Cái Ta và cái
Đó
Sigmund Freud (1856-1939)
The Ego and the Id
Das Ich und das Es (1923)
Chương III
Cái Ta và cái Ta Lý tưởng
(the Ego and the Super-Ego (Ego Ideal))
Nếu Ego đã chỉ đơn thuần là phần của Id bị sửa đổi bởi ảnh hưởng của hệ thống nhận thức, là đại diện của
thế giới thực tại bên ngoài trong não thức, chúng ta hẳn đã có một trạng thái
đơn giản của sự việc để giải quyết. Nhưng có thêm nữa một phức tạp.
Những cân nhắc đã dẫn
chúng ta đến thừa nhận về sự hiện hữu của một cấp độ trong Ego, một sự khác biệt bên trong Ego,
nó có thể được gọi là “Ego-lý tưởng”
hay “Ego-Trên” [1],
đã từng được phát biểu ở chỗ khác [2].
Chúng vẫn còn giữ là đúng [3].
Sự kiện rằng phần này của Ego được
kết nối với ý thức kém vững chắc hơn là điều mới lạ đòi giải thích.
Tại điểm này, chúng ta
phải mở rộng phạm vi của chúng ta một chút. Chúng ta đã thành công trong sự giải
thích chứng nhiễu loạn thần kinh đau đớn của bệnh u uất [4]
bằng cách giả định rằng (trong những ai bị đau khổ vì bệnh đó) một đối tượng bị
mất đã được dựng lên lại bên trong Ego
- đó là nói rằng, một sự dồn-năng-lực-vào-đối tượng [5]
đã được thay thế bằng một sự đồng hóa nhân cách [6] [7].
Tuy nhiên vào thời điểm đó, chúng ta đã không thấu hiểu trọn vẹn sự quan trọng
của tiến trình này, và đã không biết nó là phổ biến và điển hình đến như thế
nào. Từ sau đó, chúng ta đã đi đến hiểu rằng loại này của sự thay thế có một
vai trò rất lớn trong xác định hình thức được Ego tiếp nhận, và nó tạo một đóng góp yếu tính, hướng tới xây dựng
những gì được gọi là “nhân cách” của nó. [8]
Ngay ở mới rất khởi đầu,
trong giai đoạn (phát triển tâm lý) miệng [9]
sơ khai của cá nhân, sự dồn-năng-lực-vào-đối tượng và sự đồng hóa nhân cách thì
chắc chắn là không phân biệt được với nhau [10].
Chúng ta chỉ có thể giả định rằng về sau này trong sự dồn-năng-lực-vào-đối
tượng tiến hành từ Id, vốn nó cảm
nhận những khuynh hướng gợi dâm như những nhu cầu. Ego, khi bắt đầu là vẫn còn yếu ớt, trở nên biết rằng có sự dồn-năng-lực-vào-đối
tượng, và hoặc là miễn cưỡng chấp thuận chúng, hoặc là cố gắng rào ngăn chúng
bằng tiến trình dồn nén, trấn áp. [11]
Khi xảy ra rằng một người
phải buông bỏ một đối tượng tình dục, khá thường xuyên tiếp sau đó có sinh ra
một sự thay đổi của Ego người ấy, vốn
chỉ có thể chỉ được mô tả như một sự dựng lên đối tượng bên trong Ego, như nó xảy ra trong chứng thần kinh
bệnh bị u uất; bản chất chính xác của sự thay thế này chúng ta còn chưa biết
rõ. Nó có thể là bởi sự tiếp nhận (vô thức) này, vốn nó là một loại thoái bộ - quay
trở về - lại với cơ chế của giai đoạn miệng, ego làm đối tượng được buông bỏ dễ dàng hơn, hoặc khiến cho tiến
trình đó thành có thể có được. Nó có thể là sự đồng hóa nhân cách này là điều
kiện độc nhất, theo đó Id có thể
buông bỏ những đối tượng của nó. Dù ở bất kỳ mức độ tỷ lệ nào, đặc biệt là
trong những giai đoạn đầu của phát triển tâm lý cá nhân, nó là một tiến trình
rất thường xuyên, và nó làm cho có thể giả định được rằng cá tính của Ego là một kết tủa của những sự dồn-năng-lực-vào-đối
tượng đã từ bỏ, và rằng nó có gồm chứa lịch sử của những lựa chọn-đối tượng
này. Dĩ nhiên, phải được thừa nhận ngay từ bắt đầu, rằng có những mức độ khác
nhau về khả năng của kháng cự, vốn nó quyết định về mặt đến mức độ nào mà cá tính của một cá nhân ngăn rào cản,
hoặc chấp nhận những ảnh hưởng của lịch sử của những lựa chọn-đối tượng gợi dâm
của người ấy. Trong những phụ nữ, những người đã có nhiều kinh nghiệm trong
tình yêu, dường như là không có khó khăn trong việc tìm kiếm dấu tích của những
sự dồn-năng-lực-vào-đối tượng trong những đường nét đặc điểm của cá tính của
họ. Chúng ta cũng phải ghi nhận để xem xét những trường hợp của – sự dồn-năng-lực-vào-đối
tượng và sự đồng hóa nhân cách - xảy ra đồng thời, có nghĩa là, trong đó sự sửa
đổi về nhân cách xảy ra trước khi đối tượng đã được buông bỏ. Trong những
trường hợp như thế, sự thay đổi trong nhân cách đã có khả năng giữ sự gắn bó
với đối tượng [12] được sống
xót, và trong một ý hướng nào đó, bảo tồn nó.
Nhìn từ một góc độ khác,
có thể nói được rằng sự chuyển hóa này - từ một lựa chọn-đối tượng mang tính
gợi dâm [13]
vào trong một sự sửa đổi của Ego -
cũng là một phương pháp qua đó Ego có
thể giành lấy được kiểm soát trên Id và làm sâu đậm những quan hệ của nó
với Id - với sự phí tổn, đúng vậy,
của sự thu nhận đến một mức độ lớn rộng trong những kinh nghiệm của Id. Khi Ego đảm đương những đặc trưng của đối tượng, đó là nói rằng, nó đương
ép đẩy chính nó vào với Id như là một
đối tượng-tình yêu, và cố gắng đương làm sự mất mát của id thành tốt, - bằng cách nói: '”Nhìn này, ngươi có thể yêu ta,
cũng vậy – ta quá giống đối tượng”.
Việc chuyển hóa của libido-đối tượng vào trong libido-tự-yêu-mình [14],
thế nên xảy ra hàm chứa rõ ràng một sự từ bỏ những mục tiêu tình dục, một sự
hủy-tình dục [15]- do đó, là
một thứ thuộc về sự thăng hoa [16].
