Homo Deus: A Brief History of Tomorrow
Yuval Noah Harari
Một lịch sử Ngắn gọn của những Sân cỏ
Nếu
lịch sử không tuân theo bất kỳ những quy luật bền vững nào, và nếu chúng ta
không thể tiên đoán giòng chảy tương lai của nó, tại sao nghiên cứu nó? Thường thường
có vẻ rằng mục đích chính yếu của khoa học là để tiên đoán tương lai – những
nhà khí tượng được mong đợi để dự báo thời tiết, liệu ngày mai mưa hay nắng; những
nhà kinh tế tất sẽ biết việc giảm giá đồng tiền đang dùng liệu sẽ chuyển hướng
hay đưa thẳng vào một khủng hoảng kinh tế; những y sĩ giỏi thấy trước liệu điều
trị dùng hoá học hay dùng phóng xạ, cách nào sẽ thành công hơn trong việc chữa bệnh
cancer phổi. Tương tự như vậy, những nhà sử học được yêu cầu khảo sát những việc
làm của tổ tiên chúng ta, để chúng ta có thể lập lại những quyết định khôn
ngoan của họ, và tránh những sai lầm của họ. Nhưng là điều hầu như không bao giờ
làm được thế, vì hiện tại thì thật đúng là rất khác biệt với quá khứ. Nghiên cứu
những chiến thuật của Hannibal trong Chiến tranh Punic Thứ hai, như để bắt chước
chúng trong Chiến tranh Thế giới thứ Ba, là điều phí thì giờ. Những gì đã làm hay
trong những trận chiến kỵ binh, sẽ không tất định là nhiều lợi ích trong chiến
tranh cyber.
Mỗi
và mọi chúng ta đều đã được sinh ra trong một thực tại lịch sử có sẵn, được cai
quản bởi những chuẩn mực và những giá trị cụ thể, và được quản lý bởi một hệ thống
kinh tế và chính trị thuộc chỉ một loại nào đó. Chúng ta nhận lấy thực tại này không
hỏi han, nghĩ nó là tự nhiên, là không thể tránh và không thể đổi. Chúng ta
quên rằng thế giới của chúng ta đã được tạo ra bởi một chuỗi ngẫu nhiên của những
sự kiện, và lịch sử đã định hình không chỉ kỹ thuật, chính trị và xã hội của
chúng ta, mà còn những suy nghĩ, những sợ hãi và những giấc mơ của chúng ta.
Bàn tay lạnh giá của quá khứ trồi lên từ phần mộ của tổ tiên chúng ta, giữ chặt
cổ chúng ta, và chi phối cái nhìn của chúng ta hướng tới chỉ một tương lai duy
nhất. Chúng ta đã cảm thấy sự nắm giữ đó từ lúc chúng ta sinh ra, vì vậy chúng
ta cho rằng nó là một phần tự nhiên và tất nhiên của sự thể chúng ta là ai. Do
đó, chúng ta hiếm khi cố gắng rũ bỏ để chúng ta được tự do, và hình dung những
tương lai có thể chọn lựa thay thế.
Nghiên
cứu lịch sử nhằm làm nới lỏng sự nắm chặt của quá khứ. Nó cho phép chúng ta quay
đầu chúng ta về hướng này hay theo cách kia, và bắt đầu ghi nhận những khả năng,
những cơ hội vốn tổ tiên chúng ta đã không thể tưởng tượng được, hoặc không muốn
chúng ta tưởng tượng. Bằng cách quan sát những chuỗi ngẫu nhiên của những sự kiện
đã dẫn chúng ta đến đây, chúng ta nhận thấy chính những suy nghĩ và những giấc
mơ của chúng ta đúng là đã được hình thành như thế nào – và chúng ta có thể bắt
đầu để nghĩ và để mơ khác đi. Nghiên cứu lịch sử sẽ không bảo chúng ta lựa chọn
những gì, nhưng ít nhất nó cho chúng ta nhiều những điều hơn để lựa chọn.
