Lầu Hạc Vàng
(Hoàng Hạc Lâu – Từ Thôi Hiệu đến Nguyễn Du)
Dẫn nhập
Trong những dòng sau đây – tôi sẽ
ôn lục lại những gì mình biết về thơ Đường. Mặc dù là thơ luật Tàu, nhưng rất gần
gũi với những người viết/đọc thơ Việt, cho đến tận giờ. Có người nói – nước Tàu
cống hiến cho nhân loại được 3 món: Trà, Thơ Đường và Thiền [1].
Trà và Thiền có nhiều phần không hoàn toàn của Tàu, nhưng thơ Đường quả thực là
của riêng họ. Ra đời lúc chữ lẫn nghĩa còn hiếm hoi, nên có lẽ vì thế những người
làm thơ của dân tộc thực tế này đã thành lập một nghệ thuật ít chữ ít lời, cô đọng
nhưng không hướng tới tượng trưng (hãy so với những trường thi Hylạp, BaTư và Ấnđộ,
trước sau cùng thời). Được biết thơ Đường một cách gián tiếp lúc mới học tiếng
Việt qua NguyễnVănNgọc – Nam Thi Hợp Tuyển (thơ Việt luật Đường) – rồi học
chữ Hán qua ĐườngThi – TrầnTrọngKim tuyển dịch, cuối cùng khi vào đại học
mới bắt đầu thực sự đọc Đường Thi Tam Bách Thủ – chữ Tàu li ti, dày đặc.
Dịch thơ Đường vốn là một thú tao
nhã, nhưng có ẩn một khía cạnh tâm lý khác – ít nhắc tới – là sự an ủi đem đến
từ nó cho người đọc, người dịch. Chúng ta biết, trong những ngày tạm dung nơi đất
khách, Lệ Thần dịch thơ Đường. Bản thân, tôi thấy rất nhiều tập thơ Đường cong
mép bên gối những vị bạn già – thường là vài năm trước khi mất – của ông cụ
tôi. Họ như tìm được trong thơ Đường những khuây khỏa giữa ngổn ngang thế sự,
thư dãn trong căng thẳng những lúc đất nước nghiêng ngửa các năm 60, 70’s ở
Saigon. Loay hoay đọc, dịch thơ Đường, với lớp người này, có lẽ tương đương như
chúng ta chơi ô chữ ngày nay chăng? Như cố chú tâm với phù phiếm nhưng vô hại,
để tạm xa hay quên đi những khó khăn thực tại đương vượt quá sức chịu đựng,
chưa tìm được phán đoán, hay giải quyết.
Qua những bài thơ Đường danh tiếng,
tôi thử tìm xem những gì làm nên nghệ thuật của nó – nói chung, vốn đến từ các
Đạo gia. Chúng ta biết, Thi và Họa của Tàu đến từ Lão Trang, sau thêm Phật (Thiền),
rồi cả hai hòa làm một trên giấy bản viết thơ hay giấy bồi vẽ tranh thủy mặc Đường
Tống
Cũng đặt chúng vào khung cảnh văn
hóa nước Tàu cổ thời, với các ý niệm về thời gian, không gian, nhân sinh, cũng
như ngôn ngữ và chữ viết (và tư tưởng) còn giới hạn của họ, để tìm xem các yếu
tố nào đã làm nên sự thành công của thơ Đường.
Bắt đầu với Hoàng Hạc Lâu của
Thôi Hiệu là một bài thơ rất quen thuộc, rồi phân tích và so sánh với một bài
cùng tên của Nguyễn Du. [2]
[Và không thể dấu điều vẫn tự hỏi của
tôi – tại sao những nhà thơ của chúng ta (Nguyễn Du, Đặng Trần Côn...) đã đem
thơ Tàu vào thơ Việt nhiều đến thế, đến nỗi khi đọc thơ Việt, người đọc phải biết
ít nhiều thơ Tàu?, phài đọc những chú thích, dẫn chứng điển cố xa vời. (Điển
hình; những gì gọi là điển cố, thí dụ: “làn thu thủy nét xuân sơn” – sóng mắt,
màu mi của một người con gái, có gì xa lạ, nét đẹp có gì đặc biệt, ý tưởng có
gì khác thường, lời Việt đâu phải không có đủ, nhưng đã không chút xấu hổ mượn
trọn cả câu “Tha vọng xuyên liễu doanh doanh thu thủy, túc tổn liễu đạm đạm
xuân sơn” của Tây Sương Ký để mô tả!). Phải chăng họ giả định những
người đọc thơ họ, phải học hay đọc thơ Tàu trước rồi! Hay phải chăng chỉ đơn
thuần là một thái độ “khoe chữ” quá đáng! Làm giàu tiếng Việt hay không là điều
còn phải nhìn lại, nhưng với giá hiển nhiên đã phải trả là chịu nô lệ văn hóa.
