệu năm trước chúng ta? Vì sự hợp tác của chúng thiếu tính
linh động, không mềm dẻo. Ong hợp tác trong những cách rất tinh vi, nhưng chúng
không thể một sớm một chiều tái tạo-lại hệ thống xã hội của chúng. Nếu một tổ ong
phải chạm mặt với một đe dọa mới, hoặc một cơ hội mới, những con ong không thể,
lấy thí dụ, chém con ong chúa và lập một nền cộng hòa!
Những động vật loài có vú, có đời sống xã hội như những
con voi và chimpanzee hợp tác linh động và mềm dẻo hơn nhiều so với những con
ong, nhưng chúng làm như vậy chỉ với những số lượng nhỏ gồm bạn bè và những
thành viên trong gia đình. Sự hợp tác của chúng dựa trên sự quen biết cá nhân.
Nếu tôi là một chimpanzee và bạn là một chimpanzee, và tôi muốn hợp tác với bạn,
tôi phải biết cá nhân bạn: bạn thuộc loại chimpanzee nào? Bạn có phải là một
chimpanzee tử tế không? Hay bạn là một chimpanzee ác độc? Làm sao tôi có thể hợp
tác với bạn nếu tôi không biết bạn? Theo như sự hiểu biết tốt nhất của chúng
ta, chỉ loài Sapiens mới có thể hợp
tác với vô số những người xa lạ trong những cách rất linh động. Khả năng cụ thể
này – chứ không phải một linh hồn vĩnh cửu, hoặc một số loại độc đáo nào đó của
ý thức – giải thích sự làm chủ của chúng ta trên hành tinh Trái đất.
Cách mạng
muôn năm!
Lịch sử cung cấp nhiều bằng chứng cho sự quan trọng chủ
yếu của sự hợp tác trên quy mô lớn rộng. Chiến thắng gần như lúc nào cũng đi đến
với những ai là những người đã hợp tác giỏi hơn – không chỉ trong những tranh đấu
giữa Homo sapiens và những động vật
khác, mà cũng còn trong những xung đột giữa những nhóm người khác nhau. Thế nên
Rome đã chinh phục Greece không phải vì những người Rome đã có bộ óc lớn hơn,
hoặc kỹ thuật chế tạo công cụ tốt hơn, nhưng vì họ có khả năng để hợp tác hiệu
quả hơn. Trong suốt lịch sử, những đội quân kỷ luật dễ dàng đánh đuổi những đội
quân vô tổ chức, và những tầng lớp ưu tú xã hội biết hợp tác tổ chức đã thống trị
những quần chúng vô trật tự. Năm 1914, lấy thí dụ, 3 triệu quý tộc, viên chức
và thương nhân Russia, tất cả cai trị hơn 180 triệu nông dân và công nhân. Tầng
lớp ưu tú xã hội Russia biết làm thế nào để hợp tác trong việc bảo vệ lợi ích
chung của nó, trong khi 180 triệu dân thường đã không có khả năng để huy động
hiệu quả. Thật vậy, nhiều những nỗ lực của tầng lớp thượng lưu đã tập trung vào
việc bảo đảm rằng 180 triệu người ở những tầng lớp dưới sẽ không bao giờ học được
cách hợp tác.
Những
người cộng sản đã không buông bỏ nắm giữ của họ đến tận cuối những năm 1980. Tổ
chức hiệu quả đã giữ họ trong quyền lực trong suốt tám chục năm dài, và cuối
cùng họ đã xụp đổ do nguyên nhân của tổ chức không hiệu quả. Ngày 21 tháng 12
năm 1989, Nicolae Ceauşescu, nhà độc tài cộng sản của Romania, đã tổ chức một
cuộc biểu tình ủng hộ của quần chúng ở trung tâm thủ đô Bucharest. Trong những
tháng trước đó, Soviet Union đã rút đi sự hỗ trợ với những chính quyền cộng sản
Đông Europe, bức tường Berlin đã sụp đổ, và làn sóng cách mạng đã quét qua Poland,
East Germany, Hungary, Bulgaria và Czechoslovakia. Ceauşescu, người đã cai trị Romania
từ năm 1965, tin rằng ông có thể đứng vững trước trận tsunami này, mặc dù những
bạo động chống lại chế độ của ông đã nổ ra tại thành phố Timişoara của Romania,
vào ngày 17 tháng Mười Hai. Như một trong những cách đối ứng của mình, Ceauşescu
đã sắp xếp một cuộc biểu tình lớn tại Bucharest để chứng minh với những người Romania
và tất cả thế giới còn lại rằng đa số dân chúng vẫn còn yêu thích ông – hoặc ít
nhất là sợ ông. Guồng máy ọp ẹp của đảng cộng sản rạn nứt này đã huy động
80.000 người, làm đầy công trường ở trung tâm thành phố, và dân chúng khắp Romania
được bảo ngưng tất cả những hoạt động của họ, và hãy bật những radio và TV của họ lên.
Với
tiếng hò reo của đám đông dường như nhiệt tình, Ceauşescu đứng trên ban công
nhìn ra công trường, như ông đã từng làm hàng chục lần trong những mười năm trước.
Hai bên là bà Elena, vợ ông, và những đảng viên hàng đầu và một đám những vệ
sĩ, Ceauşescu đã bắt đầu đọc một trong những bài diễn văn với giọng điệu ngán
ngẩm quen thuộc của ông. Trong tám phút, ông đã ca ngợi những vinh quang của chủ
nghĩa xã hội Romania, trông ông rất hài lòng với chính mình khi đám đông vỗ tay
một cách máy móc. Và sau đó một gì đó sai lạc, không đúng, đã xảy ra. Bạn có thể
xem nó cho chính bạn trên YouTube. Chỉ cần tìm “bài diễn văn cuối cùng của
Ceauşescu”, và xem lịch sử trong hành động.[37].