Những
phong trào tìm cách thay đổi thế giới, thường bắt đầu bằng cách viết lại lịch sử,
qua đó cho người ta có khả năng để tưởng tượng lại tương lai. Cho dù bạn muốn những
công nhân để tiếp tục một tổng đình công, những phụ nữ để giữ quyền làm chủ cơ
thể của họ, hay những khối dân ít người bị áp bức để đòi những quyền chính trị
– bước đầu tiên là để kể lại lịch sử của
họ. Lịch sử mới sẽ giải thích rằng “tình trạng hiện nay của chúng ta thì
không tự nhiên, cũng không vĩnh cửu. Một lần trước kia, những sự việc thì đã khác
biệt. Chỉ một dây nối những biến cố ngẫu nhiên đã tạo ra thế giới bất công như chúng
ta biết ngày nay. Nếu chúng ta hành động một cách khôn ngoan, chúng ta có thể
thay đổi thế giới đó, và tạo một thế giới tốt hơn nhiều”. Đây là tại sao những
người Mácxít kể lại lịch sử của chủ nghĩa Tư bản. Tại sao những nhà tranh đấu
cho nam nữ bình quyền nghiên cứu sự hình thành của xã hội phụ hệ; và tại sao
người USA gốc Africa kỷ niệm những kinh hoàng của sự buôn bán nô lệ. Mục tiêu của
họ không phải là để làm quá khứ sống mãi, nhưng đúng hơn là để được giải phóng khỏi
nó.
Những
gì thì đúng với những cách mạng xã hội lớn lao, thì cũng đúng như thế ở mức độ
rất nhỏ của đời sống hàng ngày. Một cặp vợ chồng trẻ muốn xây một ngôi nhà mới
cho họ, có thể yêu cầu kiến trúc sư vẽ một bãi cỏ đẹp ở sân trước. Tại sao một sân
cỏ? “Vì những sân cỏ đều đẹp,” đôi vợ chồng này có thể giải thích. Nhưng tại
sao họ lại nghĩ như vậy? Điều đó có một lịch sử đằng sau nó.
Những
người săn bắn hái lượm thời Đồ Đá đã không trồng cỏ ở lối vào hang động của họ.
Không có sân cỏ xanh nào chào đón du khách ngày nay đến Acropolis ở Athens, điện
Capitol ở Rome, đền thờ của những người Jew ở Jerusalem, hay Tử Cấm thành ở
Beijing. Ý tưởng về nuôi trồng một sân cỏ ở lối vào những nhà tư nhân và những
công thự đã ra đời trong những lâu đài của giới quý tộc ở France và England vào
cuối thời Trung Cổ. Vào đầu thời mới ngày nay, tập quán này đã đâm sâu rễ, và đã
trở thành nhãn hiệu của quyền quí.
Những
sân cỏ được gìn giữ cẩn thận đã chiếm nhiều đất và đòi rất nhiều công việc chăm
sóc, đặc biệt là trong thời trước khi có những máy cắt cỏ và những vòi tưới nước
tự động. Để đổi lại, chúng không sản xuất gì giá trị. Bạn thậm chí không thể thả
gia súc trên những sân cỏ này, vì chúng sẽ ăn và dẫm chết cỏ. Những nông dân
nghèo không đủ khả năng để phí phạm đất quí, hay tốn thì giờ vào những sân cỏ.
Những sân cỏ cắn xén gọn gàng ở lối vào những lâu đài tương ứng với một biểu tượng
của địa vị xã hội không ai có thể mạo nhận. Nó thẳng thừng tuyên bố với mọi người
đi qua: “Tôi rất giàu và quyền thế, và tôi có đất nhiều hàng mẫu và nhiều nông
nô, nên tôi có thừa điều kiện để tạo cảnh trí xanh kỳ diệu này.” Sân cỏ càng lớn
và càng gọn gàng, giòng dõi càng quyền thế hơn. Nếu bạn đến thăm một công tước
và thấy sân cỏ của ông xấu dạng, bạn biết ông đang lúc khó khăn.[1]
Những
sân cỏ kiểu cách đẹp đẽ thường là khung cảnh cho những lễ hội ăn mừng và những trình
diễn công cộng quan trọng, và trong tất cả những thời điểm khác thì cấm lai
vãng. Cho đến nay, trong số không đếm được của những cung điện, những toà nhà
chính phủ và những không gian công cộng, có một dấu hiệu nghiêm khắc ra lệnh
cho mọi người “Tránh khỏi sân cỏ”. Trong trường đại học Oxford của tôi trước
đây, toàn bộ khu nhà vây quanh vuông vức, ở giữa đã thành hình một sân cỏ rất rộng
và đẹp, trên sân đó chúng tôi đã được phép đi bộ hoặc ngồi, mỗi năm chỉ một
ngày. Vào bất cứ ngày nào khác, khốn cho sinh viên không may nào lỡ dẫm chân lên
thảm cỏ thiêng liêng!