Theo chiều hướng này, thơ Việt cổ điển như tiếp nối thơ Tàu, chúng ta không thể
hiểu thơ Việt cổ điển, nếu không học qua thơ Tàu. Ở đây, tôi chỉ dẫn một trong
hàng nghìn thí dụ phổ thông.]
Lê DọnBàn
黃鶴樓
崔顥
昔人已乘黃鶴去,
此地空餘黃鶴樓。
黃鶴一去不復返,
白雲千載空悠悠。
晴川歷歷漢陽樹,
芳草萋萋鸚鵡洲。
日暮鄉關何處是,
煙波江上使人愁。
Âm:
Hoàng Hạc Lâu
Thôi Hiệu (?
-754)
Tích nhân dĩ thừa
hoàng hạc khứ
Thử địa không
dư hoàng hạc lâu
Hoàng hạc nhất
khứ bất phục phản
Bạch vân thiên
tải không du du
Tình xuyên lịch
lịch Hán Dương thụ
Phương thảo thê
thê Anh Vũ châu
Nhật mộ hương
quan hà xứ thị
Yên ba giang
thượng sử nhân sầu
Nghĩa câu:
Người xưa, từ
chỗ này, đã cỡi chim hạc (màu) vàng bay đi
(Bây giờ) tại
đây, không còn gì ngoài toà lầu trống tên Hoàng Hạc
Chim hạc vàng một
lần đó bay đi, rồi không về lại nữa
Mây trắng nghìn
năm vẫn trôi mãi trên không
Dòng sông quang
tạnh nổi rõ hàng cây đất Hán Dương
Cỏ thơm tươi tốt
trên cồn Anh Vũ
Chiều xuống
làng quê ở phương nào đây?
Khói sóng trên
sông làm lòng người buồn
Dịch
thơ:
Người
xưa theo hạc vàng đi biệt
Nền
ấy còn lầu nay đứng trông
Hạc
vàng bay mất không về lại
Mây
trắng muôn đời trôi mênh mông
Sông
sáng bờ cây Hán Dương tạnh
Cỏ
thơm dày cồn Anh Vũ không
Chiều
xuống biết phương nào quê cũ
Khói
nhòa sóng gợi buồn trên sông
1.
Để nhấn mạnh sự tương phản giữa cuộc
nhân sinh thay đổi với thời gian miên viễn trôi chảy. Thôi dùng chữ “hoàng hạc”
3 lần, “khứ” 2 lần, và “không” 2 lần.
Tiến trình bài thơ TH như sau:
Nhân sinh thay
đổi (3) + Thời gian trôi chảy (4) > Vận hành thay đổi của tự nhiên
Truớc mặt là:
Không gian
(sông, nuớc) mở rộng (5,6) > Ngày tàn, buồn lòng, muốn quay về (7,8)
Quê nào? Cỏ thơm trong (5) là tượng trưng cho ý quay về
nhà (Lưu An) – nước Tàu cổ thời là một hợp chủng quốc – nhiều sắc tộc, có ngôn
ngữ, phong tục khác biệt ở nhiều địa phương dù không xa nhau lắm, nên tác giả
nhớ, muốn quay về làng nhà (hình ảnh cổng làng – hương quan – nay đã đi vào thi
điển).