Đoạn
clip trên YouTube cho thấy Ceauşescu, sau khi bắt đầu một câu nói dài khác, đang
nói, “Tôi muốn cảm ơn những người khởi xướng và tổ chức biến cố trọng đại này ở
Bucharest, xem đó như là một-” , và sau đó ông rơi vào im lặng, mắt mở rộng, và
ông bất động như bị đóng băng trong sự không-thể-tin-nổi. Ông đã không bao giờ nói
xong câu nói dở dang. Bạn có thể thấy trong nháy mắt đó, cả một thế giới sụp đổ
như thế nào. Ai đó trong khán giả đã la ó phản đối. Đến nay, người ta vẫn bàn
luận không biết ai là người đầu tiên dám lớn tiếng phản đối. Và sau đó một người
khác la ó, và một người khác, và thêm những người khác, và trong vòng vài giây
quần chúng bắt đầu huýt sáo, hét ầm, và la ó lớn tiếng “Ti-mi-soa-ra! Ti-mi-soa-ra!”
Thời
điểm một thế giới sụp đổ: một Ceauşescu choáng váng không thể tin vào mắt và
tai mình.
Phim
lấy từ www.youtube.com/watch?v=wWIbCtz_Xwk©TVR.
Tất
cả sự việc này đã xảy ra trực tiếp sống động trên tivi Romania, khi ba phần tư
dân chúng đã ngồi dán mắt vào màn hình, tim họ đập dữ dội. Cơ quan công an khét
tiếng – Securitate – ngay lập tức ra lệnh TV phải ngưng phát sóng, nhưng toán
chuyên viên truyền hình không nghe lời. Người quay phim chĩa ống kính lên trời
để những người xem không thể nhìn thấy sự hoảng loạn trong những nhà lãnh đạo đảng
trên ban công, nhưng chuyên viên âm thanh tiếp tục thu âm, và những chuyên viên
kỹ thuật tiếp tục truyền hình trực tiếp. Tất cả nước Romania nghe đám đông la ó
phản đối, trong khi Ceauşescu hét lên, “Xin chào! Chào bạn! Xin chào!” Như thể
vấn đề trục trặc là với chiếc micro. Bà Elena, vợ ông, bắt đầu mắng khán giả,
“Hãy yên lặng! Hãy yên lặng”, cho đến khi Ceauşescu đã quay lại và hét vào mặt bà
– vẫn còn đang trực tiếp truyền hình – “Bà hãy im đi!” 'Ceauşescu sau đó kêu gọi
đám đông phấn khích ở công trường, khẩn nài họ, “Các đồng chí! Các đồng chí!
Hãy yên lặng, các đồng chí!”
Nhưng
‘các đồng chí’ đã không muốn giữ yên lặng. Chính quyền cộng sản Romania đã sụp
đổ khi 80.000 người ở công trường trung tâm Bucharest đã nhận ra rằng họ thì mạnh
hơn ông già đội mũ lông trên ban công rất nhiều. Điều thực sự đáng kinh ngạc,
tuy nhiên, không phải là thời điểm sụp đổ của hệ thống, nhưng sự kiện là nó đã tìm
được cách để tồn tại trong hàng những mười năm. Tại sao những cách mạng thì rất
hiếm như thế? Tại sao quần chúng đôi khi vỗ tay và cổ vũ hàng trăm năm liên tục,
làm tất cả những gì con người đứng trên ban công cao ra lệnh cho họ, mặc dù về
lý thuyết, họ có thể lao về phía trước bất cứ lúc nào và xé người ấy ra từng mảnh?
Ceauşescu
và đồng đảng của ông đã thống trị 20 triệu Romania trong bốn mười năm vì họ đã giữ
chắc chắn ba điều kiện quan trọng. Đầu tiên, họ đặt những viên chức cộng sản
trung thành nắm quyền kiểm soát tất cả những mạng lưới hợp tác, như quân đội,
công đoàn và thậm chí những hiệp hội thể thao. Thứ hai, họ ngăn cản sự tạo ra bất
kỳ tổ chức đối địch nào – dù là chính trị, hay kinh tế, hay xã hội – mà có thể
phục vụ như một cơ sở cho sự hợp tác chống lại đảng cộng sản. Thứ ba, họ đã dựa
vào sự hỗ trợ của những đảng cộng sản anh em ở Soviet Union và Đông Europe. Mặc
dù đôi khi có những căng thẳng, những đảng này giúp đỡ lẫn nhau trong những khi
cần, hoặc ít nhất là bảo đảm rằng không có người ngoài nào chọc gậy phá thối vào
thiên đường xã hội chủ nghĩa. Trong những điều kiện như vậy, bất chấp tất cả những
khó khăn và đau khổ tầng lớp chọn lọc cầm quyền đã gây cho họ, 20 triệu người Romania
đã không có khả năng để tổ chức được bất kỳ đối kháng hiệu quả nào.