Những
cung điện và lâu đài vương hầu đã biến sân cỏ thành một biểu tượng của uy quyền.
Cuối thời vừa qua, sau khi những ngôi vua bị lật đổ và những quận công phải
lên máy chém, những tổng thống và thủ tướng mới đều giữ lại những sân cỏ. Những
toà nhà quốc hội, tòa án tối cao, nhà ở của tổng thống và những công thự khác, đã
thêm công bố quyền lực của chúng trong những hàng tiếp hàng cỏ cắt gọn ghẽ dài
song song. Đồng thời, những sân cỏ đã chinh phục thế giới thể thao. Trong hàng
nghìn năm, con người đã chơi trên hầu hết tất cả mọi loại nền đất có thể mường
tượng được, từ băng tuyết đến sa mạc. Tuy nhiên, trong hai trăm năm qua, những môn
chơi thể thao thực quan trọng – chẳng hạn như bóng đá và quần vợt – đều đã chơi
trên sân cỏ. Dĩ nhiên, miễn là bạn có tiền. Trong những favelas [2]
của Rio de Janeiro, những thế hệ bóng đá tương lai của Brazil đang đá những quả
bóng ‘cây nhà lá vườn’ trên cát và bụi bẩn. Nhưng trong những ngoại ô giàu có,
những đứa con của giới giàu có cũng đang thích thú đá bóng trên những sân cỏ được
chăm sóc tỉ mỉ.
Thế
đó, con người đã đi đến nhận mặt những sân cỏ với quyền lực chính trị, địa vị
xã hội và giàu có kinh tế. Không phải lấy làm lạ rằng trong thế kỷ XIX, giai cấp
tư sản thành thị đang lên đã nhiệt tình đón nhận sân cỏ. Lúc đầu, chỉ những giám
đốc nhà băng, luật sư và những nhà kỹ nghệ mới có đủ khả năng với xa xỉ như vậy
ở những nhà riêng của họ. Tuy nhiên, khi cuộc Cách mạng Kỹ nghệ đã mở rộng tầng
lớp trung lưu và đã tạo nhân cho máy cắt cỏ xuất hiện, và sau đó, máy phun nước
tự động, hàng triệu gia đình đột nhiên có thể đủ khả năng có một sân cỏ ở nhà
riêng. Ở những vùng ngoại ô các thành phố USA, một sân cỏ tinh tươm xanh tươi
mát mắt đã chuyển từ sự sang trọng của một người giàu có sang thành một sự cần
thiết của lớp trung lưu.
Đây
đã là một ‘lễ nghi’ mới thêm vào ‘nghi thức thờ phượng’ của những dân ngoại ô.
Sau lễ nhà thờ sáng Chủ nhật, nhiều người tận tụy dành thì giờ cho sân cỏ của họ.
Đi bộ dọc theo những đường phố, bạn có thể nhanh chóng xác định sự giàu có và địa
vị của mỗi gia đình, qua kích thước và phẩm chất sân cỏ của họ. Không có dấu hiệu
chắc chắn nào hơn đám cỏ thiếu chăm sóc ở sân trước, rằng một gì đó không bình
thường đã xảy ra với nhà họ Jones,. Ngày nay, cỏ được trồng rộng rãi nhất, nhiều
chỉ sau bắp và lúa mì, và những ngành công nghiệp cỏ (nuôi trồng, phân bón, máy
cắt, vòi phun nước, người làm vườn) chiếm hàng tỉ đô la mỗi năm. [3]
Những sân cỏ của Château de Chambord, trong thung lũng sông Loire. Vua François I xây dựng nó vào đầu thế kỷ XVI. Đây là nơi mà tất cả đã bắt
đầu.