Nhưng theo tiến trình của bài thơ,
cho thấy tác giả muốn quay về trú quán của mình là chính thiên nhiên. Quê nhà ở
đây là thế giới đối nghịch với triều đình; là chốn vận hành bởi tự nhiên v/s chốn
vận hành bởi con người. Tác giả đóng bài thơ bằng chính ý đã mở: về lại với thế
giới tự nhiên, như người xưa đã cỡi hạc về trời (chốn “tự nhiên”). Đó là ý, còn
tình? – lòng buồn, không chỉ là sầu quê, nhưng là cái buồn của con người
(nhỏ bé, hữu hạn, ngắn ngủi) trước bao la sóng nước (không gian) và nắng xuống
lúc ngày tàn (thời gian) – sau những trầm tư trước đó về nhân sinh thay đổi và
thời gian trôi chảy (câu 3-4)
Ba hình ảnh: mây bay nghìn
năm, khói sóng trên sông, và cổng làng ở bài này đã thành những ước lệ
thi văn cổ điển.
2.
Ý Trống: Trong chương 11 – Vô Dụng – Đạo Đức Kinh:
Nhờ chỗ “trống không”, mới có
cái dùng của xe...Nhờ chỗ “trống không”, mới có cái dùng của chén bát. ... nhờ
có chỗ trống không, mới có cái dùng của nhà...Lấy cái “không” để làm cái dụng. [3]Nên thơ như thuyền, lòng trống rỗng, mở ra, mời
người đọc bước xuống, khởi một hành trình, góp phần sáng tạo. Wolfgang Iser tin
rằng – một tác giả giỏi luôn để chỗ cho người đọc tưởng tượng. Do đó, cái tuyệt
vời của bài thơ là những gì không viết thành lời. Người đọc phóng lòng, đưa cảm
của mình vào những chỗ để “trống” của bài thơ. Nói cách khác, người đọc tự thể
hiện những gì mà người viết – qua bài thơ – “dẫn” tới. Bài thơ là một cái
khung, để người đọc treo bóng hình của chính mình. Bài thơ là một thứ template
để người đọc tự điền vào những chỗ trống. Trong tiến trình này, bài thơ được thể
hiện và thưởng thức toàn vẹn. Đây là nghệ thuật của thơ Đường, đến từ các Đạo
gia. Bài HHL của TH là một dẫn chứng.
Lời không: động từ không có thì chỉ thời
gian: Thời gian của bài thơ là của người đọc: Mọi việc xảy ra đang (như)
bây giờ:
- Bạch vân thiên tải không
du du: như mây trên cao (đang) bay mãi
- Nhật mộ hương quan hà xứ
thị Yên ba giang thượng sử nhân sầu: Khói sóng trên sông kia, giờ
đây làm buồn lòng ta.
Trong ngôn ngữ Hán, các động từ bất
biến, không có “thì” chỉ thời gian rõ rệt (như trong Anh, Pháp) – từ đó, thơ Đường,
theo James Y. Liu, có tính “không thời” (timeless) và phổ quát (universal) – những
gì nói trong thơ, như không bị đóng khung vào không và thời, như xảy ra ở đây,
bây giờ, chung cho mọi người. Tình nhắc đến không là tình riêng của tác giả, để
người đọc nghe và đứng ngoài; nhưng là tình chung, của con người, của người đọc.
(Thí dụ: Khi ThanhQuan viết ”một mảnh tình riêng, ta với ta”. Ta
là TQ, nhưng cũng là người đọc bà, trăm năm sau).
Các danh từ, thường không kèm từ chỉ
sở hữu (Của ai?), Thế nên, đọc bài thơ lầu HH, mây là mây đang bay trên trời,
khói sóng là khói sóng trên mặt nước bao la của hồ, ẩn hiện qua hàng cây, quanh
co dọc đường về, mỗi ngày lúc chiều xuống.
Thời gian bất tận: Chữ 時 (thì,
thời) trong cổ Hán, không tương đương với ý niệm có trong chữ “Time”. Nó vốn có
ý nghĩa mùa (thời tiết) đi – “hợp thời” là hợp với mùa. Hết Xuân đến Hạ.. rồi lại
về Xuân. Thời gian trong tư tưởng cổ Tàu- trong thơ Đường – ở đây, là thời gian
chạy vòng (cyclical), tuần hoàn miên viễn. Nên, đám mây trắng đang bồng bềnh
trên tôi chiều nay, ở đây, là đám mây xưa từ lầu Hoàng Hạc, lúc Thôi đứng giữa
ngày đang xuống.
3.