Ceauşescu
mất quyền lực chỉ khi tất cả ba điều kiện thôi không còn giữ vững. Vào cuối những
năm 1980, Soviet Union đã rút đi sự bảo bọc của nó, và những chế độ cộng sản đã
bắt đầu xụp đổ như những quân bài domino. Đến tháng 12 năm 1989, Ceauşescu
không thể trông mong vào bất kỳ trợ giúp nào từ bên ngoài. Ngược lại – những
cách mạng ở những nước lân cận đã làm nức lòng phe đối lập ở địa phương. Đảng Cộng
sản tự nó đã bắt đầu phân thành những phe đối địch. Những đảng viên ôn hòa muốn
gạt chính Ceauşescu qua bên, và khởi đầu cải cách trước khi quá muộn. Bằng sự tổ
chức cuộc biểu tình ở Bucharest và phát hình trực tiếp trên tivi, chính Ceauşescu
đã cung cấp cho những người làm cách mạng cơ hội hoàn hảo để khám phá sức mạnh của
chính họ, và tập hợp họ chống lại ông. Còn cách nào nhanh hơn để làm một cuộc
cách mạng lan tràn bằng cách chiếu hình nó, trực tiếp những gì đang diễn ra, từng
giây từng phút sống động ,trên màn ảnh tivi cho cả nước xem?
Tuy
nhiên, khi quyền lực vuột khỏi tay của người tổ chức vụng về trên ban công, nó
đã không chuyển xuống đám quần chúng đứng dưới công trường. Mặc dù rất đông và
nhiệt tình, đám đông đã không biết tự tổ chức như thế nào. Do đó, giống như Russia
năm 1917, quyền lực được chuyển sang một nhóm nhỏ của những tay đánh bài chính
trị, những người có vốn liếng duy nhất của họ là biết tổ chức giỏi. Cách mạng Romania
đã bị những người tự xưng là Mặt trận Cứu quốc bắt cóc, vốn trong thực tế, là một
che mắt dư luận cho cánh ôn hòa của Đảng Cộng sản. Mặt trận không có liên hệ thực
sự nào với đám đông biểu tình. Nó được những đảng viên trung cấp điều khiển, và
do Ion Iliescu, một cựu thành viên của ủy ban trung ương Đảng Cộng sản, và một
thời đã đứng đầu ngành tuyên truyền. Iliescu và những đồng chí của ông trong Mặt
trận Quốc gia Cứu quốc đã tự tái tạo chính họ như những nhà chính trị dân chủ,
tuyên bố với bất kỳ microphone chờ sẵn nào rằng họ là những người lãnh đạo của
cuộc cách mạng, và sau đó dùng kinh nghiệm lâu năm và mạng lưới những tay chân thân
tín của họ để kiểm soát và dốc túi những tài nguyên của đất nước.
Trong
nước Romania cộng sản, gần như tất cả mọi thứ đều thuộc sở hữu của nhà nước. Nước
Romania dân chủ đã nhanh chóng tư hữu hóa những tài sản quốc gia, bán chúng với
giá hời cho những cựu đảng viên cộng sản, những người một mình nắm vững được những
gì đang xảy ra và đã cộng tác thêm vây cánh để xây tổ cho nhau. Những công ty nhà
nước kiểm soát cơ sở hạ tầng quốc gia và những nguồn tài nguyên thiên nhiên toàn
quốc đã được bán cho những chức sắc cộng sản trước đây với những giá giảm cuối mùa
thật thấp, trong khi những đảng viên trơn, không từng giữ chức vụ quan trọng
nào, đã mua nhà và chúng cư với những giá rẻ mạt.
Một số phận tương tự xảy ra với cuộc Cách mạng Egypt năm 2011. Nhũng gì
tivi đã làm trong năm 1989, Facebook và Twitter đã làm trong năm 2011. Những
phương tiện truyền thông mới đã giúp quần chúng phối hợp hoạt động của họ, vì vậy
khiến hàng ngàn người đã tràn ngập đường phố, công trường đúng thời điểm và lật
đổ chế độ Mubarak. Tuy nhiên, để mang 100.000 người đến Công trường Tahrir là một
điều, và là một điều khác để nắm được guồng máy chính trị, và điều hành một quốc
gia cho hiệu quả. Do đó, khi Mubarak từ chức, những người biểu tình không thể lấp
nổi khoảng trống chính trị. Egypt chỉ có hai cơ cấu được tổ chức đầy đủ để cai
trị đất nước: quân đội và tổ chức Huynh đệ Muslim [39]. Do
đó cách mạng đã bị Muslim Brotherhood bắt cóc trước tiên, và cuối cùng đến quân
đội.
Những
người cộng sản cũ Romania và những tướng lãnh Egypt không phải đã là thông minh
hơn, hay nhanh nhẹn hơn nhà độc tài già, hay những người biểu tình, ở Bucharest và
Cairo. Lợi thế của họ nằm trong sự hợp tác linh động. Họ đã phối hợp tốt cộng
tác khéo hơn so với những đám đông ô hợp, và họ đã cho thấy nhiều linh động sẵn
sàng hơn so với Ceauşescu và Mubarak thủ cựu.
Vượt qua Sex và Bạo động
Nếu
Sapiens thống trị thế giới vì chỉ
mình chúng ta có thể hợp tác linh động trong số lượng lớn đông đảo, ....
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Oct/2016)
(Oct/2016)
[1]
[Evolution, Creationism, Intelligent Design’, Gallup, accessed 20 December
2014,
http://www.gallup.com/poll/21814/evolution-creationism-intelligent-design.aspx;
Frank Newport, ‘In US, 46 per cent Hold Creationist View of Human Origins’,
Gallup, 1 June 2012, accessed 21 December 2014,
http://www.gallup.com/poll/155003/hold-creationist-view-human-origins.aspx.]
[2] “Survival
of the fittest” : ‘sự sống còn của loài thích nghi nhất’ là câu của Herbert
Spencer, trở thành câu nói phổ thông, về thuyết tiến hoá của Darwin, ‘thích
nghi nhất (fittest)’ = “better designed for an immediate, local environment”
[3] individual: late Middle English
(‘indivisible’ không phân chia được): < medieval Latin individualis, < Latin individuus, < in- ‘not’ + dividuus
‘divisible’ (
[4] personality: kết hợp của những đặc tính
hoặc những tính chất tạo thành nét riêng biệt, gọi là cá tính, của một cá nhân.