Những
sân cỏ đã không còn chỉ là một say mê của Europe hoặc USA. Ngay cả những người
chưa bao giờ đến thăm thung lũng Loire, cũng đã thấy tổng thống USA đọc diễn
văn trên sân cỏ Nhà Trắng, những trận đá bóng quan trọng diễn ra trên những sân
vận động màu xanh, và cha con nhân vật Homer và Bart Simpson (trên tivi) cãi
nhau về đến lượt ai phải cắt cỏ nhà họ. Những người trên toàn thế giới liên kết
những sân cỏ với quyền lực, tiền bạc và uy tín. Do đó, những sân cỏ đã lan xa
và rộng, và bây giở bắt đầu chinh phục mạnh mẽ ngay cả vùng trung tâm của thế
giới Islam. Bảo tàng Nghệ thuật Islam của Qatar mới xây, hai bên có những sân cỏ
tuyệt đẹp, gợi nhớ về Versailles của Louis XIV nhiều hơn về Baghdad của Haroun
al-Rashid. Chúng được một công ty USA vẽ kiểu và xây dựng, và hơn 100.000 mét
vuông chúng dành cho cỏ – ở giữa sa mạc Arab – đòi hỏi một lượng kỳ diệu của nước
ngọt mỗi ngày để giữ màu xanh lá cỏ. Trong khi đó, trong những ngoại ô Doha và
Dubai, những gia đình trung lưu tự hào về sân cỏ của họ. Nếu nó không phải là những
áo choàng trắng và hijabs đen, bạn có thể dễ dàng nghĩ rằng bạn đang ở trong
vùng Trung Tây USA hơn là Trung Đông.
Sau
khi đọc lịch sử ngắn này của sân cỏ, bây giờ khi bạn đi đến sửa soạn kiểu mẫu
cho ngôi nhà mơ ước của bạn, bạn có thể nghĩ kỹ hơn về việc có một sân cỏ ở trước
nhà hay không. Bạn dĩ nhiên vẫn đang có tự do để làm điều đó. Nhưng bạn cũng có
tự do rũ sạch khỏi những hành lý văn hóa do những công tước Europe, thế lực tư
bản và những nhân vật như gia đình Simpsons đã để lại cho bạn – và tưởng tượng
cho bạn một ‘vườn đá’ kiểu Japan, hoặc một sáng kiến hoàn toàn mới. Đây là lý
do hay nhất để tìm hiểu lịch sử: không phải để tiên đoán tương lai, nhưng để giải
phóng chính mình khỏi quá khứ, và hình dung những số phận thay thế. Dĩ nhiên
đây không phải là tự do hoàn toàn – không thể tránh khỏi được quá khứ hình
thành chúng ta. Nhưng một vài tự do thì tốt hơn không.
Một khẩu súng trong màn I của vở
kịch
Tất
cả những tiên đoán rải rác trong tập sách này đều là không gì hơn một nỗ lực để thảo luận về những đilemma hiện tại, và một mời gọi để thay
đổi tương lai. Tiên đoán rằng loài người sẽ cố gắng để đạt được sự không chết,
hạnh phúc và tính gót là giống như tiên đoán rằng những người xây dựng một ngôi
nhà sẽ muốn một bãi cỏ ở sân trước của họ. Nghe có vẻ rất có thể sẽ xảy ra.
Nhưng một khi bạn nói nó ra cho người khác nghe, bạn có thể bắt đầu để suy nghĩ
về những lựa chọn thay thế.
Mọi
người đều giật mình sửng sốt bởi những giấc mơ về không chết và tính gót, không
phải vì chúng nghe quá xa lạ và khó có thể xảy ra, nhưng vì điều là không thông
thường để bộc trực nói huỵch toẹt như vậy. Tuy nhiên, khi họ bắt đầu nghĩ về
nó, hầu hết mọi người nhận ra rằng nó thực sự rất có lý. Bất kể những kiêu hãnh
về tiến bộ kỹ thuật của những giấc mơ này, nhưng về mặt hệ ý thức chúng là những
chuyện xưa. Vì 300 năm qua, thế giới đã dưới
thống trị của chủ nghĩa nhân bản [4],
nó cho rằng sự sống, hạnh phúc và sức mạnh của Homo sapiens mới là thần thánh, thiêng liêng. Nỗ lực để đạt được sự
không chết, hạnh phúc và tính gót chỉ đơn thuần là đem những lý tưởng nhân bản đã
có lâu đời đi đến kết luận lôgích của chúng. Nó mở ra, đặt trên bàn những gì chúng ta dấu kín dưới khăn
ăn của chúng ta đã một thời gian dài.