[Có một đám mây vẫn bay mãi trong
dòng thơ Việt:
Quê nhà xa lắc
xa lơ đó,
Ngoảnh lại
tha hồ mây trắng bay.
(Nguyễn
Bính)
Mây “tha hồ” bay của Nguyễn,
chúng ta hiểu là mây của “muôn đời trôi mênh mông”. Chiều nay, bên hồ
bao la, đám mây đó ngưng đọng với chiều đang tan (đám mây kia của Hàn? – có lẽ
vẫn vướng đỉnh Tần: 雲橫秦嶺家何在 – mây giăng
ngang đỉnh núi Tần, nhà ở đâu?). Nước nối mây, đất tiếp trời, không gian
thành một đến khôn cùng, và mờ mịt. Quê nhà không là trần gian này, nhưng
chốn băn khoăn ấy chúng ta mãi mãi không rõ là đâu, chỉ mơ hồ không phải là
đây; âm thầm đôi lúc vẫn tự hỏi có phải một ngày nào đó sẽ trở về, có phải một
ngày nào đó sẽ thoát khỏi cả hai ràng buộc – không gian và thời gian; cả
hai như bất động trên khói sóng, như cùng tôi lúc này, không vội vàng.]
Tương truyền Lý Bạch khi đến lầu
Hoàng Hạc, nhìn lên thấy thơ Thôi Hiệu, nên không đề thơ nữa:
(... Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất
đắc, Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu !) [4]
Nhưng hơn nghìn năm sau, Nguyễn Du,
trên đường đi sứ, qua đấy, viếng cảnh và đề thơ. [5]
Đây là bài vịnh Hoàng Hạc Lâu của vị
thi thánh Việt. Ý Tố Như thâm áo, tình u uẩn, không hoa mỹ phù phiếm như thơ
Thôi, nhưng ẩn hiện những suy niệm về vô thường.
黃鶴樓
何處神仙經幾時,
猶留仙跡此江湄?
今來古往爐生夢,
鶴去樓空崔顥詩。
檻外煙波終渺渺,
眼中草樹尚依依。
衷情無限朋誰訴,
明月清風也不知。
Âm:
Nguyễn Du
(1766–1820)
Hoàng Hạc Lâu
Hà xứ thần tiên
kinh kỷ thì
Do lưu tiên
tích thử giang mi
Kim lai cổ vãng
Lư Sinh mộng
Hạc khứ lầu
không Thôi Hiệu thi
Hạm ngoại yên
ba chung diểu diểu
Nhãn trùng thảo
thụ thượng y y
Trung tình vô hạn
bằng thùy tố
Minh nguyệt
thanh phong dã bất tri
(Tố Như – Bắc
Hành Tạp Lục (1813 – 1814) )
Nghĩa toàn bài:
Thần tiên (nay
biết ) ở đâu? (sau bao) thời gian trăm năm
Chỉ còn lưu lại
dấu tiên trên bờ sông này
Ngày nay đến,
ngày xưa trôi qua, (nhanh như chuyện) giấc mộng (nồi kê) của Lư Sinh
Hạc bay mất, lầu
đứng không, (duy chỉ còn) thơ Thôi Hiệu
Ngoài lan can,
khói sóng (vẫn) như xa rộng
Trong tròng mắt
(in) cỏ cây còn y nhiên như cũ
Tình vô hạn trong
đáy lòng biết nhờ vào ai bày tỏ
Trăng thanh,
gió mát; cũng không hiểu thấu được
Dịch
thơ
Đã
mấy trăm năm, thần tiên xa
Dấu
xưa còn lại bến giang hà
Kê
vàng giấc mộng, thời gian thoảng
Hạc
mất lầu không, thơ phù hoa
Sóng
dưới lan can, còn thăm thẳm
Cỏ
cây soi mắt, vẫn màu qua
Đáy
lòng vô hạn cùng ai ngỏ
Gió
mát trăng thanh chẳng hiểu ta.