[5]
organelle
[6] Mind: tôi tạm dịch, ở đây và những chỗ
khác, là não thức, và định nghĩa là
‘có lý trí, suy nghĩ, tình cảm, và trí nhớ, do có khả năng tự ý thức và kinh
nghiệm về mình và thế giới quanh mình’ (tôi tự thêm vào, ở trên) để giải thích
nghĩa thông thường, dùng được, của từ ‘mind’ này.
Trước
đây, vẫn đã thường dịch “mind” là: ‘tâm”, hay “tâm thức”, cũng có khi là ‘tinh
thần’ (như đối nghịch với thân xác) hay ‘trí tuệ’ (như đối nghịch với tình cảm).
Những từ này đã vướng vào vấn đề ‘tâm/vật’ (hay dualism của Plato/Descartes)
nay đã lỗi thời. (a) ‘tâm’ (心): người Tàu đã dịch từ ‘citta’
trong Sankrit, ‘tâm’ = quả tim, là một từ cụ thể (tiếng Tàu rất nghèo từ trừu
tượng, nghèo hơn India rất nhiều), nên ‘tâm’ không thể chuyển hết được những nội
dung phức tạp trừu tượng của “citta”. (b) Còn ‘thức’ (識): cũng dịch ‘vijñāna’ trong Sankrit,
một khái niệm triết học đạo Phật khác, chỉ một yếu tố của Ngũ uẩn, và yếu tố thứ
3 của Mười hai Nhân duyên. – thông thường, ‘thức’ hiểu là sự nhận biết.. Ðó là
hoạt động tâm lý khi giác quan (căn) tiếp xúc với đối tượng (trần), thức được
sinh ra, ‘thức’ ở đây có thể thấy là cảm nhận của những giả hợp, nghĩa là hoàn
toàn không có tính thường tại – chỉ với mức độ hiểu biết sơ đẳng thế đó đã cho
thấy ‘thức’ với gốc Phật học của nó, không có nội dung tương đương với ‘mind’ của
tâm lý học phương Tây. Như thế, tâm, thức,
và tâm thức, trong tiếng Việt, đã
sẵn chứa nội dung tôn giáo, nhuốm tính siêu hình, và trong văn học, đã xử dụng
với nội dung quá rộng rãi, quá loãng đến thành mơ hồ, bất định; (thí dụ ‘tâm’
trong câu thường nói ‘vạn sự tại tâm’! – trong Phật học, không bao giờ có ‘một’
là nguyên nhân của ‘vạn’ sự, vì như thế đã phản lại tinh thần của nguyên lý ‘vạn
sự tương khởi’; tất cả đều nương nhau mà có, hay một thí dụ khác, ‘thức’ trong
một mệnh đề quen thuộc khác ‘triết học của tỉnh thức’, thức ở đây không còn là
nhận biết thông thường (như trong ‘khoa học thường thức’), nhưng gần như sự
giác ngộ chân lý); Thế nên những gì ‘tâm’, ‘thức’ mang những nội dung như hiện
đang dùng, hoàn toàn xa lạ với nội dung của ‘mind’ trong tâm lý học phương Tây.
Vì ‘tâm’, ‘tâm thức’ khó dùng lại như một thuật ngữ triết học để dịch ‘mind’,
nên dịch ‘mind’ là não thức, với định nghĩa (của ‘mind’) rõ
ràng như trên, để ứng hợp như là đối tượng của triết học về não thức (philosophy of mind).
Trong
thế kỷ XX, triết học não thức đã trở
thành một trong những lĩnh vực trọng tâm của thế giới triết học Anh Mỹ, và vẫn
còn tiếp tục như thế. Những câu hỏi như những quan hệ giữa trí tuệ và não, bản
chất của hữu thức, và chúng ta nhận thức thế giới như thế nào, đã đi đến được
xem là rất quan trọng trong việc tìm hiểu thế giới. Ngày nay, vị trí nổi bật
trong triết học não thức nhằm thiết lập tương đương giữa những hiện tượng tâm
lý với những hoạt động của bộ óc, và giải thích chúng tất cả trong những thuật
ngữ khoa học. Đôi khi dự án này được gọi là “khoa học về nhận thức” (cognitive
science), và nó mang giả định ngầm rằng nhận thức xảy ra trong những máy
computer, cũng như trong bộ óc con người và động vật, và đều có thể được nghiên
cứu như nhau trong mỗi một của ba thể dạng này.
Những
gì khái niệm ‘não thức’ chứa đựng (tự biết nghĩ, nhớ và cảm,...), có thể không
(hay chưa) tìm được hết trong những hoạt động của bộ óc (hay hệ thống thần
kinh) của chúng ta, nhưng nếu không có bộ óc sinh hoá, chắc chắn chúng ta không
thể có ‘mind’, nên tôi dịch ‘mind’ = ‘não thức’.
[7] CPU: Central
Processing Unit: Đơn vị Tiến hành Trung tâm của computer: những mệnh lệnh được tiến hành ở bộ phận này, CPU gồm hai bộ
phận nhỏ hơn: ALU (Đơn vị Toán Lôgích) và CU (Đơn vị Điều khiển).
[8] [Gregg,
Are Dolphins Really Smart?, 82–3.]
