Stefan
Zweig viết về Nietzsche
1.
Trong Về Lai lịch của Đạo đức, cuối Lời nói đầu, Nietzsche ghi: “Sils-Maria, Oberengadin Tháng 7 / 1887”, cho chúng ta biết năm tháng và nơi chốn ông đã viết xong tập luận văn quan trọng này.
Trong Về Lai lịch của Đạo đức, cuối Lời nói đầu, Nietzsche ghi: “Sils-Maria, Oberengadin Tháng 7 / 1887”, cho chúng ta biết năm tháng và nơi chốn ông đã viết xong tập luận văn quan trọng này.
Đọc Ecce
Homo, Nietzsche cho chúng ta biết thêm: “đến 20 September tôi mới
rời Sils-Maria. Buổi chiều ngày 21, tôi đến Turin – chỗ xứng hợp của
tôi, chốn ngụ cư của tôi, từ đấy. Tôi lại thuê cùng chỗ đã
trọ trong mùa xuân, tòa nhà số 6, phố Carlo Alberto; đối diện
với cung điện đồ sộ Carignano, nơi vua Vittorio Emanuele đã chào đời; phòng nhìn
xuống công trường Carlo Alberto, và nhìn xa đến tận những ngọn đồi. Không
chần chừ và không để mình bị quấy rầy dù chỉ khoảnh khắc, tôi quay sang
làm việc ngay …” [Nếu theo dõi hành trình của ông trong năm 1888 – ông đã ở các
thành phố: Nice (Jan- đầu Apr); Turin (Apr-May);
Sils-Maria (đầu Jun - cuối Sep); và về lại Turin (cuối Sep - Dec)].
Cảnh trong
phim
Dias de Nietzsche em Turim
|
Sau đó, chuyện kể rằng
– Sáng ngày 3, Jan/1889, vừa ra khỏi cổng, – số 6, phố Carlo Albert
nói trên, – được vài bước, trên công trường Carignano, Nietzsche thấy
một người đương nặng tay đánh con ngựa kéo xe của mình, vì xem dường nó không
chịu đi. Nietzsche chạy tới, che làn roi quất, tức tưởi choàng ôm cổ con vật
đáng thương. Chuyện cũng kể ông đã ngã quị xuống đường, bất tỉnh; được chủ nhà (hay
hàng xóm) can thiệp với cảnh sát, đưa ông về phòng trọ. Nằm bất động suốt hai
ngày mới hồi tỉnh, nhưng ông không bao giờ hồi phục sau biến cố đó. Trong những
ngày sau, ông gửi đến những bạn bè quen, một loạt thư, nội dung hết sức bất
thường, như dấu hiệu cho thấy chứng suy
sụp thần kinh của ông đã trầm trọng.
Những chi tiết có
khác biệt đôi chút tùy nguồn kể, nhưng biến cố ngã xuống đường phố Turin là thực. Khi
ấy Nietzsche mới có 45 tuổi; nó chấm dứt một thời kỳ 10 năm kể từ
1879, vì thiếu sức khỏe ông đã từ nhiệm tại đại học Basel -
đây là quãng đời nay đây mai đó, nhưng đầy sáng tạo
của Nietzsche.
Chuẩn đoán bệnh của ông
khi ấy là “tê liệt cấp tính”. Sau một năm trong một bệnh viện tâm thần ở Jena . Năm 1890, ông được
mẹ đưa về quê hương ấu thời Naumburg, khi bà mất vào năm 1897, Elisabeth, em
gái đã đưa ông về Weimar .
Trong 10 năm tàn phế cuối đời này, chúng ta có thể thấy Nietzsche trong
những ảnh chụp có râu dày rậm, áo trắng, nằm dựa trên giường – nhìn kỹ, đôi mắt
sâu đã mất tinh anh. Giai đoạn này ông
đã nổi tiếng, nhiều khách đến thăm; nhưng ông thường im lặng, bình thản, trong một
trạng thái hoàn toàn mất trí. Ông chết ở Weimar ,
ngày 25 tháng 8 năm 1900, khi mới 55 tuổi. Ngày nay, chúng ta có thể viếng mồ
ông ở Röcken, một làng
rất nhỏ gần Lützen trong xứ Saxony, vùng đông nước Đức. Triết gia Friedrich
Wilhelm Nietzsche ra đời tại đây, ngày 15, Oct /1844.