Tuy
nhiên, bây giờ tôi muốn đặt một gì đó khác trên bàn: một khẩu súng. Một khẩu
súng xuất hiện trong màn I, để bắn trong màn III của vở kịch. Những chương sau
thảo luận về chủ nghĩa nhân bản – sự sùng mộ thờ phụng loài người – đã chinh phục
thế giới như thế nào. Tuy nhiên, sự nổi lên của chủ nghĩa nhân bản cũng chứa những
hạt giống của sự sụp đổ của nó. Trong khi những nỗ lực để nâng cấp con người
vào thành những gót đem chủ nghĩa nhân bản đã đi đến kết luận lôgích của nó, nó
đồng thời cho thấy nhiều lỗ hổng vốn chủ nghĩa nhân bản đã thừa kế. Nếu bạn bắt
đầu với một lý tưởng sai lầm, bạn thường nhận ra những thiếu xót của nó chỉ khi
lý tưởng đi gần đến hiện thực.
Chúng
ta đã có thể thấy tiến trình này hoạt động trong những khu bệnh viện dành trị
những bệnh già. Do một tin tưởng kiên quyết nhân bản, ‘không khoan nhượng’ vào sự
thiêng liêng của sự sống con người, chúng ta giữ sống những người già cho đến
khi họ đi đến một tình trạng đáng thương mà chúng ta buộc phải hỏi: “Những gì rất
thiêng liêng ở đây thì thực sự là gì?” Do cùng một tín ngưỡng nhân bản tương tự,
trong thế kỷ XX, chúng ta có thể sẽ đẩy loài người như một toàn thể vượt quá giới
hạn của nó. Cùng những công nghệ tương tự vốn có thể nâng cấp con người vào thành
những gót, cũng có thể làm con người thành không đáng kể. Lấy thí dụ, những computer
đủ mạnh để hiểu và khắc phục những cơ chế của tiến trình thành-già và đến cái chết,
có lẽ sẽ cũng đủ mạnh mẽ để thay thế con người trong một bất kỳ và tất cả những
nhiệm vụ của họ.
Do
đó agenda thực sự trong thế kỷ XXI sẽ là phức tạp hơn rất nhiều so với những gì
chương sách mở đầu dài này đã gợi ý. Hiện nay, có vẻ rằng sự không chết, hạnh
phúc và tính gót chiếm vị trí hàng đầu trong agenda của chúng ta. Nhưng một khi
chúng ta đến gần hơn để đạt được những mục tiêu này, những biến động kết quả là
có khả năng làm chúng ta chệch hướng đến những điểm đến hoàn toàn khác biệt.
Tương lai được mô tả trong chương này chỉ đơn thuần là tương lai của quá khứ –
tức là tương lai dựa trên những ý tưởng và hy vọng thống trị thế giới trong 300
năm qua. Tương lai thực – tức là tương lai sinh ra từ những ý tưởng và hy vọng mới
của thế kỷ XXI – có thể là hoàn toàn khác biệt.
Để
hiểu được tất cả điều này chúng ta cần phải quay trở lại và xem xét Homo sapiens thực sự là ai, làm thế nào
chủ nghĩa nhân bản đã trở thành tôn giáo chiếm ưu thế trên thế giới, và tại sao
cố gắng để thực hiện giấc mơ của những người theo chủ nghĩa nhân bản có thể gây
ra sự tan rã của nó. Đây là xếp đặt cơ bản của tập sách.
Phần
đầu của tập sách xem xét quan hệ giữa Homo sapiens và những động vật khác,
trong một nỗ lực để hiểu những gì đã làm cho loài người chúng ta thành đặc biệt.
