Võ Nguyên Giáp
(25/08/1911 – 04/10/2013)
1.
Ông đứng hùng vĩ cùng những khổng lồ của tài lãnh đạo quân sự trong lịch sử 2.000 năm qua. Ông cao lớn ngang tầm Alexander Đại đế. Ông vượt qua Napoleon. Ông vượt qua tất cả những tướng lĩnh của chúng ta. Ông là con người vĩ đại của tất cả mọi thời.
1.
Ông đứng hùng vĩ cùng những khổng lồ của tài lãnh đạo quân sự trong lịch sử 2.000 năm qua. Ông cao lớn ngang tầm Alexander Đại đế. Ông vượt qua Napoleon. Ông vượt qua tất cả những tướng lĩnh của chúng ta. Ông là con người vĩ đại của tất cả mọi thời.
Một người lính trận, và một người yêu nước, cho đến cuối.[1]
Tướng Giáp là hiện thân đặc tính người Việt, dùng
trí tuệ của họ để đưa ra những chiến thuật và chiến lược, nhờ đó kẻ xem dường
yếu có thể đánh bại kẻ mạnh. [2]
2.
“Thù nước lấy máu đào đem báo”. Tướng quân
và những người cùng ông đã thực hiện được ý muốn đó của lịch sử dân
tộc. Họ không định làm anh hùng, không mong thành danh tướng, Họ chỉ đơn
giản khát vọng làm người – người Việt.
Mỗi khi bị thử thách, đe dọa, tước đoạt, khát vọng
này lên tiếng, một lần mới đây, trước ăn cướp phương Tây, đã nói chân thực
trước giờ hành động – “không thành công thì thành nhân”. Đó cũng chỉ là
lập lại lần khác, bảy trăm năm trước, đã hào hùng với cường địch phương Bắc –
làm người Việt dù chết còn hơn sống – “làm quỉ nước Nam còn hơn làm vương
đất Bắc”.
Trước thảm họa xâm lăng mới, đám “bạch quỉ”
tàn nhẫn, bọn “Pha lang sa” dơ dáy, những con thú thực dân mê muội nhất
của phương Tây, hậu duệ của Alexander lẫn Napoleon, vừa cuồng bạo với “tàu đồng
súng sắt”, vừa đặc biệt đóng vai “trưởng nữ của hội nhà thờ La mã”, trước sau
vẫn cuồng tín với “chính nghĩa” thập giá [3].
Tướng quân và những người cùng ông, theo bản năng sống còn của dân tộc, không
có và cũng không cần chọn lựa nào khác, họ chỉ đơn giản làm theo, như lời
uất ức của một nhà vua mất nước: “Nước bẩn thì lấy máu mà rửa”.
3.
3.
Đừng như Thomas Carlyle
xem lịch sử là một tổng hợp tiểu sử những anh hùng, chỉ gồm những chân dung vĩ
đại của quá khứ chọn lọc. Carlyle bảo rằng những anh hùng, với tài năng xuất
chúng của họ đã định hình dạng cho lịch sử, họ đã “viết” lịch sử. Nhưng như đồng
ý với câu nói “một con én đâu làm nổi mùa xuân” đã có của chúng ta; Herbert
Spencer, có phần hữu lý, khi ông thu hẹp vai trò của cá nhân, và trong một ý hướng
– cho rằng “thời thế tạo anh hùng nhiều phần hơn anh hùng tạo thời thế”. Những
nhà lãnh tụ là sự thể hiện qua cá nhân những điều kiện tổng quát của xã hội, và
tích lũy của dân tộc qua thời đại. Những cá nhân lỗi lạc đơn lẻ không là “tác
giả” của những biến cố lịch sử, dù họ đóng những vai trò quan trọng, nhưng
chính xã hội và thời đại đã cho phép họ đóng; trước sau họ vẫn là sản phẩm của
xã hội. Spencer khằng định rõ hơn – “dân tộc, xã hội đã phải có đó, trước khi có
người xoay chuyển chúng”, dân tộc sản xuất, xã hội gầy dựng người anh hùng, hay như chúng ta vẫn nói – anh hùng là người con yêu của dân tộc, đó cũng là cách nói thêm, của một thời đại – nghĩa là trong xã hội lịch sử – nào đó. Trong những
