(On the
Genealogy of Morality
Zur
Genealogie der Moral)
Friedrich
Nietzsche
3.
Lương tâm của anh ta? . . . Chúng ta có thể giả định, từ
sớm trước, khái niệm “lương tâm”, mà chúng ta gặp ở đây trong dạng cao nhất, hầu
như không phối hợp thiếu vững chặt của nó, đã có một lịch sử dài và những biến thái đằng sau nó. Có
thể trả lời với chính mình, và cũng một cách tự hào nữa, và do đó có đặc quyền để nói “có” với chính mình,
- như tôi đã nói, đó là một trái cây chín mùi, nhưng cũng là một trái cây muộn:
- lâu biết chừng nào trái cây này, đắng và chua, phải treo trên cây! Và thậm
chí còn lâu hơn, đã không có gì để xem trái cây này, - không ai đã có thể hứa hẹn
nó sẽ có ở đó, mặc dù điều chắc chắn rằng tất cả mọi thứ về thực vật đã sẵn
sàng và đương lớn dần về hướng nó! – “Làm thế nào bạn đem một ký ức cho một con
thú, con người? Làm thế nào bạn gây ấn tượng với một não thức đãng trí, một phần
đần độn, một phần ngu ngốc này, sự hiện thân này của tính lãng quên, để nó sẽ dính
chặt?” . . . Câu hỏi già cũ này đã không được giải quyết với những giải pháp và
phương pháp nhẹ nhàng, như có thể tưởng tượng được, có lẽ trong thời tiền sử của
con người không có gì khủng khiếp và kỳ lạ hơn kỹ thuật giúp trí nhớ của hắn. “Một điều phải được đem thiêu đốt để
nó nằm trong ký ức: chỉ một gì đó tiếp tục làm
tổn thương mới nằm trong ký ức” - đó là một đề nghị từ thứ tâm lý học cổ nhất
(và bất hạnh thay là đã sống lâu nhất) trên trái đất. Bạn hầu như muốn thêm vào
rằng bất cứ nơi nào trên trái đất bạn vẫn còn tìm thấy những bóng ma ám muội của
lễ nghi, nghiêm trọng, bí ẩn, trong cuộc sống của con người và những dân tộc, một
điều-gì-đó tất cả mọi người, mọi nơi nghĩ đến mà khiếp hãi, được sử dụng để làm
những lời hứa, những cam kết và dâng lời ngợi khen [1],
vẫn còn làm chạy việc: quá khứ, quá
khứ lâu dài nhất, sâu nhất, khó khăn nhất, hít hơi thở trên chúng ta và trỗi dậy
trong chúng ta khi chúng ta trở thành “nghiêm trọng”. Khi một người quyết định
rằng hắn phải tạo một ký ức cho chính mình, điều đó không bao giờ xảy ra mà
không có máu, những hành hạ đau khổ và những hy sinh: những hy sinh kinh hoàng
và tước đoạt nhất (sự hy sinh đứa con đầu lòng thuộc vào điều này) [2],
hành hình kinh tởm nhất (lấy thí dụ, thiến dương vật), những nghi lễ ác độc nhất
của tất cả những giáo phái tôn giáo (và tất cả các tôn giáo, ở nền tảng tối đa
của chúng, là những hệ thống của sự ác độc) - tất cả điều này có nguồn gốc của
nó trong bản năng đặc biệt đó vốn đã khám phá rằng đau đớn là trợ giúp mạnh mẽ
nhất cho những phươmg pháp ghi nhớ. Trong một ý hướng nhất định nào đó, toàn bộ
chủ nghĩa khổ hạnh thuộc vào đây: một ít ý tưởng phải được làm thành không thể
nhổ lên được, hiện diện khắp nơi, không thể quên, ‘cố định’, ngõ hầu thôi
miên toàn bộ hệ thống thần kinh và trí thức thông qua những ý tưởng cố định này
- và những cách thức và những lối sống khổ hạnh là một phương pháp để giữ những
ý tưởng này khỏi phải cạnh tranh với tất cả những ý tưởng khác, làm cho chúng
‘không thể nào quên được’. Ký ức càng tồi tệ của con người đã có, những phong tục
càng đáng sợ hơn đã xuất hiện: đặc biệt, sự khắc nghiệt của hình luật cho một