Thực vậy, câu hỏi nêu lên, và xứng đáng được xem xét cẩn thận, cho dù đây không
phải là con đường phổ quát đi đến thăng hoa, cho dù tất cả thăng hoa không xảy
ra qua sự trung gian của Ego, vốn bắt
đầu bằng thay đổi libido-đối tượng
tình dục sang thành libido-tự-yêu-mình
và sau đó, có lẽ, tiếp tục để đem cho nó một mục tiêu khác [17].Về
sau này, chúng ta sẽ xem xét liệu những thăng trầm thay đổi bản năng khác có
thể cũng không là kết quả của sự chuyển hóa này hay không, lấy thí dụ, liệu nó
có thể không gây nên một sự phân giải những bản năng khác loại vốn chúng đã
được hỗn hợp với nhau hay không [18].
Mặc dù là một ngoài đề với
mục tiêu của chúng ta, chúng ta không thể tránh, không dành một lúc chú ý lâu
hơn đến những đồng hóa nhân cách với đối tượng của Ego. Nếu chúng nắm được sự kiểm soát và trở thành quá nhiều, mạnh
mẽ quá đáng, và không tương thích với nhau, không lâu sẽ xảy ra một hậu quả về
bệnh lý. Nó có thể đi đến một sự gián đoạn của Ego trong hệ quả của những đồng hóa nhân cách khác nhau trở thành
bị cắt đứt khỏi lẫn nhau vì những kháng cự, có lẽ bí mật của những trường hợp
của những gì được miêu tả là “đa nhân cách” [19]
là những đồng hóa nhân cách khác nhau lần lượt tiếp phiên nhau chiếm giữ ý
thức. Ngay cả khi sự việc không đi xa đến như thế này, vẫn còn lại câu hỏi về
những xung đột giữa những đồng hóa nhân cách khác nhau, trong đó Ego đí đến thành phân mảnh, những xung
đột vốn sau cùng tất cả, đã không thể được mô tả như hoàn toàn thuộc về mặt bệnh
lý.
Cấu trúc (thêm super-ego) |
Tuy nhiên toàn bộ vấn đề
thì quá phức tạp đến nỗi sẽ là cần thiết để đi vào nó với nhiều chi tiết hơn.
Sự phức tạp của vấn đề là do hai yếu tố: nhân vật trong vị trí tam giác của mặc
cảm Oedipus và điều kiện cấu thành về tính dục-lưỡng tính của mỗi cá nhân.
Trong hình thức đơn giản
của nó, trường hợp của một đứa trẻ phái nam có thể được mô tả như sau. Ở một
tuổi còn rất nhỏ, đứa bé phát triển một sự dồn-năng-lực-vào-đối tượng với người
mẹ của nó, vốn nguồn gốc ban đầu liên hệ đến bầu vú của người mẹ, và là nguyên
mẫu của một lựa chọn-đối tượng trên mô thức nghiêng-dựa-xúc-cảm-trên-người-khác
[21];
đứa bé trai đối phó với cha nó bằng đồng hóa nhân cách chính nó với ông. Trong
một thời gian, hai quan hệ này tiến hành bên nhau, cho đến khi những mong muốn
tình dục của đứa bé về phía người mẹ của mình trở nên sâu mạnh hơn, và người
cha của nó được nhận thức như là một trở ngại cho chúng: mặc cảm Oedipus bắt
nguồn từ điều này[22]. Sự đồng
hóa nhân cách của đứa bé với cha nó sau đó nhuốm một màu thù địch và thay đổi
vào trong một mong ước muốn loại bỏ người cha của nó, ngõ hầu chiếm chỗ của ông
với người mẹ của nó. Từ đấy về sau, mối quan hệ của đứa bé
với người cha là pha trộn mâu thuẫn, nó có vẻ như sự mâu thuẫn vốn được thừa kế
trong sự đồng hóa nhân cách từ khi khởi đầu đã trở thành biểu hiện. Một thái độ
nước đôi của đứa trẻ với người cha, và một sự gắn bó với đối tượng thuộc một
loại chỉ-thuần-thương yêu với người mẹ của đứa trẻ, làm nên nội dung của mặc
cảm Oedipus tích cực đơn giản trong một đứa bé trai.
Theo cùng với sự đánh đổ
mặc cảm Oedipus, sự dồn-năng-lực-vào-đối tượng của đứa bé vào người mẹ của mình
phải bị buông bỏ. Chỗ của nó có thể được lấp đầy bằng một trong hai điều: hoặc
là một đồng hóa nhân cách với mẹ của nó, hoặc một sự tăng cường của sự đồng hóa
nhân cách của nó với cha của nó. Chúng ta đã quen với việc coi kết quả kể sau
là bình thường hơn; nó cho phép quan hệ thương yêu với người mẹ ở trong chừng
mức lưu giữ được. Trong cách này, sự giải thể của mặc cảm Oedipus [23]
sẽ củng cố nam tính trong nhân cách của một đứa bé. Trong một cách tương tự
cũng hệt như vậy [24], kết quả
của thái độ Oedipus trong một đứa bé gái có thể là một sự tăng cường sự đồng
hóa nhân cách của đứa bé gái với người mẹ (hoặc là lần đầu tiên dựng lập một
đồng hóa nhân cách giống như thế) – một kết quả vốn nó sẽ sửa chữa nhân cách nữ
tính của đứa bé.
Những đồng hóa nhân cách
này không phải là những gì chúng ta đã chờ đợi (từ giải thích trước đó – đầu
chương này), vì chúng không đưa những đối tượng bị buông bỏ vào trong Ego; nhưng kết quả thay thế này có thể
cũng xảy ra, và quan sát trong những đứa bé gái dễ dàng hơn trong những đứa bé
trai. Phân tích (tâm lý) rất thường xuyên cho thấy rằng một đứa bé gái, sau khi
nó đã phải từ bỏ cha mình như là một đối tượng-thương yêu, sẽ mang nam tính của
mình lên cao trội và đồng hóa chính nó với cha (có nghĩa là, với đối tượng đã
bị mất), thay vì với mẹ của em. Điều này rõ ràng sẽ tùy thuộc vào không biết
liệu nam tính trong phân bố của đứa bé gái - bất cứ là gì có thể bao gồm trong
nó - là có đủ mạnh hay không.