giờ phút “quyết định của lịch sử”, dĩ nhiên tài lãnh đạo của họ có thể xoay chiều,
làm nên khác biệt, rõ ràng nhất trong vận động cách mạng, khi xã hội đang sôi sục
phá cũ tìm mới. Nhưng sinh mệnh dân tộc đã tuôn chảy đến và chờ đợi sẵn ở thời điểm
đó; lúc ấy quyết định nào gây được tác động, dù chỉ từ một người – nhưng tiếp theo phải có đa số dân tộc, xã hội
cùng làm, mới thành công, mới nên quyết định lịch sử. Ngay cả tài lãnh đạo của
họ, cũng không hẳn phải là duy nhất hay cao nhất, nhưng chỉ đơn giản là đã thuận với hướng chảy của xã hội hay dân tộc, nên cho họ cơ hội thi thố. Nói
như thế để đừng lẫn lộn với quan điểm “lấy thành bại luận anh hùng” – vì lịch sử,
đã có thể có những tài năng cá nhân khác, nhưng do nhiều lý do phức tạp của quá khứ, nay
chúng ta không biết tới; Hãy nói về nước Nga cho khách quan hơn. Những mảnh đời
vỡ vụn, những lạc đường bị lịch sử đất nước họ nghiến nát, những “Bạch
Nga” lưu vong, những “Bạch vệ” tháo chạy, họ vẫn đổ tất cả những thất bại chung, hay thảm kịch riêng,
vì giản dị và tiện lợi, vào dăm ba khuôn mặt lịch sử, điển hình như lối
nói – Không có Lenin, đã không có cách mạng
Nga! – Dù có thiện cảm đến đâu với những đau thương của họ (cách mạng nào không
có những nạn nhân đau thương, vì bản chất của cách mạng theo phương thức phương
Tây là bạo động), nhưng vẫn không thể nào đồng ý, vì đó không là lý luận, chỉ
là lối nói của tâm lý yếu nhược, phản những gì chúng ta vừa suy nghĩ, là lịch sử
không bao giờ viết bởi những chân dung, dù vĩ đại đến đâu, và cũng không chỉ cho một
quá khứ tập thể chọn lọc nào, lại càng không với bất kỳ một cá nhân hạn hẹp chất chồng đau khổ nào, chưa kể lịch sử bao giờ cũng là
tác động nhiều chiều, tìm lý do cho một biến cố nhỏ nhất cũng có thể đi đến vô tận những liệt kê dài dòng nhất, nhưng một liệt kê nào đáng bõ công đọc, cũng sẽ phải có ít nhất đủ cả hai chiều.
– Hiển nhiên Lenin đóng một vai trò, và
cả những Mensheviks lẫn Bolsheviks cũng đóng những vai trò cách mạng; nhưng khi
cách mạng 1917 bùng nố, Lenin ngay cả vẫn còn ở ngoài nước Nga, và Bolsheviks
chỉ là một đảng nhỏ, yếu. Tuy nhiên, chỉ ba năm sau, cuộc cách mạng họ khởi xướng,
bùng lên thành giông bão, cuốn họ đến trước Hoàng cung Mùa Đông ở kinh đô
Petrograd, vì họ là đám đông, là sức mạnh của dòng sống thời đại Nga cuộn chảy,
theo những gì dân chúng Nga đang khi ấy hằng mong đợi.
Điều này càng rõ ràng hơn trong trường hợp
chúng ta: sinh mệnh dân tộc như một giòng sông, khi bình an quanh co êm ả giữa những
ruộng đồng ngăn nắp, xanh màu mạ tươi hay thơm mùi lúa chín, mọi giọt nước đều nhu
thuận theo giòng chảy. Nhưng khi phải vượt qua những ngăn chắn, kềm giữ, nó là
sóng gào, nước tung; giòng sông khi ấy thành thác đổ, những giọt nước
dù nhỏ bé nhất, cũng hợp sức nhau cùng tràn bờ, phá ghềnh, đi tới, để thoát, giòng
sông thành giòng sống.