Tiến trình bài thơ NgDu như sau:
Với thời gian,
mọi sự thay đổi, vô thuờng (1,2) > Tất cả như huyễn, như mộng (3,4)
Sông nước vẫn
hiện đó như xưa (5,6) >
Thiên nhiên đẹp
có làm (tình) khuây khỏa (nghệ sĩ) (7) + Nhưng không là chỗ về tìm lời đáp cho
các thao thức (tâm trí) (8)
Mộng: không phải là Trang sinh mộng (Trang hay bướm?)
nhưng là giấc mộng ba sinh. Nguyễn Du đã nhấn mạnh vô thuờng ở thời gian,
nhân sự (lai, vãng, trôi chảy) và hai ý niệm “mộng” và “không” – với nội dung
có từ kinh Kim Cương [6]. Tương tự, ông nhìn sông thấy
sóng thăm thẳm, chứ không thấy bờ sông, cồn cỏ như Thôi Hiệu.
Hạm ngoại, nhãn
trùng: Thiên nhiên bây giờ
có sóng hiện ”qua” khung cửa, lan can; cây phản ánh ”trong” mắt
soi. Khi viết Cây in trong mắt: Ảnh
(giả) của trong gương (mắt), Ng Du dùng lối nói quen thuộc trong Thiền: tiếng
nhạn vang trong không, trăng soi đáy nước, bóng hình trong gương ... chỉ sự hư ảo,
giả tướng của hiện tượng, của vạn pháp quanh ta không “thật” thiếu vắng tự
thân.
Bằng cách nói tài tình, không phải
dùng đến ảnh tượng gián tiếp, Nguyễn Du – đã cho thấy cái nhìn của một thiền giả
là ông.
Nhà phê bình Nghiêm Vũ (Yen Yu) đời
Tống, có trình bày quan một quan niệm Thơ trong đó vai trò của thiên nhiên và
nhà thơ đã khác xa thời Đường. Quan niệm mới về Thơ này đến từ cửa Thiền. Bài
HHL của Nguyễn Du thể hiện phong thái thi ca này [7].
Ý đối xứng với bài của TH:
Các câu 1-2: Xưa, nay – (TH: Hac
bay mất, còn Lầu không) – (NgD: Tiên bay mất, còn bến sông) câu 3-4: cụ thể hóa
– sự biến đổi, tuần hoàn của thời không (TH: Cái đã qua không trở lại, mây bay
mãi) (NgD: nhân sự vô thường, như huyễn, như mộng)
Câu 5-6: Thiên nhiên mở rộng > để
TH muốn quay về – với Tự Nhiên – theo “Đạo” sống thuận với vận hành của vũ trụ,
còn NgD thì không, Thiên nhiên chỉ là thiên nhiên thôi, “Đạo” nay là con đường
giác ngộ gian nan, với những vấn nạn phải tự chứng nghiệm.
Nếu có thể sánh hai bài Đường thi –
ThôiHiệu và NgDu – một cách thuần cảm – như những bài piano concerto của Mozart
và Beethoven: Trong 27 bài piano concertos của Mozart, đầy những diễm lệ hoa mỹ
tươi tắn óng ả – là những nét không có nhiều trong Beethoven – nhưng không một
bài nào, đoạn nào của Mozart chạm đến được những góc tối của nội tâm, những “đỉnh
cao và vực sâu” của lòng người như trong 5 bài của Beethoven! dù cùng chung cấu
trúc thông thường, quen thuộc (Allegro, Andante/Adagio, Rondo/Allegro [8].
5.
Thôi Hiệu, đời Đường còn chú trọng
đến chuyện Đạo gia “tu tiên, thoát tục”, về với “tự nhiên”, nhưng Nguyễn Du,
hơn nghìn năm sau, thấm sâu đạo giác ngộ của đấng Thế tôn, luôn u uẩn trong
lòng những câu hỏi mênh mông về bản thân, nhân sinh và quê hương:
... Ngã đọc
Kim Cang thiên biến linh
Kỳ trung áo
nghĩa đa bất minh...
(Ta đọc kinh Kim Cương hàng ngàn biến
– trong có những ý nghĩa linh diệu e vẫn không hiểu trọn...) [9].
Trước thời gian vô cùng (mây bay
mãi) và không gian rộng mở (sông nước) – TH nhớ “quê” muốn về lại “chỗ của
mình” – quê nhà của Thôi là ở cuối chân mây, ở đầu ngọn sóng, là thiên nhiên,
là thế giới tự nhiên, như đạo sĩ trước đã cùng hạc bay về. Bất tử vì mông lung ở
chỗ khởi đầu thăm thẳm của vạn vật.