[9] automata mindless (René Descartes
(1596–1650): les animaux sont des machines. dénués de conscience ou de pensée –
thú vật là những bộ máy, trống trơn không ý thức hay suy nghĩ)
[10]
[Stanislas Dehaene, Consciousness and the
Brain: Deciphering How the Brain Codes Our Thoughts (New York: Viking,
2014); Steven Pinker, How the Mind Works
(New York: W. W. Norton, 1997)]
[11]
[Dehaene, Consciousness and the Brain.]
[12] [Những
người cho là lỗi lạc có thể nhắc đến ‘định lý bất toàn’ của Godel, theo đó
không có hệ thống toán học (xây dựng trên những) định đề nào có thể chứng minh
được tất cả những chân lý số học (chân lý của set N). Sẽ luôn luôn có một vài
mệnh đề đúng, nhưng không thể chứng minh được từ bên trong hệ thống. Trong văn
chương phổ thông, định lý này đôi khi bị ‘cướp làm con tin’ để giải thích cho
sự hiện hữu của não thức. Phê bình rằng não thức thì cần thiết để giải quyết
những chân lý không thể chứng minh được loại như vậy. Tuy nhiên, hoàn toàn
không có gì rõ ràng (từ những phê bình đó) cho thấy tại sao những sinh vật cần
phải liên luỵ, hay phải bám vào chân lý toán học phức tạp như vậy để tồn tại và
sinh sản. Trong thực tại, phần lớn những quyết định hữu thức của chúng ta đều
không liên quan gì với những vấn đề như vậy cả.]
Cũng nói thêm; ở đây tác giả nhắc tới những người viện
dẫn định lý Goedel để nói rằng những con số thôi không đủ, không tạo thành một
hệ thống đóng kín, vẫn cần một gì ngoài nó để cho thấy một vài chỗ đúng củac
chính nó, và tác giả biện luận cho chúng ta rằng sự sống, những gì ông đang chú
ý tới ở đây, không cần tới, vì không liên hệ gì với một hệ thống giải quyết một
vấn đề toán học như vậy (toán lôgích, những bài toán của Hilbert). Nhưng lấy
‘định lý bất toàn’ bắt làm con tin để mong dùng nó đe doạ rằng con người thì
bất toàn, nên một gì đó vượt con người (Gót) phải hiện hữu! như thế là bỏ khoa
học tìm về tin tưởng tôn giáo.Trong toán học, định lý bất toàn, rất phức tạp,
khó hiểu (‘any formal system that is interesting enough to formulate its own
consistency can prove its own consistency iff
it is inconsistent’) nhưng bản chất là một paradox, nói về một khiếm khuyết,
giới hạn của con người, nhưng cũng vẫn do một con người, chính tác giả của nó,
Godel đã đưa ra; và vẫn dùng khả năng trí tuệ của chính con người. Trước sau
khoa học, cũng như toán học, không bao giờ nói rằng mình đã có và nắm được chân
lý. Tất cả những hệ thống, khám phá khoa học đều giả định là ‘chưa đúng’, chưa
là là chân lý, có thể sai, chờ và cho đến khi gặp sai, thất bại, không ứng dụng
được; sẽ buông bỏ, và tìm một gì đó ‘đúng hơn’ để thay thế, để làm việc tiếp.
[13]
[Christopher Steiner, Automate This: How
Algorithms Came to Rule Our World (New York: Penguin, 2012), 215; Tom
Vanderbilt, ‘Let the Robot Drive: The Autonomous Car of the Future is Here’, Wired, 20 January 2012, accessed 21
December 2014, http://www.wired.com/2012/01/ff_autonomouscars/all/; Chris
Urmson, ‘The Self-Driving Car Logs More Miles on New Wheels’, Google Official
Blog, 7 August 2012, accessed 23 December 2014, http://googleblog.blogspot.hu/2012/08/the-self-driving-car-logs-more-miles-on.html;
Matt Richtel and Conor Dougherty, ‘Google’s Driverless Cars Run into Problem:
Cars with Drivers’, New York Times, 1
September 2015, accessed 2 September 2015,
http://www.nytimes.com/2015/09/02/technology/personaltech/google-says-its-not-the-driverless-cars-fault-its-other-drivers.html?_r=1.]
[14] Chúng
ta cũng tương tự, ‘thiên’ nhiên, trời mưa, trời đánh, ‘con tạo’,.... nhưng chỉ
khác là đã từ lâu, chỉ hiểu chúng với nghĩa tượng trưng, những ẩn dụ. Và
‘trời’, ‘con tạo’ cũng không phải tất cả là những tên gọi của những gì chúng ta
không thể hiểu, không thể giải thích; đó có lẽ chỉ là phần tốt đẹp tử tế, muốn
có; nhưng còn những gì chúng ta không thể hiểu nhưng tàn ác, độc hại, hay hãm
hại con người, những gì đưa lối, dẫn đường con người đến ‘bến mê’, vào ‘khổ đau
đứt ruột’, là những sức mạnh cũng siêu nhiên, nhưng chúng ta không muốn có,
không muốn gặp, là những ‘ma’, ‘quỉ’, ‘yêu tinh’. Như thế “Trời”, ‘ông trời’,
‘ma’, ‘tinh’, ‘quỉ’, đều là những ẩn dụ, để chỉ những quyền năng siêu nhiên,
chỗ chúng ta chạm với những giới hạn của hiểu biết, nó là khoảng trống tri
thức, tên gọi của tất cả những gì ‘không/chưa biết’, của thời trước khi có
triết học và khoa học. Có lẽ tin tường thành hình đầu tiên trên mặt đất, tín
ngưỡng mọi vật có hồn, gọi chúng là ‘mana’. Mana là quyền năng siêu nhiên
trong bóng tối, hiểu biết con người không soi chiếu tới được; Mana (thành ‘ma’ trong tiếng Việt) sản sinh tất cả
những dạng thức của quyền năng vượt con người, tốt lẫn xấu (hình ảnh ma trong người Việt luôn luôn là một phụ
nữ, i.e. có thể sinh sản; phải chăng nghĩ ‘mana’
là mẹ, sinh một bầy con. Những đứa
tốt lành (trẻ tạo hoá, sau đó lớn lên đến già mới thành khôn - trời già có mắt), chúng nghe theo cầu
nguyện, cúng bái, thờ phượng của con người, nên con người cho là tốt (dù chúng
cũng có khi làm những điều hại người); và những đứa ác độc (tinh, ma, quỉ,
quái), với những đứa con này, mọi chuyện cầu nguyện, cúng bái, thờ phượng, hối
lộ đều không xong, (hay không phải ai cũng làm được, trừ những thày mo, thày
pháp, phù thuỷ) nên con người cho là xấu, tránh xa. Sau cùng, người ta quên gốc
mana?, Quên người mẹ, chỉ còn loay
hoay với đám con, cả tốt lẫn xấu ‘trời, đất, quỉ, thần’ (hay gót, satăng, trong
văn chương phương tây) mà thôi). Đều là những không-biết, không-hiểu, nhưng
xấu, đổ cho ‘ma, quỉ, satăng’, còn tốt đẹp, cho là ‘trời, gót’.