Những khuôn mặt vĩ đại là tiêu biểu của những thế hệ hào hùng trong
chuỗi dài những vận động lịch sử của dân tộc, người anh hùng như Tướng
quân là một trong những đứa con đã “giữ được nhà, bảo vệ được nước”, trước sau,
ông làm chuyện dời non lấp biển đó với đông đảo, với đồng thuận của cả hai ba
thế hệ yêu nước của dân tộc. Họ đã cùng “quyết tử cho tổ quốc quyết
sinh” – đã “sắt thép trong ý chí, để đánh trả, để săn tìm, và không thể
nhịn” được nữa.[4]
Võ Nguyên Giáp, đúng hơn, Tướng quân là khuôn mặt của tất cả thế
hệ đích thực đó của dân tộc, họ đã sống như thế, hành
động như thế, thể hiện sự sống của họ như thế, họ không có và cũng không thể, và cũng không cần chọn lựa nào khác cả. “Nên thế này, đã thế
kia, hay phải chi đừng thế nọ, ...”. Ngay cả sự khen ngợi cũng đã hàm ý đề cao
tự ngã và bất kính, còn những ai vẫn phê bình lịch sử sống còn của dân tộc, hết
sức ấu trĩ và đầy ngu xuẩn như thế – họ đứng ở đâu?
Lịch sử
của dân tộc, viết bằng đa số của cả dân tộc, và quan trọng với tất cả chúng ta,
vì nó giúp chúng ta hiểu hiện tại, định hướng tương lai. Lịch sử chỉ có một, những
gì đã xảy ra, một nơi, khi ấy, là thật, duy nhất, nên không thể so sánh với gì
khác được, không có gì khác để so sánh, và như thế cũng không là đúng, hay sai, bởi
yếu tính của lịch sử là sự việc của quá khứ và chỉ có-một quá khứ. Nhưng lịch sử
cũng còn dạy chúng ta những bài học, cả đúng lẫn không đúng, tùy sự nhấn mạnh
trên những sự kiện, thực hay chỉ phần nào là thực, đều được lựa chọn, mọi sử
gia dù đáng tin đến đâu, bao giờ cũng chỉ đưa ra được những một nửa-sự-thật, họ
chỉ chiếu “ánh sáng lịch sử” vào những chỗ họ thấy được, hay muốn chúng ta xem
cùng, và cũng hoàn toàn tùy chỗ đứng của họ. Columbus là anh hùng tìm ra Tân
thế giới, hay kẻ tội đồ nhân loại đã mở đường cho sự diệt chủng các dân tộc bản
địa Trung và Nam châu Mỹ? Charles de Gaulle, anh hùng, giải phóng nước Pháp,
hay chỉ là một tên thực dân ngạo mạn, ngay cả cuộc đổ bộ lên Normandy cũng không
tham dự, trước sau đều nhờ quân đội Anh và Mỹ? Trong trường
hợp Võ Nguyên Giáp – chỗ đứng đó là lòng yêu nước dành độc lập, bài học đó là lòng
yêu nước phá xâm lăng, trọn sự thật
toàn vẹn đó là lòng yêu nước, và chỉ có yêu nước chân thực mới thực sự cứu được
đất nước, cho mình và cho mọi người.
Bài học đó thực với tất cả thù địch, nhưng đúng với chúng ta – phải là đúng
với chúng ta; với những người Việt tự hào, những người Việt thấy đất nước mình
đã được cứu sống, khi hiên ngang đứng dậy từ những chiến hào ngổn ngang xác lính Pha lang sa lẫn lộn xác Việt mặc quần áo
lính Pha lang sa. Kẻ trước tuyệt không
có lý do nào đến nằm chết ở đất này, và những kẻ sau tuyệt không có lý do nào
nằm chết cùng kẻ trước.
Ở Điện Biên Phủ, 5 giờ, 30
phút, chiều ngày 7, tháng 5, năm1954.
Lê Dọn Bàn – bản nháp thứ nhất
(Oct/2013)
[1] Michael
Sullivan, NPR News. (Hệ thống truyền thanh tin tức trên toàn nước Mỹ)
DAVID GREENE, (HOST): This is MORNING EDITION,
from NPR News. I'm David Greene.
RENEE MONTAGNE, (HOST): And I'm Renee Montagne.
Let's remember, now, a legendary Vietnamese general. Vo Nguyen Giap has died at
102. It was Giap who defeated the French at the battle of Dien Bien Phu, which
effectively ended a hundred years of French colonial rule in Southeast Asia.
For many Americans, Giap is best known as the
architect of the campaign that was a turning point in the Vietnam War. The 1968
Tet Offensive caught U.S. commanders completely by surprise; striking across
South Vietnam, and leading to the conclusion that an American victory was not
possible. Michael Sullivan has more.