đo lường về khó khăn nhiều đến đâu nó đã có trong chinh phục sự lãng quên, và bảo tồn một vài đòi hỏi sơ khai của đời
sống xã hội trong não thức của những nô lệ này về tính khí và mong muốn của thời
điểm. Người Đức chúng ta chắc chắn không coi mình là một dân tộc đặc biệt tàn bạo
hoặc nhẫn tâm không biết thương xót, lại đặc biệt càng ít như vô trách nhiệm và
vui nay không biết mai; nhưng bạn chỉ phải nhìn vào bộ luật hình sự cổ của
chúng ta ngõ hầu xem đã khó khăn như thế nào trên mặt đất này để gây giống “một
quốc gia của những nhà tư tưởng” (nói thể tôi có ý là: cái quốc gia ở châu Âu vẫn còn chứa tối đa của sự tin cậy, sự trang
nghiêm, sự vô vị nhạt nhẽo và điềm đạm, những phẩm chất vốn cho nó quyền nuôi
giống tất cả mọi loại quan lại châu Âu). Những người Đức này đã tạo một ký ức
cho chính họ với những phương pháp khủng khiếp, ngõ hầu làm chủ những bản năng
bình dân cơ bản của họ và sự sống sượng tàn bạo của cùng loại: hãy nghĩ đến những
hình phạt Đức cổ, chẳng hạn như ném đá đến chết (thậm chí cả truyền thuyết để
đá cối xay rơi xuống đầu của người phạm tội), buộc trên bánh xe rồi xoay vần
hay đánh nát cho chết (một phát minh độc đáo và đặc biệt của thiên tài Đức
trong lĩnh vực trừng phạt!), dùng ngựa xé thịt, phân thây và chà đạp cho đến chết
(“tứ mã phân thây”), đun sôi tội phạm trong dầu hoặc rượu (vẫn còn trong thế kỷ
14 và 15), tục phổ biến đánh nát thịt rồi lột da (cắt từng dải), cắt thịt vú,
và dĩ nhiên, xát mật ong lên khắp người rồi phơi tội phạm ngoài nắng thiêu dối
và mặc cho ruồi nhặng. Với trợ giúp của những hình ảnh và những thủ tục như vậy,
con người cuối cùng có thể có khả năng giữ lại năm hoặc sáu điều ‘Tôi-không-muốn-bị”
trong ký ức của mình, kết nối với nó là một
hứa hẹn đã được đem cho, ngõ hầu được hưởng những lợi thế của xã hội - và đây
bạn có đấy! Với sự trợ giúp của ký ức thuộc loại này, người ta cuối cùng đã đi đến
‘lý trí! - A, lý trí, sự nghiêm trọng, sự làm chủ những cảm xúc, cái điều thực
sự ảm đạm buồn bã này được gọi là sự phản tỉnh suy ngẫm, tất cả những đặc quyền
và huy hoàng này con người có được: quá đỗi một giá đã phải trả cho chúng! Biết
bao nhiêu máu và kinh hoàng nằm dưới
nền tảng của tất cả “những điều tốt đẹp”! . . .
Sau đó, điều ảm đạm ấy, ý thức về tội lỗi, toàn thể “lương
tâm cắn rứt”, đã nhập vào trong thế giới như thế nào? - Và với điều này chúng
ta quay trở về những người viết phả hệ cho đạo đức của chúng ta. Tôi sẽ nói một
lần nữa - hay có lẽ tôi vẫn chưa
nói ? – họ thì không hay. Không dài hơn năm gang tay của riêng chúng, chỉ đơn
thuần là “kinh nghiệm hiện đại, không kiến thức và không ý định tìm biết quá
khứ, lại còn thiếu một năng khiếu với lịch sử, một ‘thị lực thứ nhì’ hết sức cần
thiết tại điểm này - ấy thế nhưng
họ đi vào tìm lịch sử của đạo đức: tất nhiên, điều này phải theo lôgích để kết
thúc trong những kết quả có hơn là một quan hệ dễ đứt đoạn với sự thật. Cho đến
tận nay, những nhà viết phả hệ cho đạo đức này đã từng bao giờ mơ đến – dù chỉ
xa vời nhất - lấy thí dụ, rằng khái niệm đạo đức chính yếu “Schuld” (“phạm tội”) bắt nguồn từ chính khái niệm vật chất của
“Schulden” (“nợ”)? Hoặc, rằng sự trừng
phạt, như sự báo thù, đã tiến hóa
hoàn toàn độc lập với bất kỳ giả định nào về tự do, hoặc thiếu tự do của ý chí?