[15] Hầu hết
chúng ta có lẽ không cần phải suy nghĩ quá nhiều để phân biệt một sự vật “sống”
với “không sống”. Một người thì sống; nhưng một tảng đá thì ‘không-sống’. Hiển
nhiên và dễ dàng! Nhưng những nhà khoa học và triết học không nhìn những sự vật
quanh chúng ta chắc chắn và hoàn toàn rõ ràng, như thế. Trong hàng nghìn năm,
họ ngẫm nghĩ cân nhắc câu hỏi: Điều gì làm một sự vật nào đó là ‘sống’? Từ
Aristotle đến Carl Sagan, những nhà tư tướng, khoa học lớn đều đã dành nhiều
suy nghĩ cho câu hỏi đó - và họ vẫn chưa đưa ra được một định nghĩa nào làm hài
lòng tất cả mọi người. Nói trắng ra, chúng ta vẫn chưa định nghĩa được ‘sự
sống’ là gì. (Mặc dù, đặc biệt những tôn giáo tin-chỉ-một gót,… đều quả quyết
về ‘chết’)
Nếu có bất cứ vấn đề gì, vấn đề định nghĩa sự sống đã
trở nên khó khăn hơn trong vòng 100 năm qua. Cho đến thế kỷ XIX, một ý tưởng
phổ biến đã là sự sống thì đặc biệt nhờ vào sự hiện diện của một linh hồn vô
hình, hoặc “tia lửa sống” (vital spark, tia lóe sáng quan trọng, cho sự sống).
Ý tưởng này ngày nay không còn được giới khoa học dẫn nhắc tới nữa. Nó đã được
thay thế bằng cách nhìn và giải thích khoa học hơn. NASA, thí dụ, đã mô tả sự sống
như “một hệ thống hóa học tự duy trì, có khả năng của tiến hóa như giải thích
của Darwin”.( a self-sustaining chemical system capable of Darwinian
evolution).
Nhưng NASA chỉ là một trong nhiều nỗ lực để ghim chặt
xuống tất cả sự sống với một mô tả đơn giản. Trong thực tế, hơn 100 định nghĩa
của sự sống đã được đề nghị, với hầu hết tập trung vào một số ít những thuộc
tính then chốt như tái sinh sản và chuyển hóa (replication and metabolism). Để
làm cho vấn đề khó khăn hơn, nhiều loại khác nhau của các nhà khoa học có những
ý tưởng khác nhau về những gì là thực sự cần thiết để xác định một gì đó là
‘còn sống’. Trong khi một nhà hóa học có thể chắt lọc sự sống xuống một số
những phân tử nhất định nào đó, một nhà vật lý có thể muốn thảo luận về nhiệt
động lực học (thermodynamics). (theo BBC).
[16]
Gangrene
[17] a
computer ‘bug’
[18]
[Dehaene, Consciousness and the Brain.]
[19] Virtual
reality: thế giới ấn tượng không thực, nhận biết qua những tác động gây hiệu
quả là những ấn tượng, khác với thực tại chúng ta vẫn thường biết. Virtual
reality đã dịch là ‘thế giới ảo’, nhưng thuật ngữ này sẽ kéo đến câu hỏi - thế
nào là ‘ảo’, vốn là một câu hỏi hiện nay không có trả lời thống nhất.
Những gì thấy là-có hay là kết quả, nhưng trong bản
chất, hay tác động thực sự không đến từ sự kiện, dạng thức hay tên gọi của thực
tại (Existing or resulting in essence or effect though not in actual fact,
form, or name). Trong computer, có thể tạ gọi là thế giới số, những gì tạo ra
bằng phương tiện truyền thông số điện toán (digital media)
[20] Brain
scientist: neuroscientist.
[21]Problem of Other Minds: Vấn đề của những Não thức Khác: là vấn đề đưa ra lý lẽ
giải thích thế nào cho tin tưởng gần như phổ quát rằng những người khác có
những não thức rất giống như của riêng chúng ta, vốn là tin tưởng giáo
điều của những người hoài nghi cực đoan – chủ trương rằng mỗi người biết được
chỉ não thức của chính mình, nhưng không ai khác (solipsism); Đã có rất nhiều
giải pháp được đưa ra, nhưng không giải pháp nào có thể tự nhận là được đa số
ủng hộ.