Một số độc giả có thể tự hỏi tại sao những động vật nhận được rất nhiều chú ý
trong một cuốn sách về tương lai. Theo quan điểm của tôi, bạn không thể có một
thảo luận chân thực cẩn thận và đầy đủ về bản chất và tương lai của loài người
mà không bắt đầu với những động vật vẫn sống bên chúng ta. Homo sapiens làm hết sức mình để quên thực tại, nhưng nó là một con
vật. Và nó là quan trọng gấp bội để nhớ về nguồn gốc của chúng ta ở một thời điểm
khi chúng ta tìm cách biến mình thành những gót. Không điều tra về tương lai thần
thánh nào của chúng ta có thể bỏ qua quá khứ động vật của chính chúng ta, hay
quan hệ của chúng ta với những động vật khác – vì quan hệ giữa người và động vật
là mô hình tốt nhất chúng ta có được về quan hệ tương lai giữa những người-vượt-người
và con người. Bạn muốn biết những cyborgs cực kỳ thông minh có thể sẽ đối xử với
con người bằng xương thịt bình thường như thế nào? Nên bắt đầu bằng nghiên cứu
cách thức con người đối xử với những họ hàng động vật kém thông minh hơn của họ.
Nó không phải là một so sánh tương tự hoàn hảo, dĩ nhiên, nhưng nó là mẫu hình tốt
nhất chúng ta có thể thực sự quan sát thay vì chỉ tưởng tượng.
Dựa
trên những kết luận của phần đầu, phần thứ hai của cuốn sách xem xét thế giới lạ
lùng bất thườngmà Homo sapiens đã tạo ra trong nghìn năm vừa qua, và con đường
đưa chúng ta đến ngã rẽ hiện tại của chúng ta. Homo sapiens đã đi đến tin vào
tín ngưỡng nhân bản, theo đó vũ trụ xoay quanh con người và con người là nguồn
gốc của tất cả những ý nghĩa và thẩm quyền như thế nào? Những tác động kinh tế,
xã hội và chính trị của tín ngưỡng này là gì? Nó đã định hình đời sống hàng
ngày của chúng ta, nghệ thuật của chúng ta, và hầu hết những ước muốn thầm kín
của chúng ta, tất cả như thế nào?
Phần
thứ ba và cuối cùng của tập sách quay trở lại đầu thế kỷ XXI. Dựa trên một hiểu
biết sâu xa hơn về loài người và về tín ngưỡng nhân bản, nó mô tả tình trạng
khó khăn hiện tại của chúng ta và những tương lai có thể có của chúng ta. Tại
sao những cố gắng để hoàn thành chủ nghĩa nhân bản có thể kết quả là sự sụp đổ
của nó? Tìm kiếm sự không chết, hạnh phúc và tính gót lay động những nền tảng của
tin tưởng của chúng ta vào loài người như thế nào? Những dấu hiệu nào báo trước
thảm hoạ tận thế này, và nó ném lại trên những quyết định hàng ngày của mỗi
chúng ta như thế nào? Và nếu chủ nghĩa nhân bản thì thực sự bị nguy hiểm, thay
thế vào chỗ của nó có thể là gì? Phần này của tập sách không chỉ gồm thuần triết
lý, hay dề dà bàn chuyện tương lai. Thay vào đó, nó cẩn thận xem xét chi li những
smartphone, thực hành hẹn hò và thị trường tìm việc online của chúng ta, cho những đầu mối của những sự vật việc sẽ đến.
Đối
với những người theo chủ nghĩa nhân bản chân thành, tất cả điều này nghe có vẻ
rất bi quan và chán nản thất vọng. Nhưng điều hay nhất là không đi đến những kết
luận. Lịch sử đã chứng kiến những thăng trầm của nhiều những tôn giáo, đế quốc
và văn hóa. Những biến động như vậy là không nhất thiết là xấu. Chủ nghĩa nhân
bản đã thống trị thế giới trong 300 năm, vốn như thế không phải là một thời
gian dài. Những pharaoh đã cai trị Egypt trong 3.000 năm, và những vua chiên Kitô
thống trị Europe trong một nghìn năm. Nếu bạn nói với một người Egypt trong thời
của Ramses II rằng một ngày nào đó những pharaoh sẽ không còn nữa, ông có lẽ đã mất vía
kinh ngạc. “Làm thế nào chúng ta có thể sống mà không có một pharaoh? Ai sẽ bảo
đảm trật tự, hòa bình và công lý?” Nếu bạn nói với mọi người trong thời Trung cổ
rằng trong vòng một vài thế kỷ Gót sẽ chết, họ hẳn đã hoảng hồn kinh hoàng. “Làm
thế nào chúng ta có thể sống mà không có Gót? Ai sẽ đem ý nghĩa cho cuộc sống
và bảo vệ chúng ta khỏi hỗn loạn?”