Đến Ng Du, thế giới tự nhiên, thanh
phong minh nguyệt, không còn là chỗ “đi về” của những người như ông nữa. Tự
nhiên không là hướng đến của người thao thức những câu hỏi nhân sinh. Tìm Đạo,
nay mang nghĩa khác, không là về với tự nhiên, thiên nhiên không còn là chỗ trú
ẩn. Chốn “giang hồ” thôi là chỗ để nương náu, để sống giữa nữa. Người không tìm
“thoát trần tục”- nhưng phải ở giữa tục lụy, vượt lên, phải chiêm nghiệm chân
lý giác ngộ. Không quay ra ngoài (Đạo gia), nhưng hướng vào trong, bắt đầu từ nội
tâm con người, để chứng ngộ tự thân (Phật gia). Cổng làng (Hương quan) đón
TH về với “Đạo” – với tự nhiên, với vận hành của trời đất không có con người
can thiệp. Đạo trong thơ ở Thôi là “con đường”. Nghìn năm sau, ND nhìn thiên
nhiên (minh nguyệt, thanh phong) hoàn toàn khác. Thiên nhiên đó vô thường (lầu
xưa, giang hà) trong một thời gian cũng vô thường (mộng nồi kê). Còn Đạo? nay
mang thêm một nghĩa khác – “Đạo” = dharma (đạo pháp). Đến đây, gió,
trăng thành một trong muôn nghìn “pháp”, nhưng những câu hỏi từ “pháp” về “đạo”
là riêng của mỗi chủ thể tự vấn, nên ND than thở:
Trung tình vô hạn bằng thùy tố –
Minh nguyệt thanh phong dã bất tri
(Trong lòng có niềm vô hạn không biết
ngỏ cùng ai – Phong cảnh hữu tình, trăng thanh gió mát (thiên nhiên) có làm ta
khuây khỏa, nhưng không hiểu ta được!) – Như dẫn ở trên trong HHLau-THiệu, “trung tình” – tình của ai – ngầm hiểu là tình
của tác giả, nhưng vì không bị buộc vào một sở hữu từ nào đi kèm (như trong
Anh, Pháp in my heart,
dans mon coeur,...) nên rất dễ
là tình bất kỳ ai – và có thể là của tôi – người đọc:
Đáy
lòng vô hạn cùng ai ngỏ
Gió
mát trăng thanh chẳng hiểu ta.
Lê Dọn Bàn – đọc
và tạm dịch
bản nháp thứ hai
bản nháp thứ hai
(Dec/2008)
http://lethachthat.wordpress.com/
[1] Thiền như một
phương pháp, dĩ nhiên, vẫn có trong đạo Phật ở Ấnđộ, nhưng Thiền
(Zen) như một trường phái, nảy sinh trước hết trên đất Tàu.
[2] Bản dịch của hai nhà thơ nổi tiếng khác, mỗi
người một vẻ – trong bản TĐà – ra đời sớm nên nay rất phổ thông; bài dịch này
thoát ý – nhưng dùng thể lục bát, nên mất phần cổ kính – bản VHC, theo tôi, giữ
được cả ý, rất thoát (các câu 1-4, 7-8), lại giữ được cổ kính Đường thi. Một vị
cùng quê (chúng tôi “buồn” hướng lòng về cùng một vùng quê, nếu có khi nào!), môt vị là thày dạy văn thuở trung học, tôi nghiêng về người thày tài hoa –
VũHoàngChương; khi dịch lại bài thơ trên, tôi cố giữ cho trọn ý và điệu, nhưng
biết không thể có giọng tài hoa như vị thày này. Gọi là những giòng mộc mạc,
chân phương – nhớ nhà thi hào cuối cùng của thế hệ 40-70 – lúc nào cũng cười hiền
từ, áo vét nhàu bẩn, mũ phớt đội lệch, đi như còn một nửa trong mộng, ở sân trường
CVA ngày nào! Đọc thơ – dù chỉ là thơ dịch – cũng như thấy người – ông nay trên
cánh hạc vàng, bay bay mãi.