2.
Dĩ nhiên ở đây, chúng ta
quan tâm với triết lý Nietzsche, và để hiểu tư tưởng của ông – trước tiên và
tối thiểu, không có cách nào ngoài khác là phải đọc chính những gì ông viết,
thay vì những gì viết về ông - dù do ai đi nữa – hay những chi tiết về đời ông.
Thế nhưng, điều thứ nhất cũng dẫn đến điều mới nói sau - chúng ta cũng có đôi
lúc đặt sách xuống, cảm phục nghĩ ngợi về thân thế tác giả. Biết thêm vài chi
tiết chọn lọc về người viết – cũng có khi giúp chúng ta hiểu hơn, gần hơn và
cảm được về những gì người ấy viết.
Đặc biệt trong trường
hợp Nietzsche, như Ecce Homo nhắc trên – một thứ tự
truyện, trong đó ông nói về mình và những tác phẩm của mình, giọng điệu đôi chỗ
đã có phần ra ngoài lề lối bình thường – và khi ông ngã quị trên đường phố đá
lát của thành phố Turin, tập sách nhiều tai tiếng đó còn dở dang, viết chưa
xong, và một tác phẩm khác nổi tiếng nhất của ông, Der Wille zur Macht
(The Will to Power) – vẫn là những ghi chú không xếp đặt, nằm đó
đây trong đống bản thảo, sau này do tay người em gái thu tập, thêm thắt và cho
xuất bản.
Sils-Maria |
Những ngày đẹp nhất
năm 1888, ông kể trong Ecce Homo là ở làng Sils-Maria – thuộc
Upper Engadine, nam Switzerland sát với bắc Ý, vùng thung lũng có hồ nước xanh
im lắng bóng những đỉnh núi tuyết; nơi mùa hè, Nietzsche thường đến. Ông viết
xong - chỉ một tuần, The Twilight of the Idols –
và xong The Antichrist, cộng
với The Wagner Case, Ecce Homo, và Dionysos
Dithyrambs là 5 tác phẩm trong chỉ mộtmùa thu 1888 đó, ông kể
“cho đến nay, tôi chưa bao giờ hưởng một mùa thu như thế này.
Tôi không bao giờ nghĩ một-gì giống vầy có thể xảy ra ở trần gian”. Chúng
ta nghe ra được giọng của định mệnh, và đã có thể đoán trời xanh thẳm năm đó là
màu thu tỉnh táo cuối cùng của đời ông. Xuống Turin, thủ đô vùng Piedmond, đầy
những công trình kiến trúc lịch sử, nhà bảo tàng và nhà hát opera ông
ưa thích – ông thường đi dạo dọc bờ sông Pô của thành phố – những địa danh
trên, nay đã gắn với tên tuổi ông, thành những điểm đến nổi tiếng của du lịch
văn hóa.
Cuộc đời ông ngắn ngủi và
đơn giản – Thời đầu tiên là những năm thơ ấu với gia đình và đi
học (1844-1869). Ông học rất giỏi. Trong 6 năm theo học trường nội trú
Schulpforta (1858–64)
nổi tiếng thời
ấy của hội nhà thờ Luther, ông đã xuất sắc về môn cổ điển (ngôn ngữ và văn
chương Hylạp Lamã). Năm 20 tuổi, vào đại học Bonn, học ngữ văn cổ điển và thêm thần
học, để sửa soạn nối nghiệp nhà; từ các cụ nội ngoại đến cha ông đều là những thày
chăn chiên, và mẹ ông là một đại diện vùng quê cho hội nhà thờ Tinlành
Lutheran. Nhưng Nietzsche sớm chán ghét
đạo Kitô, ông bỏ thần học, chuyển sang đại học Leipzig , chỉ theo ban cổ điển. Trong một thư gửi em gái
Elisabeth, ông nói - nếu một người muốn được bình an trong tâm hồn và hạnh
phúc thì nên có đức tin, nhưng nếu muốn trở thành một môn đồ của chân lý dù nó có
thể là “đáng sợ và xấu xí”, do thế phải đi tìm. Xuất
sắc và nổi tiếng, nên khi sắp tốt nghiệp, còn chưa nhận bằng tiến sĩ, dù mới 24
tuổi, ông đã được mời giữ ghế giáo sư đặc biệt môn Ngữ văn cổ điển
(Extraordinary Professor of Classical Philology), năm sau ông thành giáo sư
thực thụ, tại một trường đại học cổ nhất và uy tín nhất
của Switzerland – nơi những tên tuổi như Erasmus, Paracelsus, Daniel
Bernoulli, Jacob Burckhardt, Leonhard Euler, Eugen Huber, Carl Jung, Karl
Barth, và Hans Urs von Balthasar, trước và sau ông đã từng giảng dạy. Ông bắt
đầu với những bài giảng về Socrates, bi kịch Hylạp và thái độ sống, nhìn đời theo tinh thần Dionysus.