- Và điều này cho tới điểm tại đó đã phải trước tiên đạt đến được một mức độ cao của sự nhân hoá, như thế khiến con vật
‘người’ có thể bắt đầu phân biệt giữa những sắc thái nhiều sơ khai hơn của ‘cố
ý’, ‘cẩu thả’, ‘tình cờ’, ‘của não thức vững chắc’ đó và những nghịch đảo của
chúng, và đưa chúng vào trong tính toán khi giải quyết sự trừng phạt. Suy tưởng
không thể tránh đó, vốn bây giờ quá rẻ và xem dường như tự nhiên, và đã phải
đem dùng như một giải thích về như thế nào cảm thức về công lý cách nào đi nữa
có thể xảy ra trên trái đất, “tội phạm đáng bị trừng phạt vì hắn đã có thể hành động cách khác”, thì thực sự là một hình thức
cực kỳ trễ muộn và tế nhị của phán đoán và suy luận của con người; bất cứ ai nếu
nghĩ rằng nó có niên đại từ thuở khởi đầu thì đương sai lầm đặt bàn tay thô tục
của mình trên tâm lý của con người nguyên thủy. Trong suốt hầu hết lịch sử loài
người, hình phạt không được ban phát ra
vì những kẻ đê tiện đã bị buộc phải
chịu trách nhiệm với hành vi của mình, do đó đã không giả định rằng chỉ nên trừng
phạt một mình bên có tội - mà đúng hơn, như cha mẹ vẫn còn trừng phạt con cái họ,
đó đã là thoát ra từ tức giận về một số sai trái đã bị tổn thất, hướng về thủ
phạm, nhưng sự nóng giận này đã giữ lại và sửa đổi bởi ý tưởng rằng mọi thương tổn
đều có tương đương của nó, vốn có thể
được trả lại bằng sự bồi thường, nếu chỉ qua đau đớn của người gây thương tổn. Và từ đâu mà ý tưởng sơ khai, bắt
rễ sâu xa và có lẽ giờ đây không thể nhổ sạch được này có được sức mạnh của
nó, chính ý tưởng này về một tương đương giữa thương tổn và đau đớn? Tôi đã nói
hở nó ra rồi: trong quan hệ hợp đồng giữa chủ
nợ và con nợ, vốn nó là cổ xưa
như như khái niệm của một “chủ thể pháp lý” và chính nó có dính dáng trở lại với
những hình thức cơ bản của mua, bán, mặc cả, đổi chác và buôn lậu.
5.
Là chắc chắn, khi suy nghĩ về những quan hệ hợp đồng này,
như có thể được dự kiến từ những gì trước đây đã mất, gợi lên tất cả những loại
của nghi ngờ và ác cảm với con người nguyên thủy, những người đã tạo ra chúng
hoặc cho phép chúng. Chính ở đây, lời hứa được tạo, chính ở đây, cá nhân tạo lời hứa đã phải có một ký ức đã tạo cho anh ta: chính ở đây, chúng ta
có thể giả sử, là một kho lưu trữ của những điều đau đớn, khó khăn, độc ác. Con
nợ, để để gây tin cậy rằng hứa trả nợ sẽ được thực hiện đúng hẹn, để đem cho một
bảo đảm về tính nghiêm trọng và sự thiêng liêng của lời hứa của mình, và để khắc
nhiệm vụ và bổn phận trả nợ vào trong lương tâm của mình, con nợ đem cầm cố một
gì đó cho chủ nợ bằng cách giao kèo trong trường hợp người ấy không trả nợ, một
gì đó mà hắn vẫn “sở hữu” và kiểm soát, lấy thí dụ, thân thể hắn, hoặc vợ hắn,
hoặc tự do của hắn, hoặc sự sống của hắn (hoặc, trong một số trường hợp tôn
giáo, thậm chí đời sống bên kia – kiếp sau - của hắn, sự cứu chuộc linh hồn của
hắn, cuối cùng, thậm chí an bình của hắn sau khi đã nằm trong mộ: như ở Egypt,
nơi xác chết một con nợ không khỏi chủ nợ, không tìm được an bình, ngay cả sau
khi đã chôn trong mộ - và an bình này, đúng thực có ý nghĩa rất lớn với dân Egypt).