Đồng ý chung giữa những triết gia rằng Vấn đề về
những Não thức khác thì quan tâm với vấn đề nền tảng của câu hỏi rằng những gì
cho chúng ta quyền với tin tưởng của chúng ta rằng những người khác có những
đời sống nội tâm, hơn là không biết chúng ta có khả năng hay không trong những
trường hợp đặc biệt để chắc chắn về những gì đang xảy ra trong những đời sống
nội tâm đó.
Tuy nhiên, có (ít nhất) hai vấn đề về những
não thức khác. Một là vấn đề về phương diện nhận thức: liên quan đến câu hỏi
những tin tưởng của chúng ta về những trạng thái não thức khác không phải của
chúng ta thì được giải thích với lý lẽ nào. Còn vấn đề thứ hai là về phương
diện khái niệm: Có thể có được như thế nào cho chúng ta để hình thành một khái
niệm về về những trạng thái não thức khác hơn của chính chúng ta.
[22] Alan Mathison Turing (1912 -
1954): nhà toán học người England, ông có
những đóng góp rất lớn lao, đặc biệt với
lý thuyết khoa học computer, ngày nay ông được biết đến rộng rãi như
cha đẻ của khoa
học computer và trí tuệ nhân tạo.
Máy Turing:
Trong năm 1930 Turing đề xuất khái niệm về, ông gọi, một Máy Turing Phổ quát (Universal Turing Machine). Trước hết, ông nêu
rằng những phép tính toán cần thiết để tính toán bất kỳ một công thức nào đều
có thể được chia (nhỏ và xuống mức thấp hơn) thành những set cơ bản gồm những
mệnh đề chỉ dẫn (hay những hàm số toán học, có thể được “gọi”, hay “dùng” lại);
và chúng, trên nguyên tắc, có thể được một máy tuân hành theo: “MáyTuring”. Một
khi được hợp thức (theo qui cách ấn định) đầy đủ, những tính toán cần để diễn
dịch chính những mệnh đề chỉ dẫn có khả năng được một Máy Turing “chạy” (thực
hiện). Logích chạy vòng (lôgích kia là chạy thẳng) cho phép một máy Turing
trong khái niệm có thể tạo ra những hướng dẫn của riêng nó, và trên nguyên tắc,
có thể “chạy” một loạt lớn những tính toán khác loại.
Trí tuệ nhân tạo: Năm 1950 , trong bài viết Computing Machinery and Intelligence (Mind 49: 433-460), Turing đã đề xuất một thí nghiệm (dưới ảnh hưởng
của thuyết Logical Positivism, do Nhóm Vienna phát triển, chủ trương rằng chỉ
những vấn đề có thể giải quyết được bằng phân tích lôgích, mới là những những
vấn đề triết lý đích thực, có ý nghĩa) cho việc xác định xem một máy tính có
thể suy nghĩ được như người không (có trí tuệ nhân tạo). Xét nghiệm này, nay
gọi là Thử nghiệm Turing, vẫn được
xem là thử nghiệm tốt nhất để xác định một máy tính (computer) có cho thấy có
trí tuệ thay thế hay tương đương với trí tuệ con người hay không.
Năm 1952,
ông bị tòa án kết tội “không đứng đắn” (indecency) trước bằng chứng ông có liên
hệ luyến ái với một thanh niên trẻ khác. Đồng tính luyến ái khi ấy vẫn là một
tội phạm trong xã hội Kitô England. Hình phạt cho “tội” đồng tính luyến ái, ông
phải chọn (thay vì đi tù) là phải chịu tiêm hormone (như điều trị) cho thành
bất lực về tình dục. Nó cũng gây ra chứng vú căng lớn (gynecomastia). Hai năm
sau, 1954, ông tự tử bằng ăn một quả táo có tẩm cyanua. Khi ấy, ông mới 41
tuổi. Lời ông:
“Chúng ta có thể hy vọng rằng sau cùng máy sẽ cạnh
tranh với người trong tất cả những lĩnh vực thuần trí tuệ. Nhưng đâu là lĩnh
vực hay nhất để bắt đầu? Ngay cả câu hỏi này cũng khó trả lời. Nhiều người nghĩ
rằng một hoạt động rất trừu tượng, như chơi cờ chess, sẽ là hay nhất. Cũng có
thể chủ trương rằng hay nhất là cung cấp cho máy những cơ quan của giác quan,
dù tốn kém nhất, và sau đó dạy nó hiểu và nói được tiếng England. Tiến trình
này có thể đi theo cách dạy thông thường cho một đứa trẻ. Những sự vật việc
được chỉ và gọi tên,… Dẫu sao, tôi không biết trả lời nào là phải, nhưng tôi
nghĩ cả hai cách đều nên được đem thử.
Chúng ta chỉ có thể nhìn thấy quãng ngắn đằng trước,
nhưng chúng ta có thể thấy ở đó có nhiều việc phải làm”.
[23] [Ibid., ch. 7.]
[24] Neurological substratum : lớp nền
trên đó có những nơrôn bám và hay phát triển
[25] [The Cambridge Declaration on
Consciousness’, 7 July 2012, accessed 21 December 2014,
https://web.archive.org/web/20131109230457/http://fcmconference.org/img/CambridgeDeclarationOnConsciousness.pdf.]