Một điểm đặc biệt trong đời Nietzsche là bệnh tật; từ
những năm đầu trung học, Nietzsche đã phải nghỉ học nhiều vì chứng nhức đầu và
đau mắt. Thời gian tại đại học, phải bỏ ngang nghĩa vụ quân sự, khi ông sớm bị thương ở xương ngực, chữa không
lành. Khi chiến tranh Pháp-Đức (lúc ấy là Prussia ) bùng nổ năm 1870, ông tình
nguyện nhập ngũ, phục vụ lao động trong nhà thương quân đội, nhưng chỉ được hai tuần, đã
nhiễm bệnh lỵ (dysentery)
và xưng cổ (diphtheria), phải giải ngũ. Trở về Basel, ông
được nhà trường cho nghỉ dưỡng bệnh, và chính trong thời gian này, năm 1871, ông viết The Birth of Tragedy, tác phẩm xuất
bản đầu tiên của ông. Sau đó, sức khỏe ngày càng yếu kém, bệnh tật không giảm nhưng chỉ tăng; đến
1879, ông phải sớm bỏ nghề, chấm dứt thời kỳ 10 năm dạy học (1869–1879) tại Switzerland .
Những gì ông viết khiến
ông nổi tiếng về sau (Thus Spoke
Zarathustra, Beyond Good and Evil, The Gay
Science, The Genealogy of Morals) đều ở trong giai đoạn 10 năm
ngắn ngủi kế tiếp (1880-1888) này. Đây là giai đoạn ông đóng vai du khách, sống
qua những thành phố: Venice , Genoa , St. Moritz , Sils-Maria, Rome ,
Sorrento , Nice và Turin . Sau hai lần cầu hôn đều bị từ chối, với người bạn gái là Lou Andreas-Salomé ; ông
không lập gia đình, sống một mình. Bằng chút lương hưu trí non; ông nay đây mai
đó, mùa đông trốn lạnh, xuống Ý; mùa hè tránh nóng, lên núi
Alpes, Switzerland, một người Lang
thang với cái Bóng của mình, lặng lẽ hứng chịu sự hành hạ của bệnh tật,
năng lực trút vào viết sách – điều chúng ta được Stefan Zweig mô tả tinh tế
trong bản văn sau đây. Nhanh chóng, bệnh thần kinh đã đến, lấy đi của nhân
loại, có lẽ một triết gia có ảnh hưởng vào bậc nhất ở hai thế kỷ qua, và
mười năm sau (1889-1900), cái chết có e dè, chậm chân hơn nhưng cuối
cùng cũng đến, mang đi nốt người con tàn phế của gia tộc Nietzsche.