Thế nên, sẽ hiện ra trong
cả hai phái tính, sức mạnh tương đối của những phân bố tính dục nam tính và nữ
tính là những gì quyết định xem liệu kết quả của mặc cảm Oedipus sẽ là một đồng
hóa nhân cách với người cha hay với người mẹ. Đây là một trong những cách mà
trong đó tính dục-lưỡng tính tham dự vào trong những thăng trầm tiếp theo sau
của mặc cảm Oedipus. Nhưng cách kia thậm chí còn quan trọng hơn. Đối với một
người có một ấn tượng rằng mặc cảm Oedipus (trong dạng) đơn giản là không có
cách nào là hình thức phổ biến nhất của nó, nhưng có phần đúng hơn là trình bày
một sự đơn giản hóa hoặc lược đồ hóa, là chắc chắn, vốn thường xuyên đủ biện minh
cho những mục đích thực tiễn. Nghiên cứu kỹ lưỡng hơn, thường để lộ cho thấy
mặc cảm Oedipus phức tạp hơn, vốn nó là hai lớp, tích cực và tiêu cực, là do ở tính
dục-lưỡng tính nguyên thủy có mặt trong trẻ em: đó là nói rằng, một đứa bé trai
không chỉ đơn thuần có một thái độ nước đôi với cha mình và một lựa chọn-đối
tượng cảm xúc thương yêu hướng tới mẹ của mình, nhưng đồng thời nó cũng cư xử
như một bé gái, và trưng bày một thái độ cảm xúc thương yêu có tính chất nữ
tính với người cha của mình, và một sự ghen tuông và thù địch tương ứng về
hướng người mẹ của mình. Đó là yếu tố phức tạp này được tính dục-lưỡng tính đem
vào làm cho rất khó khăn để có lấy được một cái nhìn rõ ràng về những sự kiện
trong kết nối với những lựa chọn-đối tượng sớm nhất và những đồng hóa nhân cách
sớm nhất, và lại còn nhiều khó khăn hơn để mô tả chúng cho có thể hiểu được. Nó
thậm chí có thể là sự mâu thuẫn được trưng bày trong những quan hệ với cha mẹ
nên được hoàn toàn gán với tính tính-dục-lưỡng-tính, và như tôi đã trình bày ở
trên, rằng nó không phải là đã phát triển ra từ sự đồng hóa nhân cách trong hệ
quả của sự tranh chấp đối lập [25].
Trong quan điểm của tôi, trong
tổng quát, và hầu như đặc biệt ở chỗ nào có liên quan đến những bệnh nơ-rô [26],
được khuyến cáo là nên giả định có sự có mặt của mặc cảm Oedipus phức tạp. Kinh
nghiệm phân tích tâm lý sau đó cho thấy rằng trong một số những trường hợp, một
thành phần này hoặc thành phần khác biến mất, ngoại trừ những dấu vết chỉ vừa
đủ để có thể phân biệt, vì vậy mà kết quả là một chuỗi có ở một đầu là mặc cảm
Oedipus tích cực bình thường, và một đầu kia là mặc cảm Oedipus tiêu cực đảo
ngược [27],
trong khi những thành viên - ở khu vực giữa – trưng bày một hình thức hoàn
chỉnh nghiêng nặng về đầu này hoặc đầu kia của hai bộ phận của nó. Vào lúc mặc cảm Oedipus giải thể, bốn
khuynh hướng mà nó bao gồm, tự chúng sẽ tự thu gộp thành nhóm theo cách giống
như để tạo ra một đồng hóa nhân cách với cha và một đồng hóa nhân cách với mẹ.
Sự đồng hóa nhân cách với cha sẽ giữ lại sự gắn bó với đối tượng với người mẹ
vốn thuộc về mặc cảm tích cực, và sẽ đồng thời thay thế sự gắn bó với đối tượng
với người cha vốn thuộc mặc cảm đảo ngược; và cũng đúng giống như thế, mutatis mutandis, với sự đồng hóa nhân
cách với mẹ. Cường độ tương đối của hai sự đồng hóa nhân cách trong bất kỳ cá
nhân nào sẽ phản ánh ưu thế trong cá nhân ấy với một trong hai khuynh hướng
tình dục.
Kết quả tổng quát mở rộng của giai đoạn tính dục bị mặc cảm
Oedipus chế ngự; do đó có thể được
nhìn nhận là sự hình thành của một kết đọng trong Ego, bao gồm hai đồng hóa
nhân cách này hợp nhất với nhau trong một cách nào đó. Sự sửa đổi này của Ego
giữ lại vị trí đặc biệt của nó, nó đối mặt với những nội dung kia của Ego, như
một Ego-lý tưởng, hay Super-ego.
Iceberg analogy |
Tuy nhiên, Super-ego không chỉ đơn thuần là một dư
lượng của những lựa chọn-đối tượng sớm nhất trước đây của Id; nó cũng đại diện cho một sự hình thành-phản ứng sung sức chống
lại những lựa chọn đó. Quan hệ của nó với Ego
thì không bị kiệt quệ bởi giới răn: “Ngươi phải
nên là như thế này (giống như cha ngươi). Nó cũng bao gồm cấm kỵ: “Ngươi không được phép là như thế này (giống
như cha ngươi) - có nghĩa là, ngươi không được phép làm tất cả những gì ông ấy
làm: có những điều nào đó là đặc quyền của ông ta”, khía cạnh hai mặt này của Ego-lý tưởng xuất phát từ thực tế là Ego-lý tưởng có công tác là phải trấn áp
mặc cảm Oedipus, đúng vậy, chính là do biến cố mang tính cách mạng đó mà nó có
được sự hiện hữu của nó. Rõ ràng là sự trấn áp mặc cảm Oedipus đã không là nhiệm
vụ dễ dàng. Cha mẹ của đứa trẻ, và đặc biệt là cha của nó, đã được coi là trở
ngại trong sự thực hiện những mong muốn Oedipus của nó; thế nên Ego trẻ thơ của nó tự củng cố để thực
hiện sự trấn áp bằng cách dựng đúng chướng ngại này bên trong chính nó. Nó đã
vay mượn sức mạnh để làm điều này, nói như thế có nghĩa, từ người cha, và món
vay này đã là một hành động quan trọng cực kỳ lớn lao. Super-ego giữ lại những cá tính của người cha, trong khi mặc cảm
Oedipus càng mạnh mẽ và càng nhanh chóng ngã quị xuống chân sự trấn áp (dưới ảnh
hưởng của uy quyền, nhà trường, giáo dục tôn giáo và sách vở) bao nhiêu, sự
thống trị của Super-ego trên Ego sau này trở đi càng chặt chẽ nghiệt
ngã hơn bấy nhiêu - trong hình thức của
lương tâm hoặc có lẽ một cảm xúc vô thức về tội lỗi [28].
Tôi sẽ đưa ra liền ngay (chương V) một gợi ý về nguồn gốc của quyền lực của nó để
thống trị theo lối này - nguồn gốc, đó là, của cá tính có tính ép buộc của nó
vốn tự thể hiện trong hình thức của một thể loại mệnh lệnh.