Nhìn
ngược trở lại, nhiều người nghĩ rằng sự sụp đổ của những pharaoh và cái chết của
Gót, cả hai đều là những phát triển tích cực. Có lẽ sự sụp đổ của chủ nghĩa
nhân bản cũng sẽ có lợi. Người ta thường sợ sự thay đổi vì họ sợ những gì không
biết. Nhưng hằng số độc nhất và lớn nhất
của lịch sử là tất cả mọi sự vật việc đều thay đổi.[5]
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
[1] [Lionel S. Smith and Mark D. E. Fellowes,
‘Towards a Lawn without Grass: The Journey of the Imperfect Lawn and Its
Analogues’, Studies in the History of
Gardens & Designed Landscape 33:3 (2013), 158–9; John Dixon Hunt and
Peter Willis (eds), The Genius of the
Place: The English Landscape Garden 1620–1820, 5th edn (Cambridge, MA: MIT
Press, 2000), 1–45; Anne Helmriech, The
English Garden and National Identity: The Competing Styles of Garden Design 1870–1914
(Cambridge: Cambridge University Press, 2002), 1–6.]
[2] khu ổ chuột
[3] [Robert
J. Lake, ‘Social Class, Etiquette and Behavioral Restraint “in British Lawn
Tennis’, International Journal of the
History of Sport 28:6 (2011), 876–94; Beatriz Colomina, ‘The Lawn at War:
1941–1961’, in The American Lawn, ed.
Georges Teyssot (New York: Princeton Architectural Press, 1999), 135–53;
Virginia Scott Jenkins, The Lawn: History
of an American Obsession (Washington: Smithsonian Institution, 1994).]
[4] humanism: chủ nghĩa nhân bản (cũng dịch
là nhân đạo, hay nhân văn) chủ yếu là quan điểm hay hệ thống tư tưởng tôn thờ
con người, xem con người mới là chính yếu quan trọng thay vì những thần thánh,
gót hay thế lực siêu nhiên. Những tin tưởng của chủ nghĩa nhân bản nhấn mạnh
vào giá trị tiềm năng tốt lành của con người; hành động hướng tới những nhu cầu
chung của con người, và tìm chỉ những phương cách hợp lý trí để giải quyết những
vấn đề con người. Theo định nghĩa đó, chúng ta thấy từ chủ nghĩa hiện sinh của
Sartre, đến chủ nghĩa xã hội của Marx đều là những chủ nghĩa nhân bản trong thế
kỷ vừa qua.
[5] Tôi cho in nghiêng, không có sự
thay đổi tất không có lịch sử, và đây chính là khái niệm vô thường trong
triết học nhà Phật (thực sự không có mãi một chủ thể không đổi - khi nói về
những động vật hữu tình, trong đó gồm con ngưởi =vô ngã). Những gì chúng ta gọi
là ‘con người’ trước sau vẫn luôn biến đổi, trong lẫn ngoài, sátna này sang sátna
kia, trên giòng chảy không ngừng, bám víu lấy từng khoảnh khắc tồn tại, từ những
hominid, đến những ape, và đến chúng ta, những Homo-sapiens (xem Sapiens:
một Lịch sử Ngắn gọn của loài Người), và con vật người khôn ngoan
này, đang đi đến phát triển bộ óc ‘người’ của nó, ở những chặng cuối, những kỹ
thuật AI và sinh học di truyền, chúng ta sẽ tự thể hiện những hình ảnh mơ ước
từ lâu, vượt những giới hạn của thời gian và không gian, thành những thần,
thánh, gót như vẫn kể trong Odyssey, Iliad, Alf laylah wa laylah, sánh Thánh
Kitô, Phong Thần, Mahabharata, Ramayana,....
Những ‘chuyện kể’ như
nàng Scheherazade đã kể, sẽ tiếp tục, .....