MICHAEL SULLIVAN, BYLINE: Pham Thach Tam is a
former artillery man and political commisar who would have followed Gen. Giap
anywhere, and pretty much did. He was with the young Giap early on as he fought
against the French in the mountainous north of the country, in the Red River
Delta, and later against the Americans in the South.
PHAM THACH TAM: (Through translator) He
ordered, we followed. No matter how great the obstacle or the hardship, we were
willing to do what he said, even if it meant death. Gen. Giap had no training
in military matters, yet he fought and won against the French and the
Americans. For me, he was a genius.
SULLIVAN: Cecil Currey is a retired professor
of military history whose biography of Giap is called "Victory at Any
Cost."
CECIL CURREY: He stands with the great giants
of military leadership back 2,000 years. He measures up to Alexander the Great.
He surpasses Napoleon. He surpasses all of our generals. He's a great man for
all time.
SULLIVAN: Giap's biggest victory was against
the French at Dien Bien Phu in 1954. The French general, Henri Navar Navarre,
confident that Giap would never be able to drag artillery up the steep
mountains that surrounded the isolated French base near the border with Laos.
Navarre was wrong. By the time the battle actually began, Giap had far more
guns and men than the French, many of the guns U.S. weapons captured by the
Chinese during the Korean War.
TED MORGAN: He planned it very carefully, and
he relied on the lag in French intelligence so that by the time that Navarre
realized that Dien Bien Phu was surrounded and that Giap's army had artillery,
it was too late. The artillery was there.
SULLIVAN: Ted Morgan is the author of a new
book, "Valley of Death: The Story of Dien Bien Phu."
[POST-BROADCAST CORRECTION: Morgan's book was published in 2010.]
MORGAN: He followed a very simple Clausewitz
formula: superior forces, superior armament, and the will to win. So you had an
entrenched camp with 10,000 men in it, and Giap had 50,000 and many, many more
coolies doing all the heavy lifting.
SULLIVAN: The French defeat at Dien Bien Phu
spelled the end of French colonialism in Southeast Asia - a bittersweet moment
for Gen. Giap, who during the years of French occupation lost his father, wife
and sister, all of whom died in French prisons. But Giap was not known for
being sentimental. Some critics say he sacrificed his troops indiscriminately,
to achieve victory. Others say he was more concerned about his soldiers than he
let on.
CURREY: I think both are true.
SULLIVAN: Biographer Cecil Currey.
CURREY: He said: At some point, everyone has to
die; and it's better for people to die for our cause than to die willy-nilly.
And so he was utterly willing to use large numbers of troops, and suffer their
casualties. At the same time, he did as best he could. Even during the battle
of Dien Bien Phu, he had an R&R team out in the field, giving the men a
respite against that 55 days of horror.
SULLIVAN: There would be no respite for the
French, nor for the Americans more than a decade after Dien Bien Phu - Gen.
Giap, the architect of the 1968 Tet Offensive, which shocked U.S. military
commanders and eroded American support for the Vietnam War back home. After the
communist victory in 1975, Gen. Giap remained active in government but fell out
of favor in the late '80s, and spent several decades in the political
wilderness. In the past few years, however, he began speaking out - forcefully,
as always - against what he saw as new threats to his country.
CARL THAYER: Well, Gen. Vo Nguyen Giap will be
remembered throughout the world, by people who follow Vietnam - particularly
the Vietnamese community - for his recent advocacy on the bauxite mining,
raising environmental issues, relations with China.
SULLIVAN: Carl Thayer, a Vietnam watcher at the
Australian Defence Forces Academy, says bauxite mines now under construction in
Vietnam - built by China - have angered both environmentalists and nationalists
who view China with suspicion - among them, retired Gen. Giap. [POST-BROADCAST
CORRECTION: Thayer's affiliation is with the Australian Defense Force - not
Forces - Academy.]
THAYER: And he'll also be known for his
lesser-known interventions in letters to the senior leadership, bitterly
criticizing the role of military intelligence in providing information that
could be used to suppress domestic dissent; and also, really arguing that the
party needed to open up, and its procedures should be more democratic. So he'll
be seen as a kind of retired Mandarin who is able to offer advice without
anything to gain by it because mortality faced him when he made these
statements. And this will be seen as acting in a highly moral and ethical
fashion, in Vietnamese culture.