Nếu một lần nữa, chúng ta
xem xét nguồn gốc của Super-ego như
chúng ta đã mô tả nó, chúng ta sẽ nhận ra rằng nó là kết thành của hai yếu tố hết
sức quan trọng, một thuộc về một bản chất sinh học và một thuộc về một bản chất
lịch sử: đó là, trong con người có thời gian kéo dài thuộc về thời thơ ấu vốn
mình không tự lực được và phải bị phụ thuộc, và biến cố mặc cảm Oedipus của
người ấy, sự trấn áp mà chúng ta đã được cho thấy là được kết nối với sự gián
đoạn của sự phát triển libido trong
thời kỳ tiềm ẩn và với lúc bắt đầu thời kỳ có hai giai-đoạn [29]
của đời sống tình dục của con người. Theo như một giả thuyết của phân tích tâm
lý, hiện tượng vừa nhắc cuối cùng, vốn xem ra có vẻ là khác thường với con
người, là một di sản của sự phát triển văn hoá tất yếu vào thời đại băng giá.
Sau đó, chúng ta thấy, sự khác biệt của Ego
và Super-ego là không phải vấn đề của
ngẫu nhiên; nó đại diện cho những đặc tính quan trọng nhất của sự phát triển
của cả hai – của cá nhân và của chủng loại; thực vậy, bằng cách đem cho biểu
hiện vĩnh viễn với ảnh hưởng của cha mẹ, nó làm cho tồn tại mãi mãi sự hiện hữu
của những yếu tố mà với chúng, nó có nợ nguồn gốc của chính nó.
Phân tích tâm lý đã từng bị
trách cứ dịp này qua dịp khác, sự làm ngơ về phía cao thượng hơn, đạo đức hơn,
phía siêu-nhân của bản chất con người. Khiển trách chắc chắn là bất công, cả về
lịch sử lẫn về phương pháp. Trước nhất, vì ngay từ lúc khởi đầu rất sớm, chúng
ta đã qui gán chức năng của sự trấn áp thúc dục cho những khuynh hướng đạo đức
và thẩm mỹ trong Ego, và thứ hai, đã
từng có một sự từ chối tổng quát, để nhìn nhận rằng nghiên cứu của khoa phân
tích tâm lý, giống như một hệ thống triết học, không thể sản xuất được một cấu
trúc lý thuyết hoàn chỉnh và làm sẵn, nhưng đã phải tìm lối đi của nó từng bước
dọc theo theo con đường hướng tới sự hiểu biết những tế nhị phức tạp của não
thức bằng một sự mổ xẻ phân tích của cả hai những hiện tượng bình thường và bất
thường. Vì vậy, miễn là chừng nào chúng ta phải tự bận tâm chính mình với việc
nghiên cứu về những gì bị dồn nén trong đời sống tinh thần, là không cần thiết để
chúng ta chia sẻ trong bất kỳ những lĩnh hội (nhận biết) có tính kích động nào
về phần – phía cao hơn của con người là ở những chỗ nào. Nhưng giờ đây, chúng
ta đã bắt tay vào sự phân tích của Ego,
chúng ta có thể đưa ra một trả lời cho tất cả những người có ý thức đạo đức đã từng
bị sốc, và những người đã phàn nàn rằng chắc chắn là phải có một bản chất cao
hơn trong con người: “Rất đúng”, chúng ta có thể nói, “và ở đây chúng ta có bản
chất cao hơn đó, trong Ego-lý tưởng [30]
này hay Super-ego, đại diện của mối
quan hệ của chúng ta với cha mẹ chúng ta. Khi chúng ta là những trẻ nhỏ, chúng
ta đã biết những bản chất cao hơn này, chúng ta đã ngưỡng mộ chúng và đã sợ hãi
chúng, và sau đó chúng ta đã đem chúng vào trong chính chúng ta.
Do đó Ego lý tưởng là thừa kế của mặc cảm Oedipus, và thế nên nó cũng là
sự biểu hiện của những xung lực mạnh nhất và những dao động thăng trầm khát
khao tính dục quan trọng nhất của Id.
Bằng cách thiết lập Ego-lý tưởng này,
Ego đã làm chủ được mặc cảm Oedipus,
và đồng thời tự đặt chính nó trong đối tượng khuất phục với Id. Trong khi Ego thì yếu tính là đại diện của thế giới bên ngoài, cho thực tại, Super-ego đứng tương phản với nó, như là
đại diện của thế giới bên trong, của Id.
Những mâu thuẫn giữa Ego và lý tưởng,
như chúng ta giờ đây sẵn sàng để tìm gặp, cuối cùng sẽ phản ánh sự tương phản
giữa những gì là thực tại và những gì là tâm thần, giữa thế giới bên ngoài
và thế giới bên trong.
Thông qua việc hình thành
về lý tưởng, những gì sinh học và những thay đổi thăng trầm của giống người đã
tạo ra trong Id và đã bỏ lại đằng sau
trong nó thì được Ego tiếp nhận lấy
và tái-kinh nghiệm trong quan hệ với chính nó như một cá nhân. Nhờ vào cách
trong đó Ego-lý tưởng được thành
hình, nó có dư dật nhất những liên kết với sự tiếp thụ thuộc tiến trình hình
thành chủng loại của mỗi cá nhân - di sản cổ xưa của nó. Những gì đã thuộc về
phần thấp nhất của đời sống tinh thần của mỗi người chúng ta thì thay đổi,
thông qua sự hình thành của lý tưởng, vào trong những gì là cao nhất trong não
thức con người theo mức thang của chúng ta về những giá trị. Nó sẽ là vô ích,
tuy nhiên, để cố gắng để hạn định, địa phương hóa ego lý tưởng vào một nơi, ngay cả trong ý hướng mà chúng ta đã hạn
định, địa phương hóa Ego, hoặc để gài
nó vào trong bất kỳ sự những tương đồng nào với sự giúp đỡ của chúng vốn ta đã cố gắng để hình
dung mối quan hệ giữa Ego và Id.
Là dễ dàng để cho thấy
rằng Ego lý tưởng trả lời cho tất cả
mọi thứ vốn được mong đợi từ bản chất cao hơn của con người. Như là một thay thế
vào chỗ một mong mỏi về người cha, nó chứa cái mầm mà từ đó tất cả những tôn
giáo đã tiến hóa [31]. Sự tự phán
xét vốn tuyên bố rằng Ego thất bại, không
đạt đến đến lý tưởng của nó, tạo ra ý thức tôn giáo về hèn mọn vốn những tín đồ
tôn giáo gọi đến nó trong mong cầu của mình [32].