Trước đây, thường mặc
nhận bệnh mất trí và cái chết của ông có nguyên nhân là chứng neurosyphilis,
dẫn chứng xoay quanh một câu chuyện – một lần, thời còn sinh viên, bè bạn
đùa nghịch, lừa đưa ông vào nhà thổ; nhưng cũng chính chuyện này kể thêm – biết
mình đang ở đâu, ông tìm một piano (Nietzsche còn là một nhạc sĩ, viết
nhạc cổ điển) ngồi xuống chơi đàn hết buổi, chờ bạn bè xong xuôi, về chung; cho
thấy phỏng đoán trên chỉ là thiên kiến. Những nghiên cứu y khoa nghiêm chỉnh
mới đây, dựa trên những các triệu chứng còn ghi lại, đã đi đến kết luận khác:
chứng bệnh của ông có thể là frontotemporal dementia – một
chứng mất trí nhớ, đặc biệt tác động vào thùy não trước và thái dương
(giải thích chứng nhức đầu một bên, và đau mắt kinh niên của ông), nguyên nhân
của nó như thế là di truyền: cha ông, trước đã chết lúc mới 36 tuổi vì chứng
mềm não, và người em trai độc nhất của ông cũng chết – dù không rõ nguyên nhân
–lúc chỉ mới 2 tuổi.
Bài văn đặc biệt sau
đây của văn hào Stefan Zweig cho chúng ta một chân dung sống động về quãng đời
này – mê mải viết, trong phòng trọ lạnh lẽo, cô độc bên đống chai lọ đựng thuốc
cầm bệnh - của Nietzsche.
Tôi dịch như một ghi chú
cho Về Lai lịch của
Đạo đức, và cho Stefan Zweig - cùng một ngậm ngùi
không nguôi.
Lê DọnBàn
“Ông là người dè dặt, cao khoảng một mét bảy hai [1], nhưng mình hơi khòm, mắt gần như mù, giữ gìn kín đáo, lãnh đạm, và đặc biệt lễ độ, ông sống trong những nhà trọ khiêm tốn ở Sils Maria, Nizza, Mentone, Rome, Turin [2]. Cẩn thận, con người cận thị ngồi xuống bàn ăn; thận trọng, người có dạ dày yếu nhược xem xét tất cả những món trên mơnu: Liệu trà có không quá đậm hay không, không biết thực phẩm có quá nhiều gia vị hay không, vì trong ăn uống phải kiêng khem của ông, mỗi nhầm lẫn sẽ rối loạn đường tiêu hóa bất thường của ông, và mỗi quá độ dinh dưỡng sẽ tàn phá những thần kinh mong manh của ông hàng nhiều ngày. Không có ly uống vang, không có cốc thủy tinh uống bia, không rượu, không cà phê ở chỗ ông ở, không xìgà và không thuốc lá sau bữa ăn của ông, không có gì gây kích thích, làm tươi tỉnh, hoặc tạo thư thái cho ông. Chỉ bữa ăn đạm bạc ngắn ngủi, và một chút trao đổi lịch sự, qua loa, bằng một giọng nhẹ nhàng khi thỉnh thoảng có dịp với một người hàng xóm (nói như một người qua nhiều năm đã không quen nói chuyện, và sợ bị hỏi quá nhiều).
Bản thảo viết tay của N. |
Quấn mình trong áo khoác ngoài và một chiếc phula len (vì cái bếp khốn khổ chỉ xông khói nhưng không tỏa ấm), những ngón cóng lạnh, kính dí sát xuống giấy, tay ông vội vã viết hàng giờ - những từ mà mắt mờ khó có thể đọc thành chữ. Hàng giờ, ông ngồi như thế và viết cho đến khi mắt ông cháy lụi”.
Stefan Zweig
(1881-1942),
trích từ Master Builders (1936).
trích từ Master Builders (1936).
Lê Dọn Bàn tạm dịch – bản nháp thứ nhất
(Aug/2012)
[1] Chi tiết bản tiếng Anh: “5’ 8’’ = năm
foot, tám inch”.
[2] Năm 1879
Nietzsche từ nhiệm ghế giáo sư cổ điển của trường đại học Basel , Switzerland ,
vì lý do sức khỏe. Ông sống nay đây mai đó trong những nhà trọ ở Germany , Switzerland ,
và Italy .
Đây là giai đoạn ông viết những tác phẩm chủ yếu và nổi tiếng nhất, trình bày
tư tưởng của mình. Mùa hè, ông thường ở Switzerland ;
và mùa đông, ở Italy .
Tháng Jan/1889, tại thành phố ông yêu thích Turin , Italy ;
Nietzsche bắt đầu bị chứng suy nhược thần kinh, sau đó không viết gì nữa.