SULLIVAN: A warrior, and a patriot, to the end.
[Michael Sullivan, NPR News. Copyright © 2013 NPR.
For personal, noncommercial use only. See Terms of Use. For other uses, prior
permission required. (POST-BROADCAST
CORRECTION: The obituary of Gen. Vo Nguyen Giap was prepared three years ago
and includes observations by Giap biographer Cecil Currey, who died in March.)]
[2]Vietnam’s
Vo Nguyen Giap: The Last Centurion
- Carlyle A. Thayer. Oct, 2013:
Vo Nguyen Giap’s career
effectively spans sixty-four years from 1927, when he was expelled from Lycee
Quoc Hoc for political activism, to 1991 when he formally retired from all
party and state positions. His career can be broken into five phases:
(1) 1927-1944 when he was
a student activist, journalist, political agitator, prisoner, teacher and
post-graduate student;
(2) 1944-73 when he held
several posts including commander of the People’s Army of Vietnam, Minister of
National Defence and member of the Politburo;
(3) 1974-80 when he gave
up operational control of the military and held the posts of Vice Premier,
Minister of National Defence, and member of the Politburo;
(4) 1980-1991 when he
ceased to be Minister of National Defence and member of the Politburo; in this
period he took responsibility for science and technology, demography and family
planning, and then education; and
(5) 1991-2013 Giap
relinquished his last government post as Deputy Premier and went into permanent
retirement.
General Giap’s main
legacy derives from his role as commander of the People’s Army of Vietnam in
phase two (1944-73). He began as leader of a 34-man platoon and developed it
into a people’s army of several hundred thousand in less than ten years. At the
same time he integrated the military writings of Napoleon, Clausewitz and Mao
with Vietnam’s ancient military tradition.
General Giap mastered the
art of people’s war by mobilizing the population to fight and to become porters
in his vast logistic network. Giap combined political and military struggle. He
aim was to drive the French out of Vietnam in a protracted war. His
masterstroke was his execution of the campaign that led to the defeat of the
French at Dien Bien Phu. Giap feinted by sending his forces into Laos and then
rapidly changed direction to invest the valley of Dien Bien Phu. General Giap
quickly discarded the advice of Chinese advisors to launch human wave assaults
on the French garrison. Giap employed siege tactics fed by a logistics train
that brought him food, supplies, weapons and ammunition.
The importance of the
battle of Dien Bien Phu is that it marked not only the defeat of French
colonialism in Indochina but colonialism as a worldwide system. Within eight
years the French would suffer defeat in Algeria.
Giap’s Biography – The
Official and the Unauthorised Versions:
There are two versions of
the life and career of General Vo Nguyen Giap. The first is the authorized
official hagiography that credits General Giap with all of Vietnam’s military
successes since 1944 and portrays him as the brilliant flawless general.
The second version of
General Giap’s career is unofficial and it reveals that he was a strong-willed
– some would say intellectually arrogant - individual who bristled at
interference in his role as commander of the armed forces. He was once
described as the “snow capped volcano” because of his rumoured hot temper.
Giap had many supporters
but many detractors as well. His active career was dogged by constant friction
with his detractors and rivals who never hesitated to criticize him. His
critics were motivated both by ideological dogmatism and jealousy that Giap’s
popularity would undermine their power. This was the era of the faceless
collective leadership.
During his career Giap
faced criticism for seeking a scholarship from French colonial authorities,
some even intimated - if not accused him - of being an agent of the French
Surete. He was also lambasted for his French education by earning the
baccalaureate, studying at the prestigious Lycee Albert Sarraut where he ranked
first in philosophy, and University of Hanoi Law School where he graduated with
a first in political economy. Giap’s academic achievements were turned against
him by his rivals. Giap, after all, was the only member of the party’s inner
leadership to have received a western education.
The unauthorized account
of Giap’s career reveals a divided collective leadership and sharp rivalries
between individuals. Giap’s clash with ideologue Truong Chinh is legendary, as
were his later clashes with General Nguyen Chi Thanh and Le Duan, first
secretary of the party.