Khi một đứa trẻ lớn lên, vai trò của người cha được những thày giáo và những
người có uy quyền khác tiếp tục thực hiện, những giảng dạy và những cấm đoán
của họ vẫn còn giữ lại mạnh mẽ trong Ego-lý
tưởng, và tiếp tục, trong hình thức lương tâm, hành xử sự kiểm duyệt đạo
đức. Sự căng thẳng giữa những đòi hỏi của lương tâm và những hoàn thành thực sự
của Ego được trải nghiệm như là một ý
thức về tội lỗi. Những cảm xúc xã hội dựa trên sự đồng hóa nhân cách với những
người khác, trên cơ sở của có cùng một ego
lý tưởng.
Tôn giáo, luân lý và một ý
thức xã hội - những yếu tố chủ yếu ở phía cao hơn của con người [33]
- đã gốc khởi đầu là một và cùng là một điều. Theo giả thuyết tôi đưa ra trong Totem and Taboo [34],
theo một cách tiến trình hình thành chủng loại, chúng đã được thu tập thoát từ
mặc cảm-với-người-cha [35]:
kiềm chế tôn giáo và đạo đức qua tự thân tiến trình của làm chủ mặc cảm
Oedipus, và cảm xúc xã hội qua sự cần thiết để khắc phục sự kình địch mà sau đó
vẫn còn lại giữa những thành viên của thế hệ trẻ hơn về sau. Phái tính nam xem
dường như đã nhận vai đi đầu trong tất cả những tiếp thụ đạo đức này, và dường
như sau đó chúng đã được truyền cho phụ nữ bằng sự thừa kế vắt chéo [36].
Ngay cả ngày nay, những cảm xúc xã hội phát sinh trong cá nhân như một cấu trúc
thượng tầng được xây dựng trên những xung lực của sự ghen tị kình địch với anh
chị em của mình. Vì sự thù địch không thể được thỏa mãn, phát triển một sự đồng
hóa nhân cách với đối thủ cũ. Nghiên cứu về những trường hợp nhẹ của đồng tính
luyến ái xác nhận sự nghi ngờ rằng trong trường hợp này, cũng thế, sự đồng hóa
nhân cách là một thay thế cho một lựa chọn-đối tượng cảm xúc vốn đã chiếm chỗ
của thái độ hung hăng, thù địch. [37]
Tuy nhiên, với sự đề cập
đến tiến trình hình thành chủng loại [38],
nảy lên những vấn đề tươi mới, vốn từ đó khiến người ta bị cám dỗ lùi lại một
cách thận trọng. Tuy nhiên, điều đó không giúp được gì, sự cố gắng phải được
làm – bất kể một lo sợ rằng nó sẽ phơi trần toàn bộ cố gắng của chúng ta là
không thỏa đáng. Câu hỏi đặt ra là: cái nào đã là, Ego của con người nguyên thủy hoặc Id của hắn, vốn đã thu tập tôn giáo và đạo đức trong những ngày đầu
đó ra khỏi mặc cảm-với-người cha? Nếu nó đã là Ego của hắn, tại sao chúng ta không nói những điều này đã đơn giản
được thừa hưởng bởi Ego? Nếu nó đã là
Id, làm thế nào điều đó phù hợp với
nhân cách của Id? Hay là chúng ta sai lầm trong việc kéo
sự khác biệt giữa Ego, Super-ego, và Id trở về tận thời gian ban đầu sớm như thế? Hoặc không phải là
chúng ta nên thành thật thú nhận rằng toàn thể quan niệm của chúng ta về những
tiến trình trong Ego thì không giúp
đỡ gì trong sự hiểu biết về sự phát sinh giống loài, và không thể áp dụng cho
nó được?
Trước tiên, chúng ta hãy
cùng trả lời những gì dễ dàng trả lời nhất. Sự phân định giữa Ego và Id phải không chỉ được gán về với con người nguyên thủy, nhưng thậm
chí phải về tận những tổ chức sinh vật đơn giản hơn nhiều, vì nó là sự biểu
hiện không tránh được của ảnh hưởng của thế giới bên ngoài. Super-ego, theo giả thuyết của chúng ta,
thực sự bắt nguồn từ những kinh nghiệm vốn đã dẫn đến tục thờ vật tổ (totemism). Câu hỏi không biết đó là Ego hoặc Id vốn đã trải nghiệm và thu tập những điều này, nhanh chóng đi đến
thành là không. Ngẫm nghĩ tức thời cho chúng ta thấy rằng không có những thăng
trầm bên ngoài có thể được Id kinh
nghiệm hoặc trải qua, ngoại trừ bằng lối của Ego, vốn nó là đại diện của thế giới bên ngoài với Id. Tuy nhiên, không phải là có thể nói
được về sự thừa kế trực tiếp trong Ego.
Nó là ở chỗ này mà hố sâu giữa một cá nhân thực sự và khái niệm về một chủng
loại trở nên hiển nhiên. Hơn nữa, người ta phải đừng có nhận lấy sự khác biệt
giữa Ego và Id trong một ý nghĩa khô cứng, và cũng đừng quên rằng Ego là một phần được biệt phân một cách đặc
biệt của Id (chương II). Những kinh
nghiệm của Ego dường như lúc đầu đã
bị mất với sự thừa kế; nhưng khi chúng đã được lặp đi lập lại thường cho đến thành
đủ, và có sức mạnh đầy đủ trong nhiều cá nhân trong những thế hệ kế tục nhau,
chúng tự biến đổi, đó là nói, vào trong những kinh nghiệm của Id, những ấn tượng của chúng được sự di
truyền bảo tồn. Thế nên, trong Id,
vốn nó có khả năng là được di truyền, đã buông neo những dư lượng của hiện hữu
của vô vàn không đếm được những Ego,
và khi Ego hình thành nên Super-ego ra từ Id, nó có thể có lẽ chỉ là phục hồi lại những khuôn hình của những Ego cũ, và là mang chúng ra sống lại.
Con
đường trong đó Super-ego đã đi vào thành hiện hữu giải
thích như thế nào những xung đột sớm hơn trước đó của Ego với những kết tập năng-lực-vào-đối tượng của Id có thể được tiếp tục với thừa kế của chúng
là Super-ego. Nếu Ego đã không thành công trong việc làm
chủ cho đích đáng mặc cảm Oedipus, sự kết tập năng lực đầy sinh lực của cái kể
sau, mọc lên từ Id, sẽ đi vào hoạt
động một lần nữa trong sự hình thành phản ứng của ego lý tưởng. Những thông tin liên lạc phong phú giữa lý tưởng và
những xung động bản năng vô thức này giải đáp câu đố về - như thế nào tự thân
lý tưởng có thể đến một mức độ lớn nào đó vẫn còn là vô thức, và không thể tiếp
cận được với Ego. Cuộc đấu tranh đó
đã một lần cuồng nộ ở những tầng sâu thẳm nhất của não thức, và đã không được
đưa đến một chấm dứt bằng sự thăng hoa nhanh chóng và sự đồng hóa nhân cách,
bây giờ được tiếp tục trong một khu vực cao hơn, như bức tranh Trận chiến với dân Huns của Kaulbach [39].