Tản Đà:
Hạc vàng ai
cỡi đi đâu
Mà đây Hoàng
Hạc riêng lầu còn trơ
Hạc vàng đi
mất từ xưa
Nghìn năm
mây trắng bây giờ còn bay
Hán Dương
sông tạnh cây bày
Bãi xa Anh
Vũ xanh đầy cỏ non
Quê hương
khuất bóng hoàng hôn
Trên sông
khói sóng cho buồn lòng ai
Vũ Hoàng
Chương:
Xưa cánh hạc
bay vút bóng người
Nay lầu
Hoàng Hạc chút thơm rơi
Vàng tung
cánh hạc, bay bay mãi
Trắng một
màu mây, vạn vạn đời
Cây bến Hán
Dương còn nắng chiếu
Cỏ bờ Anh Vũ
chẳng ai chơi
Gần xa chiều
xuống, đâu quê quán?
Đừng giục
cơn sầu nữa sóng ơi!
Lầu Hoàng Hạc
a. Lầu Hoàng Hạc ở Vũ Hán (Wuchang)
là một trong ba tòa lầu nổi tiếng ở bờ Nam sông Dương Tử. Truyền
rằng vốn xưa tại chốn ấy, có một quán rượu do một gã trẻ tuổi họ Xin làm chủ.
Ngày nọ, một đạo sĩ, uống rượu chịu đã lâu, bèn vẽ lên tường quán một con hạc để
trả ơn, nói rằng, chim sẽ múa, khi nghe tiếng vỗ tay. Từ đó, quán lúc nào cũng
đông khách, họ đến xem hạc vẽ múa trên tường. Mười năm sau, vị đạo sĩ kỳ bí xưa
trở lại, lần này, uống rượu xong, ông rút sáo trong bọc ra thổi, chim hạc trong
tranh trên tường quán bay ra thành chim thật, rồi cả hai, người trên lưng hạc
bay lên trời, đi mất. Để kỷ niệm, nhà họ Xin xây lầu, đặt tên Hoàng Hạc Lâu
(vào thời Tam Quốc). Từ đấy, lầu Hoàng Hạc trở thành chốn tụ hội của tao nhân mặc
khách, họ đến ngắm cảnh, đề thơ.
b. Đó là truyền thuyết, và như tất
cả các chuyện huyền hoặc khác ở nước Tàu, nó”thật” hơn là chính lịch sử có thật.
Theo lịch sử, vào khoảng 223 AD thời TamQuốc, vua Tôn Quyền (SunQuan) nuớc Ngô
cho xây một tháp quán sát quân sự ở vị trí nhìn ra sông Dương Tử chiến
luợc này. Nguyên ủy nó không phải là lầu vọng cảnh. Sau thời TamQuốc,
trung tâm chính trị dời về phương Bắc, nơi đây hoang vắng, có khung cảnh thiên
nhiên xa rộng, nên nhiều nguời hoài cổ đến ngoạn cảnh, dần dà, đến đời Đuờng
(618-917), mới thành chỗ tụ hội của thi nhân và có nhiều thơ họa trên tuờng.
Lầu bị phá nhiều lần và đuợc xây đi
xây lại nhiều lần. Chỉ riêng trong hai đời Minh (1368 – 1644) và Thanh (1644 –
1911) đã có 7 lần bị phá rồi xây lại hoàn toàn. Gần đây nhất, từ năm 1884, lầu
bị cháy, không còn gì trong xuốt 100 năm, mãi đến 1981 mới xây lại, đó là lầu
hiện nay, hoa mỹ kệch cỡm, không hoàn toàn ở chỗ cũ và cũng không có dấu vết cổ
kính nào của lầu đời Đường, hẳn phải nhỏ bé hơn nhiều.
c. Trong thơ Nguyễn Du, không thấy
nhắc đến lầu, ngờ thời điểm ông đến thăm, lầu đã không còn, chỉ có bến sông
Đời Thanh thu tập lại được hơn 300
bài về lầu Hoàng Hạc, trong đó bài của Thôi đời Đường (618-970) được truyền tụng
nhiều nhất. Nghiêm Vũ đời Tống, coi đây là bài thơ 7 chữ (thất ngôn
luật thi) hay nhất của Đường thi, cũng có bản chép là “mây trắng” thay vì “hạc
vàng” (Tích nhân dĩ thừa bạch vân khứ...)
d. Thôi Hiệu, đỗ tiến sĩ, làm quan
đời Đường Huyền Tông – Nhà thơ thời Thịnh Đường (713-766) – cùng Vương Duy,
thành công nhất với Cận Thể Thi. Về sau sống ngoài khuôn khổ, lập gia đình nhiều
lần. Ông có bài HHL và Trường Can Hành nổi tiếng. Tuy Lý Bạch là thi hào vĩ đại
nhất, nhưng bài HHL của ông (và bài Phong Kiều Dạ Bạc
của Trương Kế) được coi là “thiên cổ tuyệt bút”.