[26] [John F. Cyran, Rita J. Valentino and
Irwin Lucki, ‘Assessing Substrates Underlying the Behavioral Effects of
Antidepressants Using the Modified Rat Forced Swimming Test’, Neuroscience and Behavioral Reviews 29:4–5 (2005), 569–74; Benoit
Petit-Demoulière, Frank Chenu and Michel Bourin, ‘Forced Swimming Test in Mice:
A Review of Antidepressant Activity’, Psychopharmacology 177:3 (2005), 245–55;
Leda S. B. Garcia et al., ‘Acute Administration of Ketamine Induces
Antidepressant-like Effects in the Forced Swimming Test and Increases BDNF
Levels in the Rat Hippocampus’, Progress
in Neuro-Psychopharmacology and Biological Psychiatry 32:1 (2008), 140–4; John F. Cryan,
Cedric Mombereau and Annick Vassout, ‘The Tail Suspension Test as a Model for
Assessing Antidepressant Activity: Review of Pharmacological and Genetic
Studies in Mice’, Neuroscience
and Behavioral Reviews29:4–5 (2005), 571– 625; James J. Crowley, Julie A.
Blendy and Irwin Lucki, ‘Strain-dependent Antidepressant-like Effects of
Citalopram in “the Mouse Tail Suspension Test’, Psychopharmacology183:2 (2005),
257–64; Juan C. Brenes, Michael Padilla and Jaime Fornaguera, ‘A Detailed
Analysis of Open-Field Habituation and Behavioral and Neurochemical
Antidepressant-like Effects in Postweaning Enriched Rats’, Behavioral Brain Research 197:1 (2009), 125–37; Juan Carlos
Brenes Sáenz, Odir Rodríguez Villagra and Jaime Fornaguera Trías, ‘Factor
Analysis of Forced Swimming Test, Sucrose Preference Test and Open Field Test
on Enriched, Social and Isolated Reared Rats’, Behavioral Brain Research 169:1 (2006), 57–65.]
[27] [Marc
Bekoff, ‘Observations of Scent-Marking and Discriminating Self from Others by a
Domestic Dog (Canis familiaris):
Tales of Displaced Yellow Snow’, Behavioral
Processes 55:2 (2011), 75–9.]
[28] [For
different levels of self-consciousness, see: Gregg, Are Dolphins Really Smart?, 59–66]
[29]scrub jays ?
[30]
[Carolyn R. Raby et al., ‘Planning for the Future by Western Scrub Jays’, Nature 445:7130 (2007), 919–21.]
[31]
[Michael Balter, ‘Stone-Throwing Chimp is Back – and This Time It’s Personal’, Science, 9 May 2012, accessed 21
December 2014,
http://news.sciencemag.org/2012/05/stone-throwing-chimp-back-and-time-its-personal;
Sara J. Shettleworth, ‘Clever Animals and Killjoy Explanations in Comparative
Psychology’, Trends in Cognitive Sciences
14:11 (2010), 477–81.]
[32] [Gregg, Are Dolphins Really Smart?; Nicola S. Clayton, Timothy J. Bussey
and Anthony Dickinson, ‘Can Animals Recall the Past and Plan for the Future?’, Nature Reviews Neuroscience 4:8 (2003),
685–91; William A. Roberts, ‘Are Animals Stuck in Time?’, Psychological Bulletin 128:3 (2002), 473–89; Endel Tulving,
‘Episodic Memory and Autonoesis: Uniquely Human?’, in The Missing Link in Cognition: Evolution of Self-Knowing Consciousness,
ed. Herbert S. Terrace and Janet Metcalfe (Oxford: Oxford University Press),
3–56; Mariam Naqshbandi and William A. Roberts, ‘Anticipation of Future Events
in Squirrel Monkeys (Saimiri sciureus) and Rats (Rattus norvegicus): Tests of the Bischof–Kohler Hypothesis’, Journal of Comparative Psychology 120:4
(2006), 345–57.]
[33] [I. B.
A. Bartal, J. Decety and P. Mason, ‘Empathy and Pro-Social Behavior in Rats’, Science 334:6061 (2011), 1427–30; Gregg, Are Dolphins Really Smart?, 89.]
[34] [Christopher B. Ruff, Erik Trinkaus and
Trenton W. Holliday, ‘Body Mass and Encephalization in Pleistocene Homo’, Nature 387:6629 (1997), 173–6;
Maciej Henneberg and Maryna Steyn, ‘Trends in Cranial Capacity and Cranial
Index in Subsaharan Africa During the Holocene’, American Journal of Human Biology 5:4 (1993), 473–9; Drew H. Bailey
and David C. Geary, ‘Hominid Brain Evolution: Testing Climatic, Ecological, and
Social Competition Models’, Human Nature
20:1 (2009), 67–79; Daniel J. Wescott and Richard L. Jantz, ‘Assessing
Craniofacial Secular Change in American Blacks and Whites Using Geometric
Morphometry’, in Modern Morphometrics in
Physical Anthropology: Developments in Primatology: Progress and Prospects, ed.
Dennis E. Slice (New York: Plenum Publishers, 2005), 231–45.]
[35] [See also Edward O. Wilson, The Social Conquest of the Earth (New
York: Liveright, 2012).].
[36] [Cyril Edwin Black (ed.), The Transformation of Russian Society:
Aspects of Social Change since 1861 (Cambridge, MA: Harvard University
Press, 1970), 279..]
[37] [NAEMI09, ‘Nicolae Ceauşescu LAST SPEECH
(english subtitles) part 1 of 2’, 22 April 2010, accessed 21 December 2014,
http://www.youtube.com/watch?v=wWIbCtz_Xwk.]
[38] [Tom Gallagher, Theft of a Nation: Romania since Communism (London: Hurst, 2005).]
[39] The Muslim Brotherhood: một tổ chức
của những người Muslim, do Hassan al-Banna sáng lập năm in 1928, ở Ismailia, Egypt; là một phong trào tôn giáo
Islam bảo thủ, kết hợp nội dung tôn giáo với những lập trường chính trị và chủ
trương xã hội .