Lê Dọn
Bàn tạm dịch - bản nháp thứ nhất
(Feb/2012)
http://chuyendaudau.blogspot.com/
http://chuyendaudau.wordpress.com
[1] Superego: (tiếng Đức: das
überich, nghĩa đen dịch sang tiếng Anh – “cái ở trên cái-Ta” - “over-I”):
Trong Überich, có ghép hai từ: über + Ich, từ über: chỉ có nghĩa là ở trên, nằm trên,
không có nghĩa như thông thường vẫn hiểu “siêu”, hay “siêu việt” – như khi dịch
– “siêu ngã” - cả. (Sai lầm này cũng tương tự như khi dịch “Übermensch” của Nietzsche là “siêu nhân”).
Trong nhan đề của chương
này, từ Freud gọi super-ego là: Über-Ich và cho chú thích là Ichideal – vậy khi chúng ta đã dịch ego là cái-Ta, tương ứng dịch super-ego
là cái-Ta-Lý tưởng.
[2] [Cf. ‘On Narcissism: an Introduction’ (1914c),
và Group Psychology and the Analysis of
the Ego (1921c).]
[3] [Ngoại trừ rằng tôi dường
như đã bị nhầm lẫn khi gán chức năng của “xoát nghiệm thực tại” này cho super-ego - một điểm cần sửa chữa (Xem
1921c, S.E., 18, 114 và n. 2; I.P.L., 6, 46 và n. 2, và ghi chú của người biên
tập về bài khảo cứu về lý thuyết tâm lý về những giấc mơ (1917d), 14, 220.). Nó
sẽ phù hợp toàn hảo với những quan hệ của Ego
với thế giới của nhận thức, nếu xoát nghiệm thực tại vẫn còn giữ là một nhiệm
vụ của chính Ego. Một số gợi ý sớm
hơn trước đó, về một “hạt nhân của Ego”,
đã không bao giờ được thành hình cho rất rõ rệt, cũng đòi hỏi được đặt cho
đúng, vì chỉ một mình hệ thống Nhận
thức-Ý thức có thể được coi như là hạt nhân của Ego.(Trong Beyond the
Pleasure Principle (1920g) Freud đã nói về phần vô thức của ego như hạt nhân của nó (S.E., 18, 19;
I.P.L., 4, 13); và trong bài khảo cứu sau này về “Humor” (1927d) ông nhắc về super-ego
như là hạt nhân của ego.]
[4] Melancholia: xáo trộn tâm lý với những triệu chứng thần kinh bất
thường – người bệnh có thể lãnh cảm, không thiết gì (apathy); rút lui khỏi đám
đông (withdrawal) và thường nhất với nhiều mức độ nặng nhẹ là u uất, sầu não,
trầm cảm, nhìn đâu cũng thấy tuyệt vọng, đen tối, chán nản (depression)
[5]
“object-cathexis”:
dồn-năng-lực-vào-đối tượng - trong
Phân tích Tâm lý là sự tập trung năng lực, đầu tư ý nghĩa của một cá nhân vào
một “đối tượng” nào đó trong môi trường xã hội và tự nhiên của người ấy. Đối
tượng thường là những gì được người ấy ham muốn, thèm thuồng.
[6]
Identification: đồng hóa nhân cách: lấy người làm mình - hay tự nhận và nhập làm
một, đồng hóa với một đối tượng bên ngoài – Một người “tưởng” hay “tự nghĩ”
mình có những cá tính, phẩm cách hay quan điểm của một người khác, hay nhóm
người khác, thường là người mình yêu thích, hay ngưỡng mộ, xem là thần tượng,
nên muốn giống như, muốn bắt chước. Bắt đầu bằng cách đi đứng, ăn mặc, ngôn
ngữ.
Chúng
ta thấy hiện tượng này – giản dị và hiển nhiên bên ngoài – trong giới trẻ con
mới lớn, chúng bắt chước cách ăn mặc, chải đầu, đội mũ, đi đứng, cầm thuốc lá,
đánh son môi, ... của những nhân vật ngoại quốc xa lạ thấy trên ti-vi hay
xi-nê.
[7] [Mourning and Melancholia (1917e). Standard Ed., 14, 249.]
[8]
[Một vài tham khảo với những đoạn khác trong đó Freud đã bàn luận sự thành lập
nhân cách sẽ thấy trong ghi chú của người biên tập ở cuối bài luận văn về
“Character and Anal Erotism (1908b), Standard
Ed., 9, 175. ]
[9]
Lý thuyết của Freud về năm giai đoạn phát triển tâm lý cá nhân, mỗi giai đoạn
đặt trọng tâm thỏa mãn lạc thú vào một bộ phận cơ thể: giai đoạn miệng (0-18 tháng),
giai đoạn hậu môn (18 tháng - 3 1/2 tuổi), giai đoạn dương vật (3 1/2 tuổi - 6 tuổi), thời kỳ ngầm nghỉ (6 tuổi – dậy thì), và giai đoạn cơ quan sinh dục (dậy thì – trưởng thành). (Oral stage - Anal stage - Phallic stage -
Latency Period - Genital stage).
[10]
[Cf. chương Vii của Group Psychology (1921c). Standard Ed.,
18, 105; I.P.L., 6, 37.]
[11] [Một tương đồng song song
thú vị với sự thay thế của đối tượng-chọn lựa bằng sự đồng hóa nhân cách - đã
được tìm thấy trong sự tin tưởng của những dân tộc sơ khai, và trong những điều
cấm đoán dựa trên sự tin tưởng đó, rằng những thuộc tính của những con vật vốn
được kết nạp được như thức ăn, được tồn tại như là phần của nhân cách của những
người ăn thịt chúng. Như đã được biết nhiều, tin tưởng này là một trong những
gốc rễ của tục ăn thịt đồng loại (cannibalism)
và những ảnh hưởng của nó vẫn còn tiếp tục thông qua hàng loạt những tập quán
của những bữa ăn thịt con vật tổ (totem),
xuống đến tận phép Bí tích thánh thể (trong đạo Kitô). Những hậu quả do niềm
tin này gán cho sự làm chủ về mồm miệng (ăn uống) trên đối tượng quả trong thực
tế đã theo như trong trường hợp của sự lựa chọn đối tượng tình dục muộn hơn về
sau.]