Nhưng đặc biệt, chủ nợ có thể gây tất cả những loại nhục nhã và tra tấn hành hạ
trên cơ thể của con nợ, lấy thí dụ, xẻo thịt nhiều đến mức xem như tương xứng với
khoản nợ: - đã có từ quan điểm này, ở khắp mọi nơi, từ thuở sớm, những tính toán
đã đi vào biên bản và chi tiết chi ly kinh hoàng, lập dự toán về pháp lý với từng cánh tay, bắp chân và những
bộ phận của cơ thể cá nhân. Tôi xem nó như là tiến bộ nhất định và bằng chứng của
một phép tính toán tự do hơn, rộng rãi hơn, của một giá cả về công lý nhiều
tính Lamã hơn, khi bộ luật Mười Hai Bảng
của Lamã ra sắc lệnh rằng trong trường hợp như vậy, một người chủ nợ đã cắt ít
hay nhiều đến bao nhiêu là không quan trọng, “Si plus minusve secuerunt, ne fraude esto” [3]
. Hãy cùng hoàn toàn rõ ràng về logich của toàn bộ vấn đề bồi thường: nó là đủ
khác thường. Sự tương đương được đem cho bởi sự kiện là thay vì một lợi thế trực
tiếp đền bù cho sự sai trái (vì vậy, thay vì bồi thường bằng đất đai, tiền bạc
hoặc tài sản của bất cứ loại nào), một loại của vui thú được đem cho chủ nợ như là sự trả nợ và bồi thường, - vui thú
của việc được quyền thực hành sức mạnh trên sự hoàn toàn không có quyền lực, mà
không một nghĩ ngợi, vui thú “của làm điều ác cho sự vui thú khi làm điều ác
đó” [4],
sự vui thú của ức hiếp xâm phạm: một vui thú được chủ nợ, cao hơn, thấp hơn và mạt
hơn trên mức thang xã hội đều tất cả ước vọng như giải thưởng, và có thể dễ
dàng xem nó như là một miếng ngon với anh ta, thậm chí một nhấm nháp khai vị cho
hạng cao hơn. Thông qua sự trừng phạt con nợ, chủ nợ dự phần vào trong quyền của những ông chủ: anh ta nữa, cuối
cùng cũng được chia xẻ cái tình cảm được nâng lên cao của tư cách ở trong một địa
vị (có thể) miệt thị và hành hạ một ai-đó như là một kẻ “thấp hèn” - hoặc ít nhất,
khi sức mạnh thực sự của trừng phạt, của đòi hỏi hình phạt, đã được chuyển giao
rồi cho giới “thẩm quyền”, của sự nhìn thấy
con nợ bị khinh miệt và ngược đãi. Vì vậy, sau đó, bồi thường được đền bù bằng
một bảo đảm về tàn ác, và được hưởng quyền lấy tàn ác để xử sự. –
6.
Trong lĩnh vực này
của những bắt buộc pháp lý, sau đó, thế giới khái niệm đạo đức của ‘nợ’, ‘lương
tâm’, ‘nhiệm vụ’, ‘nhiệm vụ thiêng liêng’, đã có đất sinh sôi nảy nở của nó - tất
cả đã bắt đầu với một sự đổ máu triệt để xuốt trước đến sau và kéo dài, giống như
khởi đầu của tất cả những sự việc lớn lao trên trái đất. Và chúng ta được phép
hay không – để đừng thêm rằng thế giới này đã hầu không bao giờ thực sự mất một
mùi nhất định nào đó của máu và tra tấn? (ngay cả với Kant quen thuộc: phạm trù
mệnh lệnh đạo đức bốc mùi của tàn ác. . .). Trong cùng một cách, đã là ở đây có
sự liên kết kỳ lạ và có lẽ không-thể-tháo-gỡ-được giữa ý tưởng của “nợ và đau
khổ” đã đầu tiên đan móc vào nhau. Tôi hỏi lại: đến mức độ nào thì đau khổ có
thể là một đền bù cho những món ‘nợ’? Đến mức độ nó làm một ai-đó đau khổ là vui thú trong hình thức cao nhất của nó,
và đến mức độ mà bên bị thương nhận được một phản-vui-thú (đau khổ) lớn lao
khác thường để đổi lại với thương tổn và đau khổ đã gây ra bởi thương tích: làm cho một ai-đó đau khổ, - là một bữa tiệc đích thực, một gì đó, như tôi