In 1946 Truong Chinh,
second in rank after Ho Chi Minh, unsuccessfully opposed Giap’s elevation to
the rank of full general and commander of the People’s Army. Truong Chinh and Giap
disagreed over the scope and extent to which Chinese military advisers should
influence Vietnam’s battlefield strategy and over Giap’s authority to
unilaterally appoint key aides. In 1951 General Giap prematurely went on the
offensive and ordered his troops to attack fortified French positions in the
Red River Delta. The offensive failed and the People’s Army suffered heavy
casualties. Giap was forced to undergo self-criticism, dismiss several key
aides, permit the establishment of a political commissar system within the
military, and accept Chinese military advisers at various levels in the
People’s Army.
After the end of the
first Indochina War (1946-54) Vietnam was partitioned. Although Giap had
enormous prestige his critics continued to challenge his authority and question
his conduct of the war in South Vietnam. Party first secretary Le Duan pushed
for the overthrow of the southern regime, Giap was more cautious and they
locked horns.
Giap’s detractors succeed
in promoting Nguyen Chi Thanh (1959) and later Van Tien Dung (1974) to the rank
of full general. Up until their promotions Giap was the only full general. Both
generals took operational control of the war in the south out of Giap’s hands.
In 1960, Giap was dropped
from fourth to sixth in Politburo rankings at the third national party
congress. Nikita Khrushchev’s advocacy of peaceful coexistence in the 1960s was
anathema to many in the Vietnamese leadership. Giap, who leant towards the
Soviet Union for its military support and who was critical of China, was out of
step with his colleagues. Once again he came under criticism by his peers.
In 1965, when the United
States introduced combat troops into Vietnam, Le Duan and Nguyen Chi Thanh
ordered northern People’s Army units into the fray. Thanh engineered the 1968
Tet Offensive but died of a heart attack before it was executed. The southern
communist underground suffered enormous casualties. Giap was vindicated and his
fortunes rose. Following Ho Chi Minh’s death in 1969 a new leadership triumvirate
emerged: Le Duan, Pham Van Dong and Vo Nguyen Giap. Giap at that time held
three important posts: member of the Politburo, secretary of the Central
Military Party Committee and Minister of National Defence. But he never
regained operational control of the armed forces. Giap opposed both the Tet
Offensive and 1972 Nguyen Hue Offensive (Spring or Easter Offensive) and was
overruled on both occasions.
In April 1972 General Van
Tien Dung led the Nguyen Hue Offensive and in October 1973 was named commander
of the final offensive of the war, the Ho Chi Minh Campaign. Tellingly, it was
a senior civilian member of the Politburo, Le Duc Tho, not Giap, that directed
the People’s Army to begin their final offensive by attacking Ban Me Thuot in
the highlands. After the reunification of Vietnam, General Giap remained as
Minster of National Defence until 1980. But it was General Van Tien Dung who
commanded the Vietnamese forces that invaded Cambodia in late 1978 and defended
northern Vietnam in February-March 1979 when China invaded in retaliation.
Clearly Giap’s star was
fading fast. In 1976 General Van Tien Dung delivered the military report to the
fourth national party congress. Giap was given the task of delivering the
party’s policy on science and technology. Giap unsuccessfully opposed the
post-war assignment of the military to domestic construction tasks; nonetheless
he bowed to the party’s principles of “democratic centralism” and defended
party policy in public. In February 1980 Giap relinquished the defence portfolio
but retained his position as Deputy Premier. In 1981,Giap was demoted from
first to third Deputy Premier. In March 1982 Giap was dropped from the
Politburo at the fifth national party congress but retained his seat on the
Central Committee.
Giap had enormous
popularity and had strong support in the party. In the-mid 1980s his supporters
pushed unsuccessfully for Giap to replace Pham Van Dong as Premier. It was also
strongly rumoured that Giap’s supporters also campaigned for him to become
party leader. Giap then shuttled between various posts first with
responsibility for demography and family planning and then education. His
government service ended in 1991 when he retired as Deputy Premier. It is
difficult to make an evaluation of Giap’s contributions during this period.
Vietnam was led by a collective leadership that until 1986 continued to follow
the failed Soviet model of central planning. What is remarkable is that Giap
continued in government service until aged eighty.
The China Factor: General
Giap’s long career clearly indicates that he was willing to accept Chinese aid
and even advice but struggled to retain Vietnam’s autonomy and independence of
action. Giap leaned more towards Moscow than Beijing during the war because of
the “big ticket” military hardware the Soviet Union provided including
anti-aircraft missiles. Although the Soviets reportedly advised Giap “to do an
Afghanistan” by invading Cambodia and overthrow the Chinese-backed Khmer Rouge,
Giap opposed large-scale military intervention. Giap was fully retired when
China and Vietnam normalized relations in 1991.