Tin tưởng và thành tập tục
ăn thịt con vật nào đó thì người ăn sẽ có được những tính chất của con vật đó
(thí dụ can đảm, hùng mạnh, mắt sáng, tai thính…) – cũng cùng là tin tưởng kéo
dài đến ngày nay, thí dụ còn thấy trong tập tục gọi là “lễ bí tích thánh thể”
(Lễ Mình máu thánh Chúa) của những tín đồ Ki tô – như khi họ ăn bánh thánh, nếm rượu nho và đồng
thời – được nghe – “đây là máu ta, đây là thịt ta” – hay “Thịt Ta thật là của
ăn, và máu Ta thật là của uống” - và giải thích rõ rệt là “Ai ăn thịt và uống
máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy”. Theo Freud, đây là
di tích của tập tục ăn thịt đồng loại (cannibalism).
Và cầu mong, hay tin tưởng “lấy người làm mình”.
[12]
object-relation: sự gắn bó với đối tượng (theo Freud)
[13]
Erotic object-choice.
[14]
Narcissistic libido.
Libido thường được dùng tổng quát và dịch như “ham muốn tình dục”: Đối với Freud, ham muốn tình dục là một năng
lực tình dục có thể dao động tăng giảm và có thể được chuyển hướng đến bất kỳ
một số lượng những đối tượng nào. Libido
thường được mô tả là động lực thúc đẩy tình dục (“sex drive”). Cathexis như đã chú thich ở trước là -
sự tập trung năng lực vào đối tượng – trong liên hệ với libido có thể được xem là quá trình mà một đối tượng được đầu tư
(dồn đổ vào) với những ham muốn tình dục. Trong trường hợp tự-yêu-mình -
Narcissism, ego trở thành đối tượng
đầu tư với vốn libido – chúng ta có
một Narcissistic libido – trong
đó một cá nhân “mê mệt yêu và đối
tượng là không ai khác, nhưng chỉ chính mình”.
[15]
Desexualization – làm cho mất đi tình dục.
[16] Sublimation: sự thăng hoa (tâm lý): hiện tượng tâm lý nổi tiếng và
có lẽ rất quen thuộc từ lý thuyết tâm lý của Freud - Trong “On Narcissism”,
Freud cho thấy “thăng hoa” hay hiện tượng thăng hoa trong tâm lý, xảy ra khi
não thức hướng libdo-có-đối tượng về những đối tượng vốn chúng không có gì liên
hệ với sự thỏa mãn tình dục. Một nữ tu Kitô, có thể thăng hoa những ước vọng
dục tính của mình vào trong tình yêu với Gót, hay sự tận tâm giúp đỡ những
người nghèo, bệnh. Trong bản văn này, Freud nhấn mạnh rằng sự thăng hao là về
một sự chuyển hướng từ tình dục, và trái ngược với sự lý tưởng hóa là hiện tượng có liên quan đến sư thay đổi
nhận thưucs và giá trị của một đối tượng đặc thù cụ thể nào đó.
Về sự lý tưởng hóa
(idealization), Freud phân biệt như sau: cả hai đều có liên hệ với sự hoạt động
của libido, nhưng trong lý tưởng hóa,
đối tượng của sự đầu tư năng lực libido
thì được đem cho một giá trị vượt quá giá trị thực sự của nó. Freud gợi ý rằng
đàn ông, vì bản tính của sự chọn lựa đối tượng thiên trọng người khác, nên có
khuynh hướng lý tưởng hóa người nữ mà họ phải lòng yêu. Ego có thể tự căng phồng lớn lên trong cách này (đối tượng của mình
lớn thì mình cũng lớn), gây kết quả trong ego
lý tưởng và vai trò của nó trong sự ức chế, dồn nén. Freud giải thích ở trên – thăng hoa là một sự hủy tình dục.
[17] [Bây giờ chúng ta đã phân
biệt giữa Ego và Id, chúng ta phải nhận ra Id như
những hồ chứa lớn của libido (ham
muốn tình dục) đã chỉ ra trong bài viết của tôi về tự-yêu-mình (narcissism)
(1914c). Ham muốn tình dục chảy vào Ego
nhờ vào sự đồng hóa nhân cách mô tả ở trên mang lại sự tự-yêu-mình thứ cấp của
nó. Điểm này sẽ được khai triển ở chương IV.]
[18]
[Freud trở lại chủ đề của câu này trong chương 4 sau - sự hỗn hợp và phân giải những bản năng.]
[19]
Multiple personality.
[20] [Có lẽ nó sẽ vững chắc
hơn để nói “với cha mẹ”, vì trước khi một đứa trẻ đi đến đã có kiến thức chắc chắn về sự khác biệt giữa hai giới, việc thiếu một
dương vật, nó không phân biệt về giá trị giữa cha và mẹ của nó. Gần đây tôi đã
gặp trường hợp của một người phụ nữ trẻ đã có gia đình, câu chuyện của bà cho
thấy rằng, sau khi nhận thấy việc thiếu một dương vật của chính mình, bà đã giả
định nó không thiếu với tất cả
những phụ nữ, nhưng chỉ trong những người mà bà coi là thấp kém, và bà vẫn giả
định rằng mẹ mình phải có một dương vật. Để đơn giản hóa trình bày của tôi, tôi
sẽ chỉ thảo luận về sự đồng hóa nhân cách với người cha.]
[21] Anaclitic –
(Psychoanalysis): tính chất có cảm xúc mạnh mẽ tùy thuộc và người này này hay
người khác. Là một tính cách của một trong hai chiều hướng của nhân cách là:
hướng nội / tự phê phán / tự chủ và nghiêng dựa cảm xúc trên người khác/ lệ
thuộc/cố làm vui lòng người khác (introjective/self-critical/autonomous và
anaclitic/dependent/sociotropic)
[xem bài viết về narcissism, (1914c)]
[22]
[Cf. Group Psychology (1921c), loc.
cit.]
[23]
[bài viết mang cùng nhan đề (1924d), trong đó Freud đã thảo luận vấn đề đầy đủ
hơn]
[24]
[Ý tưởng rằng hậu quả của mặc cảm Oedipus là “tương tự cũng hệt như vậy” giữa
những trẻ gái và trai đã bị Freud bỏ không lâu sau đó. Xem “Some Psychical
Consequences of the Anatomical Distinction between the Sexes” (1925j)]
[25]
[Tin tưởng của Freud vào sự quan trọng của tính tính-dục-lưỡng-tính đã có từ
lâu. Trong bản in đầu tiên của Three
Essays (1905d), lấy thí dụ, ông viết: “Nếu không đem tính tính
tính-dục-lưỡng-tính vào trong giải thích, tôi nghĩ sẽ rất hiếm hoi có thẻ đi
đến một sự hiểu biết về những biểu hiện tính dục vốn có thể thực sự quan sát
được trong những người nam và nữ”. ]
Tình dục lưỡng tính: khái niệm của Freud được đưa vào
phân tâm học - tất cả mọi người đều đồng thời có cả hai khuynh hướng tình dục
nam tính và nữ tính.