đã nhắc đến, vốn giá của nó tăng càng cao, trái ngược với thứ bậc và vị trí xã
hội của chủ nợ. Tôi nói tất cả những điều này trong ức đoán: vì những điều như
vậy chìm ẩn bí mật như chôn ngầm dưới lòng đất là khó khăn để thăm dò tìm hiểu
được, chưa kể còn là lúng túng; và
bất cứ ai lóng ngóng vụng về cố gắng xen nhận xét vào khái niệm ‘trả thù’ chỉ
đơn thuần che khuất và làm tối ám cái nhìn sâu sắc của riêng mình, hơn là làm
sáng tỏ nó (- trả thù tự nó chỉ dẫn chúng ta trở về cùng một vấn đề: “sao có thể
là được hài lòng để làm một ai-đó
bị đau khổ?”). Có vẻ như với tôi rằng tinh tế và thậm chí hơn nữa giả nhân giả
nghĩa của con vật thuần-hóa nuôi làm kiểng trong nhà (nghĩa là con người hiện đại,
nghĩa là chúng ta) nổi loạn chống lại một sự thực hiện mạnh mẽ thật sự của mức
độ vốn với nó sự ác độc là phần của
niềm vui lễ hội tưng bừng của cổ thời, thực vậy, và nó là một tạo phần trong gần
như tất cả vui thú họ có được; về mặt khác, nhu cầu về sự ác độc của họ hiện ra
ngây thơ và vô tội làm sao, và ‘cái ác tâm hờ hững’ đó thì nền tảng làm sao (hay,
dùng những từ của Spinoza, sympathia
malevolens – lòng hiểm ác thương cảm) họ giả định là một thuộc tính bình thường của con người - : làm nó là một
gì đó mà lương tâm nồng nhiệt nói “có”! Một cái nhìn xuyên thấu hơn có lẽ sẽ có
thể khám phá, ngay cả hiện giờ, rất nhiều những vui thú lễ hội nguyên thủy và
cơ bản nhất của con người; trong Beyond
Good and Evil , VII, mục 229 [5]
(trước đó trong Daybreak, I, phần 18,
77, 113) [6]
tôi đã giơ một ngón tay cảnh giác với sự trí thức hóa ngày càng lớn và “thần
thánh hóa” đối với sự tàn ác, vốn nó chạy dọc xuốt toàn bộ lịch sử văn hóa cao đẳng
(và quả thực, tạo dựng nó trong một ý nghĩa quan trọng). Ở tất cả những sự kiện
quan trọng, không lâu trước đây, đã là không thể tưởng tượng được nếu tổ chức một
đám cưới vua chúa, hoặc lễ hội trọn đầy kích thước cho người dân, mà không có những
hành quyết, tra tấn hoặc có lẽ một đốt sống-người-dị-giáo [7],
tương tự như vậy, không có gia đình quí phái nào mà không có những sinh vật, với
chúng người ta có thể tháo xả ác ý của họ và những lời chế nhạo độc ác mà không
bị trừng phạt (- hãy nhớ Don Quixote, lấy thí dụ, tại cung điện của bà Công tước:
[8]
ngày nay, chúng ta đọc toàn bộ Don
Quixote với một vị đắng miệng, nó là gần như là một thử thách, nó sẽ làm
chúng ta dường như rất lạ lùng và không thể hiểu nổi tác giả và những người
đương thời của ông, - họ đọc nó với một lương tâm sáng sủa như là quyển sách khôi
hài vui vẻ nhất, nó làm họ cười với nhau đến gần chết). Nhìn thấy đau khổ làm tốt
cho bạn, làm cho đau khổ, còn hơn thế nữa - là một mệnh đề gợi ý khó khăn,
nhưng là một mệnh đề gợi ý mạnh mẽ, cổ xưa, người-quá-đỗi-người, nhân tiện đây,
ngay cả loài hầu nhân cũng có cơ ghi tên vào sổ: như người ta nói, khi suy nghĩ
ra những trò độc ác kỳ lạ, họ dự đoán, và vì nó đã xảy ra, tác hành xấu thành một
sự ‘trình diễn’ về những gì con người sẽ làm. Không có đối xử tàn ác, không có
lễ hội ăn mừng vui vẻ: đó là những gì giai đoạn lâu đời nhất và dài nhất trong
lịch sử loài người dạy chúng ta - và sự trừng phạt, cũng thế nữa, có những khía
cạnh lễ hội ăn mừng vui vẻ rất mạnh mẽ
giống như vậy! –
7.