[3]三 十 輻 共 一 轂. 當 其 無, 有 車 之 用. 埏 埴 以 為 器. 當 其 無, 有 器 之 用. 鑿 戶 牖 以 為 室. 當 其 無, 有 室 之 用. 故 有 之 以 為 利, 無 之 以 為 用. (Tam
thập phức cộng nhật cốc, đương kì vô hữu xa chi dụng. Duyên thực dĩ vi khí,
đương kì vô hữu khí chi dụng; tạc hộ dũ dĩ vi thất, đương kì vô hữu thất chi dụng.
Cố hữu chi dĩ vi lợi; vô chi dĩ vi dụng. – Ba chục căm, hợp lại một bầu. Nhờ
chỗ “trống không”, mới có cái dùng của xe. – Nhào đất để làm chén bát. Nhờ chỗ
“trống không”, mới có cái dùng của chén bát. – Đục cửa lớn, cửa sổ để làm nhà;
nhờ có chỗ trống không, mới có cái dùng của nhà. – Cho nên lấy cái “có” để làm
cái lợi, lấy cái “không” để làm cái dụng. – ĐĐK, Nhân Tử NgVănThọ)
[4] Sau đó, Lý làm bài “Đăng Phượng Hoàng đài” – ở
chỗ khác – để “trả lời” Thôi Hiệu. Dịp khác sẽ bàn.
[5] Năm 1813, Ng Du được
thăng chức Cần Chánh Điện đại học sĩ, cử làm chánh sứ đi Tàu, trong thời gian ở
nước Tàu, ông làm nhiều thơ, thành tập Bắc Hành Tạp Lục.
[6] 一切有為法, 如夢幻泡影, 如露亦如電, 應作如是觀
Nhất thiết hữu vi pháp, Như mộng
huyễn bào ảnh, Như lộ diệc như điện, Ưng tác như thị quán. (Tất cả pháp hữu vi,
Như mộng, huyễn, bóng, bọt. Như sương cũng như điện, Nên khởi quán như thế.)
[7] Phái trực giác (intuitionalist): Thơ là hiện
thân của sự kết tụ giữa tâm nhà thơ và trầm tưởng của ông về thế giới. Nhà thơ
như một thiền giả, sau khi đạt được trạng thái tâm trí quán tưởng an bình, nhà
thơ mới thu được cái “thần” của đời và cảnh (vào thơ).
Chịu ảnh hưởng Thiền, thế kỷ XIII,
đời Tống, phát ngôn cho phái này là Nghiêm Vũ. Nhìn nhận vai trò của “cảm”,
nhưng phủ nhận sự phô bày quá lố tình cảm. Với quan điểm này, thơ là phản ánh,
là hình ảnh tinh khiết của vũ trụ, không bị vẩn đục vì tình cảm cá nhân hay thủ
thuật chữ nghĩa. Nhà thơ thành công khi tạo nên được một cảnh giới (S: visaya)
trong đó tình và cảnh hài hòa: dùng cảnh để tả tình và ngược lại – qua tình cho
thấy cảnh.
Phái này nhấn mạnh vào trực giác và
hứng cảm. Thơ không là bày tỏ tâm hồn cá nhân, nhưng là biểu hiện cái nhìn
phóng ra thế giới. (James J. Y. Liu – The art of Chinese poetry –
Routledge, London 1962, pp. 81-87)
[8] Thí dụ hai bài quen thuộc: Mozart, Piano
concerto No. 25 in C major K503 & Beethoven Piano concerto No.5
in E flat major, op 73.
[9] Bài “Lương Chiêu Minh
thái tử phân kinh thạch đài”.