Freud dựa lý thuyết của
ông trên các dữ liệu giải phẫu học và thai học: “một mức độ nhất định, sự lưỡng
tính về cơ quan sinh dục trong cơ thể học xảy ra bình thường. Trong mỗi cá nhân
nam hay nữ bình thường, tìm thấy được dấu vết của cơ quan sinh dục của phái
tính đối lập” (1905d, trang 141.).
Sự quan sát này dẫn ông đến khái niệm về một “sự bố trí vật lý ban đầu lưỡng
tính, trong quá trình tiến hóa, đã sửa đổi thành đơn tính, để lại đằng sau chỉ
một vài dấu vết của giới tình kia đã trở thành teo đi”. Nhưng ông đã không áp
dụng khái niệm này vào lĩnh vực tâm thần:
“không thể nào chứng minh đươc một kết nối chặt chẽ giữa giả thuyết tâm
lý lưỡng tính và giả thuyết đã được thiết lập về cơ thể lưỡng tính”.
Dù sao đi nữa, khái niệm
này liên tục đươc nhắc đến và sử dụng trong phân tâm học. Vai trò của tình dục
lưỡng tính trong những giai đoạn phát triển tâm lý tình dục khác nhau giúp xác
định các phương thức khác nhau của con người gắn bó với những đối tượng đồng hya khác phái.
[26]
Neurotics: - hay neurosis: chứng
bệnh nơ-rô: cũng còn gọi là psychoneurosis - Nói chung – những chứng
bênh liên quan đến não thức (bệnh thần kinh) có hai loại – psychosis và neurosis tạm
dich là những chứng bệnh nơ-rô và
những chứng bệnh psy-cô.
Neurosis:
chứng bệnh nơ-rô: rối loạn thần kinh
nhẹ, đặc trưng bởi các triệu chứng như: hay hoặc dễ bị kích đông, lo âu, trầm
cảm, chán nản ngã lòng không còn thiết gì, hoặc có hành vi bị ám ảnh tác động
(hysteria, anxiety, depression, obsessive behaviour)
Psychosis
chứng bệnh psy-cô: bất kỳ hình thức
rối loạn tâm thần nghiêm trọng, trong đó tiếp xúc của cá nhân với thực tại trở
nên hết sức lệch lạc – Có thể có nguyên nhân tâm lý hay hữu cơ, đặc trưng bởi
một sự đánh mất tiếp xúc với thực tại, và không có khả năng suy nghĩ hợp lý.
Một người bệnh psy-cô không thể ứng
xử và mất khả năng hoạt động xã hội bình thường.
[27]
Theo lý thuyết của Freud, - Một người nhận lấy vai trò phái tính của phái tính
đối ngược, thường là một người
homosexual.
[28]
Tôi in nghiêng – nguyên văn “in the form of conscience or perhaps of an
unconscious sense of guilt” – đã “vô thức” sao còn “cảm thức” hay “ý thức’ hay
“cảm giác” được – câu văn tối nghĩa này chỉ có thể hiểu là sự nhấn mạnh của
Freud – “ý thức về tội lỗi” đã thành hình như thế nào trong mỗi cá nhân; nhưng
chủ thể của nó không nhận biết, hay không nhận biết rõ rệt, ít nhất là về nguồn
gốc của nó. Ai nhận biết? tạm hiểu
là người ngoài cuộc như chúng ta, như Freud, hay những nhà phân tâm, còn “đương sự” thì không biết.
[29]
diphasic
[30] ideal ego: ego lý tưởng:
khi não thức phát triển và ego nổi
lên như là một kẻ đàm phán giữa những bản năng của id và những điều kiện của thế giới thực tại, cá nhân cũng trở nên
nhận thức được về những tiêu chuẩn, giá trị, và những điều cấm của môi trường
xã hội đang sống. Những tiêu chuẩn này tạo ra một hình ảnh về một tự ngã hoàn hảo, mà não thức dựng lên như là
một mục tiêu cho ego: ego lý tưởng. Superego hoạt động để duy trì hình ảnh này trong ego. Những thành tích phù hợp với ego lý tưởng - thường đạt được bằng phương tiện của đàn áp những
xung đông mâu thuẫn từ id – có kết
quả trong sự tự hài lòng – được xem là sự tự-yêu-mình thứ cấp (secondary narcissism).
[31]
“Cha chúng ta ở trên trời” – lời cửa miệng quen thuộc của những tin đồ một tôn
giáo quen thuộc. Xem thêm Sigmund Freud
- Tương lai của một Ảo tưởng – bản dịch LDB – tôi đã phổ biến
trên blog này. Cả ba tôn giáo nhận Abraham làm thủy tổ - Juđa , Kytô và Islam.
[32]
“Cầu cho chúng con là những kẻ có tội” – lời cửa miệng quen thuộc thứ hai cũng
của những tin đồ một tôn giáo quen thuộc nói trên.
[33] [Ở điểm này, tôi đặt khoa
học và nghệ thuật sang cùng một bên.]
[34]
Vật tổ và Hèm cấm (Totem und Tabu) -
1913
[35]
Trong Freud, có hai mặc cảm của đứa con xung quanh vài trò người cha – mặc cảm
Oedipus và mặc cảm-bị-thiến (castration complex)
Mặc
cảm Oedipus: được thường liên kết với khái niệm "lo lắng bị thiến"
cho trẻ nam (đứa trẻ trai sợ người cha sẽ thiến mình nếu ông biết được những
khát vọng tình dục thầm kín của mình với người mẹ) và “ghen tị vì thiếu dương
vật” cho trẻ nữ (đứa bé gái cảm nhận mình như thiếu dương vật và sự thu hút của
mình đối với cha cô như là một
phần bị điều kiện bới những mong muốn của cô để sở hữu nó). Những phản ứng của
trẻ em cả nam và nữ - lấy dương vật làm trọng tâm - tạo nên mặc cảm-bị-thiến.
[36]
Cross-inheritance
[37] [Cf. Group Psychology (1921c) và ‘Some Neurotic Mechanisms in Jealousy,
Paranoia and Homosexuality’
(1922b)].
[38]
Phylogenesis
[39]
[Đây là trận chiến, thường được biết dưới tên the Battle of Châlons, xảy ra năm 451, Attila bị quân Romans và
Visigoths đánh bại. Wilhelm von Kaulbach (1805-1874) lấy làm chủ đề cho một
trong những bích họa trang trí, đầu tiên vẽ cho nhà bảo tàng Neues của Berlin.
Trong tranh này, những chiến sĩ tử trận được trình bày như đương tiếp tục cuộc
chiến của họ ở trên vòm trời phía trên chiến trường, theo như một truyền thuyết
có thể truy ngược về thế kỷ thứ 5, Damascius, một người theo phái Plato-Mới].