- Nhân tiện đây, những ý tưởng này
chắc chắn không làm tôi mong cung cấp giúp cho những người bi quan của chúng ta
thêm những kiến thức mới chói tai và nứt vỡ của nhờm tởm với đời sống; trái lại,
tôi muốn tuyên bố rõ ràng để ghi lại rằng trong thời gian khi loài người không
hề cảm thấy xấu hổ đối với sự tàn ác của họ, đời sống trên trái đất đã vui vẻ lạc
quan hơn ngày nay, với những kẻ bi quan của nó. Vòm trời trên con người tối đen
tỷ lệ thuận với sự gia tăng của tình cảm xấu hổ của nó với tư cách là con người. Viễn tượng bi quan mệt mỏi, mất tin tưởng trước
câu đố bí hiểm của đời sống, cái “Không” băng giá của nôn mửa với đời sống – những
điều này không phải là những dấu hiệu của kỷ nguyên tà ác vô đạo nhất của loài người: nhưng ngược lại, chúng chồi ra
ánh sáng như loài hoa cỏ hoang dại mọc nửa cạn nửa nước, chúng chỉ có trong môi
trường sống tự nhiên của chúng, đầm lầy, - tôi muốn nói sự nuông chiều đĩ thõa
và rao giảng giáo lý bệnh hoạn, bằng phương tiện đó, con thú “người” cuối cùng
đã được dạy để biết xấu hổ về tất cả những bản năng của nó. Trên con đường trở thành
một “thiên thần” (không sử dụng một từ mạnh hơn ở đây)[9], con người đã đau bụng ăn không
tiêu, và đã phát triển cái lưỡi mềm như lông, như thế khiến hắn tìm thấy không
chỉ sự vui sướng và sự ngây thơ vô tội của loài vật thì kinh tởm, nhưng tự thân
đời sống là nhạt nhẽo vô vị: - vì vậy mà thỉnh thoảng, hắn tự đẩy mình lùi lại,
bịt mũi và bất đắc dĩ đọc lại một liệt kê gồm những tính chất đặc biệt gai góc
xúc phạm của mình, với vua chiên Innocent thứ Ba.
Lê Dọn Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất
(June/2012)
(còn tiếp ...)
[1]
commendation: từ French cổ, gốc từ
Latin commendatio(n-), nguyên gốc có nghĩa là ca ngợi và dâng linh hồn người
chết vào tay gót chăm sóc.
[2]
Sự kiện hy sinh đứa con đầu lòng cho Gót được ghi chép rất nhiều trong kinh
Thánh, như tục lệ tôn giáo của vùng Trung Đông – điển hình là chuyện Gót đòi
Abraham giết đứa con trai đầu lòng Isaac đem lên núi Moriah. và đoạn kinh Thánh
nổi tiếng – trong Exodus 13:1-2 – khi Gót bảo Moses phải hy sinh những trẻ con
và thú vật đầu lòng cho Gót.
“Gót
nói với Moses: Dâng ta tất cả những đứa con đầu lòng, bất cứ gì đầu tiên tử
cung mở cho ra, trong đám dân Israel, cả người và thú, là của
ta”. [“Consecrate to me all the firstborn; whatever is the first to open the
womb among the Israelites, of human beings and animals, is mine. (Ex. 13:1-2)”]
Khi nói cả người
và thú – cho thấy không có nghĩa tượng trưng (như lễ rửa tội); và “consecrate
to God” – dâng hiến cho Gót – có nghĩa là đem giết để cúng.
[3]
“Nếu như họ xẻo thịt, có nhiều hơn hay ít hơn, hãy không xem đó là một vi phạm”
– bảng thứ Ba, mục 6.
[4]
Trong nguyên văn bằng tiếng Pháp – “de faire le mal
pour le plaisir de le faire” -
[5]
Xem phần Phụ Lục, cuối sách này.
[6]
Xem phần Phụ Lục, cuối sách này.
[7]
auto-da-fé: đốt sống người ‘rối-đạo’
của những tòa án dị giáo của nhà thờ Catô tại Spain.
[8]
Miguel de
Cervantes. Don
Quixote, (1605-1615),
quyển II, chương 31-7.
[9]
Câu của Pascal trong Pensées: “L'homme
n'est ni ange ni bête et le malheur veut que qui veut faire l'ange fait la
bête”- “người không là thiên thần
cũng chẳng là thú vật, và tai ương như muốn rằng ai định làm thiên thần lại làm
như thú vật).