During his retirement
years Giap is best known for two famous interventions. In 2004 he penned an
open letter to the Politburo complaining about the intervention of military
intelligence (Tong Cuc II) in internal party affairs. In 2009 he attracted much
public attention when he wrote three open letters to party and state leaders
warning of the environmental impact of Chinese-financed bauxite mining in the
Central Highlands. He took the matter further by arguing that it was a threat
to national security. This struck a resonant cord among the general population
who were growing increasingly restive about Chinese assertiveness in Vietnam’s
Eastern Sea.
Military Strategist Par
Excellence: General Vo Nguyen Giap was a world-class military strategist. Who
could have imagined in 1944, when he took command of a 34-man platoon, that in
ten years he would raise an army of several hundred thousand and defeat the
French, one of the most powerful military forces at that time. Giap gained
enormous prestige and credibility for his victory at Dien Bien Phu which lasted
throughout his lifetime.
His popularity rests on
several foundations. First, millions of Vietnamese served in the People’s Army
when Giap was their commander and Minister of National Defence. He inspired
them. These war veterans and their families constitute a very large
constituency in Vietnam. Secondly, after Ho Chi Minh and perhaps Pham Van Dong,
General Giap was the only national leader to stand out from the colourless
collective leadership. He was charismatic and articulate and inspired the
general populace. He was the national hero Vietnam needed when it was faced
with foreign aggression from 1946 until 1973 and again in the 2000s when China
threatened Vietnam’s sovereignty in the East Sea. Giap’s post-military career
took him into important areas related to development: science and technology,
demography and family planning, and education. This was a third foundation for
his popularity. General Giap’s popularity rests on successful career spanning
sixty-four years of active service to the Vietnam Communist Party, the People’s
Army of Vietnam and the Vietnamese nation. He will be forever remembered for
creating the People’s Army of Vietnam and masterminding the defeat of two major
foreign powers.
General Giap has clearly
captured the emotions of both the younger and older generations in Vietnam.
This is witnessed by the spontaneous outpouring of grief by citizens of
all ages who flocked to his home to light candles and incense. General Giap
embodied the Vietnamese character of using their intellect to devise tactics
and strategies by which the seemingly weak could defeat the strong.
[3]
“Chủ nghĩa thực dân là một hình thức của chủ nghĩa đế quốc (tự cho là mình có)
sứ mệnh thiêng liêng và được Gót thiết kế để mang lại sự giải phóng - tâm linh,
văn hóa, kinh tế và chính trị - hiểu là bằng cách chia sẻ các phước lành của
văn minh đã khởi hứng từ Kitô của phương Tây, với một dân tộc dã man còn đang
đau khổ dưới sự áp bức của quỉ Satan, ngu muội và bệnh tật. Chủ nghĩa thực dân
được thực hiện bởi sự kết hợp của các lực lượng chính trị, kinh tế và tôn giáo,
tất cả hợp tác dưới một chế độ (tự cho là) tìm kiếm lợi ích cho cả hai: kẻ thống
trị và kẻ bị trị”.
Đó
là ý nghĩa nền tảng của giọng điệu tự cao là “mang ánh sáng văn minh đi khai
hóa” đám dân “An-mam-mít bẩn thỉu”.
(“Colonialism
is a form of imperialism based on a divine mandate and designed to bring
liberation - spiritual, cultural, economic and political - by sharing the
blessings of the Christ-inspired civilization of the West with a people
suffering under satanic oppression, ignorance and disease, effected by a
combination of political, economic and religious forces that cooperate under a
regime seeking the benefit of both ruler and ruled”)
J.H. Boer, Christianity and Islam Under Colonialism in Northern Nigeria (Jos: Institute of Church and Society, 1988) p. 7.
J.H. Boer, Christianity and Islam Under Colonialism in Northern Nigeria (Jos: Institute of Church and Society, 1988) p. 7.
[4]
Những câu cuối bài thơ “Ulysses”, của Alfred Tennyson.
[…
We are not now that strength which in old days
Moved
earth and heaven, that which we are, we are;
One
equal temper of heroic hearts,
Made
weak by time and fate, but strong in will
To
strive, to seek, to find, and not to yield.]